Minh Triết Thiêng Liêng
http://WWW.minhtrietmoi.org: http://www.minhtrietmoi.org
Nguồn: http://www.lobsangrampa.org
LỜI NÓI ĐẦU CỦA TÁC GIẢ
Tôi đã viết quyển The Third Eye (Con Mắt Thứ Ba)[1] khi ở nước Anh, quyển sách này được viết theo đúng sự thật, nhưng nó cũng đã gây nên nhiều tranh cãi. Nhiều bức thư được gửi đến từ khắp nơi trên thế giới, và để đáp ứng yêu cầu của các độc giả quan tâm, tôi đã viết tiếp quyển sách này, Doctor From Lhasa (Bác Sĩ đến từ Lhasa).
Những kinh nghiệm của tôi, như sẽ đề cập đến trong quyển sách thứ ba, vượt xa những trải nghiệm mà hầu hết mọi người đã phải chịu đựng, và trong cuộc đời, nếu các trải nghiệm đó có xảy ra đồng thời thì cũng chỉ có một vài trường hợp mà thôi. Dẫu sao thì nó cũng không phải là mục tiêu của cuốn sách này, được viết tiếp về tự truyện của tôi.
Tôi là một Lạt ma Tây Tạng đến với thế giới phương Tây để theo đuổi đến cùng vận mệnh của tôi, đến và vượt qua tất cả những khó khăn như đã được tiên tri từ thủa thiếu thời. Thật không may, người phương Tây nhìn nhận tôi như một đồ cổ, một mẫu người cần được đặt trong một cái lồng và trưng bày như một con quái vật đến từ một thế giới không ai biết đến. Điều đó làm cho tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra cho những người bạn cũ của tôi, những Người Tuyết hoang dã, nếu những người phương Tây bắt được họ, và thực tế thì họ đang cố gắng làm điều đó.
Chắc chắn là Người Tuyết sẽ bị bắn, bị nhồi, và trưng bày trong viện bảo tàng. Thậm chí sau đó người ta sẽ tranh luận và nói rằng không có những thứ như Người Tuyết! Đối với tôi rất khó để tin rằng người phương Tây có thể tin vào truyền hình và tàu vũ trụ có thể bay vòng quanh Mặt Trăng và trở về nhưng lại không công nhận Người Tuyết hoặc “Vật thể Bay Không xác định”[2], tóm lại là bất cứ cái gì mà họ không thể cầm trong tay và xé rách thành từng mảnh để xem nó hoạt động như thế nào.
Nhưng bây giờ công việc khó khăn của tôi là chỉ đưa vào một vài trang các chi tiết của tuổi ấu thơ của mình trước khi viết cuốn sách. Tôi được sinh ra trong một gia đình quý tộc, một trong những gia đình hàng đầu ở Lhasa, thủ phủ của Tây Tạng. Cha mẹ tôi có nhiều điều để nói về việc lãnh đạo đất nước, và vì tôi thuộc đẳng cấp cao nên tôi đã được huấn luyện khắc nghiệt phù hợp với vị trí của mình trong tương lai. Sau đó, trước khi tôi lên bảy tuổi, theo tục lệ, các nhà Chiêm tinh của Tây Tạng sẽ cho biết con đường sự nghiệp trong tương lai của tôi. Để chuẩn bị cho sự kiện đó, cha mẹ tôi chuẩn bị một bữa tiệc lớn, các quan khách bao gồm tất cả các quan chức hàng đầu, các nhà quý tộc của thủ đô Lhasa được mời tham dự để nghe các nhà Chiêm tinh quyết đoán về số phận tôi. Cuối cùng thì ngày đó cũng đã đến.
Quan khách kéo đến chật ních trong nhà tôi. Các nhà Chiêm tinh đến với lá số, những biểu đồ và tất cả những thứ cần thiết cho công việc tiên tri của họ. Khi thời điểm thích hợp đã đến, tất cả mọi người tập trung lại với sự phấn khích đặc biệt, vị Thiên Giám Quan Trưởng long trọng tuyên bố phát hiện của mình, rằng khi lên bảy tuổi, tôi cần được vào tu tập trong lạt ma viện để được thụ huấn như một tu sĩ kiêm y sĩ giải phẫu. Những điều tiên tri về toàn bộ cuộc đời tôi đã được vạch ra, và thực tế, những nỗi đau đớn đã xảy ra đúng như lời tiên tri. Tôi nói “nỗi đau đớn” là bởi vì những thử thách đều là nỗi bất hạnh, gian nan và khổ đau, và cũng không dễ dàng hơn chút nào khi người ta biết trước rằng mình sẽ phải chịu đựng nó.
Tôi lủi thủi cô đơn một mình đi đến tu viện Chakpori khi tôi lên bảy tuổi. Ngay tại cổng vào tôi đã bị giữ lại, và phải trải qua một thử thách để xem liệu tôi có đủ cứng cỏi, mạnh mẽ để theo được những năm tháng huấn luyện tại đây hay không.
Tôi đã vượt qua thử thách và được nhận vào tu viện. Tôi đã trải qua tất cả các giai đoạn từ một tiểu sơ cơ, và cuối cùng tôi đã trở thành một Lạt ma, và Sư trưởng. Y học và giải phẫu là những điểm mạnh đặc biệt của tôi. Tôi đã nghiên cứu về lĩnh vực này với sự khao khát, và tôi đã được hưởng mọi điều kiện thuận lợi trong việc nghiên cứu xác chết. Ở phương Tây người ta tin rằng các Lạt ma Tây Tạng không bao giờ làm bất cứ điều gì với các cơ thể con người theo nghĩa mổ tử thi.
Có quan niệm cho rằng, có vẻ như y khoa Tây Tạng non kém, bởi vì các Lạt ma y tế chỉ điều trị các bệnh bên ngoài chứ không phải các bệnh bên trong cơ thể. Điều đó là hoàn toàn sai lầm. Tôi đồng ý là điều đó đúng với các Lạt ma bình thường, họ không bao giờ mổ một cơ thể, bởi vì điều đó trái ngược với đức tin của họ. Nhưng có những người đặc biệt trong các số các vị Lạt ma, mà tôi là một trong số đó, những người được đào tạo để thực hiện những ca mổ và những hoạt động đó thậm chí có thể vượt ra ngoài phạm vi hiểu biết của khoa học phương Tây.
