Tứ Đại Danh Y Thời Cổ Đại

Trong lịch sử nền y học Trung Hoa truyền thống, có bốn vị danh y nổi tiếng là: Biển Thước, Hoa Đà, Tôn Tư Mạc và Lý Thời Trân. Mỗi người lại sở hữu một phương pháp chữa bệnh vô cùng độc đáo, kỳ lạ, khiến người đời nay không sao lý giải nổi.
Biển Thước (401 – 310 TCN), tên thật là Tần Hoãn, tự Việt Nhân, người nước Triệu (thời Chiến Quốc). Ông là một trong những vị thầy thuốc đầu tiên được biết đến vào thời Chiến quốc (770 – 221 TCN).
Biển Thước: Bắt bệnh bằng… mắt
Theo các sử liệu, Biển Thước có khả năng nhìn thấu thân thể bệnh nhân. Ông cũng là người nghĩ ra phương pháp bắt mạch. Trong “Sử Ký”, nhà sử học lỗi lạc Tư Mã Thiên (145 – 86 TCN) viết: “Đến nay thiên hạ nói đến bắt mạch là do Biển Thước vậy”.
Biển Thước vận dụng thành thạo 4 kỹ thuật y khoa, được gọi là “tứ chẩn” để bắt bệnh, bao gồm: nhìn, nghe, hỏi và bắt mạch. Ngoài ra, ông cũng rất giỏi dùng các thuật loại trị liệu khác như: châm cứu, phẫu thuật, kê thuốc, xoa bóp…
Có rất nhiều giai thoại về khả năng chữa bệnh thần kỳ của Biển Thước vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay.
Theo “Hán thư ngoại truyện”, Biển Thước đã cứu thế tử nước Quắc từ cõi chết trở về. Thông qua bắt mạch, Biển Thước biết được thế tử đang ở trong trạng thái “chết giả”. Sau đó, ông đã dùng thuật châm cứu để cứu sống thế tử. Nhờ đó, Biển Thước được người đời ca tụng là có tài “cải tử hoàn sinh”.
Một giai thoại khác kể rằng Biển Thước có thể dùng mắt mà đoán được bệnh ở bên trong cơ thể người bệnh. Trong “Sử Ký”, Tư Mã Thiên chép: Biển Thước sang nước Tề, gặp vua Tề thấy khí sắc không tốt bèn tâu: “Quân hầu, trong da và chân lông ngài đã có gốc bệnh, nếu không kịp thời chữa trị, bệnh sẽ nặng thêm”.
Vua Tề không nghe, cho rằng đó là chuyện hoang đường. Vài ngày sau, Biển Thước lại vào yết kiến vua, lại nói rằng: “Bệnh của ngài đã vào đến nội tạng, phải chữa ngay đi!”. Một lần nữa vua Tề bỏ ngoài tai lời cảnh báo.
Năm hôm sau, khi chỉ mới vào yết kiến, nhìn mặt vua Tề, Biển Thước đã quay gót trở đi, chẳng nói chẳng rằng. Vua Tề thấy lạ, cho người chạy theo níu lại hỏi. Biển Thước thẳng thắn: “Bệnh ở da, thịt thì còn xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch thì còn tiêm thuốc được. Nay bệnh đã vào đến xương tủy rồi thì trời cũng không cứu được nữa, bởi vậy tôi mới bỏ đi”.
Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, vua Tề đổ bệnh, phái người đến gọi Biển Thước lại chữa. Nhưng Biển Thước đã sang đất Tần từ lâu, vốn chẳng còn ở lại. Bệnh của vua Tề ngày càng nặng, thuốc thang thế nào cũng không chữa dứt, được ít lâu thì qua đời.
Biển Thước(chữ Hán: 扁鵲), tên thật là Tần Việt Nhân(秦越人), có thuyết tên Tần Hoãn(秦緩), hiệu Lư Y(卢医), là mộtthầy thuốctrứ danh thờiChiến Quốcvà được xem là một trong những danh y đầu tiên được ghi chép sớm nhất trong các thư tịch củalịch sử Trung Quốc.
Tương truyền ông chính là người khai sinh ra phương pháp bắt mạch, là người đặt tiền đề quan trọng cho Đông y. Do tiếng tăm và các điển tích thần kỳ, về sau Biển Thước cùng Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân được hậu thế xưng tụng Trung Quốc cổ đại Tứ đại danh y. Tác phẩm của ông còn có Biển Thước nội kinh, Biển Thước ngoại kinh và Nạn kinh.
Cơ duyên với nghề thầy thuốc
Biển Thước vốn người quận Bột Hải, Mạc châu (莫州; nay là huyện Nhâm Khâu, tỉnh Hà Bắc), thuộc nước Trịnh, sinh vào khoảng 401 TCN (đầu thời Chu An vương). Thời còn trai trẻ, Tần Việt Nhân vốn là chủ một quán trọ, và sống bằng nghề này.
Lúc đó, có một lương y biệt danh là Trường Tang Quân thường trọ tại quán của Việt Nhân. Việt Nhân rất kính trọng vị lương ynày, nên đã phục vụ rất chu đáo và không lấy tiền. Để đáp lại, Trường Tang Quân nhận Việt Nhân làm học trò và truyền hết sở học cho ông. Khi tay nghề đã thành thạo, Việt Nhân chuyển hẳn sang nghề thầy thuốcnày, dần dần trở nên nổi tiếng, vì ông chữa bệnh quá tài tình nên được dân chúng nước Triệu tặng cho biệt hiệu Biển Thước tiên sinh. Tương truyền, Biển Thước là tên 1 vị thần y sống vào thời Hoàng Đế.
Hành nghề cứu người
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, thuật đồng bóng đang lan tràn, nghề y bị lạnh nhạt; nhiều người mắc bệnh không chịu uống thuốc mà cứ rước đồng bóng về để "đuổi quỷ, trừ tà". Thậm chí nhiều nước chư hầu còn đặt ra các chức quan "đại chức", "tư vu" để chuyên lo việc này.
Biển Thước rất ghét thói mê tín ấy, thường xuyên đấu tranh chống lại nó một cách kiên trì, và thông qua hoạt động chữa bệnh có hiệu quả của mình để vạch trần trò hề mê tín của đồng bóng. Căn cứ vào kinh nghiệm dân gian và kinh nghiệm nhiều năm làm nghề của mình, Biển Thước đúc kết thành "tứ chẩn" trong phép khám và điều trị là nhìn, nghe, hỏi và bắt mạch. Ngoài việc vận dụng thành thạo"tứ chẩn"để đoán bệnh, Biển Thước sử dụng nhiều biện pháp trị liệu như châm kim đá, châm cứu, xoa nóng, xoa bóp, mổ xẻ, cho uống thuốc v.v...
Theo Hán thư ngoại truyện, có lần Biển Thước dẫn năm người học trò đến nước Quắc (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây) để làm thuốc, nghe nói Thế tử nước Quắc bị bệnh qua đời đột ngột, ông cảm thấy đáng ngờ, bèn xin được vào xem. Quan sát một hồi, thấy cánh mũi người chết còn động đậy, hai chân còn ấm, Biển Thước chẩn đoán kỹ rồi kết luận:"Thế tử mắc chứng "thi quyết" (chết giả), có thể cứu sống được". Ông bèn châm kim các huyệt chủ yếu, tiếp theo sai học trò Tử Minh làm ngải cứu, Cốc Tử đổ thuốc, Tử Dung xoa bóp không ngừng tay. Hồi lâu, quả nhiên "người chết "dần dần tỉnh lại. Biển Thước lại dùng thuốc dán dưới hai nách, bệnh nhân ngồi dậy được ngay.
Vua nước Quắc hết sức vui mừng, không tiếc lời khen ngợi. Người xem Biển Thước như thần tiên, cho rằng ông có thuật "cải tử hoàn sinh ". Biển Thước khiêm tốn giải thích:"Không phải tôi cứu sống người chết, mà người bệnh vốn chưa chết, tôi chỉ cứu người bệnh khỏi cơn hấp hối mà thôi".
Chẩn bệnh Tề Hoàn công
Về tài dùng mắt đoán được bệnh, có một giai thoại về Biển Thước sau đây đã được sử gia Tư Mã Thiên ghi lại trong bộ Sử Ký và người đời sau nhắc lại một lần nữa trong bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc (ở hồi thứ 32). Chuyện như sau:
“
Một hôm Biển Thước sang nước Tề gặp Tề Hoàn công. Ông thấy khí sắc vua Tề không tốt, bèn tâu: "Quân hầu, trong da và chân lông ngài đã có gốc bệnh, nếu không kịp thời chữa trị, bệnh sẽ nặng thêm". Tề Hoàn công thờ ơ đáp:"Ta cảm thấy trong người rất khỏe, chẳng có bệnh tật gì cả".
Biển Thước lui ra, sau đó năm ngày lại vào yết kiến, nhìn sắc diện rồi khẳng định một lần nữa với vua Tề:"Bệnh của ngài đã vào đến nội tạng rồi, phải chữa ngay đi". Hoàn công tỏ vẻ khó chịu, không trả lời. Sau khi Biển Thước đi khỏi, ông mới bảo với mọi người:"Thầy thuốc chỉ khéo vẽ vời, hù dọa người ta. Ta chẳng có bệnh gì mà ông ta dám bảo là bệnh nặng. Thật vớ vẩn!". Năm ngày sau nữa, Biển Thước lại vào yết kiến, chỉ mới nhìn mặt vua Tề, đã quay bước, bỏ đi thẳng. Hoàn công sai người chạy theo hỏi, Biển Thước nói:"Bệnh ở da, thịt thì còn xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch thì còn tiêm thuốc được, nay bệnh đã vào đến xương tủy rồi thì trời cũng không cứu được nữa, bởi vậy tôi mới bỏ đi".
Mấy ngày sau quả nhiên Hoàn công phát bệnh. Ông vội cho người đi tìm Biển Thước, nhưng vị Thần y đã đi sang nước Tần rồi. Bệnh Hoàn công ngày càng trở nặng, chẳng bao lâu vị bá chủ chư hầu này tạ thế.
”
Về phương pháp bắt mạch của Biển Thước, cũng lưu truyền trong dân gian một giai thoại như sau:
“
Có lần Biển Thước đến nước Tấn, gặp lúc Triệu Giản Tử, người đang nắm quyền chính trị trong nước lâm bệnh, hôn mê đã năm ngày. Biển Thước bắt mạch, thấy tim mạch bệnh nhân đập yếu ớt, lại biết được tình hình chính trị nước Tấn lúc ấy vô cùng rối ren, đoán định là họ Triệu lao tâm quá mức, mắc chứng bệnh mạch máu (máu tuần hoàn không bình thường) dẫn đến hôn mê. Ông cho uống thuốc.
Hai ngày sau Triệu Giản Tử tỉnh lại và bệnh dần thuyên giảm.
”
Khoai mài và nước lã
Lại có một giai thoại khác nữa về vị thần y:
Một hôm có một phụ nữ khá đẹp đến gặp Biển Thước, xin một toa thuốc độc, có thể giết người mà không để lại dấu vết. Đối tượng mà người phụ nữ định đầu độc chính là chồng của chị ta, vì chị này vốn đã có tình ý với một người đàn ông khác. Biển Thước sợ nếu mình từ chối, sẽ có người khác giúp chị đàn bà hoàn thành tâm nguyện, nên giả vờ nhận lời. Ông dặn: về mua khoai mài (hoài sơn) gọt vỏ nấu với lươn cho chồng ăn, mỗi ngày một lần, ít lâu sẽ chết. Người đàn bà hớn hở về làm đúng như lời hướng dẫn.
Khoảng tháng sau, chị này mang lễ vật đến tạ ơn Biển Thước, báo tin chồng đã chết. Ông rất đỗi ngạc nhiên, chẳng hiểu sao khoai mài nấu cháo lươn là một món rất bổ dưỡng mà ăn vào lại chết. Biển Thước cảm thấy lương tâm cắn rứt, lại hoài nghi về kiến thức y học của chính mình, nên thề giải nghệ, không chữa cho bất kỳ ai. Ông còn lấy chìa khóa tủ sách thuốc nhà mình vứt xuống sông cạnh nhà.
Sau đó ít lâu, một hôm vừa thức dậy, Biển Thước thấy một chàng trai trẻ làm nghề đánh cá đến van xin ông làm phước cứu vợ anh ta đang bị sanh khó. Biển Thước nhớ lại lời thề dạo trước nên không thèm trả lời chàng trai, chỉ lớn tiếng bảo người nhà:"Lấy nước rửa mặt" (cho ông)!. Chàng ngư phủ lại ngỡ đó là lời vị danh y mách bảo cho mình, bèn ba chân bốn cẳng chạy về nhà làm đúng như thế. Quả nhiên vừa rửa mặt xong thì vợ anh ta đẻ được ngay.
Vài hôm sau, chàng trai đánh bắt được một con cá lớn, nhớ ơn thầy thuốc cứu vợ con mình, bèn kính cẩn đem con cá đến biếu. Một lần nữa, Biển Thước rất ngạc nhiên, mới hỏi:"Tôi có ơn huệ gì với anh đâu, mà anh đem cá tạ ơn?". Chàng trai đáp:"Nhờ ơn thầy dạy, tôi lấy nước rửa mặt cho vợ tôi thì vợ tôi sinh được ngay một thằng con trai rất cứng cáp, dễ thương, nên có chút quà này, mong thầy nhận cho". Biển Thước không sao lý giải được hai trường hợp hy hữu trên, cho là tại thời vận hên xui, nên cảm hứng thốt lên hai câu thơ:
Vận khứ, hoài sơn năng trí tử
Thời lai, thanh thủy khả thôi sinh
(nghĩa là: Hết thời, khoai mài có thể làm chết người; còn thời, nước lã có thể cứu sống người).
Sau khi chàng đánh cá về, người nhà đem cá ra mổ làm món nhắm cho nhà danh y uống rượu. Lại một sự không ngờ thứ ba xảy đến: khi mổ bụng cá, thấy chùm chìa khóa, lại chính là chìa khóa tủ sách thuốc mà Biển Thước đã ném xuống sông lúc trước. Ông tự nghiệm rằng: Thiên mệnh đã đặt cho mình nghề làm thuốc để cứu người, không thể chối bỏ. Từ đó ông ra sức nghiên cứu sâu thêm về y thuật, cứu được rất nhiều bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên ông vẫn chưa hiểu do đâu có tác dụng ngược lại của củ mài và nước lạnh.
Một hôm có người đem lươn lại bán. Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu. Biển Thước bảo người bán lươn đổ cả giỏ lươn xuống đất, thấy trong đám lươn chỉ có một con ngóc đầu lên cao, còn lại đầu rạp sát đất. Biển Thước mua con lươn ngóc đầu ấy đem làm thịt nấu cho chó ăn thì chó chết. Bấy giờ Biển Thước mới hiểu cái chết oan uổng của chàng trai có vợ lăng loàn là do ăn phải thứ lươn ngóc đầu lên chứ không phải tại khoai mài. Còn nước lã giúp vợ chàng đánh cá đẻ mau, vì chị ấy quá mệt, không còn sức rặn. Khi đem nước lạnh rửa mặt, sản phụ cảm thấy sảng khoái, sức mạnh tăng thêm nên sinh được dễ dàng chứ không có gì bí hiểm cả.
Bắt mạch, chẩn đoán chính xác bệnh tình là một cống hiến lớn của Biển Thước đối với y học Trung Quốc nói riêng, ngành Đông ynói chung. Trong "Sử ký",Tư Mã Thiê ntán tụng:"Đến nay thiên hạ nói đến mạch là do Biển Thước vậy". Thật ra nói thế có phần nào hơi phóng đại, nhưng đúng là Biển Thước rất tinh thông phép bắt mạch, chẩn đoán bệnh chính xác và trị bệnh giỏi như thần. Chính vì vậy nên dân gian có rất nhiều giai thoại truyền tụng về Biển Thước mà ở trên là một vài ví dụ.
Tuy nhiên, đã là giai thoại thì tính chính xác hạn chế. Ví dụ như giai thoại "khoai mài, nước lã"; có người cho là của một danh y Việt Nam chứ không phải của Biển Thước.
Đến cuối đời, danh tiếng Biển Thước ngày càng lớn, càng khiến cho nhiều người ganh ghét, trong đó có một viên quan Thái y nước Tần tên Lý Ê (李醯). Hắn vốn là kẻ bất tài, thấy y thuật Biển Thước hơn người, sợ một ngày nào đó có thể thay vị trí của hắn nên đang tâm âm mưu giết Thước.
Năm Chu Noãn vương thứ 5 (310 TCN), Biển Thước diện kiếnTần Vũ vương. Sau khi nghe vua Tần kể bệnh Biển Thước xin được điều trị. Một số người can ngăn vua Tần:"Đại vương đau ở phía trước tai, phía dưới mắt. Trị chưa chắc đã hết, không khéo tai lại hóa điếc, mắt hóa mờ mất". Tần Vũ vương vốn nhát, nghe vậy bèn thôi, không cho Biển Thước trị bệnh. Biển Thước giận dữ, liệng cục đá đồ nghề xuống đất, mắng vua Tần:"Đại vương vấn kế bậc trí giả mà lại nghe lời kẻ ngu để hỏng việc. Điều đó cho tôi thấy chính trị của nước Tần như thế nào, nước Tần có thể mất vì đại vương đấy".
Sau khi chẩn bệnh cho Tần Vũ vương xong, Biển Thước rời đi. Khi đến mặt bắc của Ly Sơn, Lý Ê đã sai người lén phục kích bên hông đường nhỏ chờ Biển Thước đến và giết chết ông. Tương truyền khi ấy ông đã khoảng 90 tuổi. Nhân dân ở nhiều địa phương rất thương tiếc, đã cho dựng mộ, bia và thờ Biển Thước ở Thiểm Tây, Sơn Đông, Hà Bắc,...
Theo sách sử ghi chép, Biển Thước khi còn sống đã có sách Biển Thước nội kin h(扁䳍内经),Biển Thước ngoại kinh(扁䳍外经), đáng tiếc đều đã mất. Hiện còn quyển Nạn kinh(難經), có giá trị tham khảo khá cao về kinh mạch, tuy có người cho rằng sách này do người đời sau làm, lấy tên Biển Thước.
Sử giaTư Mã Thiên đánh giá Biển Thước rất cao:"Biển Thước hành nghề y làm kẻ đứng đắn tôn trọng, giữ mực thước tinh tế trong sáng, đời sau học theo không phải dễ". Thiết tưởng sự đánh giá của Tư Mã Thiên về thần y Biển Thước như trên không có gì là quá đáng.
