Nguyên tắc chẩn bệnh tìm nguyên nhân và cách tự chữa ở đây.
Chẩn bệnh không ngoài 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần là kết qủa của máy đo áp huyết và máy đo đường
Khí lực là tâm trương là phải tập khí công bài làm tăng hay giảm áp huyết.
Huyết là Tinh phải chỉnh lại thức ăn, Thần là nhip tim nhanh hay chậm, nóng hay lạnh phải chỉnh lại đường
Nên 3 bài dưới là căn bản tự chẩn bệnh và tự tìm cách chữa đúng hay sai phải kiểm chứng lại bằng máy.
SÁCH : CẨM NANG Y HỌC BỔ SUNG
PHẦN MỘT
BIẾT CÔNG DỤNG CỦA MÁY ĐO ÁP HUYẾT
ĐỂ PHÒNG NGỪA TRƯỚC NHỮNG BỆNH NAN Y CHẾT NGƯỜI
Trước hết, chúng ta muốn biết công dụng của máy đo áp huyết với mục đích để khám tìm bệnh theo nguyên tắc đông y xem khí và huyết bị bệnh hư hay thực, hàn hay nhiệt, chúng ta phải dựa vào một tiêu chuẩn căn bản về áp huyết tính theo 5 nhóm tuổi có những giới hạn riêng cho mỗi nhóm mà ngành Y Học Bổ Sung của môn học Khí Công Y Đạo đã có hơn 30 năm kinh nghiêm chữa trị đúc kết thành bảng “ Tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi” như sau :
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60-120 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi)
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 60-70 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Đối với tây y chưa thấy bảng tiêu chuẩn áp huyết là quan trọng, chỉ cần biết những bệnh nhân nào thường xuyên có áp huyết cao hơn 145mmHg thì cần phải uống thuốc hạ áp huyết suốt đời để phòng bệnh tai biến mạch màu não mà thôi.
Còn đối với ngành Y Học Bổ Sung, lại căn cứ vào bảng Tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi nên mới biết được : Công dụng của máy đo áp huyết để phòng ngừa trước những bệnh nan y dựa vào kết qủa 3 số đo của máy là số tâm thu, tâm trương và nhịp tim, có ý nghĩa về tình trạng tuần hoàn Khí (dương) hư hay thực,, tuần hoàn Huyết (âm) hư hay thực, và nhịp tim là tình trạng hàn hay nhiệt theo lý thuyết đông y, nên những kết qủa đo áp huyết của tây y đổi thành công thức khám định bệnh của đông y là :
Khí lực hư-thực/ Huyết (lượng máu chạy qua tim) hư-thực/ hàn hay nhiệt
Y Học Bổ Sung sử dụng máy đo áp huyết đo ở 2 tay và 2 cổ chân trong, tìm ra được nguyên nhân của nhiều bệnh nan y sắp xẩy ra để biết cách phòng ngừa, nhờ vào số khí lực (oxy), lượng máu, trong người dư hay thiếu mà nó tuần hoàn tạo ra nhịp tim nhanh hay chậm làm cơ thể nóng hay lạnh, không đúng với tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi là cơ thể đã có bệnh mà tây y chưa tìm ra được.
Đo áp huyết bên tay trái trước và sau khi ăn để so sánh, sẽ có kết qủa khác nhau, để biết chức năng của bao tử và lá lách còn hấp thụ và chuyển hóa tốt hay xấu.
Đo áp huyết bên tay phải trước và sau khi để so sánh, kết qủa khác nhau, để biết chức năng của gan mật còn hấp thụ và chuyển hóa tốt hay xấu.
1-Biết cơ thể nóng hay lạnh qua kết qủa nhịp tim của máy đo áp huyết thuận hay nghịch:
Đông y khi bắt mạch, việc đầu tiên là nghe nhịp tim đập để biết hàn-nhiệt, đối với Y học Bổ Sung khi đo áp huyết phải biết nhịp tim nằm trong tiêu chuẩn 70-80 là tốt, không hàn không nhiệt.
Tại sao nhịp tim liên quan đến hàn-nhiệt (nóng lạnh của cơ thể)
Một người có nhịp tim bình thưởng không nóng không lạnh theo tây y từ 70-80 nhịp tim đập trong 1 phút, tương đưong với tiêu chuẩn bắt mạch của đông y, một người thầy thuốc khỏe mạnh như những người khỏe mạnh khác đều có hơi thở trung bình từ 18-20 hơi thở trong 1 phút. Thầy thuốc đông y bắt mạch bệnh nhân dựa vào hơi thở của mình, cứ 1 hơi thở ra và vào của mình sẽ nghe được nhịp đập của mạch ở cổ tay bệnh nhân là 4 nhịp, như vậy 1 phút của thầy thuốc nghe được 72-80 nhịp mạch đập ở cổ tay bệnh nhân, như vậy mạch này không có bệnh, giống tiêu chuẩn của tây y. Kiểm chứng bằng nhiệt kế thân nhiệt nằm trong tiêu chuẩn 36.5-37.5 độ C.
Khi chúng ta chạy xong thì thân nhiệt tăng và nhịp tim đập nhanh cao hơn tiêu chuẩn, nhiệt độ cao hơn 38 độ C và nhịp tim đập nhanh hơn 80 thì đông y gọi là nhiệt. Khi người chúng ta lạnh, nhiệt kế chỉ thấp dưới 36.5 độ C nhịp tim đập dưới 70, thì đông y gọi là hàn. Đông y gọi là mạch thuận.
Nếu đo đường-huyết cũng nằm trong tiêu chuẩn không có bệnh từ 6.0-8.0mmol/l là mạch thuận, ngược lại đường-huyết cao hơn hay thấp hơn là mạch nghịch, để biết tình trạng bệnh nặng hay nhẹ dễ chữa hay khó chữa.
2-Biết được thức ăn thuốc uống nào làm tăng hay giảm áp huyết có phù hợp với nhu cầu cơ thể đang cần hay không.
Có nghĩa là trước và sau khi ăn 1 món ăn, uống 1 loại thuốc hay ăn 1 loại trái cây, đều phải đo áp huyết ở 2 tay, trước và sau khi ăn 30 phút, rồi so sánh kết qủa xem nó có làm tăng hay giảm khí lực, tăng hay giảm lượng máu qua tim, tăng hay giảm nhịp tim tốt xấu như thế nào, từ đó biết cách chọn thức ăn thuốc uống phù hợp cho khỏi bệnh.
Thí dụ : ăn 1 trái hồng, 1 múi sầu riêng, hay 10 trái nhãn hoặc chôm chôm, hoặc 5 múi mít, hoặc ngậm mấy miếng cam thảo, uống 1 lon coke....đo áp huyết thấy tăng lên 10mmHg, nếu mình đang có áp huyết cao thì sẽ làm tăng thêm áp huyết làm bệnh nặng thêm thì không hợp, những thứ này chỉ có lợi cho ngươi có áp huyết thấp.
Ngược lại, khi ăn gạo lức muối mè trong 1 tháng, uống nước đậu xanh, uống trà xanh, ăn canh củ sen, khổ qua...đo áp huyết thấy càng ngày càng giảm, nếu mình có bệnh áp huyết thấp thì áp huyết càng thấp hơn khiến người mất khí lực bị ốm gầy dần thì không có lợi, chỉ có lợi với những người có bệnh cao áp huyết.
Cũng nhờ phương pháp kiểm soát các món ăn thức uống này, chúng ta biết món ăn thức uống nào hợp hay không hợp, đó là cách ngừa bệnh, không làm cho tình trạnh bệnh nặng thêm.
Ăn gạo lức muối mè có lợi cho người mập, dư mỡ, cao áp huyết, nhưng có hại cho người ốm, áp huyết thấp sẽ làm chết người.
Ngành Y Học Bổ Sung chú trọng đến việc quân bình Âm-Dương trong những thức ăn uống để điều chỉnh Huyết, và tập luyện khí công để điều chỉnh Khí lực và nhịp tim, qua sự kiểm chứng bằng máy đo áp huyết.
Số thứ nhất chỉ tâm thu là Khí lực, số thứ hai chỉ tâm trương là Huyết, theo Y Học Bổ Sung thì khí lực là Oxy hay là Dương, huyết nói chung gồm nước (H2O), máu Fe2O3, mỡ, đường là Âm. Khi Âm-Dương trao đổi điều hòa đúng sẽ cho ra nhịp tim đập đúng tiêu chuẩn từ 70-80 nhịp trong 1 phút.
Theo đông y, âm làm nở ra, như mập, to, béo. Dương thu vào, làm ốm, đi. Khi nhìn một người không mập, không ốm, thì âm dương quân bình không bệnh tật.