Thời gian trước đây, ở phương Tây người ta cho là y học Tây Tạng dạy rằng người đàn ông có trái tim của mình ở bên này, và người phụ nữ có trái tim ở phía bên kia. Không có gì vô lý hơn thế. Thông tin kiểu đó đã được truyền lại cho người phương Tây bởi những người không có kiến thức thực tế về những gì họ đang viết, bởi vì một vài vấn đề được đề cập có liên quan đến thể vía, đây lại là một điều hoàn toàn khác. Tuy nhiên, cuốn sách này không đề cập đến điều đó.
Tôi được đào tạo thực sự chu đáo, bởi vì tôi phải biết không chỉ các môn chuyên ngành về y học và phẫu thuật, mà còn phải học thật tốt tất cả Giáo lý, cũng bởi vì tôi là một lạt ma y tế, tôi cũng đã phải trải qua các kỳ thi như một tu sĩ được đào tạo đầy đủ theo quy định của tôn giáo. Vì vậy, việc học tập cả hai ngành cùng một lúc là cần thiết, và điều đó có nghĩa là tôi phải học gian khổ gấp đôi một tu sĩ bình thường. Tôi không cho là mình đã làm điều gì đó ghê gớm!
Nhưng tất nhiên, đó chưa phải là tất cả những khó khăn mà tôi đã trải qua. Tôi đã đi tới nhiều vùng núi cao hơn nữa của Tây Tạng—Lhasa ở độ cao trên bốn ngàn thước so với mực nước biển—để thu thập các loại thảo mộc. Nền y học mà tôi được đào tạo sử dụng thảo dược để chữa trị bệnh, và tại tu viện Chakpori, chúng tôi luôn luôn có ít nhất 6,000 loại thảo dược khác nhau được bảo quản trong kho. Người Tây Tạng chúng tôi tin rằng dân tộc chúng tôi biết chữa bệnh bằng thảo dược nhiều hơn bất cứ dân tộc nào khác trên trái đất này. Đến nay, sau nhiều năm trôi qua, tôi đã đi khắp nơi trên thế giới và niềm tin ấy trong tôi càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Trong một số chuyến đi lên vùng núi cao Tây Tạng, tôi đã bay trên những chiếc diều có người lái, bay liệng phía trên những mỏm đá nhọn lởm chởm của những dải núi cao, và tìm kiếm hết dặm này đến dặm khác trên khắp vùng núi. Tôi cũng đã tham gia vào cuộc thám hiểm đáng ghi nhớ tới hầu hết các vùng mà con người hầu như không thể đến được, đến cả Cao nguyên Chang Tang[3], miền đất cao nhất của Tây Tạng. Đoàn thám hiểm chúng tôi còn tìm thấy một thung lũng hẻo lánh ấm áp nằm giữa những khe nứt trong đá, được sưởi ấm bởi những ngọn lửa vĩnh cửu trong lòng trái đất, những ngọn lửa này làm nước sôi sùng sục trước khi chảy vào dòng sông. Chúng tôi cũng tìm thấy một thành phố rộng lớn, một nửa thành phố nằm trong vùng không khí nóng của thung lũng bị che khuất, và phần còn lại bị chôn vùi dưới dòng sông băng trong suốt. Băng trong đến mức có thể nhìn thấy thành phố như thể nhìn qua làn nước trong vắt vậy. Vùng đất của thành phố đã được tan khỏi băng tuyết gần như còn nguyên vẹn. Thời gian hầu như không làm ảnh hưởng tới các tòa nhà. Nơi đây có không khí nhưng hầu như không có gió, và chính điều đó đã cứu cho các tòa nhà thoát khỏi sự hủy hoại. Chúng tôi đi bộ dọc theo các con phố, nơi mà hàng ngàn, ngàn năm về trước, những con người đầu tiên đã bước trên đó. Chúng tôi đi lang thang, qua các ngôi nhà, mà như thể chúng đang chờ chủ nhân của mình trở về, cho tới khi chúng tôi để ý hơn và nhìn thấy những bộ xương kỳ lạ, những bộ xương đã hóa thạch, và rồi lúc đó chúng tôi mới nhận ra rằng đây là một thành phố chết. Có những thiết bị lạ lùng, điều đó cho thấy rằng thung lũng bí ẩn này đã từng là quê hương của một nền văn minh cao hơn rất nhiều so với bất kỳ nơi nào trên trái đất ngày nay. Nó chứng minh một cách thuyết phục rằng chúng ta bây giờ rất lạc hậu so với người xưa: Trong cuốn sách này, cuốn sách thứ hai của mình, tôi sẽ viết nhiều hơn về thành phố đó.
Khi còn nhỏ, tôi đã trải qua một cuộc phẫu thuật đặc biệt để mở con mắt thứ ba. Một mảnh gỗ cứng đặc biệt, sau khi đã ngâm trong dung dịch thảo dược đặc biệt, được đưa vào giữa trán của tôi để kích thích một tuyến mà nó làm cho tôi tăng khả năng nhìn thấu được cả những cái vô hình. Tôi sinh ra vốn đã có khả năng thấu thị rõ rệt, nhưng rồi sau cuộc phẫu thuật, tôi thực sự khác thường, và tôi có thể nhìn thấy mọi người với hào quang bao quanh họ như thể họ được cuộn trong những ngọn lửa mầu sắc bồng bềnh. Từ hào quang của họ tôi có thể đoán được những suy nghĩ của họ, biết được họ ốm vì bệnh gì, những hy vọng và nỗi sợ hãi của họ.