Các thầy thuốc thời xưa đều có một số khả năng rất đặc biệt và hơn phân nửa đều là “sư phụ tìm đồ đệ chứ không phải là đồ đệ tìm sư phụ”, có nghĩa là một người muốn theo học y thì người thầy phải cảm thấy người này có năng lực thì mới nhận.
Trong “Sử ký” có ghi chép về Biển Thước,vị danh y nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại, ông còn được người đời mệnh danh là “thần y”. Đi đến đâu có bệnh nghiêm trọng, ông đều có thể trị khỏi hết bệnh ở nơi đó, không bệnh gì là không chữa được. Tuy nhiên,Biển Thước từng nói có 6 kiểu bệnh nhân không thể chữa trị được.
1. Kiêu ngạo
Xấc xược không cần biết lý do chính là kiêu ngạo, căn bản loại người này sẽ không nói lý lẽ, kiểu bệnh nhân không nói lý lẽ này không thể chữa trị được.
2. Xem trọng tiền tài mà xem nhẹ bản thân
Đối với thân thể của chính mình cũng không quan tâm mà lại cực kỳ chú trọng đến tài sản, đồ của mình không lấy ra dùng, cũng không chịu tiêu tiền– kiểu người hà tiện này nếu có bệnh thì rất khó chữa.
3. Không nghe lời khuyên
Kiểu “bệnh” này hiện nay chúng ta rất thường gặp, chính là kiểu mà bảo họ mặc thêm quần áo họ không mặc thêm; bảo đừng ăn đồ nhiều dầu mỡ quá thì cứ ăn dầu mỡ; bảo ăn ít thịt động vật thì lại ăn nhiều thịt mỡ; bảo đừng ăn đồ lạnh thì cũng chẳng chịu nghe. Không chịu ăn những thứ nên ăn hoặc không chịu hạn chế ăn những thứ không nên ăn theo lời dặn dò của thầy thuốc. Kiểu người này cũng không trị được.
4. Âm dương hỗn loạn
Khí tạng không ổn định chính là âm dương của họ đã bị rối loạn, có dương mà lại có âm, nhưng âm dương lại loạn lung tung. Những người này khí huyết lục phủ ngũ tạng không ổn định nên cũng không chữa được bệnh của họ.
5. Thể chất hư nhược
Là những người thể chất rất yếu ớt, không uống được thuốc nên cũng không chữa được.
6.Tin vào thầymo
Ngày nay có rất nhiều người như vậy, chính là thà tin vào những thầy mo chứ không tin vào y học, tin vào lời nói của những bà đồng trong miếu, cho rằng vẽ bùa là có thể chữa được bệnh. Kiểu người thà tin vào tà thuật chứ không muốn tin vào lý lẽ y học của thầy thuốc chân chính thì cũng không thể chữa được.
Biển Thước là danh y nổi tiếng thời cổ đại. Khi còn nhỏ, ông theo học lương y Trường Tang Quân và đã được truyền nhiều y thuật bí truyền, ông am hiểu rất nhiều loại bệnh.Vào thời nhà Triệu làm phụ khoa, thời nhà Chu làm khoa ngũ quan, đời nhà Tần làm nhi khoa, ông đều nổi danh thiên hạ.
Biển Thước đã đặt ra phương pháp chẩn đoán bệnh bằng cách bắt mạch, khởi đầu cho cách chẩn đoán này của y học Trung Hoa. Tương truyền, quyển sách y cổ nổi tiếng “Nạn kinh” (hay “Nan kinh” là ghi chép của Biển Thước.
'Thần y' Biển Thước, cha đẻ phương pháp bắt mạch Đông y
Phương pháp bắt mạch của Biển Thước được xem là đã đặt nền móng quan trọng cho ngành Đông y.
Theo sử sách,danh y tên Chương Tang Quân thời đó vì quý mến nhân cách của Biển Thước đã ngỏ lời muốn truyền lại những kiến thức và bí kíp y học cho ông. Từ đó,Biển Thước đi khắp nơi hành nghề chữa bệnh giúp dân, dần dần danh tiếng ngày càng được nhiều người biết đến.
Dân gian lưu lại nhiều giai thoại về tài năng y học của Biển Thước.
Theo Hán thư ngoại truyện, có lần Biển Thước dẫn 5 học trò đến nước Quắc (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây) để làm thuốc. Nghe nói Thế tử nước Quắc bị bệnh qua đời đột ngột, ông cảm thấy đáng ngờ bèn xin được vào xem.
Quan sát một hồi, thấy cánh mũi người chết còn động đậy, hai chân còn ấm, Biển Thước chẩn đoán kỹ rồi kết luận: "Thế tử mắc chứng "thi quyết" (chết giả), có thể cứu sống được". Ông châm kim ở các huyệt trọng yếu, sai học trò Tử Minh làm ngải cứu, Cốc Tử đổ thuốc, Tử Dung xoa bóp không ngừng tay. Hồi lâu, quả nhiên "người chết "dần dần tỉnh lại. Biển Thước lại dùng thuốc dán dưới hai nách, bệnh nhân ngồi dậy được ngay.
Sử gia Tư Mã Thiên ghi lại trong bộ Sử Ký rằng một hôm Biển Thước sang nước Tề gặp Tề Hoàn Công. Thấy khí sắc vua Tề không tốt, ông liền tâu: "Trong da và chân lông của ngài có gốc bệnh, nếu không kịp thời chữa trị, bệnh sẽ nặng thêm". Đáp lại, Tề Hoàn Công thờ ơ: "Ta cảm thấy rất khỏe, chẳng có bệnh tật gì cả". Biển Thước bèn lui ra.
Năm ngày sau, Biển Thước yết kiến Tề Hoàn Công và khẳng định một lần nữa với vua Tề: "Bệnh của ngài đã vào đến nội tạng rồi, phải chữa ngay đi". Hoàn Công tỏ vẻ khó chịu, không trả lời. Đợi Biển Thước đi khỏi, ông bảo với mọi người: "Thầy thuốc chỉ khéo vẽ vời, hù dọa. Ta chẳng có bệnh gì mà ông ta dám bảo là bệnh nặng. Thật vớ vẩn".
Năm ngày sau nữa, Biển Thước lại vào yết kiến. Chỉ mới nhìn mặt vua Tề, ông đã quay bước bỏ đi. Tề Hoàn Công sai người chạy theo hỏi, Biển Thước nói: "Bệnh ở da thịt thì còn xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch thì còn truyền thuốc được. Nay bệnh đã vào đến xương tủy rồi thì trời cũng không cứu được nữa, bởi vậy tôi mới bỏ đi". Quả thật sau đó Tề Hoàn Công lâm bệnh nặng, các đại phu thuở ấy không chữa được.
Căn cứ vào kinh nghiệm hành nghề của mình, khi chữa bệnh cho bệnh nhân, Biển Thước sử dụng phương pháp "tứ chẩn", tức gồm 4 bước chẩn đoán bệnh. Đầu tiên, ông quan sát bệnh nhân và chú ý tới vẻ bề ngoài như màu da, màu lưỡi. Bước thứ hai, ông nghe giọng nói, nhịp thở. Bước thứ ba, ông hỏi bệnh nhân về các triệu chứng mà họ gặp phải. Cuối cùng, ông bắt mạch.
Tương truyền, Biển Thước chính là người đã khai sinh ra phương pháp bắt mạch, đặt tiền đề quan trọng cho Đông y. Về phương pháp bắt mạch của Biển Thước, dân gian lưu truyền một giai thoại.
Có lần, Biển Thước đến nước Tấn, biết được Triệu Giản Tử - người đang nắm quyền chính trị trong nước lâm bệnh, hôn mê đã 5 ngày. Biển Thước bắt mạch, thấy mạch bệnh nhân yếu ớt, lại nghe rằng chính trị nước Tấn lúc ấy rối ren nên đoán Triệu Giản Tử lao tâm quá mức khiến máu không tuần hoàn tốt dẫn tới hôn mê. Biển Thước kê thuốc cho Triệu Giản Tử uống. Chỉ hai ngày sau, bệnh nhân tỉnh lại, bệnh dần thuyên giảm. Trong Sử Ký, Tư Mã Thiên tán tụng: "Thiên hạ nói đến mạch là nói đến Biển Thước".
Ngoài "tứ chẩn", Biển Thước còn am hiểu và sử dụng nhiều các phương pháp trị liệu như châm cứu, châm kim đá, xoa bóp. Đặc biệt, ông đề cao phòng bệnh hơn chữa bệnh. Phòng bệnh có giá trị gấp đôi chữa bệnh. Điều này có thể thấy rõ trong giai thoại về Tề Hoàn Công.
Biển Thước để lại cho người đời nhiều bí kíp, tác phẩm y học đồ sộ như "Nạn Kinh", "Biển Thước ngoại kinh". Về sau, Biển Thước cùng Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân được hậu thế xưng tụng Trung Quốc cổ đại Tứ đại danh y.
Tại nhiều nơi hiện nay vẫn còn bảo lưu phong tục chôn người chết sau 7 ngày. Vì sao lại có phong tục này? Có lẽ ít ai biết, phong tục này có liên quan đến một vị thần y nổi tiếng thời cổ đại.
Có một cách giải thích liên quan đến tín ngưỡng. Cổ nhân cho rằng, sau khi người ta chết trải qua bảy bảy bốn chín ngày thì có thể đầu thai chuyển thế, 49 ngày này được phân làm 7 lần 7 ngày, 7 ngày đầu không chôn xác người chết này được gọi là “đầu thất”, và ngày cuối cùng của đầu thất này được gọi là “hồi dạ hồn”.
Trong những ngày này người chết sẽ trở lại dương gian một lần cuối cùng, và người nhà ngoài việc ăn uống tụ họp, còn nên biểu hiện hết sức hoà hợp êm thấm, không được cãi cọ. Có như vậy, người chết sẽ cảm thấy người nhà vừa ăn uống no đủ vừa vui vẻ đằm thắm, nên có thể yên lòng ra đi.
Nhưng có lẽ ít ai biết, phong tục này còn liên quan đến một vị danh y cổ đại. Người này gọi là Biển Thước, họ Tần, tên Hoãn, là danh y thời Chiến Quốc. Vì ông có y thuật cao siêu, nên tất cả mọi người đều gọi ông là thần y Biển thước.
“Sử ký: Biển Thước thương công liệt truyện” ghi lại rằng: Biển Thước ban đầu không phải là thầy thuốc, mà là ông chủ một quán trọ. Có lần tuyết rơi đầy trời, Biển Thước nhìn ra cửa thấy một ông lão bị lạnh cóng không thể đi được nằm ở đó, ông ngay lập tức gọi người khiêng ông lão vào quán trọ, nhóm lửa, nấu canh gừng, cứu sống ông lão. Lão nhân này chính là Trường Tang Quân, là một vị thần y.
Biển Thước thấy ông lão này cơ khổ không nơi nương tựa, nên đã giữ ông ở lại quán trọ của mình, cứ như vậy ông lão ở đấy mười mấy năm. Sau này khi sắp chết, ông lão gọi Biển Thước đến trước giường mình nói: “Ngươi là người lương thiện, cũng rất thông minh, ta có bí phương có thể cứu chữa người, hiện muốn truyền cho ngươi, nhưng ngươi không được tiết lộ ra ngoài”. Từ đó Biển Thước đã dùng những bí phương trị bệnh cứu người, và trở thành thần y.
Đây chỉ là một câu chuyện, nhưng nó lại ẩn chứa một giá trị quan vô cùng chuẩn xác của cổ nhân. Cái gọi là “đạo không dễ truyền”, “nhân giả nhân tâm”, liên quan đến việc thuốc chữa bệnh cứu người, nếu để cho người có tâm bất chính học được, thì cũng tương đương với gây ra đại họa. Vì vậy, việc Trường Tang Quân bị chết cóng trước cửa quán trọ của Biển Thước, thực ra ông đã cố ý làm thế để tìm truyền nhân.
Biển Thước sau khi tinh thông y thuật, đã đi khắp các nước hành nghề y. Vào thời điểm ông đến nước Quắc, thấy người nước Quắc ai cũng cầu khấn, nên ông hỏi một người rất yêu thích y thuật là Trung Thứ Tử xem đang xảy ra chuyện gì?
Trung Thứ Tử kể lại tỉ mỉ chuyện Thái tử đột nhiện chết bất đắc kỳ tử cho Biển Thước nghe. Biển Thước nói Trung Thứ Tử: “Ngươi hãy đi bẩm báo nhà vua, nói rằng Biển Thước muốn cầu kiến, ta có thể khiến Thái tử hồi sinh”. Trung Thứ Tử cảm thấy Biển Thước quả thực nói lời vô căn cứ, ít nhất cũng phải biết người đã chết thì không thể sống lại được chứ?
Biển Thước thấy Trung Thứ Tử hoài nghi, liền thở dài một hơi nói: “Nếu người không tin, ngươi có thể thử đến khám bệnh cho Thái tử trước, chắc chắn sẽ thấy cái mũi của anh ta sưng lên, từ đùi đến bộ phận sinh dục vẫn còn ấm”. Trung Thứ Tử nghe xong cảm thấy đây là việc hệ trọng, nên lập tức vào cung thử xem có đúng như lời Biển Thước nói không, và kết quả đúng như vậy. Vì thế Trung Thứ Tử bẩm báo với vua, vua nghe xong vui mừng khôn xiết, vội vàng triệu Biển Thước vào cung.
Sau khi kiểm tra, xem bệnh cho Thái tử, Biển Thước nói: “Bệnh này gọi là thi quyết. Con người tiếp nhận Âm Dương của thiên địa, dương chủ ở bên ngoài, âm chủ ở bên trong, Âm Dương tương hợp, thân thể sẽ khỏe mạnh. Thái tử hiện tại Âm Dương mất cân đối, mạch máu tắc nghẽn, mới dẫn đến khí mạch rối loạn, mất đi tri giác, Thái tử trông bên ngoài thì như chết, nhưng chỉ là chết giả mà thôi”.
Sau đó Biển Thước châm cứu vào “tam dương ngũ hội” và các huyệt vị khác trên cơ thể Thái tử, qua nửa canh giờ Thái tử quả nhiên tỉnh lại. Rồi Biển Thước tiếp tục sắc thuốc đổ vào miệng Thái tử, chính nhờ vậy mà Thái tử có thể ngồi dậy được. Sau đó tiếp tục điều trị bằng thuốc Đông y, sau hơn 20 ngày Thái tử đã hồi phục hoàn toàn.
Từ đó về sau, người trong thiên hạ đồn nhau rằng Biển Thước có thể cải tử hoàn sinh, có ca bệnh nặng nào không cứu chữa được thì mọi người lại nói “phải chi có Biển Thước ở đây”. Biển Thước nghe xong cười lắc đầu nói: “Ta làm sao có thể cứu người chết sống lại được? Chính là do bản thân người bệnh chưa chết, ta bất quá cũng chỉ là giúp hồi phục lại thôi”.
Cũng chính vì chuyện này, mà từ đó trở đi mới có phong tục chôn người chết sau 7 ngày. Tại sao lại phải đợi đến 7 ngày? Chính là sợ người ta không thật sự chết, mà là chết giả. Nếu là chết giả thì họ còn có cơ hội sống lại, chỉ là không tự mình sống lại được thôi, nhưng nếu có thể gặp được thần y như Biển Thước, thì có thể kỳ tích sẽ xảy ra.
Và cho dù không gặp được thần y như Biển Thước thì ít nhất cũng phải đợi đến 7 ngày, để trách việc phải chôn người sống. Dần già trong dân gian đã hình thành phong tục chôn người chết sau 7 ngày.
Trong xã hội hiện tại, hầu hết mọi người ít quan tâm đến Trung y. Tất cả mọi người cảm thấy hiệu quả của Trung y rất chậm, nếu so sánh với Tây y thì còn thua kém xa, cho nên rất nhiều người đều cho rằng, Trung y chỉ là dưỡng sinh, Tây y mới là chữa bệnh.
Kỳ thực không phải vậy. Trung y cổ đại vốn có nội hàm vô cùng thâm sâu, xuất hiện rất nhiều y học gia vĩ đại như Hoa Đà, Biển Thước, Tôn Tư Mạc, Lý Thời Trân… Những đại phu Trung y này đều có tuyệt kỹ đặc biệt để chữa bệnh. Ví như Hoa Đà đã sử dụng thiên nhãn của mình nhìn thấy trong đầu Tào Tháo có khối u. Lý Thời Trân có thể quan sát được sự phân bố kinh mạch của thân thể người, rồi viết ra cuốn sách: “Tần hồ mạch học” và “Kỳ kinh bát mạch khảo“.
Trung y chính là y học thần truyền, tồn tại vô hình. Cuốn sách nổi tiếng “Hoàng đế nội kinh” là xuất phát từ tiên nhân, là bảo bối tu luyên của Trung y. Trung y và Đạo gia có nguồn gốc rất sâu xa, các thầy thuốc Trung y cổ đại phân lớn cũng là những người tu đạo. Đạo sĩ tu luyện chú ý đả thông hai mạch nhâm đốc, kỳ kinh bát mạch, điều này và lý luận kinh mạch của Trung y là đồng nhất với nhau. “Khiếu” trong Đạo gia và “huyệt vị” của Trung y thực ra là một thứ, chỉ cách gọi khác nhau mà thôi.
Phật gia, hay Đạo gia, đều xuất hiện không ít cao thủ trị bệnh, họ thậm chí có thể dùng công năng đặc dị để trị bệnh, chỉ trong nháy mắt là bệnh khỏi ngay. Loại tình huống này không chỉ phát sinh ở Trung Quốc, mà trong Cơ đốc giáo xuất phát từ Tây Phương cũng có chuyện tương tự.
Ví như tại một quốc gia Đông Nam Á, có một tín đồ Cơ đốc giáo đã dùng công năng đặc dị chữa bệnh cho người khác. Người này dùng bàn tay vô hình (người này nhấn mạnh, chỉ có con mắt thứ ba mới có thể nhìn thấy) đưa vào trong thân thể của người bệnh, sau đó lấy ổ bệnh ra ngoài, mà ở bên ngoài da của người bệnh không có bất kỳ thương tích nào.
Y học Tây Phương là dựa trên cơ sở giải phẫu thân thể học, là thuộc về phạm trù khoa học thực nghiệm. Còn Trung y không phải là kỹ năng, kỹ nghệ bình thường, mà là điều siêu thường. Y thuật cao hay thấp của Trung y đều được quyết định bởi tiêu chuẩn đạo đức của thầy thuốc, có quan hệ chặt chẽ với việc tu dưỡng đạo đức . Vì vậy Tây y và Trung y đi theo hai con đường riêng biệt.
Thời đại hiện nay không thấy xuất hiện những bậc Thần y Trung y là vì những lý do sau:
Những điều của văn hóa truyền thống gần như đã bị phá hủy, hầu như không còn những gì là thiên nhân hợp nhất, thiện ác hữu báo, nhân nghĩa lễ trí tín, chính niệm đã đều tan thành mây khói.