Về dinh dưỡng, theo ông Oshawa, ăn nhiều thịt, mỡ, đường là âm, người hay bị bệnh là người dư âm, thiếu dương, nên cần phải ăn nhiều chất dương là Gạo Lức muối mè để lấy lại quân bình âm-dương cho cơ thể thì sẽ khỏi bệnh.
Từ khi có phong trào ăn gạo lức muối mè, công thức số 7, nhiều người áp huyết cao, người béo phì, dư mỡ, cholesterol, dư đường đả được khỏi bệnh, tuy nhiên cũng đã có nhiều người không biết quân bình âm-dương, ăn gạo lức muối mè cho đến khi cơ thể suy nhược đến chết mà không hiểu nguyên nhân tại sao, nên chúng tôi đem vấn đề quân bình âm dương khí huyết để phân tích sự áp dụng đúng hay sai trong vấn đề ăn uống.
Cơ thể chúng ta được khỏe mạnh hay bệnh tật do 2 yếu tố Khí lực và Huyết hòa hợp hay mất quân bình, kiểm chứng bằng máy đo áp huyết sẽ thấy kết qủa, so sánh với Tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi .
Thí dụ chúng ta ở tuổi trung niên, áp huyết tiêu chuẩn là.
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
Nhưng thực tế áp huyết đo được :
Bên tay trái đo đựợc : 140/90mmHg nhịp tim, đo chức năng làm việc của bao tử.
Bên tay phải đo được : 142/92mmHg nhịp tim 86, đo chức năng làm việc của gan
Như vậy áp huyết này cao hơn tiêu chuẩn tuổi 12mmHg, đối với tây y vẫn chưa cần phải uống thuốc chữa bệnh cao áp huyết, nhưng nếu áp huyết ở tuổi lão niên 140mmHg mà cao thêm 12mmHg thành 152mmHg thì phải dùng thuốc trị bệnh cao áp huyết.
Sự chênh lệch áp huyết 2 tay, trước khi ăn, bao tử trống rỗng thì áp huyết bên tay trái phải thấp tối thiểu 120mmHg, nhưng áp huyết bên gan tay phải, đang làm việc tiết chất chua và mật cho bao tử cảm thấy xót làm đói, nên áp huyết tay phải cao tối đa là 130mmHg. Sự chênh lệch 10mmHg giúp mình đói nhiều nên ăn được nhiều, chênh lệch nhau ít thì không thấy thèm ăn, nên ăn ít.
Sau khi ăn, thì bao tử đầy, áp huyết đo tay trái thấy tăng lên tối đa 130mmHg, còn đo bên tay phải, áp huyết bên gan nghỉ ngơi, thì xuống thấp tối thiểu 120mmHg, nếu chênh lệch 2 tay là 10mmHg thì sự chuyển hóa thức ăn 100%, nếu chênh lệch 3mmHg thì sự hấp thụ chuyển hóa thức ăn 30%, còn lại 70% biến thành mỡ bụng mà không biến thành máu, nếu không tập bài khí công : Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng 600 lần làm nhồi bóp bao tử xuất hết thức ăn còn lưu lại trong bao tử thì những thức ăn đó lên men tăng nhiệt làm ợ chua làm thành bệnh bướu cổ, nếu lấy tay ấn đè vào bao tử có nơi cứng cộm đau sau này thành khối u bướu trong bao tử sẽ bị cắt bỏ một phần bao tử.
Số thứ hai của máy đo áp huyết là tâm trương chỉ lượng máu (có chứa mỡ, nước H2O, đường C6H12O6) chạy qua tim, ở tuổi trung niên, tối đa 80, ở tuổi lão niên, tối đa 90, nếu hơn số này là dư âm huyết.
a-Những trường hợp ăn gạo lức muối mè rất có lợi :
Tính chất của gạo lức là dương, có tính háo nước, nên cần âm để trung hòa âm-dương, nghĩa là 1 lon gạo lức, cần 2 lon nước, cơm mới nở mềm, không bị khô, nhưng nấu 1.5 lon nước cơm hơi khô, phải nhai kỹ, mỗi miếng cơm nhai 50 lần cho ra nước miếng, như vậy mỗi bữa ăn, gạo lức cần thêm 0.5 lon nước trong cơ thể, làm rút bớt nước và đường trong máu, làm số tâm trương giảm dần mỗi ngày, cơ thể mất nước giảm trọng lượng cơ thể làm ốm, làm tan nước trong mỡ bụng, còn oxy là khí lực tâm thu bị carbon trong cơ thể lấy mất thành thán khí CO2 theo hơi thở ra, cũng làm giảm khí lực.
Sau một thời gian theo dõi áp huyết, đường và trong lượng cơ thể có kết qủa là áp huyết hạ cả khí lực, cả huyết, cả đường trong máu, trở về tiêu chuẩn áp huyết theo đúng tuổi, sụt câm giảm béo phì, nhìn hình tướng cửa cơ thể bây giờ là không mập, không ốm, là âm-dương đã quân bình, nên cần phải ngưng ăn gạo lức muối mè.
b-Những trường hợp ăn gạo lức muối mè rất có hại làm chết người :
Những người gấy ốm, áp huyết thấp, thiếu máu, thiếu đường, đo áp huyết thấp dưới tiêu chuẩn tuổi là thiếu khí lực, thiếu máu, thiếu đường. Tuổi người lớn trung niên hay lão niên mà đo áp huyết chỉ có 100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi - 17 tuổi).
Sau khi ăn gạo lức muối mè, áp huyết càng tụt thấp dưới 100mmHg, là khí lực mất, máu càng thiếu, đường trong máu thấp làm rối loạn nhịp tim, gây ra đau nhức, mệt mỏi, buồn ngủ, cơ thể không có sức, ăn không tiêu, mất trí nhớ, rụng tóc, loãng xương, hoa mắt chóng mặt, mắt mờ, tai lãng...trong người cảm thấy nóng, nhưng bàn tay chân và ngoài da lạnh phải mặc áo ấm...đó là dấu hiếu của bệnh ung thư.
So sánh công dụng của gạo lức muối mè chữa bệnh cao áp huyết, tiểu đường, dư mỡ cholesterol, áp huyết đang từ cao như 150/100mmHg nhịp tim 90, sau khi ăn 1 thời gian 6 tháng đến 1 năm, áp huyết cả 3 số đều xuống, khí lực từ 150mmHg xuống còn 130mmHg như vậy khí lực giảm 20mmHg, huyết tâm trương 100mmHg xuống 80mmHg thì huyết giảm 20mmHg.
Như vậy một người có áp huyết thấp 100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65, sau khi ăn gạo lức muối mè 6-12 tháng cũng sẽ bị tụt thấp cả khí lực xuống 20mmHg, huyết xuống 20mmHg thì áp huyết còn lại, khí lực 80mmHg, huyết 65mmHg xuống 20mmHg còn lại 45mmHg, nhịp tim 65 xuống 20 còn 45 như vậy sẽ chết vì thiếu dinh dưỡng, ăn gạo lức muối mè làm sụt cân 20 kg, như vậy các tế bào sẽ chết vì thiếu dinh dưỡng mới trở thành tế bào ung thư.
Chúng ta hãy xem một đoạn thư hỏi nguyên nhân tại sao bị bệnh và cách chữa phải làm sao như thư dưới đây :
Kính thưa thầy.
Con 38 tuổi, đang sinh sống và làm vịêc tại Việt Nam. Con thật may mắn khi gặp được trang web của Thầy.
Thưa thầy con viết thư này gửi tới thầy với hy vọng sẽ được thầy giúp đỡ hướng dẫn cho con ăn uống , tâp luyện đúng để chửa lành thân bệnh và tâm bệnh.
Thưa thầy tư nhỏ con đã bi bệnh đau nhức xương khớp, con đã dùng rất nhiều kháng sinh. Người con rất yếu, cơ thể lúc nào cũng lạnh đặc biệt 2 tay, 2 chân, 2 tai, vùng lưng trên hay ớn lạnh. Con thường xuyên đau đầu vùng trước trán, hay căng thẳng, thường hoa mắt chóng mặt. Chân tay rất hay bị tê. Con bị viêm xoang đã 20 năm nay. Cổ họng thường xuyên có đờm, đặc biệt là sáng sớm khi ngủ dậy và miệng thường đầy nước, họng thi ứ đờm khi nhổ khạc thỉnh thoảng có kèm theo vết máu. Con còn bị đau bao tử, đi cầu phân sống. Cách đây 5 năm một thời gian dài con đã dùng rât nhiều đồ ngọt cơ thể mập hơn nhưng bệnh đương ruột càng nặng và trí nhớ suy giảm hẳn.