Bây giờ tôi đã rời khỏi Tây Tạng, tôi đang cố gắng thuyết phục các bác sĩ phương Tây về một phương pháp mà nó có thể cho phép các bác sĩ nhìn thấy hào quang của con người. Tôi biết rằng nếu các bác sĩ có thể nhìn thấy hào quang, họ có thể thực sự nhận biết được điều gì đã ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh. Bằng cách nhìn vào mầu sắc và hình dáng của những dải màu rung động của hào quang, các chuyên gia có thể xác định một cách chính xác người đó đang bị bệnh gì. Hơn nữa, phương pháp này có thể cho biết sớm khi có bất kỳ dấu hiệu nào có thể nhận biết được trong cơ thể vật lý của con người, bởi vì hào quang cho thấy bằng chứng của bệnh ung thư, lao, và những căn bệnh khác nhiều tháng trước khi nó thực sự tấn công vào cơ thể vật lý. Như vậy, bằng cách cảnh báo sớm trước khi khởi phát bệnh, bác sĩ có thể điều trị và chữa bệnh không thể sai lầm được. Tôi thực sự thất vọng và buồn sâu sắc, vì các bác sĩ phương Tây hoàn toàn không quan tâm. Họ cho rằng đó là ma thuật, chứ không phải theo ý nghĩa hoàn toàn bình thường. Bất cứ một người kỹ sư nào cũng biết rằng dây điện cao áp có vầng hào quang xung quanh. Cơ thể con người cũng vậy, nó cũng chỉ là một điều rất đỗi bình thường về khía cạnh vật chất mà tôi muốn chỉ ra cho các chuyên gia, nhưng họ từ chối. Đó là một bi kịch. Sẽ có lúc họ phải nhìn nhận nó, nhưng bi kịch là ở chỗ từ giờ cho tới khi các nhà khoa học thay đổi cách suy nghĩ sẽ còn nhiều người phải chịu đau đớn và bị chết một cách không cần thiết.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba là người bảo trợ của tôi. Ngài đã ra lệnh dành cho tôi mọi sự hỗ trợ cần thiết trong đào tạo và truyền đạt kinh nghiệm. Ngài yêu cầu tôi cần phải được thụ huấn tối đa có thể, bằng cách giảng dạy trực tiếp, cũng như bằng phương pháp thôi miên và các phương pháp khác nữa mà tôi sẽ không đề cập đến trong cuốn sách này. Một số phương pháp được đề cập đến trong cuốn sách này, hoặc trong cuốn sách Con Mắt Thứ Ba. Những phương pháp khác còn mới lạ, và không thể tin được với trình độ nhận thức của khoa học hiện nay.
Nhờ có năng lực thấu thị, tôi đã trợ giúp cho Đáng Thái Tuế trong nhiều dịp. Tôi đã ẩn mình trong căn phòng để làm sáng tỏ những suy nghĩ và ý định thực sự của một người thông qua việc quan sát hào quang của họ. Điều này đã được thực hiện để xem xét lời phát biểu và suy nghĩ của một người, đặc biệt khi họ là các chính khách nước ngoài đến thăm Đức Đạt Lai Lạt ma. Tôi đã ẩn mình quan sát phái đoàn Trung Quốc khi họ được Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Mười ba đón tiếp. Tôi cũng đã ẩn mình quan sát khi một người Anh đến gặp Ngài, nhưng lần này, tôi suýt nữa thì không hoàn thành nhiệm vụ chỉ vì tôi hết sức ngạc nhiên khi lần đầu tiên nhìn thấy trang phục kỳ lạ của người khách Châu Âu.
Chương trình huấn luyện kéo dài đầy gian khổ. Tại tu viện, các buổi lễ và giờ học mà chúng tôi phải tham dự kéo dài suốt đêm cũng như trong suốt cả ngày, không cho chúng tôi được ngủ yên tĩnh. Chung tôi cuộn chăn và nằm ngủ trên sàn. Các thầy giáo rất nghiêm khắc, chúng tôi học tập, nghiên cứu và ghi nhớ mọi điều trong óc. Chúng tôi không ghi chép trong sách vở, mà phải đảm bảo ghi nhớ mọi điều. Tôi được đào tạo một cách toàn hảo các môn huyền vi, nghiên cứu sâu về thần nhãn, về sự di chuyển của thể vía, về thần giao cách cảm.
Trong giai đoạn khởi đầu, tôi đã được đến thăm các hang động và đường hầm bí mật bên dưới cung điện Potala, nơi mà những người bình thường không được biết đến. Chúng là những di tích của một nền văn minh lâu đời mà hầu như đã rơi vào quên lãng, và trên các bức vách là những vết tích, nhưng hình vẽ của những vật bay trong không gian, và những vật đi dưới mặt đất. Trong khoảng thời gian khác, tôi nhìn thấy cơ thể những người khổng lồ được bảo quản cẩn thận, một người cao mười feet, người khác cao mười lăm feet[4]. Tôi cũng đã đi qua bên kia cửa tử để biết rằng không có sự chết, và khi tôi trở về dương thế tôi được công nhận là một hóa thân, được mang danh hiệu Sư trưởng. Nhưng tôi không muốn làm hòa thượng, trói buộc vào một lạt ma viện. Tôi muốn trở thành một vị lạt ma, tự do đi đây đó, giúp đỡ mọi người, như lời tiên tri mà tôi đã biết. Vì vậy, tôi được mang danh hiệu Lạt ma theo lệnh của Đức Đạt Lai Lạt Ma và cũng nhờ Ngài, tôi trở nên gắn bó với cung điện Potala. Thậm chí sau đó, tôi được đào tạo tiếp, tôi được dạy về nhiều khoa học phương Tây, về quang học và những chuyên ngành liên quan khác. Nhưng rồi cũng đến lúc tôi được gọi vào nhận lệnh của đức Đạt Lai Lạt Ma.
Ngài nói với tôi rằng, tôi đã được học tất cả những gì tôi có thể học ở Tây Tạng, đã đến lúc tôi cần phải lên đường, để lại đằng sau tất cả những gì mà tôi yêu thương, tất cả những gì mà tôi quan tâm. Ngài nói rằng tôi là một sứ giả đặc biệt được gửi đến Trùng Khánh để học về y học và giải phẫu học tại thành phố này của Trung Quốc.
Con tim tôi đau đớn khi bái biệt đấng Thái Tuế, và đến gặp Thầy của tôi, Đức Lạt Ma Mingyar, để nói với Người về quyết định của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Sau đó, tôi đến nhà cha mẹ tôi cũng để nói với họ về những gì đã xảy ra và tôi sẽ rời khỏi Lhasa. Những ngày cuối cùng trôi qua, và rồi ngày lên đường đã đến, tôi rời khỏi tu viện Chakpori, lần cuối cùng nhìn Đại Đức Mingyar trong thân xác nơi trần thế và tôi đi theo con đường ra khỏi thành phố Lhasa, thành phố linh thiêng, trên đỉnh cao tột của truông núi. Và khi quay đầu nhìn lại phía sau, tôi nhìn thấy một cánh diều đơn chiếc đang bay lượn trên nóc điện Potala.