Trung y hiện hành đang được truyền dạy là trái ngược với hình thức truyền thừa của Trung y truyền thống “sư phụ dạy đồ đệ”, “khẩu truyền tâm thụ”, “tu luyện đức hạnh”.
Nhân tâm trở nên nóng nảy, rất nhiều người hành nghề Trung Y chỉ quan tâm theo đuổi danh lợi, truy cầu tiền tài, trên cơ bản đức hạnh và tỉnh ngộ không đạt chuẩn của thầy thuốc Trung y truyền thống
Một lý do nữa là vì ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, bản thân thảo dược đã chứa một lượng độc tính nhất định. Ngoài ra, xuất phát từ suy tính lợi ích kinh tế, các nhà máy sản xuất thuốc Trung y đã áp dụng những phương pháp bào chế thuốc không đúng chuẩn cách.
Những yếu tố này đều làm giảm sút nghiêm trọng dược lực của thuốc Trung y, vì thế mà mọi người dần dần đã mất đi sự tin tưởng đối với Trung y. Trung y đã bị suy bại, không phải Trung y đã thay đổi, mà là con người thay đổi.
Phá vỡ điều cấm kỵ truyền nghề
Khi còn trẻ, Biển Thước phải đi làm thuê cho một nhà trọ, có một vị thầy thuốc rất giỏi tên là Trường Tang Quân thường đến trọ. Biển Thước là một người rất chăm chỉ, hễ rỗi rãi là ông giúp Trường Tang Quân một số công việc như chăm sóc bệnh nhân và cũng chính vì thế mà ông rất hứng thú say mê đối với ngành y.
Từ đấy về sau ông luôn có ý thức học hỏi cách khám bệnh bốc thuốc, gặp phải chỗ nào chưa rõ, ông liền nhờ Trường Tang Quân giảng giải và tự mình mày mò tìm kiếm những sách y học để đọc thêm.
Thời bây giờ, những người làm nghề y đều phải tuân thủ theo một quy ước: Y thuật chỉ có thể truyền lại giữa cha và con, nhất thiết không được truyền cho người ngoài, nhưng Trường Tang Quân lại rất thích chàng trai chăm chỉ, thông minh hiếu học này, nên mỗi lần Biển Thước hỏi gì ông đều giải đáp cặn kẽ tỉ mỉ.
Cứ thế, thời gian 10 năm thấm thoát trôi qua, Biển Thước cũng đã biết khám và chữa một số bệnh đơn giản. Trường Tang Quân cảm thấy Biển Thước thông minh hơn những người khác, lại có bản lĩnh học nghề y nên quyết định truyền lại hết những gì mà cả đời đã tích lũy được cho Biển Thước.
Từ đó về sau, Biển Thước cần mẫn nghiên cứu những phương thuốc bí truyền, y thuật tiến bộ không ngừng, tiếng tăm cứ thế lan đi, uy tín ngày một lớn…
“Cải tử hoàn sinh” cứu thái tử
Có lần, Biển Thước đến nước Triệu để hành nghề y, gặp Thái tử nước này bị bệnh nặng lâm nguy. Khi tới nơi, thấy người ta khiêng đến một chiếc quan tài, xem ra Thái tử đã qua đời.
Biển Thước hỏi một vị quan viên Thái tử bị bệnh gì mà tạ thế, vị quan đáp: “Thái tử khí huyết thác loạn, bỗng nhiên sinh ra bạo bệnh, chính khí không áp đảo được tà khí, lịm đi mà chết”.
Biển Thước không hài lòng với sự giải thích đó, ông dựa vào những phán đoán của mình cho rằng Thái tử chưa hoàn toàn chết hẳn, vẫn còn hy vọng cứu sống, bèn hỏi: “Thái tử mất được bao lâu rồi?”. Vị quan viên đáp: “Chưa đến nửa ngày”.
Biển Thước nghe vậy cảm thấy càng có hy vọng, nói ngay: “Xin ngài bẩm báo với Đại vương, tôi có thể cứu sống Thái tử”. E rằng ông ta không tin làm chậm mất thời gian cấp cứu, Biển Thước nói: “Ngài có thể lập tức đi vào nhìn Thái tử xem, ngài sẽ thấy tai của Thái tử vẫn còn nghe được, cánh mũi vẫn còn khẽ động đậy; tiện đó ngài sờ vào chân Thái tử, từ đùi trở lên vẫn chưa bị lạnh giá...”.
Viên quan nọ vội chạy vào cung bẩm báo. Biển Thước đến trước giường bệnh, quan sát tỉ mỉ khí sắc Thái tử, bắt mạch, rồi lấy đồ nghề châm cứu vào 8 huyệt vị trên người Thái tử. Một lát sau Thái tử tỉnh lại, mọi người vô cùng kinh ngạc và vui sướng.
Tiếp đó, Biển Thước điều chế 2 loại thuốc cao, dặn dò xoa bóp cẩn thận làm nóng phần dưới hai bên nách Thái tử. Với cách chữa trị như vậy, Thái tử đã có thể ngồi dậy được. 20 ngày sau, Thái tử hoàn toàn bình phục.
Tin tức truyền ra ngoài cung, mọi người kháo nhau rằng Biển Thước có tài “cải tử hoàn sinh”. Biển Thước nghe nói vậy cười và nói: “Ta làm gì có bản lĩnh cải tử hoàn sinh! Thái tử chỉ bị hôn mê chứ đâu đã chết, ta chỉ giúp Thái tử phục hồi lại sức khỏe mà thôi”.
Chỉ nhìn bằng mắt khám bệnh
Thầy thuốc Đông y khi khám bệnh luôn quan sát rất kỹ sắc mặt của bệnh nhân và bảo bệnh nhân thè lưỡi ra xem đầu lưỡi; sau đó sờ ấn vào mạch, hỏi han những cảm giác của bệnh nhân. Đó là phương pháp khám bệnh truyền thống, gọi là “nhìn, nghe, hỏi, sờ (bắt mạch)”. Phương pháp do Biển Thước lưu truyền lại, đến nay đã có hơn 2.000 năm lịch sử.
Một hôm, Biển Thước đến kinh đô nước Tề, Quốc quân Tề Hoàn Hầu nghe nói y thuật của Biển Thước rất tài giỏi bèn mời vào cung. Theo thói quen nghề nghiệp, ông nhìn sắc mặt của Tề Hoàn Hầu, nhưng vừa thấy ông đã phát giác ra Tề Hoàn Hầu đang mang bệnh trong người: “Bẩm Đại vương, ngài có bệnh, bệnh tà đang ở giữa da và cơ. Nếu không chữa chạy kịp thời, bệnh tình sẽ ngày một nặng thêm”.
Tề Hoàn Hầu nghe nói, nghĩ trong lòng bản thân chẳng thấy bệnh, chẳng thấy đau ốm, ăn ngon ngủ tốt, làm sao lại có bệnh được, lắc đầu: “Tiên sinh quá lo, ta rất khỏe, chẳng có bệnh gì cả?”. Sau khi Biển Thước từ biệt ra về, Tề Hoàn Hầu nói với các người thân cận của mình: “Làm thầy thuốc ai cũng thích khoe tài giỏi của mình, cả đến thầy thuốc nổi tiếng như Biển Thước cũng nói bậy, lấy bệnh để hù dọa người”.
5 ngày sau, Tề Hoàn Hầu cho mời Biển Thước lần thứ hai, Biển Thước xem sắc mặt của Tề Hoàn Hầu: “Bẩm Đại vương, bệnh của ngài đã đi vào huyết mạch rồi, nếu không điều trị, sẽ tiếp tục nặng thêm, kính mong Đại vương sớm chữa trị”. Tề Hoàn Hầu bực bội: “Tiên sinh, ta không có bệnh, chữa trị cái gì”.
Lại sau 5 ngày nữa, Tề Hoàn Hầu lần thứ ba cho mời Biển Thước đến. Biển Thước thấy bệnh của Đại vương đã khá nặng rồi, vô cùng khẩn thiết nói: “Bẩm Đại vương, bệnh của ngài đã xâm nhập vào tận ruột gan rồi, bây giờ chữa trị ngay vẫn còn kịp không thì khó trị khỏi”.
Tề Hoàn Hầu thấy Biển Thước lần nào cũng nói mình có bệnh, cảm thấy vô cùng phiền toái, dứt khoát không để ý gì đến Biển Thước nữa.
Lại 5 ngày nữa trôi qua, Biển Thước vì rất lo cho sức khỏe của Đại vương bèn chủ động xin vào gặp. Nhưng, mới vừa nhìn thấy Đại vương, ông không nói được lời nào cáo từ thoái lui khỏi vương cung.
Tề Hoàn Hầu cảm thấy rất lạ, sai người đến hỏi, Biển Thước thở dài và nói: “Bệnh tà của Đại vương lúc mới bắt đầu chỉ thấy ở ngoài da và thịt, sau đó lại đi vào đến ruột gan, lúc đó chữa trị còn có thể cứu vãn được, nhưng nay tôi nhìn sắc mặt của Đại vương, bệnh tà đã đi vào tận xương tủy, tôi không còn cách nào khác, đành không dám nói lời từ biệt mà lặng lẽ ra về”.
Cận thần đem những lời nói đó của Biển Thước về tâu với vua, Tề Hoàn Hầu vẫn không tin. Năm ngày sau, quả nhiên Đại vương đổ bệnh nặng, cuống cuồng sai người đi mời, nhưng Biển Thước đã rời khỏi nước Tề về quê. Tề Hoàn Hầu vì không nghe thầy thuốc, để bệnh tình quá nặng mà chết.
6 loại bệnh không chữa
Biển Thước chu du các nước, ngoài khám chữa bệnh cho các vương công quí tộc ra, chủ yếu là chữa bệnh cho bà con nông dân.
Nhưng Biển Thước không phải chữa bệnh cho bất cứ người nào, có 6 loại người mà ông không chữa: Một là những người ngạo nghễ ngang tàng, không có đạo đức; Hai là những người hám tiền bạc không chú ý đến bản thân mình bất chấp tất cả; Ba là những người nhậu nhẹt ăn uống bê tha, sinh hoạt đồi bại; Bốn là những người bệnh nặng mà không chịu chữa chạy sớm, chức năng hoạt động của lục phủ ngũ tạng không còn bình thường nữa; Năm là những người mà thân thể đã quá suy nhược cả đến việc uống thuốc cũng không còn khả năng; Sáu là những người mê tín tà ma không tin vào thầy thuốc.
Khi Biển Thước đến nước Tần thì lúc ấy ông cũng đã già rồi. Quốc quân của nước Tần là Tần Vũ Vương nghe nói y thuật của ông rất cao nên đã mời ông vào cung để chữa bệnh cho vua. Sau khi Biển Thước khám xong, kê đơn thuốc thì Thái y Lý Tây vốn rất căm ghét Biển Thước, đã thông đồng với thầy cúng nói với Tần Vũ Vương: “Biển Thước chẳng có gì là tài giỏi cao cường, Đại vương không nên tin”.
Tần Vũ Vương nghe vậy nên không uống thuốc mà Biển Thước đã kê, Biển Thước bỏ đi. Lý Tây vẫn lo sau này có thể Tần Vũ Vương lại tín nhiệm Biển Thước sẽ làm mình thất sủng nên lén lút sai người đâm chết Biển Thước.
Sau khi Biển Thước bị sát hại, nhân dân đã đưa thi thể của ông về chôn ở Hàm Dương. Ở quê ông, nhân dân lại xây một mộ táng giả (chỉ chôn mũ áo người chết).
-------------
Hoa Đà: Ông tổ của khoa phẫu thuật
Hoa Đà được biết đến là thầy thuốc phẫu thuật đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. Ông sống vào cuối thời Đông Hán, đầu thời Tam Quốc. Theo sử sách, Hoa Đà được xem là Thần y của Trung Hoa.
Hoa Đà là người đã sáng tạo ra loại thuốc gây mê và giảm đau “Ma Phí Tán” (trộn rượu và thảo dược) để dùng trong các ca phẫu thuật, điều mà người phương Tây chỉ biết đến sau đó hơn 1600 năm. Hoa Đà cũng là người phát triển “Ngũ Cầm Hí”, vốn là một môn khí công Đạo gia phỏng theo động tác của năm loài vật: hổ, hươu, gấu, khỉ và chim.
Có một giai thoại đi vào sử sách kể về lần Hoa Đà trị thương cho Quan Vũ, vị tướng quân nổi tiếng của Lưu Bị, nước Thục trong thời Tam Quốc. Trong một lần xuất quân giao chiến, Quan Vũ bị trúng tên độc ở cánh tay phải. Hoa Đà đã sử dụng thuốc giảm đau và phẫu thuật cắt bỏ phần thịt bị nhiễm độc ngay trong lúc Quan Vũ đang đánh cờ vây.
Một câu chuyện khác kể rằng Hoa Đà nhìn thấy một khối u trong não Tào Tháo và khuyên Tào Tháo mổ não để làm thủ thuật bỏ khối u. Nhưng Tào Tháo lại nghĩ rằng Hoa Đà muốn giết mình nên đã giam ông trong ngục cho tới chết. Quả nhiên sau đó Tào Tháo đã thực sự phát bệnh đau đầu mà chết.
“Tam Quốc diễn nghĩa” (La Quán Trung) chép lại rằng, trong khi bị giam trong ngục tối, vì cảm kích trước sự chăm sóc tận tình của viên coi ngục, Hoa Đà đã truyền lại toàn bộ y thuật của mình cho người này. Tuy nhiên, khi về nhà, vợ của anh ta lại đem sách y thuật đó đốt đi vì sợ chồng mình cũng có kết cục giống Hoa Đà. Kết quả là y thuật của Hoa Đà mãi mãi thất truyền, chỉ còn được hậu thế biết đến qua những giai thoại dân gian.
Trong cuộc sống bận rộn ngày nay, thức đêm là chuyện rất đỗi bình thường, nhưng bạn có biết thường xuyên thức đêm làm cơ thể nảy sinh những ảnh hưởng rất không tốt cho sức khỏe, bạn đang vô tình xem được bài viết này, hãy nhanh chóng copy lưu lại, rất có thể có ích hỗ trợ đối với bạn và những bạn sinh viên thường xuyên phải thức đêm.
Bí quyết của giấc ngủ
Theo y học và những thể nghiệm cũng như quan sát từ bản thân tác giả, một người chỉ thực sự ngủ nhiều nhất là 3 giờ đồng hồ, còn lại đều là lãng phí thời gian, nằm và ngủ mơ, có lẽ trong chúng ta không một ai là không từng ngủ mơ. Nhưng khi tỉnh dậy cảm thấy mình không mơ thấy gì, đó là bởi họ đã quên giấc mơ đó như thế nào rồi.
Chỉ cần chợp mắt 30 phút buổi trưa, cũng bằng ngủ 2h đồng hồ, nhưng phải căn đúng vào giữa trưa. Buổi tối thì chỉ cần ngủ vào đúng giờ tí ( từ 11h -1h đêm), 5 phút khi đó bằng 6h đồng hồ. Kiến thức liên quan tới khoảng thời gian nêu trên là rất lớn, có liên quan tới quy luật của vũ tru, quy luật của trái đất, và nguyên lý âm dương, hơn nữa bạn cũng có thể cảm nhận, có một nguồn lực rất mạnh ở phía dưới trái tim nối liền xuống dưới, hòa hợp với nguồn lực tử đan điền ( phía trên thận), được gọi là “ thủy hỏa cân bằng”, nói rộng ra một chút, nếu bạn ngủ đủ giấc, tinh thần bạn sẽ tốt lên gấp trăm lần.
-----------------
Tôn Tư Mạc: ‘Thần y’ của lòng nhân ái
Tôn Tư Mạc (550 – 691) thời Đường được xưng tụng là Dược vương Tôn Thiên Y. Ông sinh vào thời Tây Ngụy (535 – 556), thuở nhỏ thường ốm yếu nên lớn lên quyết lập chí học nghề y. Với tư chất thông minh sẵn có, chẳng mấy chốc Tôn Tư Mạc thông hiểu nhiều kinh điển Trung Hoa, trở thành thầy thuốc nổi tiếng nhất thời đại của mình.
Tương truyền, Tôn Tư Mạc sống tới năm 141 tuổi rồi đi tu tiên. Ông cũng là người ứng dụng khí công vào thuật dưỡng sinh. Dù rất tài năng nhưng Tôn Tư Mạc chỉ ở nhà chuyên tâm nghiên cứu y thuật, quyết không ra làm quan.
Tôn Tư Mạc rất coi trọng đạo đức của người thầy thuốc, luôn kiên định bảo trì một trái tim từ bi, hòa ái và tấm lòng hy sinh cao cả đối với bệnh nhân, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, già trẻ, đẹp xấu, thân sơ…
Ông đã cống hiến cho nền y học Trung Hoa hai kiệt tác y học là “Thiên kim yếu phương” và “Thiên kim dược phương”, tập hợp và phân loại toàn diện các bài thuốc Trung y.
Tôn Tư Mạc hồi nhỏ thường bị bệnh, do vậy ông đã quyết định học nghề y. Ông rất uyên bác thông hiểu kinh điển, lịch sử Trung Quốc và các học thuyết của Bách gia chư tử.
Mới lên 7 tuổi, ông đã có thể “Mỗi ngày đọc thuộc lòng 1.000 chữ”. Chính vì khả năng ghi nhớ kỳ lạ như vậy nên ông được người ta gọi là “Thánh đồng”.
Tới năm 20 tuổi, ông có thể đĩnh đạc đàm luận về học thuyết Lão Tử, Trang Tử, đồng thời cũng tinh thông việc biên soạn kinh điển Phật gia.
Vào thời Tùy Đường, Tôn Tư Mạc từ chối không ra làm quan. Đường Thái Tông Lý Thế Dân từng tự mình đích thân lên núi tiếp kiến ông.
Tôn Tư Mạc nổi danh với việc tổng kết kinh nghiệm lâm sàng và lý luận y học từ thời Đường trở về trước, từ đó biên soạn thành hai bộ kiệt tác y học: “Thiên Kim Yếu Phương” (Phương thuốc giá trị cả ngàn lượng vàng) và “Thiên Kim Dực Phương” (Phần bổ sung của ‘Thiên Kim Yếu Phương’). Bộ sách “Thiên Kim Yếu Phương” gồm 30 quyển, chia làm 232 chủ đề.