Cách đây hơn một năm tình cờ con gặp pp gạo lứt muối mè chũa bệnh. Con đã ăn số 7 được 5 tuần, từ 45kg con còn 37kg và người con lạnh không chịu nổi. Con ăn ra nhưng do không biết cách ăn ra rồi lại gặp dịp tết cổ truyền con đã ăn uống tùy tiện kết quả là bệnh tình càng nặng, đi cầu ngày 2-3 lần và phải dùng sức, còn thận thì không chịu được con thương xuyên mắc tiểu. Con dùng thuốc bắc thì tình trạng mắc tiểu thường xuyên có đỡ.
Hiện tại con đang ăn gạo lứt với một ít rau củ, đồ ăn thực dưỡng, thỉnh thoảng có ăn mặn. Khi nào con ăn có chất chút ít là con lại hay buồn tiểu, đi tiểu nhiều, nước tiểu trắng. Thường bị táo, phân lúc đầu chặt sau nhão, khó đi. Từ lúc ăn vô cẩn thận hơn con thương dậy sơm khoảng 3 đến 4 giờ sáng nhưng ban ngày lại buồn ngủ. Hiện tại con còn 35kg, da xanh mét, lúc nào cũng thèm ăn, nhanh no nhanh đói. bệnh tật thì vẫn vậy, người con lúc nào cũng lạnh. Tóc con rụng rất nhiều, ở cổ họng thường xuyên bị tắc. Vùng ngực trái, sườn trái khó chịu. Con nghi thận, tim , phổi, gan...của con đều có vấn đề. Con đang uống thêm viên AGE, viên men ruột 27 tỉ vi khuẩn. đường ruột có đỡ hơn ạ.
Áp huyết của con là :
Buổi trưa:
Trước ăn: Tay phải: 83 - 58 - 65 . Tay trái: 84- 59 - 63.
Sau ăn: Tay phải: 73- 47 - 75 . Tay trái: 76 - 51 - 74.
Buổi tối:
Trước ăn: Tay phải: 76 - 51 - 73. Tay trái: 80- 52- 71.
Sau ăn: Tay phải: 73- 50 - 75. Tay trái: 70 - 50 - 84.
Con mong sớm nhận được thư của Thầy. Được thầy chỉ dẫn cho con mà thân tâm được khỏe. Con kính chúc Thầy an lành, mạnh khỏe, sống thật lâu để giúp đời, cứu người . NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Trả lời :
Càng ăn gạo lức muối mè áp huyết càng xuống thấp thì chết.
Ăn gạo lức muối mè chỉ dành cho người áp huyết cao, mập, tiểu đường cao, khi ăn gạo lức áp huyết xuống, đường xuống, giảm cân làm ốm không đủ dinh dưỡng là oxy và máu nuôi các tế bào chức năng sinh ra nhiều bệnh tật..
Ngược lại, người thiếu máu, thiếu đường, áp huyết thấp mà ăn gạo lức muối mè cho ốm thêm, áp huyết và đường xuống thấp gây ra hàng trăm bệnh, do mình ăn sai, thì sẽ chết vì mất sức.
Hãy bỏ ngay gạo lức muối mè, thay vào đó, mỗi ngày ăn 1 tô phở hay bún bò huế, uống 1/2 lon Coke, Coca Cola, làm tăng áp huyết bổ máu, tăng đường, sau khi ăn 30 phút thì nằm tập bài Kéo Ép Gối Nhanh 600 lần làm chuyển hóa đường và thức ăn thành chất bổ máu, tăng cân, tăng áp huyết. Khi đang tập mà mệt thì uống thêm 2 thìa đường rồi tập tiếp cho đủ số 600, sau khi tập ngậm thêm 1 cục kẹo sẽ không bị mệt và chóng mặt.
Áp dụng phương pháp này trong 2 tháng sẽ khỏe mạnh, khi áp huyết lên đúng tiêu chuẩn tuổi thì khỏi bệnh hoàn toàn.
c-Cách ăn gạo lức muối mè quân bình âm-dương tốt cho mọi người cao hay thấp áp huyết.
Tôi áp dụng ăn gạo lức muối mè từ năm 1968, mới đầu theo phương pháp Oshawa, nhai kỹ 50 lần 1 miếng cơm, nên ăn 1 chén cơm lâu 2 giờ, lại bị mỏi râng, mỏi hàm, và ăn không được nhiều, người lại bị gầy đi.
Sau tôi nấu 1 lon gạo lức với 3 lon nước, định nấu thành cháo với mục đích ăn gạo lức chữa bệnh và đỡ phải nhai, và gạo lức nấu nhiều nước thì gạo lức không rút nước cơ thể mình, cơ thể mình không bị thiếu nước, nên không cần uống thêm nước. Nhưng sau khi nấu thì gạo nở lớn gấp 3 như cốm, nhưng không nhão hay lỏng như cháo, vỏ gạo vẫn khô, khi ăn một miếng cơm vào miệng chấm với muối mè vàng còn vỏ, giã chung với đậu phộng rang và thêm đường, thì tự nhiên miệng không cần nhai, hạt cơm khi nhai tan thành sữa ngọt mặn, ăn mỗi bữa được 7 chén cơm trong 30 phút, cả ngày không khát nước, lên cân 10 kg trong 1 năm, người tròn chắc không mập không ốm, đo áp huyết và đường lúc nào cũng trong tiêu chuẩn, không bị bao giờ bị bệnh, người trẻ lại. Đó là biết cách quân bình âm-dương.
Chúng ta xem thêm một lá thư của một bệnh nhân ăn gạo lức muối mè sai âm dương :
Thưa thầy
Bây giờ sau hàng chục bài viết của thầy về B12 và đường con đã hiểu ra vì sao khi con ăn gạo lứt muối mè làm cho con xuống cân khủng khiếp từ 72kg xuống còn 54 kg, sau khi nghe thầy ăn đường và gạo lứt con đã lên 58 kg, sau khi ăn thịt cá bây giờ con 61 kg, không còn nghe ai chê ốm nữa và con cũng đã hiểu có người bị ung thư ăn gạo lứt muối mè mà vẫn chết rồi ngươi ta bảo là đã đến với phương pháp OHSAWA trễ quá. Tất cả là do thiếu chìa khóa TINH KHÍ THẦN mà thôi
Bây giờ con muốn ăn gạo lứt muối mè trường kỳ thì cần phải ăn thêm đường trong muối mè + đậu phộng giống như thầy đã từng ăn. Nhưng con muốn hỏi là sau khi ăn 3 bữa chính sau đó có cần uống thêm 2 muỗng đường rồi 30 phút sau tập kéo ép gối 600 lần để tiêu hóa toàn bộ thức ăn. Hay là ăn gạo lứt muối mè + đậu phộng +đường rồi 30 phút sau uống 2 muỗng đường rồi kéo ép gối 600 lần, kéo 600 lần mất 30 phút đó thầy. Hay là ăn gạo lứt muối mè + đậu phộng +đường rồi không cần kéo ép gối nên không cần uống thêm 2 muỗng đường . Cách nào tốt nhất.
Rồi khi nào tập võ cần đường thì ăn đường tỷ lệ với nhu cầu vận động
Đường sau khi vào cơ thể đốt ra CO2 và nước và nhiệt năng. Như vậy còn gì đâu để mà xây dựng cơ thể.
Con đọc bài phương pháp chữa bệnh Seignalet
Chứng minh cây trồng phân hữu cơ sẽ dinh dưỡng cao hơn vì không làm chết vi khuẩn tạo ra B12 cho cây. Trong ruột người cũng có vi khuẩn để tạo ra B12 cho cơ thể. Ăn nhiều đường có thể làm chết các men vi sinh trong ruột
Vậy con muốn hỏi TẬP VÕ nên ăn đường trong bữa ăn trưa, ăn xong sau 30 phút kéo ép gối 600 lần để tiêu hóa đường trong máu rồi sau đó chiều tập võ không cần ăn đường nữa
Trả lời :
Có 3 nguyên tắc khi dùng đường :
Đo áp huyết 2 tay trái và phải. Số thứ nhất là khí lực/số thứ hai là Huyết/số thứ ba là nhịp tim, chỉ cơ thể nóng hay lạnh do sự trao đổi khí lực và Huyết tạo ra nhiệt lượng làm nhịp tim dập đúng tiêu chuẩn và bàn tay không nóng không lạnh.
Ngược lại nhịp tim nhanh mà tay chân lạnh, hay nhịp tim chậm mà chân tay nóng, là đường trong máu chuyển hóa nghịch, nên cần phải dùng máy đo đường thực tế xem đúng tiêu chuẩn không, từ 6.0-8.0mmol/l khi bụng đói, từ 8.0-12.0mmol/l khi bụng no.
Sau khi ăn 30 phút, chọn bài tập khí công để chuyển hóa thức ăn và đường, mỡ trong máu, lệ thuộc vào áp huyết cao thì tập bài Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng thật chậm 600 lần làm hạ áp huyết, hoặc tập rất nhanh làm tăng áp huyết khi áp huyết thấp.