CHƯƠNG I: VÀO XỨ LẠ
Trước đây chưa bao giờ tôi cảm thấy lạnh lẽo, vô vọng và khốn khổ như vậy. Thậm chí khi ở trên vùng đất hoang tàn trên cao nguyên Chang Tang tôi còn thấy ấm cúng hơn bây giờ, nơi đó cao trên sáu ngàn mét so với mực nước biển, nơi mà những cơn gió mang bụi cát và đá sỏi, lạnh dưới không độ quất vào và cắt đứt bất cứ chỗ da thịt nào bị hở ra; Cái lạnh nơi đấy không đau đớn như cái buốt lạnh đáng sợ tôi đang cảm thấy trong tim lúc này. Tôi đang rời xa Lhasa yêu quý của tôi. Khi tôi ngoảnh nhìn lại, vẫn còn nhìn thấy đằng sau tôi một vài nóc nhà vàng son của cung điện Potala, và phía trên chúng, một cánh diều đơn chiếc nhỏ xíu đang bay lượn theo làn gió nhẹ như muốn nói, “Tạm biệt, những ngày bay trên cánh diều của bạn đã qua rồi, đã đến lúc lên đường vì những nhiệm vụ quan trọng hơn”.
Đối với tôi, cánh diều là một biểu tượng, cánh diều sẽ luôn bay lên cao trên bầu trời xanh bao la rộng lớn, nhưng nó luôn được nối với căn nhà yêu thương bằng một sợi dây mỏng. Tôi đang đi đến thế giới bao la bên ngoài Tây Tạng, nhưng vẫn luôn được kết nối với quê hương bằng sợi dây tình yêu của tôi đối với Lhasa. Tôi đang đi đến thế giới lạ lùng và khủng khiếp bên ngoài vùng đất Tây Tạng tràn đầy bình an của tôi. Tôi thực sự đau buồn khi quay lưng lại với quê nhà và cùng với những người bạn, chúng tôi đi ngựa đến xứ sở xa lạ rộng lớn. Họ cũng chẳng vui vẻ gì, nhưng họ được an ủi vì biết rằng sau khi để tôi ở lại Trùng Khánh, cách xa quê nhà hơn một ngàn dặm[5], họ có thể trở về nhà. Họ sẽ trở về, và trên hành trình đó họ có niềm an ủi lớn lao vì biết rằng mỗi bước đi sẽ mang họ về gần nhà hơn. Còn tôi sẽ phải tiếp tục đến với những miền đất và với những con người xa lạ, với những kinh nghiệm hoàn toàn mới.
Khi lên bảy tuổi, tôi đã được tiên tri trước rằng tôi sẽ vào một tu viện Lạt ma giáo và được đào tạo, trước tiên là để trở thành một chú tiểu, sau đó là một tu sĩ, và rồi đến lúc thích hợp tôi sẽ trải qua kỳ thi của một Lạt ma. Từ lúc đó, các nhà chiêm tinh cho biết, tôi sẽ rời khỏi Tây Tạng, rời khỏi gia đình và để lại đằng sau tất cả những gì mà tôi yêu thương để lên đường tới nơi mà chúng tôi gọi là Trung Quốc man rợ.
Tôi sẽ đến Trùng Khánh và nghiên cứu để trở thành một bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật. Theo các nhà tiên tri, tôi sẽ bị cuốn vào cuộc chiến và trở thành một tù nhân của một dân tộc kỳ là, và tôi sẽ phải vượt qua mọi sự cám dỗ, mọi khổ đau để mang sự giúp đỡ đến cho những ai cần. Họ còn tiên tri rằng cuộc đời tôi sẽ rất khó khăn, rằng những khổ đau và bội bạc sẽ không ngừng đến với tôi. Sao mà đúng vậy!
Thế là với những ý nghĩ ấy trong đầu – không vui vẻ chút nào – tôi động viên mình tiếp tục tiến lên phía trước.
Để giữ gìn, ngay khi vượt ra ngoài tầm nhìn của Lhasa, chúng tôi xuống ngựa và cho chúng nghỉ ngơi, phải đảm bảo là yên ngựa không buộc quá chặt, nhưng cũng không được lỏng lẻo. Những con ngựa là những người bạn thủy chung của chúng tôi trong suốt chuyến đi, và chúng tôi cần phải chăm sóc chúng ít nhất cũng phải như chăm sóc bản thân mình. Bằng cách đó, những con ngựa đã được thoải mái, chúng tôi lại lên ngựa, hướng thẳng về phía trước và lên đường.
Đó là đầu năm 1927 khi chúng tôi rời khỏi Lhasa và đi chậm chạp đến Chotang bên bờ sông Brahmaputra. Chúng tôi đã thảo luận nhiều về tuyến đường đi phù hợp và theo con đường gần dòng sông và Kanting, như đã được hướng dẫn là con đường phù hợp nhất. Brahmaputra là con sông tôi biết rõ, tôi đã có dịp may mắn được bay trên một trong những thượng nguồn của nó nằm trong phạm vi dãy Hymalaya, trên một cánh diều do người lái. Chúng tôi, những người Tây Tạng, dành cho dòng sông lòng tôn kính, nhưng không giống với lòng tôn kính ở những nơi khác. Con sông chảy hàng ngàn cây số trước khi đổ ra vịnh Bengal, nó được coi là thiêng liêng, thiêng liêng gần như Benares vậy.
Chính dòng sông Brahmaputra, như chúng tôi được nghe nói, đã tạo ra vịnh Bengal. Trong những ngày đầu lịch sử, dòng sông chảy rất siết và sâu, và nó đổ gần như dốc thẳng đứng từ trên đỉnh núi, nó xối sạch những nền đất mềm và tạo ra một cái vịnh tuyệt vời, lừng danh.
Chúng tôi đi theo dòng sông, chảy qua núi đi vào Tây Khang. Ngày xưa, những ngày hạnh phúc khi mà tôi còn rất nhỏ, Tây Khang còn thuộc về Tây Tạng, nó là một tỉnh của Tây Tạng[6]. Sau đó, người Anh tấn công vào Lhasa. Rồi đến lượt Trung Quốc, được khích lệ bởi cuộc xâm lăng thành công của người Anh đã chiếm đóng Tây Khang. Với âm mưu giết người, họ tấn công vào vùng đất đó của đất nước chúng tôi, chúng giết người, hãm hiếp và cướp bóc, và rồi chúng đã sát nhập vùng đất Tây Khang của chúng tôi vào vùng đất của Trung Quốc.