Cả đời Tôn Tư Mạc biên soạn hơn 80 bộ sách, ngoại trừ “Thiên Kim Yếu Phương” và “Thiên Kim Dực Phương” ra, còn có “Lão Tử Chú”, “Trang Tử Chú”, “Chẩm Trung Tố Thư” 1 quyển, “Hội Tam Giáo Luận” 1 quyển, “Phúc Lộc Luận” 3 quyển, “Nhiếp Sinh Chân Lục” 1 quyển, “Quy Kinh” 1 quyển cùng các tác phẩm khác.
Tôn Tư Mạc tin rằng: “Mạng người là quý giá nhất, ngàn lượng vàng dẫu quý, song một phương thuốc trị bệnh cho người ta còn quý hơn cả ngàn lượng vàng”. Thành ngữ “Thiên Kim” có nghĩa là “ngàn lượng vàng” cũng từ đó mà ra đời. Toàn bộ sách bao gồm 5.300 bài thuốc, trong đó tập hợp các phương thuốc phổ biến với nội dung rất phong phú.
Bộ sách là một kiệt tác tiêu biểu cho sự phát triển của y học đời Đường. Nó có ảnh hưởng lớn và đóng góp đáng kể cho sự phát triển của y học, nhất là các bài thuốc để lại cho hậu thế. Những kiệt tác này cũng đóng góp vào sự phát triển của y học tại Nhật Bản và Triều Tiên.
“Thiên Kim Dực Phương” cũng bao gồm 30 quyển. Tôn Tư Mạc đã viết tác phẩm này trong những năm tuổi già. Nó có quan hệ bổ sung toàn diện cho cuốn “Thiên Kim Yếu Phương”.
Ông chia cuốn “Kim Thiên Dực Phương” ra làm 189 chủ đề, bao gồm hơn 2.900 bài thuốc. Cuốn sách ghi lại 800 vị thuốc, đặc biệt chữa trị rất hiệu nghiệm cho các chứng bệnh như thương hàn, trúng phong, các bệnh vặt và chứng ung nhọt.
Danh y Tôn Tư Mạc khi còn trẻ có thể chất yếu ớt, mắc nhiều bệnh tật nhưng ông vẫn sống tới 101 tuổi, đủ thấy khả năng y thuật của ông tài cao đến đâu. Cùng xem ông giải thích thế nào về đạo lý dưỡng tính.
Thân thể con người là phiên bản thu nhỏ của tự nhiên
Tôn Tư Mạc là người Hoa Nguyên thời Đường, từng ẩn cư trên núi Thái Bạch tu hành. Ông am hiểu thiên tượng lịch pháp và thuật dưỡng sinh. Năm thứ ba niên hiệu Hiển Khánh, vua Đường Cao Tông triệu kiến Tôn Tư Mạc. Lúc đó, ông đã hơn 90 tuổi nhưng thị lực và thính giác của ông không hề suy giảm. Thi nhân Lư Chiếu Lân và danh sĩ nổi tiếng Tống Lệnh Văn cùng nhiều danh sĩ khác đều rất cung kính, dùng lễ thầy trò mà đối đãi với ông.
Họ từng hỏi Tôn Tư Mạc: “Danh y có thể trị được khỏi bệnh là căn cứ vào đạo lý gì?”
Tôn Tư Mạc nói:“Ta nghe nói, người thông hiểu Trời nhất định sẽ tìm thấy bản thể trên thân thể của con người. Người am hiểu về con người thì nhất định sẽ lấy Trời làm bản thể. Vì vậy, trời có Xuân, Hạ, Thu, Đông, ban đêm và ban ngày luân phiên thay đổi. Đông đến hạ đi, đây là sự vận động của tự nhiên. Thân thể của con người có tứ chi và ngũ tạng, cho dù đang tỉnh hay ngủ, hô hấp thải cũ thay mới, kinh mạch và khí huyết đều có sự tuần hoàn. Lưu chuyển chính là sự tuần hoàn của khí huyết, biểu hiện rõ nhất chính là ở khí sắc của con người. Đây là sự vận động bình thường của cơ thể con người“.
“Dương dùng tinh hoa của nó, âm dùng hình thể của nó, đây là sự tương đồng giữa trời và người, nếu vi phạm quy tắc của tự nhiên sẽ sinh ra bệnh. Bốc hơi thì có thể sinh nhiệt, không thì sinh hàn. Ứ đọng thì tạo thành khối u bướu (thịt thừa), chướng ngại thì trở thành u nhọt độc. Dựa vào các biểu hiện bên ngoài để chẩn đoán có thể kiểm tra được sự biến đổi bên trong cơ thể“.
“Lương y dùng thuốc và châm cứu để chữa bệnh cho người, thánh minh dùng đạo đức cao thượng và tài năng đức hạnh để cai trị thiên hạ. Cho nên bệnh tật trong cơ thể con người có thể trị khỏi, tai họa trong trời đất này cũng có thể được loại trừ, tất cả những điều này đều là vận số“.
Làm người gan phải lớn, tim nhỏ
Tôn Tư Mạc đáp: “Gan phải lớn, tim phải nhỏ, trí tuệ phải khôn khéo, linh hoạt, hành vi phải chính trực, không tùy tiện“.
Lư Chiếu Lân: “Mong thầy giải thích rõ hơn!”
Tôn Tư Mạc đáp lại: “Tim là quân chủ trong ngũ tạng, nó cần phải hoạt động tuân theo quy luật, vì vậy phải thận trọng. Gan là tướng lĩnh trong ngũ tạng, cần phải kiên quyết quả đoán, vì vậy gan phải lớn. Người có trí tuệ hành động như Trời, vì vậy cần phải linh hoạt. Người nhân nghĩa trầm tĩnh như đất, cho nên hành vi phải chính trực.
Trong“Truyền” có đoạn: “Không vì lợi mà quay lại, cũng không vì làm việc nhân nghĩa mà hối lỗi. Đấy mới là hành vi chính trực của người nhân nghĩa”. Trong “Kinh Dịch” cũng giảng: “Gặp cơ hội đến thì phải nắm bắt, không thể cả ngày chỉ biết chờ đợi, đấy mới là sự linh hoạt của người có trí tuệ“.
Con người có 5 sợ, tâm tư mới tỉnh táo
Lư Chiếu Lân lại hỏi: “Trong đạo lý dưỡng tính, điều quan trọng nhất là gì ?”
Tôn Tư Mạc đáp: “Trời có đầy có thiếu, trong thế giới con người cũng có nhiều khó khăn gian khổ. Từ xưa tới nay không ai có thể tự giải thoát bản thân khỏi nguy hiểm mà không biết hành sự thận trọng. Bởi vậy, người muốn dưỡng tính trước tiên phải biết thận trọng“.
“Kinh Thi” giảng:“Nhân bất úy cụ tai họa, thiên tựu yếu hàng tai nan cấp nhĩ“, ý nói con người không biết sợ tai họa thì trời sẽ giáng tai nạn xuống cho con người.
“Cái sợ, trước tiên phải biết sợ Đạo, sau đó sợ Trời, kế tiếp là sợ vật, sợ người, cuối cùng là sợ chính bản thân mình“.
“Do đó người mất đi sự sợ hãi, thì tâm tư dễ bị rối loạn khó mà điều chỉnh, hành vi nôn nóng khó mà tự kiềm chế, tinh thần không ổn định dễ mất phương hướng“.
“Người có thể hiểu được những đạo lý này, khi chèo thuyền trong dòng nước thì Giao Long cũng không thể hại đến; khi đi trên đường cũng không bị mãnh thú gây tổn thương; các loại bệnh tật, ôn dịch cũng không thể lây nhiễm đến; kẻ thích nói xấu người khác cũng không thể phỉ báng đến. Người hiểu được đạo lý này cũng hiểu được hết sự tình trên thế gian“.
Không lâu sau, Tôn Tư Mạc nhậm chức Thừa Vụ Lang, phụ trách các vấn đề dược phẩm. Vào đầu năm Vĩnh Thuần thời Đường Cao Tông, Tôn Tư Mạc qua đời. Ông để lại di chúc rằng: Việc mai táng cần giản dị, thờ cúng không cần đốt tiền giấy, khi bái tế cũng không nên sát sinh.
Hơn một tháng sau khi ông qua đời, khí sắc vẫn giống hệt như người còn sống. Lúc đưa thi thể của ông vào quan tài giống như khiêng một bộ y phục trống không. Cả đời Tôn Tư Mạc đã viết ra 30 quyển “Thiên Kim Phương” truyền cho hậu thế.
Theo danh y Tôn Tư Mạc, có thể làm được việc “không uống thuốc mà chữa được bệnh” thì mới là cách tốt nhất trong dưỡng sinh.
Tôn Tư Mạc: Học y vì sức khỏe yếu ớt nhiều bệnh, rồi trở thành vị thầy của cả một thế hệ
Tôn Tư Mạc, còn được gọi là Dược vương Tôn Thiên Y, là thầy thuốc nổi tiếng thời cổ đại của Trung Quốc. Ông cũng là một người ứng dụng khí công vào thuật dưỡng sinh.
Tôn Tư Mạc nổi danh với việc tổng kết kinh nghiệm lâm sàng và lý luận y học từ thời Đường trở về trước, từ đó biên soạn thành hai bộ kiệt tác y học: “Thiên Kim Yếu Phương” (Phương thuốc giá trị cả ngàn lượng vàng – gồm 30 quyển) và “Thiên Kim Dực Phương” (Phần bổ sung của ‘Thiên Kim Yếu Phương’)
Tôn Tư Mạc mất năm101 tuổi. Lúc còn trẻ, sức khỏe ông rất yếu lại mắc nhiều chứng bệnh, nên ông đã nỗ lực nghiên cứu học tập y thuật. Ông có nền tảng kiến thức sâu rộng về thuốc, có sự nghiên cứu sâu xa về các phương diện chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh bằng thuốc, châm cứu, phòng bệnh… cho đến năm 100 tuổi ông vẫn có thể nhìn và nghe rõ ràng và đã trở thành người thầy y học nổi danh một thời của nhà Đường.
Tổng kết những tư tưởng chăm sóc sức khỏe của y học, Đạo học, Nho học và Phật giáo Ấn Độ, ông cho rằng dựa vào cốt lõi “dưỡng tính” và “dưỡng lão”, có thể kéo dài tuổi thọ, trong đó phạm vi của nó bao gồm cả y học phòng bệnh, y học tâm lý và thể chất, y học tuổi già, thậm chí là chữa bệnh ở trẻ em và chữa bệnh bằng ăn uống.
Ví dụ: “Con người nên bảo trì tâm thái cân bằng, không nên cứ một mực theo đuổi danh lợi. Người ta ăn uống cần phải điều độ, không nên ăn hay uống quá nhiều. Khí huyết cần phải chú ý lưu thông, không nên lười biếng lười vận động. Sinh hoạt thường ngày cần phải ổn định, không nên trái với quy luật tự nhiên…”
Cách dưỡng tính bằng việc điều khiển cảm xúc, kiềm chế tình cảm
Về vấn đề dưỡng tính, Tôn Tư Mạc cho rằng nên điều khiển cảm xúc, kiềm chế tình cảm, luôn giữ cảm xúc lạc quan, phải tiết chế chuyện phòng the và ăn uống.
“Ăn uống lành mạnh, ăn để trị bệnh và uống thuốc”, phải luôn giữ trạng thái tinh thần và thói quen ăn uống tốt để phòng tổn thương tỳ vị, tránh ảnh hưởng đến khí huyết mà gây bệnh, đồng thời ông nhấn mạnh tác dụng phòng và trị bệnh của việc ăn uống và thuốc men.
“Tập luyện thể thao và điều hòa hơi thở”, ông cho rằng chúng ta phải vận động và tập luyện vừa sức như xoa bóp, hít thở, bấm huyệt, mượn cách bỏ xấu lấy tốt, kết hợp tĩnh và động để đạt được mục đích chăm sóc sức khỏe.
Cách dưỡng lão bằng việc bồi dưỡng tâm trạng, sống có quy củ
“Cách dưỡng lão” là cách dưỡng sinh ở người lớn tuổi, Tôn Tư Mạc cho rằng những người trên 50 là người lớn tuổi, lúc này có thể bị các bệnh về tinh thần cùng các hiện tượng lão hóa khác do sự yếu đi về mặt sinh lý, vì thế phải dưỡng lão bằng cách bồi dưỡng tâm trạng, sinh hoạt có quy củ, phải điều tiết việc ăn uống, xoa bóp vừa phải. Có nghĩa là dưỡng sinh ở tuổi già cần phải kết hợp giữa tâm trạng vui vẻ, sống có quy củ, ăn uống vừa phải và vận động vừa sức.
Nói chung, sự hình thành bệnh tật là do các chức năng bên trong cơ thể mất đi sự điều tiết, ví dụ như khi nguồn bệnh bên ngoài xâm nhập vào cơ thể, chỉ cần bổ sung được đủ dinh dưỡng, giữ cho các bộ phận trong cơ thể hoạt động, tăng sức đề khoáng thì sẽ không dễ bị nhiễm bệnh.
Bậc cao nhân xưa xem tinh, khí, thần như là tam bảo của sinh mệnh, muốn dưỡng sinh trường thọ thì cần giữ gìn 3 yếu tố này.
“Vĩnh viễn giữ gìn tuổi trẻ sức khỏe” là ước mơ mà mỗi chúng ta theo đuổi, quyển “Hoàng Đế nội kinh” 5000 năm trước đã dạy chúng ta cách dưỡng sinh (“Hoàng Đế nội kinh – Tố vấn – Thượng cổ thiên chân luận”). Dưỡng sinh không cần phải uống thuốc, mà là xuất phát từ trong “nội tâm” của chúng ta, khiến chúng ta quay ngược thời gian, tìm tòi trí tuệ của cổ nhân.
Hoàng Đế kính vấn Thiên sư Kì Bá (thầy của Hoàng Đế), người thượng cổ sống hơn trăm tuổi mà vận động không yếu đi, còn con người hiện nay sống không đến năm mươi mà vận động đã trở nên yếu ớt là do thời đại đã khác sao? Hay do khuyết điểm của bản thân con người?
Kì Bá trả lời, người thượng cổ thông hiểu đạo dưỡng sinh, ăn uống có tiết chế, sinh sống có quy luật, sinh hoạt không quá lao lực cho nên cơ thể và tinh thần đều khỏe mạnh, có thể sống đến rất lâu (thiên niên). Thế nhưng người ngày nay không như vậy, họ uống rượu thay nước, hành vi phóng túng, chuyện phòng the quá độ, hao tổn tinh khí, không biết khống chế cảm xúc, chỉ biết đuổi theo khoái lạc trong tâm hồn, thậm chí xem hành vi tổn hại sinh mạng là một thú vui, vì vậy sống đến năm mươi thì đã già.
Điềm tĩnh như không, chân khí đủ đầy, giữ vững tinh thần
Hoàng Đế học được cách tu đạo của tiên nhân Quảng Thành Tử rồi đắc đạo vào năm 120 tuổi, bay lên thành rồng.
Kì Bá so sánh sự khác nhau trong thái độ sống của người xưa và nay, sau đó giảng về triết lí của dưỡng sinh, “Người thượng cổ dạy người dưới mình, hiểu rõ tai hại của hư tà, tùy theo thì tiết tránh tà khí, giữ lòng điềm đạm, sống đúng với chân khí, giữ được tinh thần bên trong, bệnh sẽ không đến.”
Thường thượng cổ dạy cho nhân chúng phải tránh tà khí gây bệnh bên ngoài (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa), phải thanh tâm quả dục, ngăn ham muốn, giữ tâm trong sáng, xem nhẹ danh lợi, đạt đến cảnh giới “hư vô”, như vậy mới có thể điều hòa thông thuận chân khí, bảo vệ tinh thần bên trong, tà khí bên ngoài không thể xâm lấn được, bệnh tật cũng sẽ không phát sinh.
“Thượng cổ thiên chân luận” là quyển đầu tiên của “Hoàng đế nội kinh – Tố vấn”, có thể thấy là hết sức quan trọng. “Thiên chân” là chỉ bẩm sinh của con người, đến từ sức khỏe, là tinh thần bẩm sinh, khí huyết bẩm sinh (chân khí), nguyên thần, vì vậy Đạo gia gọi tinh, khí, thần là “tam bảo sinh mạng”, ba điều quý đối với sinh mạng, có thể bảo vệ sự sống. Dưỡng sinh chính là phải bảo dưỡng tinh, khí, thần, như vậy thì tà khí bên ngoài mới không thể xâm nhập.
Nhưng phải làm thế nào để bảo dưỡng tinh, khí, thần? “Điềm đạm hư vô” chính là phương pháp bảo dưỡng tam bảo mà Kì Bá đưa ra, xuất phát từ “nội tâm” của chúng ta, nếu có thể thanh tâm quả dục, ngăn ham muốn, giữ lòng trong sáng, xem nhẹ danh lợi, không bị hấp dẫn bởi sự vật bên ngoài thì nội tâm mới có thể đủ thanh tĩnh, đạt đến “sống đúng với chân khí, giữ được tinh thần bên trong”, chân khí hòa hợp thông thuận, bảo vệ bên ngoài, tinh và thần không bị tác động, bảo vệ bên trong cũng chính là bảo dưỡng tam bảo tinh, khí, thần.
Đạo gia tu luyện thành chân nhân
Bước tiếp theo của dưỡng sinh là tu luyện, Đạo gia tu luyện là phải trở thành “chân nhân”, chính là “thần tiên” mà ta thường nói đến. Hoàng Đế có nói: “Nghe nói người thượng cổ có chân nhân, lãnh đạo thiên địa, nắm giữ âm dương, hấp thụ tinh khí, độc lập thọ thần, cơ thể như một, vậy mới có thể thọ bì thiên địa, không có chung thời, vượt ngoài luật sinh tử.” Tu luyện để thành chân nhân là có thể “thọ bì thiên địa, không có chung thời”, sống lâu vượt qua trời đất, vô cùng vô tận, cũng chính là đã đắc đạo thành tiên rồi.
Cách tốt nhất trong việc dưỡng sinh là không uống thuốc mà có thể chữa được bệnh
Cái gọi là “dưỡng sinh” là ý chỉ việc “chữa trước sẽ không có bệnh”, có nghĩa là trước khi bị bệnh, việc đầu tiên là dùng nhiều cách để điều hòa cơ thể, giúp cơ thể mạnh mẽ hơn để tránh sự xâm nhập của các căn bệnh, thậm chí là phòng bệnh. Nếu có thể làm được việc “không uống thuốc mà chữa được bệnh” thì mới là cách tốt nhất trong dưỡng sinh.
Quan điểm dưỡng tính và dưỡng lão Tôn Tư Mạc không chỉ là bí quyết cho việc ông sống thọ mà còn chứa đựng nhiều những lý luận về dưỡng sinh trường thọ của Trung Hoa cổ đại. Dưỡng sinh không chỉ dành cho người già mà mỗi giai đoạn trong cuộc đời chúng ta đều có những lưu ý chăm sóc sức khỏe khác nhau. Quan tâm sớm đến sức khỏe mới là cách dưỡng sinh có hiệu quả nhất.