Nhưng công dụng của bài tập là : Khi ép đầu gối bên trái vào bụng bên bao tử làm co bóp bao tử 600 lần nhồi thức ăn thành lỏng, nhận sức nóng của tim làm chín nhừ thức ăn, nhận oxy từ phổi biến thức ăn thành dưỡng trấp trôi hết xuống ruột non, ép sát 2 chân vào bụng làm co bóp thận lọc chất bổ của dưỡng trấp thành máu, nhồi bên gan bơm máu cũ lên tim tuần hoàn, nhận máu mới từ thận đã lọc về gan, nhồi gan bơm máu lên tim nhận oxy từ tim đem máu nuôi các tế bào trong cơ thể.
Tuy nhiên, trước khi tập phải đo đường trong máu, nếu thấp dưới 6.0mmol/l, theo tây y là tốt, nhưng khi tập đường sẽ tụt thấp khi cho ra năng lượng và nhiệt lượng để chuyển hóa thức ăn, sẽ tụt xuống còn 4.0mmol/l nên bị mệt không thể tập được, nên phải uống thêm đường cho tăng lên 7-8.0mmol/l.
Nếu đường đã cao sẵn thì không cần uống thêm đường mà chỉ tập thôi.
Đối với người mập, có nhiều mỡ bụng, thì không cần phải uống đường, mặc dù thử đường thấp, vì đường nằm trong mỡ khi tập người nóng tan mỡ bụng, thì sau khi tập, thử đường có thể tăng lên hơn 10.0mmol/l
Chỉ uống thêm đường trong khi tập chưa đủ số 600 lần mà cơ thể thấy mệt không đủ sức tập nữa là cơ thể thiếu đường, nên cần uống thêm đường mới tập tiếp được. Tập võ cũng vậy, khi mệt mới cần thêm đường.
Trong mọi trường hợp tập xong, phải đo lại áp huyết và đường, người áp huyết cao sẽ xuống thấp, người áp huyết thấp sẽ tăng lên cao, nhưng đường thử lại dưới 6.0mmol/l thì phải ngậm kẹo (mỗi cục kẹo là 1 thìa nhỏ đường) để đường tăng lên, vì trong vòng 30 phút không ngậm kẹo hay uống đường, thì đường sẹ tụt thấp xuống 4.0mmol/l bị té xỉu như người bị trúng gió và làm mất năng lượng, kiệt sức, suy tim mạch, vì thiếu đường cho cơ van tim co bóp hoạt động.
Đường cho năng lượng nuôi thịt và cơ bắp, còn thức ăn là dưỡng trấp chuyển hóa thành máu trong máu vẫn giữ lượng đường 6.0-8.0mmol/l, và men trong ruột non chuyển hóa chất bổ đủ loại thấm qua màng ruột non theo mao quản li ti vào các ống mạch, theo máu đen về thận lọc máu chuyển máu về gan, gan đưa máu lên tim, nhận oxy từ phổi thành máu đỏ lại tuần hoàn tiếp tục.
Mục đích bài viết này giúp cho qúy vị nào muốn ăn gạo lức muối mè để chữa bệnh nên nghiên cứu công dụng, để áp dụng cho đúng hầu tránh hậu qủa nguy hiểm chết người khi vào bệnh viện cấp cứu thì tây y không còn cứu kịp.
3-Biết chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn tốt hay xấu :
Theo lý thuyết đông y khi chúng ta biết đói là do chức năng gan làm việc trước để tiết chất chua và mật sang bao tử khiến chúng ta xót bụng, bị đói, muốn ăn, như vậy khi đo áp huyết bên tay phải thuộc chức năng gan thì áp huyết đo bên tay phải cao ở mức tối đa trong tiêu chuẩn tuổi, áp huyết đo bên tay trái thuộc chức năng bao tử chưa ăn bụng đói thì áp huyết sẽ ở mức tối thiểu trong tiêu chuẩn.
Thí dụ tuổi trung niên áp huyết là : 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75
Khí lực 120 là tối thiểu, số 130 là tối đa trong tiêu chuẩn tuổi.
Có 3 trường hợp theo dõi áp huyết để biết chức năng hấp thụ chuyển hóa tốt hay xấu :
a-Chức năng hấp thụ chuyển hóa thuận được bao nhiêu phần trăm :
Khi bao tử đầy, đo áp huyết bên tay trái sau khi ăn no sẽ tăng cao ở mức tối đa, bên gan nghỉ ngơi áp huyết hạ xuống mức tối thiểu, và độ chênh lệch 10mmHg thì sau 4 tiếng đồng hồ, thức ăn trong bao tử được chuyển hóa hết, áp huyết trong gan lại sẽ tăng tối đa làm bao tử đói, và áp huyết trong bao tử lại hạ thấp tối thiểu để lại thèm ăn, như vậy là chức năng hấp thụ và chuyển hóa thuận đúng quy luật.
Nếu 2 tay áp huyết chênh lệch 5mmHg thì chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn giảm một nửa, thí dụ bao tử chứa 500g thức ăn, nếu chuyển hóa được một nửa, thì thức ăn còn đọng lại trong bao tử 250g, tích lũy lâu ngày trong bao tử sẽ tăng nồng độ acid làm ợ chua, ợ chất đắng lên họng, đưa khí lên tim làm tăng áp huyết và phần còn lại kết khối đóng cục cứng trong bao tử, sờ ấn ở bụng thấy đau ở một chỗ, lâu ngày thành ung thư bao tử, phải cắt một phần bao tử nơi bướu do thức ăn dư thừa thối loét tạo ra bướu đó.
Lý do chức năng hấp thụ và chuyển hóa ít, do ăn qúa no dư thừa, hay vẫn ăn như bình thường mà khí lực của vị khí co bóp hết năng lượng co bóp, do thiếu đường chuyển hóa, đo đường-huyết sẽ thấy thấp dưới tiêu chuẩn.
b-Chức năng hấp thụ chuyển hóa nghịch :
Ngược lại, chức năng bao tử và gan hoạt động không đồng bộ thì khi bụng đói, đo áp huyết bên trái vẫn cao ở mức tối đa, áp huyết bên gan ở mức tối thiểu là gan chưa tiết mật và acid, nhưng sau khi ăn, gan mới tiết mật và acid để làm tiêu thức ăn cũ nên chúng ta đo áp huyết sau khi ăn thì áp huyết bên gan lại tăng cao, áp huyết bên bao tử lại xuống thấp, có nghĩa là thức ăn vừa ăn vào bao tử thì bao tử lại nghỉ không làm việc nữa. Nếu không theo dõi bằng máy đo áp huyết chúng ta cũng biết được, sau khi ăn thì cơ thể mệt, buồn ngủ, đó là bao tử muốn nghỉ dưỡng sức.
Đông y gọi bệnh này là gan-tỳ bất hòa, khi ăn xong thì đau tức hông sườn, là bệnh do chức năng tiết mật và acid của gan. Nguyên nhân do gan có bệnh như thiếu máu, thiếu mật, gan teo, gan sưng...
c-Tử vong sau khi ăn do chức năng hấp thụ và chuyển hóa không làm việc :
Mặc dù chúng ta vẫn uống thuốc trị bệnh áp huyết hay bệnh tiểu đường, nhưng chúng ta không lưu tâm đến việc đo áp huyết trước và sau khi ăn, nên bị chết oan uổng.
Thí dụ trước khi ăn đo áp huyết bên tay trái đúng ra là phải ở mức thấp tối thiểu, bên tay phải ở mức cao tối đa trong tiêu chuẩn tuổi, nhưng nếu đến giờ ăn buổi chiều mà áp huyết tay trái đã cao ở mức tối đa 140, là chức năng chuyển hóa thức ăn bữa sáng không làm việc, không chuyển hóa, nên sau khi ăn thêm bữa cơm chiều xong thấy khó chịu, tức bụng, mệt buồn nôn ói ra thức ăn, xuất mồ hôi, tưởng trúng gió, trúng cảm, nhưng không đo lại áp huyết lúc đó đã tăng 160, sau khi nằm nghỉ 1 đêm thấy tạm ổn, sáng dạy uống thuốc trị áp huyết, trị tiểu đường rồi ăn sáng bỗng nhiên gục đầu xuống bàn tắt thở, do hai nguyên nhân : ăn thêm vào khiến bao tử không tiêu làn tăng áp lực bao tử chèn ép tim ngực làm khó thờ, làm tăng áp huyết lên trên 200mmHg, uống thuốc hạ đường làm bao tử không chuyển hóa được vì thiếu nhiên liệu của tỳ-vị là chất ngọt.