Chúng tổ chức chính quyền do người Trung Quốc cai quản, các viên chức là những người bị mất sự ủng hộ, che chở ở nơi khác đã bị đưa đến Tây Khang như một sự trừng phạt. Thật không may cho họ, chính quyền Trung Quốc đã không hỗ trợ họ, nên họ phải tự quản lý theo cách tốt nhất mà họ thể làm. Chúng tôi thấy rằng, các quan chức Trung Quốc chỉ là những con rối, những kẻ bất lực không nơi nương tựa, những người Tây Tạng cười vào mũi chúng. Tất nhiên, lúc đó chúng tôi giả vờ tuân theo các quan chức Trung Quốc, nhưng đó chỉ là phép xã giao. Sau lưng họ, chúng tôi làm theo cách riêng của mình.
Chúng tôi đi liên tục từ ngày này qua ngày khác. Chúng tôi tạm nghỉ giữa chừng tại một lạt ma viện, nơi chúng tôi có thể nghỉ qua đêm. Vì tôi là một Lạt ma, là một Sư trưởng, một vị Hóa thân, nên chúng tôi được các nhà sư cai quản tu viện đón tiếp trọng thị. Hơn nữa, tôi đang đi dưới sự bảo trợ của đức Đạt Lai Lat ma, nên điều đó thực sự được quan tâm đến một cách đậm đà hơn.
Chúng tôi đang trên đường đến Kanting. Đây là thị trấn buôn bán rất nổi tiếng, nó nổi tiếng về buôn bán bò yak của Tây Tạng, nhưng đặc biệt nổi tiếng là một trung tâm xuất khẩu trà đóng bánh rất được ưa thích ở Tây Tạng. Trà này được mang đến từ Trung Quốc, nó không chỉ là những lá trà bình thường mà có ít nhiều sự pha chế hỗn hợp hóa học. Nó gồm có lá trà, những mẩu cành, soda, muối diêm tiêu, và một số thành phần khác, bởi vì ở Tây Tạng không dồi dào hàng hóa, nên một số thành phần được nhập từ các nước khác trên thế giới, và trà của chúng tôi phải là dạng súp cũng như đồ uống. Tại Kanting, trà được trộn và đóng thành khối hay là những viên gạch theo cách gọi của chúng tôi. Những viên gạch này có kích thước và trọng lượng thuận tiện để có thể chất lên ngựa, và sau đó là chất lên những con yak để có thể chở qua các dãy núi cao tới Lhasa nơi chúng sẽ được bán và chuyên chở tới khắp các nơi khác của Tây Tạng.
Những viên gạch trà phải có kích thước và hình dáng đặc biệt, nhưng chúng cũng phải được đóng gói đặc biệt sao cho nếu như con ngựa có vấp trong những khe núi và đổ trà xuống sông thì cũng không có thiệt hại gì. Những viên gạch trà này được đóng gói chặt trong những tấm da màu xanh, hoặc như đôi khi còn được gọi là da sống, và chúng sẽ nhấn chìm nhanh trong nước. Sau đó chúng sẽ được phơi khô trên những tảng đá dưới ánh nắng mặt trời. Khi khô chúng sẽ co lại, chúng co lại một cách đáng kinh ngạc, và hoàn toàn được nén chặt. Khi khô chúng có mầu nâu và rắn chắc như nhựa tổng hợp nhưng rất chắc chắn. Những bọc này khi khô có thể lăn xuống sườn núi và đất an toàn mà không gây thiệt hại gì. Nó có thể bị rơi xuống sông, và có thể ở đó vài ngày. Nhưng khi kéo lên và phơi khô mọi thứ vẫn nguyên vẹn, nước không thể ngấm qua, không gì có thể làm hỏng. Những viên gạch trà đóng gói khô của chúng tôi là một trong những cách đóng gói hợp vệ sinh nhất trên thế giới. Bằng cách này, trà thường được sử dụng như tiền tệ. Một nhà buôn khi không có tiền, có thể đập trà ra thành từng miếng nhỏ để trao đổi. Không bao giờ phải lo lắng thiếu tiền khi có trong tay những viên gạch trà.
Sự buôn bán náo động tại Kanting gây ấn tượng với chúng tôi. Trước đây chúng tôi chỉ ở Lhasa, nhưng ở Kanting có nhiều người đến từ các nước khác, từ những nơi xa xôi như Nhật Bản, Ấn Độ, Myanma, và những người dân du mục từ phía bên kia vùng núi Takla. Chúng tôi lang thang trong khu buôn bán, nơi hòa trộn tiếng của các nhà buôn và các tiếng nói lạ và những ngôn ngữ khác nhau. Chúng tôi chen vai với các tu sĩ của những tôn giáo khác, của Thiền phái, và những người khác.
Và sau đó, kinh ngạc trước những điều hoàn toàn mới lạ, chúng tôi tới một lạt ma viện nhỏ trên đường vượt qua Kanting. Đây là nơi chúng tôi đã dự kiến sẽ đến. Lúc đó, các tu sĩ chủ nhà đang lo lắng rằng chúng tôi sẽ không đến. Chúng tôi nói ngay với họ rằng chúng tôi đi xem khu buôn bán, và nghe những tin đồn ngoài chợ. Vị sư trụ trì chào đón chúng tôi nồng hậu, khao khát lắng nghe những câu chuyện của chúng tôi về Tây Tạng, về những tin tức chúng tôi kể, vì chúng tôi đến từ nơi chúng tôi được học tập là cung điện Potala, và vì chúng tôi là những người đã từng đến cao nguyên Chang Tang và nhìn thấy những điều kỳ diệu tuyệt vời. Tiếng tăm về chúng tôi quả thực đã đến trước cả chúng tôi.
Sáng sớm ngày hôm sau, sau khi tham gia buổi lễ cầu nguyện tại tu viện, chúng tôi lại lên đường trên những con ngựa, mang theo một lượng nhỏ thực phẩm, tsampa. Lối đi chỉ là một con đường mòn theo sườn đèo đi lên. Phía bên dưới có nhiều cây, nhiều cây hơn bất cứ nơi nào chúng tôi đã từng nhìn thấy trước đây. Một vài đoạn đường bị che khuất bởi làn sương mù từ thác nước đang đổ xuống. Những cây đỗ quyên khổng lồ cũng bao phủ con đèo trong khi mặt đất như được trải thảm bằng các loại hoa, những bông hoa núi nhỏ tỏa hương thơm ngát và tô điểm mầu sắc cho cảnh quan.