-----------
Biển Thước (401 – 310 TCN), tên thật là Tần Hoãn, tự Việt Nhân, người nước Triệu (thời Chiến Quốc). Ông là một trong những vị thầy thuốc đầu tiên được biết đến vào thời Chiến quốc (770 – 221 TCN).
Biển Thước: Bắt bệnh bằng… mắt
Theo các sử liệu, Biển Thước có khả năng nhìn thấu thân thể bệnh nhân. Ông cũng là người nghĩ ra phương pháp bắt mạch. Trong “Sử Ký”, nhà sử học lỗi lạc Tư Mã Thiên (145 – 86 TCN) viết: “Đến nay thiên hạ nói đến bắt mạch là do Biển Thước vậy”.
Biển Thước vận dụng thành thạo 4 kỹ thuật y khoa, được gọi là “tứ chẩn” để bắt bệnh, bao gồm: nhìn, nghe, hỏi và bắt mạch. Ngoài ra, ông cũng rất giỏi dùng các thuật loại trị liệu khác như: châm cứu, phẫu thuật, kê thuốc, xoa bóp…
Có rất nhiều giai thoại về khả năng chữa bệnh thần kỳ của Biển Thước vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay.
Theo “Hán thư ngoại truyện”, Biển Thước đã cứu thế tử nước Quắc từ cõi chết trở về. Thông qua bắt mạch, Biển Thước biết được thế tử đang ở trong trạng thái “chết giả”. Sau đó, ông đã dùng thuật châm cứu để cứu sống thế tử. Nhờ đó, Biển Thước được người đời ca tụng là có tài “cải tử hoàn sinh”.
Một giai thoại khác kể rằng Biển Thước có thể dùng mắt mà đoán được bệnh ở bên trong cơ thể người bệnh. Trong “Sử Ký”, Tư Mã Thiên chép: Biển Thước sang nước Tề, gặp vua Tề thấy khí sắc không tốt bèn tâu: “Quân hầu, trong da và chân lông ngài đã có gốc bệnh, nếu không kịp thời chữa trị, bệnh sẽ nặng thêm”.
Vua Tề không nghe, cho rằng đó là chuyện hoang đường. Vài ngày sau, Biển Thước lại vào yết kiến vua, lại nói rằng: “Bệnh của ngài đã vào đến nội tạng, phải chữa ngay đi!”. Một lần nữa vua Tề bỏ ngoài tai lời cảnh báo.
Năm hôm sau, khi chỉ mới vào yết kiến, nhìn mặt vua Tề, Biển Thước đã quay gót trở đi, chẳng nói chẳng rằng. Vua Tề thấy lạ, cho người chạy theo níu lại hỏi. Biển Thước thẳng thắn: “Bệnh ở da, thịt thì còn xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch thì còn tiêm thuốc được. Nay bệnh đã vào đến xương tủy rồi thì trời cũng không cứu được nữa, bởi vậy tôi mới bỏ đi”.
Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, vua Tề đổ bệnh, phái người đến gọi Biển Thước lại chữa. Nhưng Biển Thước đã sang đất Tần từ lâu, vốn chẳng còn ở lại. Bệnh của vua Tề ngày càng nặng, thuốc thang thế nào cũng không chữa dứt, được ít lâu thì qua đời.
Biển Thước(chữ Hán: 扁鵲), tên thật là Tần Việt Nhân(秦越人), có thuyết tên Tần Hoãn(秦緩), hiệu Lư Y(卢医), là mộtthầy thuốctrứ danh thờiChiến Quốcvà được xem là một trong những danh y đầu tiên được ghi chép sớm nhất trong các thư tịch củalịch sử Trung Quốc.
Tương truyền ông chính là người khai sinh ra phương pháp bắt mạch, là người đặt tiền đề quan trọng cho Đông y. Do tiếng tăm và các điển tích thần kỳ, về sau Biển Thước cùng Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân được hậu thế xưng tụng Trung Quốc cổ đại Tứ đại danh y. Tác phẩm của ông còn có Biển Thước nội kinh, Biển Thước ngoại kinh và Nạn kinh.
Cơ duyên với nghề thầy thuốc
Biển Thước vốn người quận Bột Hải, Mạc châu (莫州; nay là huyện Nhâm Khâu, tỉnh Hà Bắc), thuộc nước Trịnh, sinh vào khoảng 401 TCN (đầu thời Chu An vương). Thời còn trai trẻ, Tần Việt Nhân vốn là chủ một quán trọ, và sống bằng nghề này.
Lúc đó, có một lương y biệt danh là Trường Tang Quân thường trọ tại quán của Việt Nhân. Việt Nhân rất kính trọng vị lương ynày, nên đã phục vụ rất chu đáo và không lấy tiền. Để đáp lại, Trường Tang Quân nhận Việt Nhân làm học trò và truyền hết sở học cho ông. Khi tay nghề đã thành thạo, Việt Nhân chuyển hẳn sang nghề thầy thuốcnày, dần dần trở nên nổi tiếng, vì ông chữa bệnh quá tài tình nên được dân chúng nước Triệu tặng cho biệt hiệu Biển Thước tiên sinh. Tương truyền, Biển Thước là tên 1 vị thần y sống vào thời Hoàng Đế.
Hành nghề cứu người
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, thuật đồng bóng đang lan tràn, nghề y bị lạnh nhạt; nhiều người mắc bệnh không chịu uống thuốc mà cứ rước đồng bóng về để "đuổi quỷ, trừ tà". Thậm chí nhiều nước chư hầu còn đặt ra các chức quan "đại chức", "tư vu" để chuyên lo việc này.
Biển Thước rất ghét thói mê tín ấy, thường xuyên đấu tranh chống lại nó một cách kiên trì, và thông qua hoạt động chữa bệnh có hiệu quả của mình để vạch trần trò hề mê tín của đồng bóng. Căn cứ vào kinh nghiệm dân gian và kinh nghiệm nhiều năm làm nghề của mình, Biển Thước đúc kết thành "tứ chẩn" trong phép khám và điều trị là nhìn, nghe, hỏi và bắt mạch. Ngoài việc vận dụng thành thạo"tứ chẩn"để đoán bệnh, Biển Thước sử dụng nhiều biện pháp trị liệu như châm kim đá, châm cứu, xoa nóng, xoa bóp, mổ xẻ, cho uống thuốc v.v...
Theo Hán thư ngoại truyện, có lần Biển Thước dẫn năm người học trò đến nước Quắc (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây) để làm thuốc, nghe nói Thế tử nước Quắc bị bệnh qua đời đột ngột, ông cảm thấy đáng ngờ, bèn xin được vào xem. Quan sát một hồi, thấy cánh mũi người chết còn động đậy, hai chân còn ấm, Biển Thước chẩn đoán kỹ rồi kết luận:"Thế tử mắc chứng "thi quyết" (chết giả), có thể cứu sống được". Ông bèn châm kim các huyệt chủ yếu, tiếp theo sai học trò Tử Minh làm ngải cứu, Cốc Tử đổ thuốc, Tử Dung xoa bóp không ngừng tay. Hồi lâu, quả nhiên "người chết "dần dần tỉnh lại. Biển Thước lại dùng thuốc dán dưới hai nách, bệnh nhân ngồi dậy được ngay.
Vua nước Quắc hết sức vui mừng, không tiếc lời khen ngợi. Người xem Biển Thước như thần tiên, cho rằng ông có thuật "cải tử hoàn sinh ". Biển Thước khiêm tốn giải thích:"Không phải tôi cứu sống người chết, mà người bệnh vốn chưa chết, tôi chỉ cứu người bệnh khỏi cơn hấp hối mà thôi".
Chẩn bệnh Tề Hoàn công
Về tài dùng mắt đoán được bệnh, có một giai thoại về Biển Thước sau đây đã được sử gia Tư Mã Thiên ghi lại trong bộ Sử Ký và người đời sau nhắc lại một lần nữa trong bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc (ở hồi thứ 32). Chuyện như sau:
“
Một hôm Biển Thước sang nước Tề gặp Tề Hoàn công. Ông thấy khí sắc vua Tề không tốt, bèn tâu: "Quân hầu, trong da và chân lông ngài đã có gốc bệnh, nếu không kịp thời chữa trị, bệnh sẽ nặng thêm". Tề Hoàn công thờ ơ đáp:"Ta cảm thấy trong người rất khỏe, chẳng có bệnh tật gì cả".
Biển Thước lui ra, sau đó năm ngày lại vào yết kiến, nhìn sắc diện rồi khẳng định một lần nữa với vua Tề:"Bệnh của ngài đã vào đến nội tạng rồi, phải chữa ngay đi". Hoàn công tỏ vẻ khó chịu, không trả lời. Sau khi Biển Thước đi khỏi, ông mới bảo với mọi người:"Thầy thuốc chỉ khéo vẽ vời, hù dọa người ta. Ta chẳng có bệnh gì mà ông ta dám bảo là bệnh nặng. Thật vớ vẩn!". Năm ngày sau nữa, Biển Thước lại vào yết kiến, chỉ mới nhìn mặt vua Tề, đã quay bước, bỏ đi thẳng. Hoàn công sai người chạy theo hỏi, Biển Thước nói:"Bệnh ở da, thịt thì còn xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch thì còn tiêm thuốc được, nay bệnh đã vào đến xương tủy rồi thì trời cũng không cứu được nữa, bởi vậy tôi mới bỏ đi".
Mấy ngày sau quả nhiên Hoàn công phát bệnh. Ông vội cho người đi tìm Biển Thước, nhưng vị Thần y đã đi sang nước Tần rồi. Bệnh Hoàn công ngày càng trở nặng, chẳng bao lâu vị bá chủ chư hầu này tạ thế.
”
Về phương pháp bắt mạch của Biển Thước, cũng lưu truyền trong dân gian một giai thoại như sau:
“
Có lần Biển Thước đến nước Tấn, gặp lúc Triệu Giản Tử, người đang nắm quyền chính trị trong nước lâm bệnh, hôn mê đã năm ngày. Biển Thước bắt mạch, thấy tim mạch bệnh nhân đập yếu ớt, lại biết được tình hình chính trị nước Tấn lúc ấy vô cùng rối ren, đoán định là họ Triệu lao tâm quá mức, mắc chứng bệnh mạch máu (máu tuần hoàn không bình thường) dẫn đến hôn mê. Ông cho uống thuốc.
Hai ngày sau Triệu Giản Tử tỉnh lại và bệnh dần thuyên giảm.
”
Khoai mài và nước lã
Lại có một giai thoại khác nữa về vị thần y:
Một hôm có một phụ nữ khá đẹp đến gặp Biển Thước, xin một toa thuốc độc, có thể giết người mà không để lại dấu vết. Đối tượng mà người phụ nữ định đầu độc chính là chồng của chị ta, vì chị này vốn đã có tình ý với một người đàn ông khác. Biển Thước sợ nếu mình từ chối, sẽ có người khác giúp chị đàn bà hoàn thành tâm nguyện, nên giả vờ nhận lời. Ông dặn: về mua khoai mài (hoài sơn) gọt vỏ nấu với lươn cho chồng ăn, mỗi ngày một lần, ít lâu sẽ chết. Người đàn bà hớn hở về làm đúng như lời hướng dẫn.
Khoảng tháng sau, chị này mang lễ vật đến tạ ơn Biển Thước, báo tin chồng đã chết. Ông rất đỗi ngạc nhiên, chẳng hiểu sao khoai mài nấu cháo lươn là một món rất bổ dưỡng mà ăn vào lại chết. Biển Thước cảm thấy lương tâm cắn rứt, lại hoài nghi về kiến thức y học của chính mình, nên thề giải nghệ, không chữa cho bất kỳ ai. Ông còn lấy chìa khóa tủ sách thuốc nhà mình vứt xuống sông cạnh nhà.
Sau đó ít lâu, một hôm vừa thức dậy, Biển Thước thấy một chàng trai trẻ làm nghề đánh cá đến van xin ông làm phước cứu vợ anh ta đang bị sanh khó. Biển Thước nhớ lại lời thề dạo trước nên không thèm trả lời chàng trai, chỉ lớn tiếng bảo người nhà:"Lấy nước rửa mặt" (cho ông)!. Chàng ngư phủ lại ngỡ đó là lời vị danh y mách bảo cho mình, bèn ba chân bốn cẳng chạy về nhà làm đúng như thế. Quả nhiên vừa rửa mặt xong thì vợ anh ta đẻ được ngay.
Vài hôm sau, chàng trai đánh bắt được một con cá lớn, nhớ ơn thầy thuốc cứu vợ con mình, bèn kính cẩn đem con cá đến biếu. Một lần nữa, Biển Thước rất ngạc nhiên, mới hỏi:"Tôi có ơn huệ gì với anh đâu, mà anh đem cá tạ ơn?". Chàng trai đáp:"Nhờ ơn thầy dạy, tôi lấy nước rửa mặt cho vợ tôi thì vợ tôi sinh được ngay một thằng con trai rất cứng cáp, dễ thương, nên có chút quà này, mong thầy nhận cho". Biển Thước không sao lý giải được hai trường hợp hy hữu trên, cho là tại thời vận hên xui, nên cảm hứng thốt lên hai câu thơ:
Vận khứ, hoài sơn năng trí tử
Thời lai, thanh thủy khả thôi sinh
(nghĩa là: Hết thời, khoai mài có thể làm chết người; còn thời, nước lã có thể cứu sống người).
Sau khi chàng đánh cá về, người nhà đem cá ra mổ làm món nhắm cho nhà danh y uống rượu. Lại một sự không ngờ thứ ba xảy đến: khi mổ bụng cá, thấy chùm chìa khóa, lại chính là chìa khóa tủ sách thuốc mà Biển Thước đã ném xuống sông lúc trước. Ông tự nghiệm rằng: Thiên mệnh đã đặt cho mình nghề làm thuốc để cứu người, không thể chối bỏ. Từ đó ông ra sức nghiên cứu sâu thêm về y thuật, cứu được rất nhiều bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên ông vẫn chưa hiểu do đâu có tác dụng ngược lại của củ mài và nước lạnh.
Một hôm có người đem lươn lại bán. Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu. Biển Thước bảo người bán lươn đổ cả giỏ lươn xuống đất, thấy trong đám lươn chỉ có một con ngóc đầu lên cao, còn lại đầu rạp sát đất. Biển Thước mua con lươn ngóc đầu ấy đem làm thịt nấu cho chó ăn thì chó chết. Bấy giờ Biển Thước mới hiểu cái chết oan uổng của chàng trai có vợ lăng loàn là do ăn phải thứ lươn ngóc đầu lên chứ không phải tại khoai mài. Còn nước lã giúp vợ chàng đánh cá đẻ mau, vì chị ấy quá mệt, không còn sức rặn. Khi đem nước lạnh rửa mặt, sản phụ cảm thấy sảng khoái, sức mạnh tăng thêm nên sinh được dễ dàng chứ không có gì bí hiểm cả.
Bắt mạch, chẩn đoán chính xác bệnh tình là một cống hiến lớn của Biển Thước đối với y học Trung Quốc nói riêng, ngành Đông ynói chung. Trong "Sử ký",Tư Mã Thiê ntán tụng:"Đến nay thiên hạ nói đến mạch là do Biển Thước vậy". Thật ra nói thế có phần nào hơi phóng đại, nhưng đúng là Biển Thước rất tinh thông phép bắt mạch, chẩn đoán bệnh chính xác và trị bệnh giỏi như thần. Chính vì vậy nên dân gian có rất nhiều giai thoại truyền tụng về Biển Thước mà ở trên là một vài ví dụ.
Tuy nhiên, đã là giai thoại thì tính chính xác hạn chế. Ví dụ như giai thoại "khoai mài, nước lã"; có người cho là của một danh y Việt Nam chứ không phải của Biển Thước.
Đến cuối đời, danh tiếng Biển Thước ngày càng lớn, càng khiến cho nhiều người ganh ghét, trong đó có một viên quan Thái y nước Tần tên Lý Ê (李醯). Hắn vốn là kẻ bất tài, thấy y thuật Biển Thước hơn người, sợ một ngày nào đó có thể thay vị trí của hắn nên đang tâm âm mưu giết Thước.
Năm Chu Noãn vương thứ 5 (310 TCN), Biển Thước diện kiếnTần Vũ vương. Sau khi nghe vua Tần kể bệnh Biển Thước xin được điều trị. Một số người can ngăn vua Tần:"Đại vương đau ở phía trước tai, phía dưới mắt. Trị chưa chắc đã hết, không khéo tai lại hóa điếc, mắt hóa mờ mất". Tần Vũ vương vốn nhát, nghe vậy bèn thôi, không cho Biển Thước trị bệnh. Biển Thước giận dữ, liệng cục đá đồ nghề xuống đất, mắng vua Tần:"Đại vương vấn kế bậc trí giả mà lại nghe lời kẻ ngu để hỏng việc. Điều đó cho tôi thấy chính trị của nước Tần như thế nào, nước Tần có thể mất vì đại vương đấy".
Sau khi chẩn bệnh cho Tần Vũ vương xong, Biển Thước rời đi. Khi đến mặt bắc của Ly Sơn, Lý Ê đã sai người lén phục kích bên hông đường nhỏ chờ Biển Thước đến và giết chết ông. Tương truyền khi ấy ông đã khoảng 90 tuổi. Nhân dân ở nhiều địa phương rất thương tiếc, đã cho dựng mộ, bia và thờ Biển Thước ở Thiểm Tây, Sơn Đông, Hà Bắc,...
Theo sách sử ghi chép, Biển Thước khi còn sống đã có sách Biển Thước nội kin h(扁䳍内经),Biển Thước ngoại kinh(扁䳍外经), đáng tiếc đều đã mất. Hiện còn quyển Nạn kinh(難經), có giá trị tham khảo khá cao về kinh mạch, tuy có người cho rằng sách này do người đời sau làm, lấy tên Biển Thước.
Sử giaTư Mã Thiên đánh giá Biển Thước rất cao:"Biển Thước hành nghề y làm kẻ đứng đắn tôn trọng, giữ mực thước tinh tế trong sáng, đời sau học theo không phải dễ". Thiết tưởng sự đánh giá của Tư Mã Thiên về thần y Biển Thước như trên không có gì là quá đáng.
Các thầy thuốc thời xưa đều có một số khả năng rất đặc biệt và hơn phân nửa đều là “sư phụ tìm đồ đệ chứ không phải là đồ đệ tìm sư phụ”, có nghĩa là một người muốn theo học y thì người thầy phải cảm thấy người này có năng lực thì mới nhận.