Cách đề phòng bệnh :
Trong trường hợp đo áp huyết trước khi ăn mà áp huyết bên tay trái đã cao, thì nên bỏ bữa ăn đó, hay ăn cháo lỏng với đường thẻ, nó không làm đầy và no hơi nên áp huyết không bị tăng, và có đường làm tăng nhiệt cho bao tử làm việc co bóp, nếu sáng hôm sau áp huyết tay trái chưa xuống ở mức tối thiểu thì ăn cháo tiếp, thử đường nếu thiếu, thì ăn cháo với đường, còn đủ đường thì không cần ăn thêm đường, như vậy gọi là ăn cháo nhạt, đông y có câu : Nhạt tháo thấp, có nghĩa là ăn nhạt thì những thức ăn ứ đọng đình trệ gây ra khí ẩm thâp hàn hay ẩm thấp nhiệt bị tống ra khỏi cơ thể. Đông y cũng có loại thuốc theo toa cổ truyền căn bản làm thành thuốc viên uống có tên là : Kiện Tỳ Dưỡng Vị Hoàn (Jian Pi Yang Wei Tablets, đánh chữ này lên Internet sẽ thấy nhiều hãng thuốc bán), nó làm tiêu thức ăn trong bao tử, làm hạ khí làm hạ áp huyết và hạ đàm, thức ăn được chuyển hóa thành máu.
4-Khám phá ra nguyên nhân sạn mật :
Khi đo áp huyết tay trái thuộc tỳ-vị và tay phải thuộc gan mật, so sánh nhịp tim hai bên khác nhau nhiều, theo đông y nhịp tim chì hàn-nhiệt trong cơ thể, thì nhịp tim bên tay trái bình thường thí dụ 70, nhưng nhịp tim bên tay phải thấp hơn chỉ có 60-65 là hàn, bệnh nhân đau tức dưới sườn nơi vị trí túi mật cứng, chụp hình thấy 1 khối to bằng ngón tay cái, tây y kết luận là sạn mật cần phải mổ cắt bỏ tui mật.
Nhưng trường hợp này Y Học Bổ Sung cần thử đường-huyết thấy thấp dưới 5.0mmol/l làm cơ thể thiếu nhiệt, mật đặc cứng lại không tiết mật.
Cách chữa :
Chỉ cần uống thêm đường, tập bài Kéo Ép Gối vào Bụng 600 lần để thông khí toàn thân, làm ấm nóng người, đo lại áp huyết số thứ 3 nhịp tim tăng bằng nhau, thí dụ như 70-72, sờ vào túi mật hết cứng đau, vì mật từ chất đặc biến thành chất lỏng, sẽ tiết mật cho tiêu hóa dễ dàng, nhiều người tập theo KCYĐ đã thoát khỏi bị mổ cắt bỏ túi mật oan uổng..
Còn người đã cắt túi mật, thì đo máy Quest, chỉ số bơm máu ở đưởng kinh Mật ngón chân thứ 4 bên phải, hiện ra con số 0.5 không có biến đổi tăng giảm, còn ngón chân thứ tư bên chân trái chỉ chức năng tiết mật của lá gan, vẫn hiện ra số từ 1.1 đến 2.5 là chức năng tiết mật yếu, nhưng có tăng giảm số chứ không đứng nguyên là 0.5.
5-Khám phá ra bệnh nhân có gắn máy trợ nhịp tim trong người :
Khi đo áp huyết bên tay trái lúc nào cũng có nhịp tim thấp dưới 70 không thay đổi, thì dụ như 65, nhưng tay mặt thay đổi luôn luôn thấp hơn hay bằng tay trái, thí dụ như 55-65. Tại sao vậy, bởi vì nhịp tim đập bên tay trái có đặt máy trợ nhịp tim với nhịp cố định 65 lần /phút được đặt trong hõm vai trên phổi bên trái. Có nghĩa là bệnh nhân bị suy tim, mạch đập chỉ có 60 làm mệt nên dùng máy trợ nhịp tim lên với tốc độ 65 để tim bơm máu tuấn hoàn đều. Khi mới đăt máy trợ tim thì mạch 2 tay tương đương gần nhau từ 63-65, nhưng vì không chữa gốc nguyên nhân tại sao nhịp tim mạch thấp dần, như vậy mạch thấp dần mới là tình trạng thật của sức khỏe, thí dụ nhịp tim 60, trong khi nhịp tim bên tay trái vẫn giữ nhịp tim đèu 70 nhịp, đó là nhịp của máy trợ tim.
Nếu hai bên tay có nhịp mạch chênh lệch, tay bên phải thấp nhiều xuống 50 mà bên tay trái vẫn giữ nhịp 65 thì bệnh nhân mau suy tim, người rất mệt khó thở, tây y phải đổi máy trợ thở có tốc độ bơm thấp hơn là 55, như vậy chưa phải là chữa vào nguyên nhân gốc gây ra bệnh do thiếu lượng máu, và thiếu vận động khí để trợ giúp cho nhịp tim đập nhanh, nếu tiếp thêm máu, ăn thêm những chất bổ máu và tập vận động sao cho nhịp tim đập nhanh vượt cao hơn tốc độ đập bơm máu của máy thì máy trợ tim sẽ tự động ngưng nhờ tập luyện khí, thì đo áp huyết cả hai cánh tay nhịp tim cao hơn 70, lúc đó máy trợ tim sẽ tự động ngưng chứ không phải máy bị hư.
Cách chữa :
Vào internet đánh chữ : Video Vỗ Tay 4 Nhịp, và video Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng, rồi tập theo mỗi ngày cho đến khi nhip tim hai bên tay cao hơn máy và trở lại nhịp bình thường 70-80 là khỏi bệnh.
6-Biết trước dấu hiệu bệnh đột qụy để phòng ngừa ( stroke)
Nhiều người có bệnh cao áp huyết biết nguy cơ của tai biến đột qụy, nhưng có Muốn đề phòng tai biến đột qụy (stroke) cần phải theo dõi đo áp huyết sau mỗi bữa ăn thì lại lười, chỉ ỷ lại vào bác sĩ và thuốc, mà không biết rằng mình sắp bị tai biến.
Dù có uống thuốc chữa bệnh cao áp huyết, cholesterol, hay aspirine là loãng máu hay không, chúng ta tin vào thuốc và tin vào máy đo áp huyết thông thường vào mỗi buổi sáng thấy áp huyết ổn định dưới 140mmHg, nên đôi khi lơ là không cần đo. Nhưng chúng ta không biết rằng áp huyết thường tăng cao sau khi ăn no đầy hơi, không tiêu, hay sau khi uống 1 lon Coke, ăn vài trái hồng, sầu riêng, mít, nhãn, xoài...đã làm tăng áp lực khí lên tim, hay sau một trận cười lớn tiếng, hay sau một cơn giận dữ, hay sau một cái với tay lên cao lấy đồ vật...., đều có ảnh hưởng đến cơ co bóp của tim làm thay đổi áp huyết tăng cao.
Có nhiều bác sĩ hay dược sĩ cười mình, bảo mình điên hay sao mà cứ đo áp huyết trước và sau khi ăn hoài vậy, chỉ cần đo mỗi sáng là đủ rồi. Nhiều bệnh nhân bị tai biến dẫn đến tử vong, có con cháu là bác sĩ dược sĩ đầy nhà, vẫn theo dõi áp huyết cho bố mẹ hàng ngày mà không để ý cơn đột qụy chỉ xẩy ra sau khi ăn no đầy hơi không tiêu làm tăng áp huyết, hay sau bữa cơm chiều tối, sáng ngủ dậy mới biết đột qụy. Các cụ có bệnh cao áp huyêt, uống thuốc trị cao áp huyết rất ổn định, nhưng sau khi ăn vài múi sầu riêng hay vài trái hồng thì gục xuống bàn ăn, tưởng là do nghẹn, người bủn rủn như trúng gió...có ngờ đâu mỗi múi sầu riêng hay 1 trái hồng làm áp huyết tăng lên 10mmHg, ăn nhiều thì áp huyết tâm thu tăng nhiều đột ngột lên đến 180-200mmHg đứt mạch máu não.