Dẫu vậy, chúng tôi đang bị đè nặng nỗi khổ sở vì phải xa nhà và vì sự thay đổi áp suất không khí. Càng ngày chúng tôi đi xuống càng thấp hơn và chúng tôi cũng càng ngày càng khó thở hơn. Có một khó khăn khác làm cho chúng tôi bị khổ sở nghiêm trọng; Ở Tây Tạng, nơi không khí loãng, nước sôi ở nhiệt độ thấp hơn và ở những vùng núi cao hơn, chúng tôi có thể uống nước trà đang sôi. Chúng tôi giữ trà và nước trên ngọn lửa cho tới khi sôi sùng sục, khi đó trà đã có thể uống được. Lúc đầu, ở vùng đất thấp này, chúng tôi khổ sở vì bị bỏng môi khi chúng tôi cố gắng thử để đánh giá nhiệt độ của nước, đó là thói quen của chúng tôi, uống trà trực tiếp khi đang đun trên lửa. Chúng tôi phải làm như vậy ở Tây Tạng vì nếu không giá lạnh sẽ làm cho trà nguội ngay. Khi đó, chúng tôi không có kiến thức về không khí đậm đặc sẽ làm ảnh hưởng đến điểm sôi, cũng không nghĩ ra là chúng tôi có thể đợi để nước sôi nguội bớt mà không lo nước bị đóng băng.
Chúng tôi vô cùng khó chịu vì khó thở, vì trọng lượng không khí ép lên ngực và phổi của chúng tôi. Lúc đầu chúng tôi nghĩ rằng đó là do cảm xúc của chúng tôi khi phải rời xa Tây Tạng yêu quý, nhưng về sau chúng tôi hiểu được rằng chúng tôi đang bị ngạt thở, đang bị không khí nhấn chìm. Trước đây chưa bao giờ chúng tôi ở nơi có độ cao dưới 1000 feet[7].
Lhasa ở độ cao gần bốn ngàn mét. Chúng tôi thường xuyên sống ở độ cao hơn thế, như khi chúng tôi đến Cao nguyên Chang Tang nơi có độ cao trên sáu ngàn mét. Chúng tôi đã từng nghe nhiều câu chuyện về những người Tây Tạng rời Lhasa ra đi tìm kiếm vận may ở những vùng đất thấp. Tin đồn nói rằng họ đã chết sau nhiều tháng đau đớn vì phổi bị vỡ. Nhiều câu chuyện được thêu dệt về những người rời khỏi Lhasa để tới miền đất thấp hơn đã đi đến cái chết đau đớn. Tôi biết rằng điều đó là không đúng sự thật bởi vì cha mẹ tôi đã đến Thượng Hải, nơi họ có nhiều tài sản, họ đã ở đó và trở về an toàn. Tôi ít được làm cùng cha mẹ tôi bởi vì họ là những con người bận rộn và ở vị trí cao đến mức không có thời gian dành cho những đứa con của họ.
Thông tin của tôi được lượm lặt từ những gia nô. Nhưng bây giờ tôi đang thực sự lo sợ về cảm giác mà chúng tôi đang phải chịu đựng; phổi của chúng tôi cảm thấy rát bỏng, chúng tôi cảm thấy có những cái đai bằng kim loại bao quanh phổi giữ không cho chúng tôi thở. Mỗi hơi thở là một nỗ lực khủng khiếp, và nếu chúng tôi di chuyển quá nhanh thì nỗi đau đớn, giống như nỗi đau bị lửa đốt, sẽ bắn xuyên qua người chúng tôi.
Khi chúng tôi đi tiếp, ngày càng xuống thấp hơn, không khí trở nên dày đặc và nhiệt độ ấm dần lên. Khí hậu thật khủng khiếp đối với chúng tôi. Ở Lhasa, Tây Tạng, thời tiết thực sự rất lạnh, nhưng là cái lạnh khô ráo, cái lạnh khỏe mạnh, và trong điều kiện như vậy thì nhiệt độ là chuyện nhỏ, nhưng bây giờ, trong không khí dày đặc này với độ ẩm rất cao, chúng tôi gần như không còn sáng suốt nữa để tiếp tục đi. Một lần những người khác cố gắng thuyết phục tôi xin được quay về, trở về Lhasa, nói rằng tất cả chúng tôi sẽ chết nếu chúng tôi cứ khăng khăng liều lĩnh một cách điên rồ, nhưng tôi nghĩ đến lời tiên tri không có nói về việc quay về. Và vì vậy chúng tôi tiếp tục hành trình.
Khi nhiệt độ ấm lên chúng tôi bị chóng mặt, hầu như bị say, và dường như chúng tôi bị rắc rối với đôi mắt. Chúng tôi không thể nhìn xa, nhìn rõ như bình thường và sự đánh giá về khoảng cách đều bị sai. Mãi về sau tôi mới tìm được lời giải thích. Ở Tây Tạng, không khí trong sạch và tinh khiết nhất trên thế giới, có thể nhìn xa trên tám mươi cây số, và nhìn được rõ ràng như chỉ gần hai chục cây số. Còn ở đây, trong không khí dầy đặc của vùng đất thấp, chúng ta không thể nhìn xa như vậy, và những gì mà chúng ta thấy đã bị méo mó vì không khí đậm đặc và nhiễm bẩn.
Trong nhiều ngày, chúng tôi đi liên tục, ngày càng xuống thấp hơn nữa, đi xuyên qua những cánh rừng nhiều cây hơn bất cứ nơi nào mà chúng tôi từng mơ ước. Ở Tây Tạng không có nhiều gỗ, không có nhiều cây xanh, có lần chúng tôi không thể cưỡng lại ham muốn được cưỡi ngựa chạy giữa những loại cây xanh, được chạm vào chúng, được hít thở hương thơm của chúng. Những cây đỗ quyên, tất nhiên, rất quen thuộc với chúng tôi vì ở Tây Tạng có rất nhiều.
Hoa đỗ quyên, trong thực tế, là một loại thực phẩm sang trọng nếu biết chế biến đúng cách. Chúng tôi cưỡi ngựa đi, kinh ngạc trước những gì chúng tôi nhìn thấy, kinh ngạc trước những khác biệt giữa nơi đây và quê nhà. Tôi không thể nói chúng tôi đã đi bao xa, bao nhiêu ngày hay bao nhiêu giờ, bởi vì tất cả những điều đó không làm chúng tôi quan tâm chút nào. Chúng tôi có nhiều thời gian, chúng tôi không biết gì về sự hối hả và nhộn nhịp của đời sống văn minh, nếu biết chúng tôi đã cẩn thận.