Trong “Sử ký” có ghi chép về Biển Thước,vị danh y nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại, ông còn được người đời mệnh danh là “thần y”. Đi đến đâu có bệnh nghiêm trọng, ông đều có thể trị khỏi hết bệnh ở nơi đó, không bệnh gì là không chữa được. Tuy nhiên,Biển Thước từng nói có 6 kiểu bệnh nhân không thể chữa trị được.
1. Kiêu ngạo
Xấc xược không cần biết lý do chính là kiêu ngạo, căn bản loại người này sẽ không nói lý lẽ, kiểu bệnh nhân không nói lý lẽ này không thể chữa trị được.
2. Xem trọng tiền tài mà xem nhẹ bản thân
Đối với thân thể của chính mình cũng không quan tâm mà lại cực kỳ chú trọng đến tài sản, đồ của mình không lấy ra dùng, cũng không chịu tiêu tiền– kiểu người hà tiện này nếu có bệnh thì rất khó chữa.
3. Không nghe lời khuyên
Kiểu “bệnh” này hiện nay chúng ta rất thường gặp, chính là kiểu mà bảo họ mặc thêm quần áo họ không mặc thêm; bảo đừng ăn đồ nhiều dầu mỡ quá thì cứ ăn dầu mỡ; bảo ăn ít thịt động vật thì lại ăn nhiều thịt mỡ; bảo đừng ăn đồ lạnh thì cũng chẳng chịu nghe. Không chịu ăn những thứ nên ăn hoặc không chịu hạn chế ăn những thứ không nên ăn theo lời dặn dò của thầy thuốc. Kiểu người này cũng không trị được.
4. Âm dương hỗn loạn
Khí tạng không ổn định chính là âm dương của họ đã bị rối loạn, có dương mà lại có âm, nhưng âm dương lại loạn lung tung. Những người này khí huyết lục phủ ngũ tạng không ổn định nên cũng không chữa được bệnh của họ.
5. Thể chất hư nhược
Là những người thể chất rất yếu ớt, không uống được thuốc nên cũng không chữa được.
6.Tin vào thầymo
Ngày nay có rất nhiều người như vậy, chính là thà tin vào những thầy mo chứ không tin vào y học, tin vào lời nói của những bà đồng trong miếu, cho rằng vẽ bùa là có thể chữa được bệnh. Kiểu người thà tin vào tà thuật chứ không muốn tin vào lý lẽ y học của thầy thuốc chân chính thì cũng không thể chữa được.
Biển Thước là danh y nổi tiếng thời cổ đại. Khi còn nhỏ, ông theo học lương y Trường Tang Quân và đã được truyền nhiều y thuật bí truyền, ông am hiểu rất nhiều loại bệnh.Vào thời nhà Triệu làm phụ khoa, thời nhà Chu làm khoa ngũ quan, đời nhà Tần làm nhi khoa, ông đều nổi danh thiên hạ.
Biển Thước đã đặt ra phương pháp chẩn đoán bệnh bằng cách bắt mạch, khởi đầu cho cách chẩn đoán này của y học Trung Hoa. Tương truyền, quyển sách y cổ nổi tiếng “Nạn kinh” (hay “Nan kinh” là ghi chép của Biển Thước.
'Thần y' Biển Thước, cha đẻ phương pháp bắt mạch Đông y
Phương pháp bắt mạch của Biển Thước được xem là đã đặt nền móng quan trọng cho ngành Đông y.
Theo sử sách,danh y tên Chương Tang Quân thời đó vì quý mến nhân cách của Biển Thước đã ngỏ lời muốn truyền lại những kiến thức và bí kíp y học cho ông. Từ đó,Biển Thước đi khắp nơi hành nghề chữa bệnh giúp dân, dần dần danh tiếng ngày càng được nhiều người biết đến.
Dân gian lưu lại nhiều giai thoại về tài năng y học của Biển Thước.
Theo Hán thư ngoại truyện, có lần Biển Thước dẫn 5 học trò đến nước Quắc (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây) để làm thuốc. Nghe nói Thế tử nước Quắc bị bệnh qua đời đột ngột, ông cảm thấy đáng ngờ bèn xin được vào xem.
Quan sát một hồi, thấy cánh mũi người chết còn động đậy, hai chân còn ấm, Biển Thước chẩn đoán kỹ rồi kết luận: "Thế tử mắc chứng "thi quyết" (chết giả), có thể cứu sống được". Ông châm kim ở các huyệt trọng yếu, sai học trò Tử Minh làm ngải cứu, Cốc Tử đổ thuốc, Tử Dung xoa bóp không ngừng tay. Hồi lâu, quả nhiên "người chết "dần dần tỉnh lại. Biển Thước lại dùng thuốc dán dưới hai nách, bệnh nhân ngồi dậy được ngay.
Sử gia Tư Mã Thiên ghi lại trong bộ Sử Ký rằng một hôm Biển Thước sang nước Tề gặp Tề Hoàn Công. Thấy khí sắc vua Tề không tốt, ông liền tâu: "Trong da và chân lông của ngài có gốc bệnh, nếu không kịp thời chữa trị, bệnh sẽ nặng thêm". Đáp lại, Tề Hoàn Công thờ ơ: "Ta cảm thấy rất khỏe, chẳng có bệnh tật gì cả". Biển Thước bèn lui ra.
Năm ngày sau, Biển Thước yết kiến Tề Hoàn Công và khẳng định một lần nữa với vua Tề: "Bệnh của ngài đã vào đến nội tạng rồi, phải chữa ngay đi". Hoàn Công tỏ vẻ khó chịu, không trả lời. Đợi Biển Thước đi khỏi, ông bảo với mọi người: "Thầy thuốc chỉ khéo vẽ vời, hù dọa. Ta chẳng có bệnh gì mà ông ta dám bảo là bệnh nặng. Thật vớ vẩn".
Năm ngày sau nữa, Biển Thước lại vào yết kiến. Chỉ mới nhìn mặt vua Tề, ông đã quay bước bỏ đi. Tề Hoàn Công sai người chạy theo hỏi, Biển Thước nói: "Bệnh ở da thịt thì còn xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch thì còn truyền thuốc được. Nay bệnh đã vào đến xương tủy rồi thì trời cũng không cứu được nữa, bởi vậy tôi mới bỏ đi". Quả thật sau đó Tề Hoàn Công lâm bệnh nặng, các đại phu thuở ấy không chữa được.
Căn cứ vào kinh nghiệm hành nghề của mình, khi chữa bệnh cho bệnh nhân, Biển Thước sử dụng phương pháp "tứ chẩn", tức gồm 4 bước chẩn đoán bệnh. Đầu tiên, ông quan sát bệnh nhân và chú ý tới vẻ bề ngoài như màu da, màu lưỡi. Bước thứ hai, ông nghe giọng nói, nhịp thở. Bước thứ ba, ông hỏi bệnh nhân về các triệu chứng mà họ gặp phải. Cuối cùng, ông bắt mạch.
Tương truyền, Biển Thước chính là người đã khai sinh ra phương pháp bắt mạch, đặt tiền đề quan trọng cho Đông y. Về phương pháp bắt mạch của Biển Thước, dân gian lưu truyền một giai thoại.
Có lần, Biển Thước đến nước Tấn, biết được Triệu Giản Tử - người đang nắm quyền chính trị trong nước lâm bệnh, hôn mê đã 5 ngày. Biển Thước bắt mạch, thấy mạch bệnh nhân yếu ớt, lại nghe rằng chính trị nước Tấn lúc ấy rối ren nên đoán Triệu Giản Tử lao tâm quá mức khiến máu không tuần hoàn tốt dẫn tới hôn mê. Biển Thước kê thuốc cho Triệu Giản Tử uống. Chỉ hai ngày sau, bệnh nhân tỉnh lại, bệnh dần thuyên giảm. Trong Sử Ký, Tư Mã Thiên tán tụng: "Thiên hạ nói đến mạch là nói đến Biển Thước".
Ngoài "tứ chẩn", Biển Thước còn am hiểu và sử dụng nhiều các phương pháp trị liệu như châm cứu, châm kim đá, xoa bóp. Đặc biệt, ông đề cao phòng bệnh hơn chữa bệnh. Phòng bệnh có giá trị gấp đôi chữa bệnh. Điều này có thể thấy rõ trong giai thoại về Tề Hoàn Công.
Biển Thước để lại cho người đời nhiều bí kíp, tác phẩm y học đồ sộ như "Nạn Kinh", "Biển Thước ngoại kinh". Về sau, Biển Thước cùng Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân được hậu thế xưng tụng Trung Quốc cổ đại Tứ đại danh y.
Tại nhiều nơi hiện nay vẫn còn bảo lưu phong tục chôn người chết sau 7 ngày. Vì sao lại có phong tục này? Có lẽ ít ai biết, phong tục này có liên quan đến một vị thần y nổi tiếng thời cổ đại.
Có một cách giải thích liên quan đến tín ngưỡng. Cổ nhân cho rằng, sau khi người ta chết trải qua bảy bảy bốn chín ngày thì có thể đầu thai chuyển thế, 49 ngày này được phân làm 7 lần 7 ngày, 7 ngày đầu không chôn xác người chết này được gọi là “đầu thất”, và ngày cuối cùng của đầu thất này được gọi là “hồi dạ hồn”.
Trong những ngày này người chết sẽ trở lại dương gian một lần cuối cùng, và người nhà ngoài việc ăn uống tụ họp, còn nên biểu hiện hết sức hoà hợp êm thấm, không được cãi cọ. Có như vậy, người chết sẽ cảm thấy người nhà vừa ăn uống no đủ vừa vui vẻ đằm thắm, nên có thể yên lòng ra đi.
Nhưng có lẽ ít ai biết, phong tục này còn liên quan đến một vị danh y cổ đại. Người này gọi là Biển Thước, họ Tần, tên Hoãn, là danh y thời Chiến Quốc. Vì ông có y thuật cao siêu, nên tất cả mọi người đều gọi ông là thần y Biển thước.
“Sử ký: Biển Thước thương công liệt truyện” ghi lại rằng: Biển Thước ban đầu không phải là thầy thuốc, mà là ông chủ một quán trọ. Có lần tuyết rơi đầy trời, Biển Thước nhìn ra cửa thấy một ông lão bị lạnh cóng không thể đi được nằm ở đó, ông ngay lập tức gọi người khiêng ông lão vào quán trọ, nhóm lửa, nấu canh gừng, cứu sống ông lão. Lão nhân này chính là Trường Tang Quân, là một vị thần y.
Biển Thước thấy ông lão này cơ khổ không nơi nương tựa, nên đã giữ ông ở lại quán trọ của mình, cứ như vậy ông lão ở đấy mười mấy năm. Sau này khi sắp chết, ông lão gọi Biển Thước đến trước giường mình nói: “Ngươi là người lương thiện, cũng rất thông minh, ta có bí phương có thể cứu chữa người, hiện muốn truyền cho ngươi, nhưng ngươi không được tiết lộ ra ngoài”. Từ đó Biển Thước đã dùng những bí phương trị bệnh cứu người, và trở thành thần y.
Đây chỉ là một câu chuyện, nhưng nó lại ẩn chứa một giá trị quan vô cùng chuẩn xác của cổ nhân. Cái gọi là “đạo không dễ truyền”, “nhân giả nhân tâm”, liên quan đến việc thuốc chữa bệnh cứu người, nếu để cho người có tâm bất chính học được, thì cũng tương đương với gây ra đại họa. Vì vậy, việc Trường Tang Quân bị chết cóng trước cửa quán trọ của Biển Thước, thực ra ông đã cố ý làm thế để tìm truyền nhân.
Biển Thước sau khi tinh thông y thuật, đã đi khắp các nước hành nghề y. Vào thời điểm ông đến nước Quắc, thấy người nước Quắc ai cũng cầu khấn, nên ông hỏi một người rất yêu thích y thuật là Trung Thứ Tử xem đang xảy ra chuyện gì?
Trung Thứ Tử kể lại tỉ mỉ chuyện Thái tử đột nhiện chết bất đắc kỳ tử cho Biển Thước nghe. Biển Thước nói Trung Thứ Tử: “Ngươi hãy đi bẩm báo nhà vua, nói rằng Biển Thước muốn cầu kiến, ta có thể khiến Thái tử hồi sinh”. Trung Thứ Tử cảm thấy Biển Thước quả thực nói lời vô căn cứ, ít nhất cũng phải biết người đã chết thì không thể sống lại được chứ?
Biển Thước thấy Trung Thứ Tử hoài nghi, liền thở dài một hơi nói: “Nếu người không tin, ngươi có thể thử đến khám bệnh cho Thái tử trước, chắc chắn sẽ thấy cái mũi của anh ta sưng lên, từ đùi đến bộ phận sinh dục vẫn còn ấm”. Trung Thứ Tử nghe xong cảm thấy đây là việc hệ trọng, nên lập tức vào cung thử xem có đúng như lời Biển Thước nói không, và kết quả đúng như vậy. Vì thế Trung Thứ Tử bẩm báo với vua, vua nghe xong vui mừng khôn xiết, vội vàng triệu Biển Thước vào cung.
Sau khi kiểm tra, xem bệnh cho Thái tử, Biển Thước nói: “Bệnh này gọi là thi quyết. Con người tiếp nhận Âm Dương của thiên địa, dương chủ ở bên ngoài, âm chủ ở bên trong, Âm Dương tương hợp, thân thể sẽ khỏe mạnh. Thái tử hiện tại Âm Dương mất cân đối, mạch máu tắc nghẽn, mới dẫn đến khí mạch rối loạn, mất đi tri giác, Thái tử trông bên ngoài thì như chết, nhưng chỉ là chết giả mà thôi”.
Sau đó Biển Thước châm cứu vào “tam dương ngũ hội” và các huyệt vị khác trên cơ thể Thái tử, qua nửa canh giờ Thái tử quả nhiên tỉnh lại. Rồi Biển Thước tiếp tục sắc thuốc đổ vào miệng Thái tử, chính nhờ vậy mà Thái tử có thể ngồi dậy được. Sau đó tiếp tục điều trị bằng thuốc Đông y, sau hơn 20 ngày Thái tử đã hồi phục hoàn toàn.
Từ đó về sau, người trong thiên hạ đồn nhau rằng Biển Thước có thể cải tử hoàn sinh, có ca bệnh nặng nào không cứu chữa được thì mọi người lại nói “phải chi có Biển Thước ở đây”. Biển Thước nghe xong cười lắc đầu nói: “Ta làm sao có thể cứu người chết sống lại được? Chính là do bản thân người bệnh chưa chết, ta bất quá cũng chỉ là giúp hồi phục lại thôi”.
Cũng chính vì chuyện này, mà từ đó trở đi mới có phong tục chôn người chết sau 7 ngày. Tại sao lại phải đợi đến 7 ngày? Chính là sợ người ta không thật sự chết, mà là chết giả. Nếu là chết giả thì họ còn có cơ hội sống lại, chỉ là không tự mình sống lại được thôi, nhưng nếu có thể gặp được thần y như Biển Thước, thì có thể kỳ tích sẽ xảy ra.
Và cho dù không gặp được thần y như Biển Thước thì ít nhất cũng phải đợi đến 7 ngày, để trách việc phải chôn người sống. Dần già trong dân gian đã hình thành phong tục chôn người chết sau 7 ngày.
Trong xã hội hiện tại, hầu hết mọi người ít quan tâm đến Trung y. Tất cả mọi người cảm thấy hiệu quả của Trung y rất chậm, nếu so sánh với Tây y thì còn thua kém xa, cho nên rất nhiều người đều cho rằng, Trung y chỉ là dưỡng sinh, Tây y mới là chữa bệnh.
Kỳ thực không phải vậy. Trung y cổ đại vốn có nội hàm vô cùng thâm sâu, xuất hiện rất nhiều y học gia vĩ đại như Hoa Đà, Biển Thước, Tôn Tư Mạc, Lý Thời Trân… Những đại phu Trung y này đều có tuyệt kỹ đặc biệt để chữa bệnh. Ví như Hoa Đà đã sử dụng thiên nhãn của mình nhìn thấy trong đầu Tào Tháo có khối u. Lý Thời Trân có thể quan sát được sự phân bố kinh mạch của thân thể người, rồi viết ra cuốn sách: “Tần hồ mạch học” và “Kỳ kinh bát mạch khảo“.
Trung y chính là y học thần truyền, tồn tại vô hình. Cuốn sách nổi tiếng “Hoàng đế nội kinh” là xuất phát từ tiên nhân, là bảo bối tu luyên của Trung y. Trung y và Đạo gia có nguồn gốc rất sâu xa, các thầy thuốc Trung y cổ đại phân lớn cũng là những người tu đạo. Đạo sĩ tu luyện chú ý đả thông hai mạch nhâm đốc, kỳ kinh bát mạch, điều này và lý luận kinh mạch của Trung y là đồng nhất với nhau. “Khiếu” trong Đạo gia và “huyệt vị” của Trung y thực ra là một thứ, chỉ cách gọi khác nhau mà thôi.
Phật gia, hay Đạo gia, đều xuất hiện không ít cao thủ trị bệnh, họ thậm chí có thể dùng công năng đặc dị để trị bệnh, chỉ trong nháy mắt là bệnh khỏi ngay. Loại tình huống này không chỉ phát sinh ở Trung Quốc, mà trong Cơ đốc giáo xuất phát từ Tây Phương cũng có chuyện tương tự.
Ví như tại một quốc gia Đông Nam Á, có một tín đồ Cơ đốc giáo đã dùng công năng đặc dị chữa bệnh cho người khác. Người này dùng bàn tay vô hình (người này nhấn mạnh, chỉ có con mắt thứ ba mới có thể nhìn thấy) đưa vào trong thân thể của người bệnh, sau đó lấy ổ bệnh ra ngoài, mà ở bên ngoài da của người bệnh không có bất kỳ thương tích nào.
Y học Tây Phương là dựa trên cơ sở giải phẫu thân thể học, là thuộc về phạm trù khoa học thực nghiệm. Còn Trung y không phải là kỹ năng, kỹ nghệ bình thường, mà là điều siêu thường. Y thuật cao hay thấp của Trung y đều được quyết định bởi tiêu chuẩn đạo đức của thầy thuốc, có quan hệ chặt chẽ với việc tu dưỡng đạo đức . Vì vậy Tây y và Trung y đi theo hai con đường riêng biệt.
Thời đại hiện nay không thấy xuất hiện những bậc Thần y Trung y là vì những lý do sau:
Những điều của văn hóa truyền thống gần như đã bị phá hủy, hầu như không còn những gì là thiên nhân hợp nhất, thiện ác hữu báo, nhân nghĩa lễ trí tín, chính niệm đã đều tan thành mây khói.