Mọi người bỏ qua không chịu đo áp huyết sau mỗi bữa ăn, để biết chức năng gan mật, lá lách và bao tử có làm nhiệm vụ hấp thụ và chuyển hóa thức ăn có tốt hay không. Nếu chức năng hấp thụ và chuyển hóa tốt thì trước khi ăn áp huyết tay trái bên bao tử phải rỗng là đói, thì áp huyết thấp tối thiểu 130mmHg, bên tay phải áp huyết tối đa cao 140mmHg là gan đang làm nhiệm vụ tiết mật và chất chua cho bao tử biết xót và đói đòi ăn. Nhưng sau khi ăn thì bao tử no, áp huyết tăng tối đa 140mmHg, bên tay phải gan nghỉ ngơi áp huyết xuống thấp tối thiểu 130mmHg,
Chênh lệch áp huyết 2 tay là 10mmHg thì sự chuyển hóa mạnh nhanh 100%, chệêh lệch ít thí dụ 3mmHg thì chuyển hóa có 30%, thức ăn còn đọng lại trong bao tử lên men làm đầy hơi, ợ hơi, sẽ làm tăng áp huyết, lâu ngày bao tử nóng bị loét bao tử, thức ăn cũ ứ đọng trong bao tử mà bao tử không đủ lực co bóp tống nó ra ngoài thì đáy bao tử cứng dần làm đau khi ấn vào, vài năm thành bệnh ung thư bao tử phải cắt bỏ 1/3 bao tử.
Ngược lại áp huyết sau khi ăn, đo bên bao tử tay trái lại xuống thấp, bên tay phải là gan lại lên cao là chức năng bao tử sau khi ăn vào thì bị liệt nó không đủ sức làm việc, nên khiến mình buồn ngủ. Đó là chức năng chuyển hóa nghịch thành bệnh ăn không tiêu. Sau khi ăn, tiêu hóa tốt thì áp huyết bên tay trái cao 140mmHg sau 4 tiếng áp huyết tay trái bên bao tử lại đói xuống thấp 130mmHg khiến thèm ăn, đó là chuyển hóa thuận.
Trong trường hợp ăn bữa cơm sáng áp huyết bên tay trái 140mmHg mà đến bữa cơm chiều áp huyết tay trái không xuống vẫn còn cao 140mmHg, có khi bao tử lên men làm đầy hơi dội khí lên tim làm áp huyết cao hơn đến 150mmHg, nếu không đo thì không biết, thay vì cần phải bỏ bữa ăn chiều cho áp huyết đừng tăng cao, nhưng lại ăn vào làm áp huyết tăng cao theo lượng thức ăn và chất bổ của thức ăn, ăn xong làm mệt đi nghỉ ngơi, lúc đó nếu đo áp huyết sẽ thấy đã tăng đến 180mmHg ngủ qua đêm khí bao tử tăng cao lúc đó áp huyết có thể lên tới 220mmHg đút mạch máu não mà không biết không biết vì không đo sau khi ăn, bệnh nhân ngủ say trong giấc ngủ ngàn thu.
Như vậy đột qụy do số tâm thu cao hơn 30-40mmHg trở lên so với tiêu chuẩn tuổi. Để biết cách phòng ngừa, chúng ta nên đo áp huyết sau khi ăn, sau khi giận hay cười làm đỏ mặt, hay sau khi làm việc cảm thấy chóng mặt xây xẩm...
Thí dụ tuổi trung niên áp huyết tiêu chuẩn :120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
Nếu khí lực tăng thêm 30-40mmHg thường xuyên mà uống thuốc không giảm xuống được có nghĩa là đo áp huyết lên tới 160-170mmHg trở lên thì người này còn trẻ cũng vẫn bị stroke.
Tiêu chuẩn áp huyết tuổi lão niên :130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Nếu khí lực tăng thêm 30mmHg có nghĩa là đo áp huyết lên tới 170-180mmHg trở lên
Khi áp huyết vẫn cao như thế thì cơn đột qụy sẽ xẩy ra sau khi ăn no không tiêu, đầy hơi hay ăn bữa tối no sáng ngủ dậy bị stroke..vì áp huyết tăng cao đôt ngột do không thường xuyên đo áp huyết mỗi ngày để biết áp huyết thay đổi theo những thức ăn làm tăng áp huyết như đã kể trên mà không biết.
Cách chữa :
Sau khi đo thấy áp huyết cao như trên, nên uống ngay 1 ly nước chanh đường, chua nhiều hơn ngọt, có thể thay nước lạnh bằng nước soda, perrier, nước suối...và nằm nghỉ, cơ thể buông lỏng không căng thẳng mà tưởng tượng như người thở dài chán đời, tây y gọi là bệnh dep, nhớ há miệng thở nhẹ bằng miệng cho khí thoát ra miệng làm giảm áp lực khí lên đầu và kê đầu cao cho máu không dồn lên đầu thì số tâm thu sẽ giảm xuống. Cần nhịn ăn hay ăn cháo gạo lức nấu lỏng với it đường, dùng trong vài ngày, đừng để táo bón cũng làm tăng áp huyết, nếu bị bón, uống 4-5 viên Senna Laxative để xổ độc trong gan ruột mỗi tuần
Nên tập khí công mỗi ngày 2 lần, bài “Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng “ sau mỗi bữa ăn 30 phút, tập chậm từ từ 600 lần giúp bao tử nhồi bóp nhuyễn thức ăn để chuyển hóa tiêu thụ hết 100% thức ăn làm bao tử rỗng, bụng nhỏ lại, và làm hạ áp huyết, hạ đường, thông khì toàn thân, tăng thêm oxy thông máu não.
Vào internet đánh chữ : video “Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng “ và tập theo.
7-Biết trước dấu hiệu tai biến nhồi máu cơ tim để phòng ngừa ( heart attack)
Áp huyết của tuổi trung niên và lão niên có dấu hiệu nhồi máu cơ tim.
120-130/100-120 mmHg, mạch tim đập 70-75 hay thấp hơn là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/100-120mmHg, mạch tim đập 70-80 hay chậm hơn là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Khi đo số tâm trương cao hơn 20mmHg trở lên so với tiêu chuẩn tuổi. Khi đo áp huyết thường xuyên có số tâm thu cao hơn 90 dù ở tuổi trung niên hay lão niên, mà số khí lực bình thường, có dấu hiệu thỉnh thoảng đau nhói giữa tim ngực thoáng qua. Bệnh nặng thì dấu hiệu này xẩy ra thường xuyên. Sau khi ăn no không tiêu thì áp lực tâm thu sẽ cao hơn mới bị nhồi máu cơ tim.
Muốn biết trước để phòng ngừa tai biến nhồi máu cơ tim, nên đo áp huyết sau khi ăn, để biết thức ăn nào đã làm số tâm trương tăng hay giảm.
Giai đoạn 1 : Báo hiệu có cục máu đông qua tim.
Đừng nên ỷ lại vào thuốc đang điều trị cholesterol và thuốc aspirin 80mg chống đông máu, nếu thấy có 2 dấu hiệu sau đây :
Khi đo áp huyết máy bị nhồi bơm 2-3 lần mới cho kết qủa, khi máy đo không bị nhồi thì áp huyết thấp, nhưng khi máy bị nhồi thì kết qủa lại bị cao vượt tiêu chuẩn, nhiều người tưởng máy đo bị hư, đi mua máy đo khác cũng bị nhồi như vậy có nghĩa là có cholesterol kết tủa thành caillot (cục máu đông), khi cục máu đông nhỏ qua khỏi tim thì đo áp huyết trở lại thấp bình thường, nên mình bỏ qua.
Giai đoạn 2 : Tim thỉnh thoảng có cơn nhói đau thoáng qua
Khi đo áp huyết thỉnh thoảng vẫn bị nhồi và khi không bị nhồi áp huyết tâm thu vẫn thấp, nhưng tâm trương cao hơn 90-100, tim nhói đau thoáng qua hơi làm khó thở rồi trở lại bình thường.
Giai đoạn 3 : Cơn nhói đau tim tức ngực khó thở như suyễn
Lúc nào đo máy cũng bị nhồi, nhưng kết qủa tâm thu thay đổi thường xuyên không cao hơn 150, nhưng tâm trương mỗi ngày mỗi cao hơn 100, kèm dấu hiệu tức ngực khó thở như suyễn
Giai đoạn 4 : Sắp bị nhồi máu cơ tim gây đột qụy.
Khi đo áp huyết bị nhồi và số tâm trương vẫn cao 110-120mmHg, có nghĩa là đang bị ứ nghẽn máu trong tim, khiến tim tuần hoàn bơm máu chậm, nhịp tim càng chậm, làm thiếu oxy lên não, thỉnhhoáng qua, nhưng số tâm thu còn thấp khoảng 150, cái đau tức ngực đến thường xuyên hơn, nhưng sau khi ăn no cảm thấy khó thở tức ngực, đau tức hông sườn là áp lực tâm thu tăng cao trên 180 đẩy những cục máu đông vào tim mà nó không thoát ra khỏi tim được khiến bị vỡ tim bất thình lình sẽ chết. Những lúc có dấu hiệu này xẩy ra, cần phải đo áp huyết ngay khi thấy số tâm trương cao phải báo cho bác sĩ hay gọi xe cấp cứu .