Chúng tôi cưỡi ngựa tám đến mười giờ mỗi ngày và chúng tôi nghỉ đêm tại lạt ma viện phù hợp. Không phải tất cả các tu viện đều là của Phật giáo, nhưng không vấn đề gì, chúng tôi luôn được chào đón. Đối với chúng tôi, các phật tử Phật giáo chính thống, không có sự cạnh tranh, không có sự xích mích hoặc hận thù, và mọi khách hành hương đều được chào đón. Theo tập quán của tôn giáo, chúng tôi tham gia vào tất cả các buổi lễ cầu nguyện tại tu viện, khi chúng tôi ở đó. Chúng tôi có nhiều cơ hội để trò chuyện với các nhà sư, những người luôn đón tiếp chúng tôi nồng hậu. Nhiều câu chuyện lạ lùng, họ kể cho chúng tôi về những tình thế đang thay đổi ở Trung Quốc; về trật tự hòa bình cũ đang thay đổi ra sao, những người Nga- “những người gấu”- đang cố gắng như thế nào để truyền bá cho Trung Quốc những tư tưởng chính trị mà đối với chúng tôi, những tư tưởng đó dường như hoàn toàn sai lầm. Dường như đối với chúng tôi những điều người Nga đang rao giảng là “Cái gì là của bạn, cũng là của tôi; cái gì của tôi cũng vẫn là của tôi!” Những người Nhật cũng vậy, chúng tôi được nghe nói, họ đang quấy nhiễu ở nhiều nơi trên đất Trung Quốc. Xuất hiện vấn đề quá đông dân. Tỷ lệ trẻ em ở Nhật bản đang tăng quá nhanh, trong khi đó sản xuất thực phẩm lại quá ít, vì thế họ đang cố gắng xâm chiếm các dân tộc hòa bình, cố gắng cướp bóc của các dân tộc khác, như vậy chỉ vì người Nhật bất ổn.
Cuối cùng, chúng tôi rời khỏi Tây Khang, và vượt qua biên giới vào Tứ Xuyên. Một vài ngày sau, chúng tôi đã đến bờ sông Dương Tử. Ở đây, vào cuối một buổi chiều chúng tôi dừng lại tại một làng nhỏ. Chúng tôi dừng lại, không phải vì chúng tôi đã đến nơi để nghỉ qua đêm, mà vì có một đám đông người đang xúm xít phía trước trong một cuộc mít tinh. Chúng tôi len lỏi qua đám người để đi về phía trước, và tất cả chúng tôi đều khá cồng kềnh, nên chúng tôi không khó khăn gì khi rẽ lối đi qua nhóm người ở phía trước.
Một người đàn ông da trắng cao lớn ở đó, đứng trên một chiếc xe bò kéo, đang khoa chân múa tay nói về điều kỳ diệu của xã hội mới, đang cố gắng hô hào những người nông dân đứng lên và tiêu diệt chủ đất. Ông ta đang vẫy một bức ảnh của một người đàn ông râu quai nón, đường nét sắc sảo và gọi ông ta là vị cứu tinh của thế giới.
Nhưng chúng tôi không bị bức ảnh của Lê nin gây ấn tượng, và kể cả cuộc nói chuyện của người đàn ông cũng vậy. Chúng tôi ghê tởm quay đi, và đi tiếp vài dặm nữa đến một Lạt ma viện để nghỉ đêm ở đó.
Có các lạt ma viện ở những vùng khác nhau của Trung Quốc cũng như các tu viện và đền thờ Trung Quốc. Đối với một số người, đặc biệt ở Tây Khang, Tứ Xuyên, hoặc ở Thượng Hải, hướng đến Phật giáo Tây Tạng hơn, vì thế lạt ma viện được đặt tại đó để dạy cho những ai thực sự cần sự giúp đỡ của chúng tôi. Chúng tôi không bao giờ tìm cách cải đạo, không bao giờ yêu cầu mọi người nhập đạo của chúng tôi, vì chúng tôi tin rằng tất cả mọi người đều có quyền tự do lựa chọn. Chúng tôi không ưa những người truyền giáo, họ đi khắp nơi để đưa ra những lời huênh hoang rống tuếch rằng phải tham gia vào tôn giáo để được cứu vớt.
Chúng tôi biết rằng khi một người muốn trở thành một phật tử của Lạt Ma giáo thì họ sẽ tự đến mà không cần ai thuyết phục. Chúng tôi biết một người truyền giáo mà đến Tây Tạng, đến Trung Quốc sẽ bị chúng tôi cười nhạo như thế nào; đó là một trò đùa, người ta sẽ giả vờ cải đạo chỉ để được nhận quà và những lợi ích khác mà những người truyền giáo phân phát cho. Và thêm một điều nữa là người Tây Tạng và giai cấp cổ ở Trung Quốc là những người lịch sự, họ cố gắng khích lệ những người truyền giáo, cố gắng làm cho họ tin rằng họ đã đạt được một vài thành công, nhưng không bao giờ, dù trong một khoảnh khắc, chúng tôi tin vào những gì họ đang nói với chúng tôi. Chúng tôi biết họ có đức tin của họ, nhưng chúng tôi muốn giữ đức tin của mình.
Chúng tôi tiếp tục đi dọc theo dòng sông Trường Giang, con sông mà về sau này tôi biết rất rõ, bởi vì đó là con đường mòn thú vị hơn. Chúng tôi đã bị cuốn hút khi nhìn những chiếc thuyền lớn trên sông. Chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy tàu thuyền trước đây, mặc dù một vài người trong chúng tôi đã từng xem ảnh, và tôi đã từng nhìn thấy con tàu hơi nước trong một lần luyện tập thần nhãn với sư phụ tôi, đức Lạt Ma Mingyar. Nhưng điều đó sẽ được kể chi tiết sau trong cuốn sách này.