Trung y hiện hành đang được truyền dạy là trái ngược với hình thức truyền thừa của Trung y truyền thống “sư phụ dạy đồ đệ”, “khẩu truyền tâm thụ”, “tu luyện đức hạnh”.
Nhân tâm trở nên nóng nảy, rất nhiều người hành nghề Trung Y chỉ quan tâm theo đuổi danh lợi, truy cầu tiền tài, trên cơ bản đức hạnh và tỉnh ngộ không đạt chuẩn của thầy thuốc Trung y truyền thống
Một lý do nữa là vì ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, bản thân thảo dược đã chứa một lượng độc tính nhất định. Ngoài ra, xuất phát từ suy tính lợi ích kinh tế, các nhà máy sản xuất thuốc Trung y đã áp dụng những phương pháp bào chế thuốc không đúng chuẩn cách.
Những yếu tố này đều làm giảm sút nghiêm trọng dược lực của thuốc Trung y, vì thế mà mọi người dần dần đã mất đi sự tin tưởng đối với Trung y. Trung y đã bị suy bại, không phải Trung y đã thay đổi, mà là con người thay đổi.
Phá vỡ điều cấm kỵ truyền nghề
Khi còn trẻ, Biển Thước phải đi làm thuê cho một nhà trọ, có một vị thầy thuốc rất giỏi tên là Trường Tang Quân thường đến trọ. Biển Thước là một người rất chăm chỉ, hễ rỗi rãi là ông giúp Trường Tang Quân một số công việc như chăm sóc bệnh nhân và cũng chính vì thế mà ông rất hứng thú say mê đối với ngành y.
Từ đấy về sau ông luôn có ý thức học hỏi cách khám bệnh bốc thuốc, gặp phải chỗ nào chưa rõ, ông liền nhờ Trường Tang Quân giảng giải và tự mình mày mò tìm kiếm những sách y học để đọc thêm.
Thời bây giờ, những người làm nghề y đều phải tuân thủ theo một quy ước: Y thuật chỉ có thể truyền lại giữa cha và con, nhất thiết không được truyền cho người ngoài, nhưng Trường Tang Quân lại rất thích chàng trai chăm chỉ, thông minh hiếu học này, nên mỗi lần Biển Thước hỏi gì ông đều giải đáp cặn kẽ tỉ mỉ.
Cứ thế, thời gian 10 năm thấm thoát trôi qua, Biển Thước cũng đã biết khám và chữa một số bệnh đơn giản. Trường Tang Quân cảm thấy Biển Thước thông minh hơn những người khác, lại có bản lĩnh học nghề y nên quyết định truyền lại hết những gì mà cả đời đã tích lũy được cho Biển Thước.
Từ đó về sau, Biển Thước cần mẫn nghiên cứu những phương thuốc bí truyền, y thuật tiến bộ không ngừng, tiếng tăm cứ thế lan đi, uy tín ngày một lớn…
“Cải tử hoàn sinh” cứu thái tử
Có lần, Biển Thước đến nước Triệu để hành nghề y, gặp Thái tử nước này bị bệnh nặng lâm nguy. Khi tới nơi, thấy người ta khiêng đến một chiếc quan tài, xem ra Thái tử đã qua đời.
Biển Thước hỏi một vị quan viên Thái tử bị bệnh gì mà tạ thế, vị quan đáp: “Thái tử khí huyết thác loạn, bỗng nhiên sinh ra bạo bệnh, chính khí không áp đảo được tà khí, lịm đi mà chết”.
Biển Thước không hài lòng với sự giải thích đó, ông dựa vào những phán đoán của mình cho rằng Thái tử chưa hoàn toàn chết hẳn, vẫn còn hy vọng cứu sống, bèn hỏi: “Thái tử mất được bao lâu rồi?”. Vị quan viên đáp: “Chưa đến nửa ngày”.
Biển Thước nghe vậy cảm thấy càng có hy vọng, nói ngay: “Xin ngài bẩm báo với Đại vương, tôi có thể cứu sống Thái tử”. E rằng ông ta không tin làm chậm mất thời gian cấp cứu, Biển Thước nói: “Ngài có thể lập tức đi vào nhìn Thái tử xem, ngài sẽ thấy tai của Thái tử vẫn còn nghe được, cánh mũi vẫn còn khẽ động đậy; tiện đó ngài sờ vào chân Thái tử, từ đùi trở lên vẫn chưa bị lạnh giá...”.
Viên quan nọ vội chạy vào cung bẩm báo. Biển Thước đến trước giường bệnh, quan sát tỉ mỉ khí sắc Thái tử, bắt mạch, rồi lấy đồ nghề châm cứu vào 8 huyệt vị trên người Thái tử. Một lát sau Thái tử tỉnh lại, mọi người vô cùng kinh ngạc và vui sướng.
Tiếp đó, Biển Thước điều chế 2 loại thuốc cao, dặn dò xoa bóp cẩn thận làm nóng phần dưới hai bên nách Thái tử. Với cách chữa trị như vậy, Thái tử đã có thể ngồi dậy được. 20 ngày sau, Thái tử hoàn toàn bình phục.
Tin tức truyền ra ngoài cung, mọi người kháo nhau rằng Biển Thước có tài “cải tử hoàn sinh”. Biển Thước nghe nói vậy cười và nói: “Ta làm gì có bản lĩnh cải tử hoàn sinh! Thái tử chỉ bị hôn mê chứ đâu đã chết, ta chỉ giúp Thái tử phục hồi lại sức khỏe mà thôi”.
Chỉ nhìn bằng mắt khám bệnh
Thầy thuốc Đông y khi khám bệnh luôn quan sát rất kỹ sắc mặt của bệnh nhân và bảo bệnh nhân thè lưỡi ra xem đầu lưỡi; sau đó sờ ấn vào mạch, hỏi han những cảm giác của bệnh nhân. Đó là phương pháp khám bệnh truyền thống, gọi là “nhìn, nghe, hỏi, sờ (bắt mạch)”. Phương pháp do Biển Thước lưu truyền lại, đến nay đã có hơn 2.000 năm lịch sử.
Một hôm, Biển Thước đến kinh đô nước Tề, Quốc quân Tề Hoàn Hầu nghe nói y thuật của Biển Thước rất tài giỏi bèn mời vào cung. Theo thói quen nghề nghiệp, ông nhìn sắc mặt của Tề Hoàn Hầu, nhưng vừa thấy ông đã phát giác ra Tề Hoàn Hầu đang mang bệnh trong người: “Bẩm Đại vương, ngài có bệnh, bệnh tà đang ở giữa da và cơ. Nếu không chữa chạy kịp thời, bệnh tình sẽ ngày một nặng thêm”.
Tề Hoàn Hầu nghe nói, nghĩ trong lòng bản thân chẳng thấy bệnh, chẳng thấy đau ốm, ăn ngon ngủ tốt, làm sao lại có bệnh được, lắc đầu: “Tiên sinh quá lo, ta rất khỏe, chẳng có bệnh gì cả?”. Sau khi Biển Thước từ biệt ra về, Tề Hoàn Hầu nói với các người thân cận của mình: “Làm thầy thuốc ai cũng thích khoe tài giỏi của mình, cả đến thầy thuốc nổi tiếng như Biển Thước cũng nói bậy, lấy bệnh để hù dọa người”.
5 ngày sau, Tề Hoàn Hầu cho mời Biển Thước lần thứ hai, Biển Thước xem sắc mặt của Tề Hoàn Hầu: “Bẩm Đại vương, bệnh của ngài đã đi vào huyết mạch rồi, nếu không điều trị, sẽ tiếp tục nặng thêm, kính mong Đại vương sớm chữa trị”. Tề Hoàn Hầu bực bội: “Tiên sinh, ta không có bệnh, chữa trị cái gì”.
Lại sau 5 ngày nữa, Tề Hoàn Hầu lần thứ ba cho mời Biển Thước đến. Biển Thước thấy bệnh của Đại vương đã khá nặng rồi, vô cùng khẩn thiết nói: “Bẩm Đại vương, bệnh của ngài đã xâm nhập vào tận ruột gan rồi, bây giờ chữa trị ngay vẫn còn kịp không thì khó trị khỏi”.
Tề Hoàn Hầu thấy Biển Thước lần nào cũng nói mình có bệnh, cảm thấy vô cùng phiền toái, dứt khoát không để ý gì đến Biển Thước nữa.
Lại 5 ngày nữa trôi qua, Biển Thước vì rất lo cho sức khỏe của Đại vương bèn chủ động xin vào gặp. Nhưng, mới vừa nhìn thấy Đại vương, ông không nói được lời nào cáo từ thoái lui khỏi vương cung.
Tề Hoàn Hầu cảm thấy rất lạ, sai người đến hỏi, Biển Thước thở dài và nói: “Bệnh tà của Đại vương lúc mới bắt đầu chỉ thấy ở ngoài da và thịt, sau đó lại đi vào đến ruột gan, lúc đó chữa trị còn có thể cứu vãn được, nhưng nay tôi nhìn sắc mặt của Đại vương, bệnh tà đã đi vào tận xương tủy, tôi không còn cách nào khác, đành không dám nói lời từ biệt mà lặng lẽ ra về”.
Cận thần đem những lời nói đó của Biển Thước về tâu với vua, Tề Hoàn Hầu vẫn không tin. Năm ngày sau, quả nhiên Đại vương đổ bệnh nặng, cuống cuồng sai người đi mời, nhưng Biển Thước đã rời khỏi nước Tề về quê. Tề Hoàn Hầu vì không nghe thầy thuốc, để bệnh tình quá nặng mà chết.
6 loại bệnh không chữa
Biển Thước chu du các nước, ngoài khám chữa bệnh cho các vương công quí tộc ra, chủ yếu là chữa bệnh cho bà con nông dân.
Nhưng Biển Thước không phải chữa bệnh cho bất cứ người nào, có 6 loại người mà ông không chữa: Một là những người ngạo nghễ ngang tàng, không có đạo đức; Hai là những người hám tiền bạc không chú ý đến bản thân mình bất chấp tất cả; Ba là những người nhậu nhẹt ăn uống bê tha, sinh hoạt đồi bại; Bốn là những người bệnh nặng mà không chịu chữa chạy sớm, chức năng hoạt động của lục phủ ngũ tạng không còn bình thường nữa; Năm là những người mà thân thể đã quá suy nhược cả đến việc uống thuốc cũng không còn khả năng; Sáu là những người mê tín tà ma không tin vào thầy thuốc.
Khi Biển Thước đến nước Tần thì lúc ấy ông cũng đã già rồi. Quốc quân của nước Tần là Tần Vũ Vương nghe nói y thuật của ông rất cao nên đã mời ông vào cung để chữa bệnh cho vua. Sau khi Biển Thước khám xong, kê đơn thuốc thì Thái y Lý Tây vốn rất căm ghét Biển Thước, đã thông đồng với thầy cúng nói với Tần Vũ Vương: “Biển Thước chẳng có gì là tài giỏi cao cường, Đại vương không nên tin”.
Tần Vũ Vương nghe vậy nên không uống thuốc mà Biển Thước đã kê, Biển Thước bỏ đi. Lý Tây vẫn lo sau này có thể Tần Vũ Vương lại tín nhiệm Biển Thước sẽ làm mình thất sủng nên lén lút sai người đâm chết Biển Thước.
Sau khi Biển Thước bị sát hại, nhân dân đã đưa thi thể của ông về chôn ở Hàm Dương. Ở quê ông, nhân dân lại xây một mộ táng giả (chỉ chôn mũ áo người chết).
-------------
Hoa Đà: Ông tổ của khoa phẫu thuật
Hoa Đà được biết đến là thầy thuốc phẫu thuật đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. Ông sống vào cuối thời Đông Hán, đầu thời Tam Quốc. Theo sử sách, Hoa Đà được xem là Thần y của Trung Hoa.
Hoa Đà là người đã sáng tạo ra loại thuốc gây mê và giảm đau “Ma Phí Tán” (trộn rượu và thảo dược) để dùng trong các ca phẫu thuật, điều mà người phương Tây chỉ biết đến sau đó hơn 1600 năm. Hoa Đà cũng là người phát triển “Ngũ Cầm Hí”, vốn là một môn khí công Đạo gia phỏng theo động tác của năm loài vật: hổ, hươu, gấu, khỉ và chim.
Có một giai thoại đi vào sử sách kể về lần Hoa Đà trị thương cho Quan Vũ, vị tướng quân nổi tiếng của Lưu Bị, nước Thục trong thời Tam Quốc. Trong một lần xuất quân giao chiến, Quan Vũ bị trúng tên độc ở cánh tay phải. Hoa Đà đã sử dụng thuốc giảm đau và phẫu thuật cắt bỏ phần thịt bị nhiễm độc ngay trong lúc Quan Vũ đang đánh cờ vây.
Một câu chuyện khác kể rằng Hoa Đà nhìn thấy một khối u trong não Tào Tháo và khuyên Tào Tháo mổ não để làm thủ thuật bỏ khối u. Nhưng Tào Tháo lại nghĩ rằng Hoa Đà muốn giết mình nên đã giam ông trong ngục cho tới chết. Quả nhiên sau đó Tào Tháo đã thực sự phát bệnh đau đầu mà chết.
“Tam Quốc diễn nghĩa” (La Quán Trung) chép lại rằng, trong khi bị giam trong ngục tối, vì cảm kích trước sự chăm sóc tận tình của viên coi ngục, Hoa Đà đã truyền lại toàn bộ y thuật của mình cho người này. Tuy nhiên, khi về nhà, vợ của anh ta lại đem sách y thuật đó đốt đi vì sợ chồng mình cũng có kết cục giống Hoa Đà. Kết quả là y thuật của Hoa Đà mãi mãi thất truyền, chỉ còn được hậu thế biết đến qua những giai thoại dân gian.
Trong cuộc sống bận rộn ngày nay, thức đêm là chuyện rất đỗi bình thường, nhưng bạn có biết thường xuyên thức đêm làm cơ thể nảy sinh những ảnh hưởng rất không tốt cho sức khỏe, bạn đang vô tình xem được bài viết này, hãy nhanh chóng copy lưu lại, rất có thể có ích hỗ trợ đối với bạn và những bạn sinh viên thường xuyên phải thức đêm.
Bí quyết của giấc ngủ
Theo y học và những thể nghiệm cũng như quan sát từ bản thân tác giả, một người chỉ thực sự ngủ nhiều nhất là 3 giờ đồng hồ, còn lại đều là lãng phí thời gian, nằm và ngủ mơ, có lẽ trong chúng ta không một ai là không từng ngủ mơ. Nhưng khi tỉnh dậy cảm thấy mình không mơ thấy gì, đó là bởi họ đã quên giấc mơ đó như thế nào rồi.
Chỉ cần chợp mắt 30 phút buổi trưa, cũng bằng ngủ 2h đồng hồ, nhưng phải căn đúng vào giữa trưa. Buổi tối thì chỉ cần ngủ vào đúng giờ tí ( từ 11h -1h đêm), 5 phút khi đó bằng 6h đồng hồ. Kiến thức liên quan tới khoảng thời gian nêu trên là rất lớn, có liên quan tới quy luật của vũ tru, quy luật của trái đất, và nguyên lý âm dương, hơn nữa bạn cũng có thể cảm nhận, có một nguồn lực rất mạnh ở phía dưới trái tim nối liền xuống dưới, hòa hợp với nguồn lực tử đan điền ( phía trên thận), được gọi là “ thủy hỏa cân bằng”, nói rộng ra một chút, nếu bạn ngủ đủ giấc, tinh thần bạn sẽ tốt lên gấp trăm lần.
-----------------
Tôn Tư Mạc: ‘Thần y’ của lòng nhân ái
Tôn Tư Mạc (550 – 691) thời Đường được xưng tụng là Dược vương Tôn Thiên Y. Ông sinh vào thời Tây Ngụy (535 – 556), thuở nhỏ thường ốm yếu nên lớn lên quyết lập chí học nghề y. Với tư chất thông minh sẵn có, chẳng mấy chốc Tôn Tư Mạc thông hiểu nhiều kinh điển Trung Hoa, trở thành thầy thuốc nổi tiếng nhất thời đại của mình.
Tương truyền, Tôn Tư Mạc sống tới năm 141 tuổi rồi đi tu tiên. Ông cũng là người ứng dụng khí công vào thuật dưỡng sinh. Dù rất tài năng nhưng Tôn Tư Mạc chỉ ở nhà chuyên tâm nghiên cứu y thuật, quyết không ra làm quan.
Tôn Tư Mạc rất coi trọng đạo đức của người thầy thuốc, luôn kiên định bảo trì một trái tim từ bi, hòa ái và tấm lòng hy sinh cao cả đối với bệnh nhân, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, già trẻ, đẹp xấu, thân sơ…
Ông đã cống hiến cho nền y học Trung Hoa hai kiệt tác y học là “Thiên kim yếu phương” và “Thiên kim dược phương”, tập hợp và phân loại toàn diện các bài thuốc Trung y.
Tôn Tư Mạc hồi nhỏ thường bị bệnh, do vậy ông đã quyết định học nghề y. Ông rất uyên bác thông hiểu kinh điển, lịch sử Trung Quốc và các học thuyết của Bách gia chư tử.
Mới lên 7 tuổi, ông đã có thể “Mỗi ngày đọc thuộc lòng 1.000 chữ”. Chính vì khả năng ghi nhớ kỳ lạ như vậy nên ông được người ta gọi là “Thánh đồng”.
Tới năm 20 tuổi, ông có thể đĩnh đạc đàm luận về học thuyết Lão Tử, Trang Tử, đồng thời cũng tinh thông việc biên soạn kinh điển Phật gia.
Vào thời Tùy Đường, Tôn Tư Mạc từ chối không ra làm quan. Đường Thái Tông Lý Thế Dân từng tự mình đích thân lên núi tiếp kiến ông.
Tôn Tư Mạc nổi danh với việc tổng kết kinh nghiệm lâm sàng và lý luận y học từ thời Đường trở về trước, từ đó biên soạn thành hai bộ kiệt tác y học: “Thiên Kim Yếu Phương” (Phương thuốc giá trị cả ngàn lượng vàng) và “Thiên Kim Dực Phương” (Phần bổ sung của ‘Thiên Kim Yếu Phương’). Bộ sách “Thiên Kim Yếu Phương” gồm 30 quyển, chia làm 232 chủ đề.
Cả đời Tôn Tư Mạc biên soạn hơn 80 bộ sách, ngoại trừ “Thiên Kim Yếu Phương” và “Thiên Kim Dực Phương” ra, còn có “Lão Tử Chú”, “Trang Tử Chú”, “Chẩm Trung Tố Thư” 1 quyển, “Hội Tam Giáo Luận” 1 quyển, “Phúc Lộc Luận” 3 quyển, “Nhiếp Sinh Chân Lục” 1 quyển, “Quy Kinh” 1 quyển cùng các tác phẩm khác.