Cách chữa phòng bệnh :
Cần áp dụng bài tẩy sạn gan mật làm tiêu cholesterol kết tủa thành sạn chứa trong gan và mật, thông ống động mạch tim, áp huyết đo trước và sau khi tẩy sạn gan mật. Áp huyết xuống trở lại bình thường và số thứ hai tâm trương xuống thấp theo tiêu chuẩn tuổi.
Đánh chữ : video tẩy sạn gan mật lên internet có hướng dẫn phương pháp áp dụng.
Sau khi tẩy sạn, kết qủa thu được từ 30-300 cục sạn to hơn ngón tay nhỏ bằng hột đậu đủ mầu, dẻo dai chắc không tan trong nước nhưng tan thành mỡ ở nhiệt độ cao.
8-Đo áp huyết ở hai cổ chân xem thận còn chuyển hóa nước tốt hay không.
Tiêu chuẩn áp huyết đo ở cổ chân trong nơi huyệt Tam Âm Giao, thì số đầu tâm thu là Khí Lực của chân phải cao hơn ở tay 10mmHg so với tiêu chuẩn tuổi, thì chân mạnh khỏe có lực.
Riêng số thứ hai tâm trương ở chân không gọi là lượng máu qua tim, mà gọi là lượng máu trong ống tĩnh mạch chân, nếu lớn hơn tiêu chuẩn là hở van tĩnh mạch chân làm tĩnh mạch chân phình to như mạch lươn, có hai loại phình tĩnh mạch nông và sâu, nông là nhìn thấy những gân máu đen nơi bắp chân nổi vòng vèo, sâu là nằm sâu bên trong không nhìn thấy, nhưng bệnh phình tĩnh mạch chân làm đau nhức chân, phù chân, nặng chân và làm hở van tim, suy tim.
Thí dụ cơ thể có 4 lít máu phân phối toàn thân đi và về đều chạy qua tim, 1 lít máu tuần hoàn vùng thượng tiêu từ ngực lên đầu, ra tay, 2 lít máu tuần hoàn trung tiêu vùng bụng trên rốn, 1 lít máu tuần hoàn vùng hạ tiêu dưới rốn xuống hai chân, nhưng khi tĩnh mạch chân phình, cơ bắp co bóp ở chân không vận động đi lại để bắp chân ép vào tĩnh mạch đẩy máu đen trả về tim nhờ những van trong ống tĩnh mạch, nên lượng máu qua tim bị thiếu hụt khiến cho van tim và cơ qủa tim phải tăng sức co bóp đẩy màu đi và hút máu về qúa sức chịu đựng của cơ tim, nên tim cũng bị phinh to làm hở van tim.
9-Đo áp huyết ở chân biết được phình tĩnh mạch chân do uống lượng nước dư thừa.
Nếu không phải là người mang bầu, khi đo áp huyết dưới chân cao hơn tiêu chuẩn thí dụ như chân trái đo được :
200/120mmHg nhịp mạch chân hoặc thấp như 60, hoặc cao như 100, các con số có nghĩa là :
a-Nếu số đo này ở bên chân trái thì khí lực 200mmHg là khí bị đè ép ở động mạch háng, do xệ ruột bởi nhiều nguyên nhân như bụng dưới to giống như có bầu, bụng nhiều mỡ, bụng hay ruột chứa nhiều nước, bệnh phình liệt khúc ruột trực trường chứa nhiều nước, nhiều phân mà vẫn bị táo bón, vì ruột mất đàn hồi co bóp để đẩy phân.
Số thứ hai 120 là hở van tĩnh mạch chân làm các tĩnh mạch sau bắp chân nổi gân xanh đen chằng chịt ngoằn ngoèo gây sưng phù đau nhức, đầu gối có nước.
Cách chữa phình tĩnh mạch chân
Dùng cuộn băng quấn bụng loại thung co giãn (élastic), quấn chặt vào 2 bắp chân bó bắp chân cho các van tĩnh mạch hẹp lại, dùng kim thử tiểu đường châm nặn máu 5 đầu ngón chân, rồi tập bước lên xuống cầu thang mục đích làm cho bắt thịt chân khi cử động ép vào tĩnh mạch chân để máu đen trong mỗi đoạn van chân đẩy dồn máu lên trên về tim, và máu ứ đọng ở chân chảy thoát ra các ngón chân. Khi bó chân bằng băng cuốn thì tập lên xuống cầu thang hay đi lại làm việc trong nhà, không nên ngồi 1 chỗ, máu bị bó chặt không cử động sẽ không lưu thông được, tối khi đi ngủ hay đi tắm thì tháo băng ra. Quấn băng và đi lại làm việc bình thường khi tháo băng không còn thấy gân xanh nổi lên và đi hết đau thì không cần dùng đến băng nữa, nhưng nhớ rằng nguyên nhân phình tĩnh mạch là do uống nước nhiều, nằm ngồi 1 chỗ không đi lại thì máu ứ trong ống tĩnh mạch không được bắp chân co bóp về tim sẽ ứ đọng lại làm phình tĩnh mạch, khí đó lại phải bó bắp chân làm cho ống tĩnh mạch hẹp lại thì van tĩn mạch mới đóng chặt lại được
10-Biết được bệnh đau đầu gối do ứ nước.
Khi áp huyết ở chân cao như trên.
Nếu số thứ ba chỉ nhịp mạch ở chân thấp 60 là chân lạnh không có cảm giác, cứng chân, đùi, sờ đầu gối thấy lạnh phình to ra do ứ nước, đau bên trong đầu gối, hay bàn chân sưng, ấn ngón tay vào cổ chân thấy lõm ...khó cử động, móng các ngón chân xanh đen, nếu châm nặn máu sẽ ra máu đen là máu không tuần hoàn trao đổi oxy.
11-Biết được dấu hiệu bệnh hoại tử.
Nếu áp huyết ở chân cao và số thứ ba lúc nào cũng cao hơn 100 làm chân bị nóng thường xuyên, và số thứ nhất cao do háng bị chèn ép máu không lưu thông trao đổi oxy, máu nơi chân trở thành thấp nhiệt làm hư hại da nổi đỏ bầm, nếu đo đường cao ở những nơi đỏ bầm dư đường-huyết cao hơn 20mmol/l sẽ bị thối thịt phải cưa chân.
12-Biết nguyên nhân đĩa đệm lưng bị chèn ép đau lưng, sa xệ ruột làm sưng tuyến tiền liệt hay sa tử cung làm bí tiểu.
Nếu số áp huyết ở hai chân qúa cao, do uống qúa nhiều nước làm cho bụng to như người có bầu sắp sanh, cũng có nghĩa như trên nhưng bệnh nặng thêm vì cả ruột già và bọng đái dư nước bị phình to. làm sưng tuyến tiền liệt, chèn ép van tiểu làm bí tiểu, tiểu khó, khi đứng hay đi bụng bị xệ kéo dây chằng làm sa tử cung ở phụ nữ, bí tiểu, kéo ép các đĩa đệm nơi cột sống lưng bị chèn ép làm thoái hóa đốt sống lưng, đau lưng, đau thần kinh tọa. Khi bệnh nhân nằm úp, dùng bàn tay ấn đè vào vùng thận, thấy hai thận phình to nổi cộm trên lưng, nhưng ấn không đau là thận ứ nước, ấn ngón tay vào cổ chân thấy lõm xuống không phình lên ngay là dư âm thừa nước thiếu khí, phân biệt với bệnh khí ấn ngón tay da lõm xuống nhưng phình lên ngay là có khí nhưng bị tắc khí, đông y gọi là phù khí..
13-Biết nguyên nhân sạn thận và bàng quang .
Đo áp huyết ở chân có số thứ ba thấp 60 là thận và bàng quang bị hàn bí tiểu, làm cặn nước tiểu kết thành sạn thận và sạn bàng quang, tiểu ra nước trắng đục. Nếu số thứ ba cao 100 thì thận và bàng quang nhiệt, tiểu ra mầu vàng đậm hay ra lẫn máu. Khi bệnh nhân nằm úp sờ bàn tay vào thận, thấy thận nổi cộm, và khi ấn vào thấy đau bên nào là bên thận đó có sạn.
Dấu hiệu có sạn thận làm thỉnh thoảng đau từ lưng vòng sang rốn hay đau từ rốn vòng ra sau lưng, lúc đau thì đi không được, khi đi sẽ bị đau thêm và lúc đó không nói to hay cười được sẽ bị đau thêm, thỉnh thoảng bí tiều, tiểu rắt, nước tiểu có lẫn máu là sạn đã lớn.