Tôn Tư Mạc tin rằng: “Mạng người là quý giá nhất, ngàn lượng vàng dẫu quý, song một phương thuốc trị bệnh cho người ta còn quý hơn cả ngàn lượng vàng”. Thành ngữ “Thiên Kim” có nghĩa là “ngàn lượng vàng” cũng từ đó mà ra đời. Toàn bộ sách bao gồm 5.300 bài thuốc, trong đó tập hợp các phương thuốc phổ biến với nội dung rất phong phú.
Bộ sách là một kiệt tác tiêu biểu cho sự phát triển của y học đời Đường. Nó có ảnh hưởng lớn và đóng góp đáng kể cho sự phát triển của y học, nhất là các bài thuốc để lại cho hậu thế. Những kiệt tác này cũng đóng góp vào sự phát triển của y học tại Nhật Bản và Triều Tiên.
“Thiên Kim Dực Phương” cũng bao gồm 30 quyển. Tôn Tư Mạc đã viết tác phẩm này trong những năm tuổi già. Nó có quan hệ bổ sung toàn diện cho cuốn “Thiên Kim Yếu Phương”.
Ông chia cuốn “Kim Thiên Dực Phương” ra làm 189 chủ đề, bao gồm hơn 2.900 bài thuốc. Cuốn sách ghi lại 800 vị thuốc, đặc biệt chữa trị rất hiệu nghiệm cho các chứng bệnh như thương hàn, trúng phong, các bệnh vặt và chứng ung nhọt.
Danh y Tôn Tư Mạc khi còn trẻ có thể chất yếu ớt, mắc nhiều bệnh tật nhưng ông vẫn sống tới 101 tuổi, đủ thấy khả năng y thuật của ông tài cao đến đâu. Cùng xem ông giải thích thế nào về đạo lý dưỡng tính.
Thân thể con người là phiên bản thu nhỏ của tự nhiên
Tôn Tư Mạc là người Hoa Nguyên thời Đường, từng ẩn cư trên núi Thái Bạch tu hành. Ông am hiểu thiên tượng lịch pháp và thuật dưỡng sinh. Năm thứ ba niên hiệu Hiển Khánh, vua Đường Cao Tông triệu kiến Tôn Tư Mạc. Lúc đó, ông đã hơn 90 tuổi nhưng thị lực và thính giác của ông không hề suy giảm. Thi nhân Lư Chiếu Lân và danh sĩ nổi tiếng Tống Lệnh Văn cùng nhiều danh sĩ khác đều rất cung kính, dùng lễ thầy trò mà đối đãi với ông.
Họ từng hỏi Tôn Tư Mạc: “Danh y có thể trị được khỏi bệnh là căn cứ vào đạo lý gì?”
Tôn Tư Mạc nói:“Ta nghe nói, người thông hiểu Trời nhất định sẽ tìm thấy bản thể trên thân thể của con người. Người am hiểu về con người thì nhất định sẽ lấy Trời làm bản thể. Vì vậy, trời có Xuân, Hạ, Thu, Đông, ban đêm và ban ngày luân phiên thay đổi. Đông đến hạ đi, đây là sự vận động của tự nhiên. Thân thể của con người có tứ chi và ngũ tạng, cho dù đang tỉnh hay ngủ, hô hấp thải cũ thay mới, kinh mạch và khí huyết đều có sự tuần hoàn. Lưu chuyển chính là sự tuần hoàn của khí huyết, biểu hiện rõ nhất chính là ở khí sắc của con người. Đây là sự vận động bình thường của cơ thể con người“.
“Dương dùng tinh hoa của nó, âm dùng hình thể của nó, đây là sự tương đồng giữa trời và người, nếu vi phạm quy tắc của tự nhiên sẽ sinh ra bệnh. Bốc hơi thì có thể sinh nhiệt, không thì sinh hàn. Ứ đọng thì tạo thành khối u bướu (thịt thừa), chướng ngại thì trở thành u nhọt độc. Dựa vào các biểu hiện bên ngoài để chẩn đoán có thể kiểm tra được sự biến đổi bên trong cơ thể“.
“Lương y dùng thuốc và châm cứu để chữa bệnh cho người, thánh minh dùng đạo đức cao thượng và tài năng đức hạnh để cai trị thiên hạ. Cho nên bệnh tật trong cơ thể con người có thể trị khỏi, tai họa trong trời đất này cũng có thể được loại trừ, tất cả những điều này đều là vận số“.
Làm người gan phải lớn, tim nhỏ
Tôn Tư Mạc đáp: “Gan phải lớn, tim phải nhỏ, trí tuệ phải khôn khéo, linh hoạt, hành vi phải chính trực, không tùy tiện“.
Lư Chiếu Lân: “Mong thầy giải thích rõ hơn!”
Tôn Tư Mạc đáp lại: “Tim là quân chủ trong ngũ tạng, nó cần phải hoạt động tuân theo quy luật, vì vậy phải thận trọng. Gan là tướng lĩnh trong ngũ tạng, cần phải kiên quyết quả đoán, vì vậy gan phải lớn. Người có trí tuệ hành động như Trời, vì vậy cần phải linh hoạt. Người nhân nghĩa trầm tĩnh như đất, cho nên hành vi phải chính trực.
Trong“Truyền” có đoạn: “Không vì lợi mà quay lại, cũng không vì làm việc nhân nghĩa mà hối lỗi. Đấy mới là hành vi chính trực của người nhân nghĩa”. Trong “Kinh Dịch” cũng giảng: “Gặp cơ hội đến thì phải nắm bắt, không thể cả ngày chỉ biết chờ đợi, đấy mới là sự linh hoạt của người có trí tuệ“.
Con người có 5 sợ, tâm tư mới tỉnh táo
Lư Chiếu Lân lại hỏi: “Trong đạo lý dưỡng tính, điều quan trọng nhất là gì ?”
Tôn Tư Mạc đáp: “Trời có đầy có thiếu, trong thế giới con người cũng có nhiều khó khăn gian khổ. Từ xưa tới nay không ai có thể tự giải thoát bản thân khỏi nguy hiểm mà không biết hành sự thận trọng. Bởi vậy, người muốn dưỡng tính trước tiên phải biết thận trọng“.
“Kinh Thi” giảng:“Nhân bất úy cụ tai họa, thiên tựu yếu hàng tai nan cấp nhĩ“, ý nói con người không biết sợ tai họa thì trời sẽ giáng tai nạn xuống cho con người.
“Cái sợ, trước tiên phải biết sợ Đạo, sau đó sợ Trời, kế tiếp là sợ vật, sợ người, cuối cùng là sợ chính bản thân mình“.
“Do đó người mất đi sự sợ hãi, thì tâm tư dễ bị rối loạn khó mà điều chỉnh, hành vi nôn nóng khó mà tự kiềm chế, tinh thần không ổn định dễ mất phương hướng“.
“Người có thể hiểu được những đạo lý này, khi chèo thuyền trong dòng nước thì Giao Long cũng không thể hại đến; khi đi trên đường cũng không bị mãnh thú gây tổn thương; các loại bệnh tật, ôn dịch cũng không thể lây nhiễm đến; kẻ thích nói xấu người khác cũng không thể phỉ báng đến. Người hiểu được đạo lý này cũng hiểu được hết sự tình trên thế gian“.
Không lâu sau, Tôn Tư Mạc nhậm chức Thừa Vụ Lang, phụ trách các vấn đề dược phẩm. Vào đầu năm Vĩnh Thuần thời Đường Cao Tông, Tôn Tư Mạc qua đời. Ông để lại di chúc rằng: Việc mai táng cần giản dị, thờ cúng không cần đốt tiền giấy, khi bái tế cũng không nên sát sinh.
Hơn một tháng sau khi ông qua đời, khí sắc vẫn giống hệt như người còn sống. Lúc đưa thi thể của ông vào quan tài giống như khiêng một bộ y phục trống không. Cả đời Tôn Tư Mạc đã viết ra 30 quyển “Thiên Kim Phương” truyền cho hậu thế.
Theo danh y Tôn Tư Mạc, có thể làm được việc “không uống thuốc mà chữa được bệnh” thì mới là cách tốt nhất trong dưỡng sinh.
Tôn Tư Mạc: Học y vì sức khỏe yếu ớt nhiều bệnh, rồi trở thành vị thầy của cả một thế hệ
Tôn Tư Mạc, còn được gọi là Dược vương Tôn Thiên Y, là thầy thuốc nổi tiếng thời cổ đại của Trung Quốc. Ông cũng là một người ứng dụng khí công vào thuật dưỡng sinh.
Tôn Tư Mạc nổi danh với việc tổng kết kinh nghiệm lâm sàng và lý luận y học từ thời Đường trở về trước, từ đó biên soạn thành hai bộ kiệt tác y học: “Thiên Kim Yếu Phương” (Phương thuốc giá trị cả ngàn lượng vàng – gồm 30 quyển) và “Thiên Kim Dực Phương” (Phần bổ sung của ‘Thiên Kim Yếu Phương’)
Tôn Tư Mạc mất năm101 tuổi. Lúc còn trẻ, sức khỏe ông rất yếu lại mắc nhiều chứng bệnh, nên ông đã nỗ lực nghiên cứu học tập y thuật. Ông có nền tảng kiến thức sâu rộng về thuốc, có sự nghiên cứu sâu xa về các phương diện chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh bằng thuốc, châm cứu, phòng bệnh… cho đến năm 100 tuổi ông vẫn có thể nhìn và nghe rõ ràng và đã trở thành người thầy y học nổi danh một thời của nhà Đường.
Tổng kết những tư tưởng chăm sóc sức khỏe của y học, Đạo học, Nho học và Phật giáo Ấn Độ, ông cho rằng dựa vào cốt lõi “dưỡng tính” và “dưỡng lão”, có thể kéo dài tuổi thọ, trong đó phạm vi của nó bao gồm cả y học phòng bệnh, y học tâm lý và thể chất, y học tuổi già, thậm chí là chữa bệnh ở trẻ em và chữa bệnh bằng ăn uống.
Ví dụ: “Con người nên bảo trì tâm thái cân bằng, không nên cứ một mực theo đuổi danh lợi. Người ta ăn uống cần phải điều độ, không nên ăn hay uống quá nhiều. Khí huyết cần phải chú ý lưu thông, không nên lười biếng lười vận động. Sinh hoạt thường ngày cần phải ổn định, không nên trái với quy luật tự nhiên…”
Cách dưỡng tính bằng việc điều khiển cảm xúc, kiềm chế tình cảm
Về vấn đề dưỡng tính, Tôn Tư Mạc cho rằng nên điều khiển cảm xúc, kiềm chế tình cảm, luôn giữ cảm xúc lạc quan, phải tiết chế chuyện phòng the và ăn uống.
“Ăn uống lành mạnh, ăn để trị bệnh và uống thuốc”, phải luôn giữ trạng thái tinh thần và thói quen ăn uống tốt để phòng tổn thương tỳ vị, tránh ảnh hưởng đến khí huyết mà gây bệnh, đồng thời ông nhấn mạnh tác dụng phòng và trị bệnh của việc ăn uống và thuốc men.
“Tập luyện thể thao và điều hòa hơi thở”, ông cho rằng chúng ta phải vận động và tập luyện vừa sức như xoa bóp, hít thở, bấm huyệt, mượn cách bỏ xấu lấy tốt, kết hợp tĩnh và động để đạt được mục đích chăm sóc sức khỏe.
Cách dưỡng lão bằng việc bồi dưỡng tâm trạng, sống có quy củ
“Cách dưỡng lão” là cách dưỡng sinh ở người lớn tuổi, Tôn Tư Mạc cho rằng những người trên 50 là người lớn tuổi, lúc này có thể bị các bệnh về tinh thần cùng các hiện tượng lão hóa khác do sự yếu đi về mặt sinh lý, vì thế phải dưỡng lão bằng cách bồi dưỡng tâm trạng, sinh hoạt có quy củ, phải điều tiết việc ăn uống, xoa bóp vừa phải. Có nghĩa là dưỡng sinh ở tuổi già cần phải kết hợp giữa tâm trạng vui vẻ, sống có quy củ, ăn uống vừa phải và vận động vừa sức.
Nói chung, sự hình thành bệnh tật là do các chức năng bên trong cơ thể mất đi sự điều tiết, ví dụ như khi nguồn bệnh bên ngoài xâm nhập vào cơ thể, chỉ cần bổ sung được đủ dinh dưỡng, giữ cho các bộ phận trong cơ thể hoạt động, tăng sức đề khoáng thì sẽ không dễ bị nhiễm bệnh.
Bậc cao nhân xưa xem tinh, khí, thần như là tam bảo của sinh mệnh, muốn dưỡng sinh trường thọ thì cần giữ gìn 3 yếu tố này.
“Vĩnh viễn giữ gìn tuổi trẻ sức khỏe” là ước mơ mà mỗi chúng ta theo đuổi, quyển “Hoàng Đế nội kinh” 5000 năm trước đã dạy chúng ta cách dưỡng sinh (“Hoàng Đế nội kinh – Tố vấn – Thượng cổ thiên chân luận”). Dưỡng sinh không cần phải uống thuốc, mà là xuất phát từ trong “nội tâm” của chúng ta, khiến chúng ta quay ngược thời gian, tìm tòi trí tuệ của cổ nhân.
Hoàng Đế kính vấn Thiên sư Kì Bá (thầy của Hoàng Đế), người thượng cổ sống hơn trăm tuổi mà vận động không yếu đi, còn con người hiện nay sống không đến năm mươi mà vận động đã trở nên yếu ớt là do thời đại đã khác sao? Hay do khuyết điểm của bản thân con người?
Kì Bá trả lời, người thượng cổ thông hiểu đạo dưỡng sinh, ăn uống có tiết chế, sinh sống có quy luật, sinh hoạt không quá lao lực cho nên cơ thể và tinh thần đều khỏe mạnh, có thể sống đến rất lâu (thiên niên). Thế nhưng người ngày nay không như vậy, họ uống rượu thay nước, hành vi phóng túng, chuyện phòng the quá độ, hao tổn tinh khí, không biết khống chế cảm xúc, chỉ biết đuổi theo khoái lạc trong tâm hồn, thậm chí xem hành vi tổn hại sinh mạng là một thú vui, vì vậy sống đến năm mươi thì đã già.
Điềm tĩnh như không, chân khí đủ đầy, giữ vững tinh thần
Hoàng Đế học được cách tu đạo của tiên nhân Quảng Thành Tử rồi đắc đạo vào năm 120 tuổi, bay lên thành rồng.
Kì Bá so sánh sự khác nhau trong thái độ sống của người xưa và nay, sau đó giảng về triết lí của dưỡng sinh, “Người thượng cổ dạy người dưới mình, hiểu rõ tai hại của hư tà, tùy theo thì tiết tránh tà khí, giữ lòng điềm đạm, sống đúng với chân khí, giữ được tinh thần bên trong, bệnh sẽ không đến.”
Thường thượng cổ dạy cho nhân chúng phải tránh tà khí gây bệnh bên ngoài (phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa), phải thanh tâm quả dục, ngăn ham muốn, giữ tâm trong sáng, xem nhẹ danh lợi, đạt đến cảnh giới “hư vô”, như vậy mới có thể điều hòa thông thuận chân khí, bảo vệ tinh thần bên trong, tà khí bên ngoài không thể xâm lấn được, bệnh tật cũng sẽ không phát sinh.
“Thượng cổ thiên chân luận” là quyển đầu tiên của “Hoàng đế nội kinh – Tố vấn”, có thể thấy là hết sức quan trọng. “Thiên chân” là chỉ bẩm sinh của con người, đến từ sức khỏe, là tinh thần bẩm sinh, khí huyết bẩm sinh (chân khí), nguyên thần, vì vậy Đạo gia gọi tinh, khí, thần là “tam bảo sinh mạng”, ba điều quý đối với sinh mạng, có thể bảo vệ sự sống. Dưỡng sinh chính là phải bảo dưỡng tinh, khí, thần, như vậy thì tà khí bên ngoài mới không thể xâm nhập.
Nhưng phải làm thế nào để bảo dưỡng tinh, khí, thần? “Điềm đạm hư vô” chính là phương pháp bảo dưỡng tam bảo mà Kì Bá đưa ra, xuất phát từ “nội tâm” của chúng ta, nếu có thể thanh tâm quả dục, ngăn ham muốn, giữ lòng trong sáng, xem nhẹ danh lợi, không bị hấp dẫn bởi sự vật bên ngoài thì nội tâm mới có thể đủ thanh tĩnh, đạt đến “sống đúng với chân khí, giữ được tinh thần bên trong”, chân khí hòa hợp thông thuận, bảo vệ bên ngoài, tinh và thần không bị tác động, bảo vệ bên trong cũng chính là bảo dưỡng tam bảo tinh, khí, thần.
Đạo gia tu luyện thành chân nhân
Bước tiếp theo của dưỡng sinh là tu luyện, Đạo gia tu luyện là phải trở thành “chân nhân”, chính là “thần tiên” mà ta thường nói đến. Hoàng Đế có nói: “Nghe nói người thượng cổ có chân nhân, lãnh đạo thiên địa, nắm giữ âm dương, hấp thụ tinh khí, độc lập thọ thần, cơ thể như một, vậy mới có thể thọ bì thiên địa, không có chung thời, vượt ngoài luật sinh tử.” Tu luyện để thành chân nhân là có thể “thọ bì thiên địa, không có chung thời”, sống lâu vượt qua trời đất, vô cùng vô tận, cũng chính là đã đắc đạo thành tiên rồi.
Cách tốt nhất trong việc dưỡng sinh là không uống thuốc mà có thể chữa được bệnh
Cái gọi là “dưỡng sinh” là ý chỉ việc “chữa trước sẽ không có bệnh”, có nghĩa là trước khi bị bệnh, việc đầu tiên là dùng nhiều cách để điều hòa cơ thể, giúp cơ thể mạnh mẽ hơn để tránh sự xâm nhập của các căn bệnh, thậm chí là phòng bệnh. Nếu có thể làm được việc “không uống thuốc mà chữa được bệnh” thì mới là cách tốt nhất trong dưỡng sinh.
Quan điểm dưỡng tính và dưỡng lão Tôn Tư Mạc không chỉ là bí quyết cho việc ông sống thọ mà còn chứa đựng nhiều những lý luận về dưỡng sinh trường thọ của Trung Hoa cổ đại. Dưỡng sinh không chỉ dành cho người già mà mỗi giai đoạn trong cuộc đời chúng ta đều có những lưu ý chăm sóc sức khỏe khác nhau. Quan tâm sớm đến sức khỏe mới là cách dưỡng sinh có hiệu quả nhất.
-----------