Cách chữa và phòng ngừa :
Ra tiệm thuốc bắc mua 1 lọ thuốc viên Kim Tiền Thảo ( Cỏ đồng tiền), tối trước khi đi ngủ uống 5 viên, ban đêm thuốc làm cho sạn mềm như trứng gà non còn trong bụng gà, khi gà đẻ ra thì vỏ trứng mới cứng, uống 5 viên buổi sáng trước khi đi tiểu, thuốc sẽ làm vỡ vỏ bọc sạn ra nước, khi đi tiểu nước tiểu đục như nước gạo. Uống mỗi ngày cho đến khi nước tiểu trong, hết vẩn đục, lưng và bụng hết đau, thử cười to thoải mái xem khi cười hết đau là khỏi bệnh.
Có thể kiểm chứng theo tây y, khi chụp hình có sạn, được bác sĩ cho hẹn ngày mổ lấy sạn, trong thời gian đợi mổ, uống Kim Tiền Thảo hết 1 lọ, thấy nước tiểu ra vẩn đục cho đến hết vẩn đục mà ra nước tiểu trong, đi đứng không thấy đau, cười nói lớn tiếng không đau, đến ngày hẹn đi mổ thì xin khám lại trước khi mổ để khỏi bị mổ oan, sẽ thấy kết qủa trong thận không còn sạn.
14-Bệnh suy tim hay hôn mê do ngộ độc nước.
Tuy nước không có chất độc, nhưng khi uống nhiều nước làm tăng áp huyết rối loạn tim mạch hay làm rối loạn chất điện giải gây hôn mê gọi là ngộ độc nước cũng dễ bị chết, còn uống quá nhiều nước thận không chuyển hóa kịp thì thận trương nở to, tây y gọi là thận ứ nước không có sốt khi nhịp mạch thấp 60, mất chức năng co bóp vào, làm đau cứng lưng, bệnh nhân nằm úp nhìn thấy rõ hai thăn thịt vùng thận nổi cứng trên lưng, nếu nhịp mạch cao hơn 120 có sốt, tiểu có lẫn máu là dấu hiệu ung thư thận, theo mạch học đông y có tên bệnh là thận tích thủy có dấu hiệu bụng to, rốn sưng, eo lưng đau, bộ sinh dục ẩm ướt có mồ hôi, tiểu không được, thận là âm, nước là âm, 2 âm thành dương hàn không vận hành bị tắc nghẽn không lên thượng tiêu, nên mặt ốm, từ bụng xuống chân lạnh to phình.
15-Đi hay bị té ngã, chân yếu không có sức do áp huyết ở tay và chân qúa thấp.
Khi đo áp huyết dưới chân thấp hơn tiêu chuẩn tuổi cũng xét theo kết qủa 3 số : Khí lực thiếu không có lực ở chân, chân không có sức, số thú hai không đủ máu xuống chân nếu thấp cả hai chân, còn thấp một bên là tắc nghẽn máu xuống chân làm máu đỏ xuống chân thiếu nên không đủ máu đen trở về tim làm van tĩnh mạch chân co nhỏ hẹp lại gây ra đau nhức buốt chân dọc theo đường đi của tĩnh mạch làm như đau những thần kinh trong chân khiến bắp chân teo dần.
Áp huyết cả tay và chân thấp có hai nguyên nhân :
a-Do lạm dụng thuốc trị áp huyết mà tây y không có áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi, cứ uống thuốc suốt đời làm áp huyết tụt thấp dưới 100mmHg xem là tốt, thì sức lực chỉ còn bằng đứa trẻ 5 tuổi nên chân yếu.
b-Do kiêng ăn sợ bệnh cao áp huyết và tiểu đường, lại ăm thêm gạo lức muối mè làm tăng dương mà không hiểu âm dương trong con người mình thừa hay thiếu.
Người mập là dư âm (dư máu, dư mỡ) thiếu dương (khí lực), người ốm là dư dương thiếu âm (thiếu máu, mỡ). Người không mập không ốm là âm-dương trong cơ thể quân bình.
Như vậy người mập dư máu hay mỡ) thì ăn gạo lức muối mè làm tăng dương mất âm, người sẽ nhỏ lại, tiêu mỡ, áp huyết cao thành thấp, khi áp huyết lọt vào tiêu chuẩn tuổi thì ngưng.
Người ốm cần ăn thêm chất bổ máu làm tăng âm cho mập lên, làm áp huyết thấp tăng lên vừa phải, khi lọt vào tiêu chuẩn tuổi thì ngưng.
Nhiều người không hiểu âm dương trong con người cứ tưởng ăn dương gạo lức muối mè nhiều càng tốt cho đến khi áp huyết xuống thấp dưới 90mmHg cơ thể mất âm dư dương, mất da thịt teo cơ bắp tay chân, vô lực chân tay yếu hay bị té ngã và thiếu âm huyết biến chứng thành nhiều bệnh dẫn đến tử vong
16-Bệnh Parkinson giả :
Bệnh Parkinson là bệnh thần kinh bị va chạm, hay tắc nghẽn làm chân tay co giật run, mất kiểm soát, dù để tay lên bàn có điểm tựa mà tay vẫn bị run giật, đầu vẫn bị lắc, chân vẫn bị run.
Còn tay chân đi đứng run lẩy bẩy do thiếu máu áp huyết thấp, thiếu sức, tây y thấy run giật vẫn cho là bệnh Parkinson, nhưng thật ra là áp huyết thấp do thiếu khí lực, thiếu máu nuôi dưỡng thần kinh, vì khi đặt tay xuống bàn có điểm tựa thì hết run giật, khi ngồi chân hết run giật, khi đi chân mới run giật, do nguyên nhân áp huyết thấp thiếu máu và thiếu đường, bởi lạm dụng thuốc trị cao áp huyết và thuốc trị tiểu đường khiến áp huyết xuống qúa thấp và đường-huyết xuống thấp.
Cách chữa :
Cần theo dõi áp huyết, nếu thấy thấp thì ăn những thức ăn bổ máu, tiêm B12, uống thuốc bổ Multivitamines, tập luyện Kéo Ép Gối để chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu, ăn thêm ngọt trong bữa ăn, sau khi ăn đường-huyết nằm trong tiêu chuẩn 8.0-12.0 mol/l, sau 4-5 tiếng đường huyết xuống trở lại như lúc bụng đói từ 6.0-8.0mmol/l là chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn tốt, không phải bệnh tiểu đường.
17-Muốn biết trước dấu hiệu ung thư gan và bao tử để phòng ngừa
Khi đo áp huyết bên bao tử số khí lực (tâm thu thấp), máu qua tim ( tâm trương thấp) và nhịp tim qúa thấp hay qúa cao so với tuổi, không thay đổi trước hay sau khi ăn, có nghĩa là không có độ chênh lệch nào sau khi ăn, là cơ co bóp của bao tử không làm việc, nên ăn không tiêu, chán ăn, không muốn ăn, thức ăn cũ còn lại trong bao tử không được co bóp trôi xuống ruột non, trở thành thức ăn hôi thối đóng cứng, ấn tay vào bao tử bị đau, gây tổn thương các tế bào bao tử trở thành bướu, phải cắt bỏ một phần bao tử.
Đo áp huyết bên gan cũng không thay đổi trước và sau khi ăn là gan có dấu hiệu không co bóp, nếu khí lực cao hơn tiêu chuẩn là có dấu hiệu chai gan, sưng cứng, ấn đè tay thay đau, ngược lại khí lực thấp là gan teo thì không cung cấp đủ máu cho tim tuần hoàn làm huyết qua tim thiếu.
Đó là những dấu hiệu báo trước tình trạng bệnh nan y trải qua năm tháng mà tây y thử máu chưa tìm ra bệnh, cuối cùng mới trở thành bệnh ung thư.
Cách phòng ngừa đừng để qúa trễ :
Sau khi ăn 30 phút tập bài “Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng” từ 300-600 lần phục hồi lại chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn khi đang bị ung thư, công dụng của bài tập làm tăng Khí Lực, Uống thêm thuốc bổ máu B12, ăn những thức ăn bổ máu dạng lỏng dễ tiêu làm tăng lượng máu qua tim, thì khí đủ sẽ đẩy máu tuần hoàn nuôi khắp các tế bào trong cơ thể, và phục hồi tế bào bệnh, bài tập làm tăng thêm lượng oxy tiêu diệt tế bào ung thư, siêng năng ăn uống tẩm bổ và tập bài trên trong thời gian 3-6 tháng sẽ thoát qua cơn nguy hiểm, tế bào ung thư biến mất dần, nhưng vẫn tập luyện diều chỉnh ăn uống cho đến bao giờ áp huyết hai tay trở lại tiêu chuẩn tuổi có độ chênh lệch 2 tay là 10mmHg thì cơ thể mới hoàn toàn bình phục.
Người không có bệnh cũng nên tập mỗi ngày sau khi ăn cơm được 30 phút, thì không cơ thể khỏe mạnh không lo bệnh tât.
Vào Internet đánh chữ : Video Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng, và tập theo.
(còn tiếp....)