Ở Tây Tạng, những người chèo thuyền của chúng tôi sử dụng thuyền thúng. Đó là những khung nhẹ được bọc bằng da con yak, và họ có thể chở bốn hay năm hành khách cùng với người chèo thuyền. Thường thì một hành khách không trả tiền là con dê, con vật nuôi của người chèo thuyền, nhưng nó cũng đóng góp phần của mình ở trên đất, bởi vì người chèo thuyền sẽ chất tất cả những hành lý của ông ta, những gói đồ và những cái chăn lên lưng con dê trong khi ông ta vác chiếc thuyền thúng trên vai và leo qua những tảng đá để tránh những thác ghềnh, nơi đó có thể sẽ phá hỏng thuyền của ông. Đôi khi một người nông dân muốn vượt qua sông sẽ sử dụng da con dê hoặc da con yak mà những chỗ thủng ở chân và những chỗ khác đã được gắn kín, ông ta sẽ dùng nó như cách người phương Tây dùng phao. Nhưng bây giờ, chúng tôi chú ý xem những chiếc thuyền thực sự với những cánh buồm, những cánh buồm hình tam giác, đang bay phần phật trong gió.
Một hôm chúng tôi dừng chân nghỉ gần chỗ nước nông. Chúng tôi rất thích thú nhìn hai người đàn ông đang đi trên sông, cầm hai đầu và cùng kéo một cái lưới dài. Phía trước họ, có hai người đàn ông khác đang dùng gậy đập lên mặt nước và la hét ầm ĩ. Lúc đầu chúng tôi nghĩ những người này bị điên, và những người khác đang dùng lưới theo sau để cố gắng bắt giữ họ lại. Và sau đó, chúng tôi thấy một trong những người đàn ông ra hiệu, tiếng ồn ào dừng lại và hai người đàn ông kéo lưới đi lại gần nhau, họ kéo căng hai đầu lưới và lôi nó lên bờ. Sau khi đã lên bờ cát một cách an toàn, họ lật nghiêng cái lưới và những con cá sáng lấp lánh đang dãy giụa rơi xuống đất.
Chúng tôi bị sốc bởi vì không bao giờ chúng tôi giết chóc. Chúng tôi tin rằng giết chết bất cứ một sinh vật nào cũng đều rất sai trái. Trong các dòng sông ở Tây Tạng của chúng tôi, cá sẽ bơi đến chạm vào bàn tay người để dưới nước, chúng sẽ lấy thức ăn từ tay chúng ta.
Chúng không sợ con người và chúng là vật nuôi yêu quí của con người. Nhưng ở đây, ở đất nước Trung Quốc, chúng là thức ăn. Chúng tôi tự hỏi làm sao những người Trung Quốc này có thể tự xưng mình là Phật tử khi họ ngang nhiên giết chóc vì lợi ích riêng.
Chúng tôi đã mất quá nhiều thời gian; chúng tôi đã ngồi trên bờ sông một giờ, có lẽ khoảng hai giờ, và chúng tôi không kịp tìm được lạt ma viện để nghỉ đêm đó. Nhún vai cam chịu, chúng tôi chuẩn bị dựng trại bên lề đường.
Chếch sang bên trái một chút là khu rừng cây nhỏ hẻo lánh có con sông chảy qua và chúng tôi cắm trại ở đó. Chúng tôi buộc ngựa và để chúng ăn cỏ mọc um tùm quanh đó, rồi thu nhặt củi và đốt lửa, đun sôi trà và ăn tsampa. Chúng tôi cùng nhau ngồi quanh đống lửa một lúc, nói chuyện về Tây Tạng, về những gì chúng tôi nhìn thấy trên đường đi, và những suy nghĩ của chúng tôi về tương lai. Những người đồng hành cùng tôi, từng người một, ngáp dài và quay về chỗ nằm, cuốn mình vào chăn và ngủ thiếp đi.
Cuối cùng, khi những viên than hồng tàn dần, tôi cũng cuộn mình trong chăn và nằm xuống, nhưng tôi không ngủ được. Tôi nghĩ về tất cả những khó khăn đã trải qua. Tôi nhớ về ngày tôi rời khỏi nhà khi lên bảy tuổi để vào lạt ma viện, đầy những khó khăn, rồi thời kỳ được đào tạo một cách nghiêm khắc. Tôi nhớ đến những chuyến đi thám hiểm các vùng cao nguyên, và đến những vùng núi xa xôi phía Bắc của Cao Nguyên Chang Tang hung vĩ. Tôi cũng nhớ đến Đấng Thái Tuế, như cách chúng tôi gọi đức Đạt Lai Lạt Ma, và nhất là nhớ đến người Thầy yêu quý của tôi, đức Lạt Ma Mingyar. Tôi vật vã vì lo âu, buồn khổ, và rồi dường như nơi đây được thắp sáng lên như mặt trời ban trưa.
Tôi kinh ngạc nhìn thấy Thầy tôi đang đứng trước mặt, Người gọi “Lobsang, Lobsang con!”, Người kêu lên “Tại sao con lại nản lòng? Con đã quên rồi chăng? Quặng sắt nghĩ đã tự tra tấn một cách vô nghĩa trong lò nung, nhưng khi nhìn lại sau đó, lưỡi kiếm thép cường lực tự biết mình đã tốt hơn. Con đã trải qua thời gian khó khăn, Lobsang con, nhưng tất cả những điều đó là vì mục đích cao cả. Như chúng ta đã bao lần nói đến, đây chỉ là thế giới của ảo tưởng, thế giới của những giấc mơ. Con sẽ còn phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thử thách, nhưng con sẽ chiến thắng, con sẽ vượt qua chúng, và rồi cuối cùng con sẽ hoàn thành được sứ mạng mà con được sinh ra để thực hiện.”
Tôi rụi mắt, tất nhiên rồi, đức Lạt Ma Mingyar đến với tôi bằng thể vía. Tôi vẫn thường làm như thế, nhưng đây là điều không ngờ tới, điều đó chỉ cho tôi thấy rằng Thầy vẫn luôn luôn nghĩ đến tôi, giúp đỡ tôi bằng tư tưởng của Người.
Thầy trò chúng tôi cùng nói chuyện gần gũi một lúc về những kỷ niệm đã qua, dừng lại ở những yếu điểm của tôi, với ánh sáng rực rỡ ấm áp của phút giây hạnh phúc, tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc những khoảnh khắc chúng tôi được ở bên nhau, giống như cha với con trai. Người chỉ cho tôi, bằng những hình ảnh qua trí óc, một số những khó khăn mà tôi sẽ phải đương đầu và hạnh phúc hơn nữa, cả những thành công mà cuối cùng tôi sẽ đạt được bất chấp mọi nỗ lực ngăn cản. Sau một thời gian, ánh sáng vàng rực rỡ nhạt dần, khi Người nhắc lại những lời nói cuối cùng về niềm hy vọng và động viên khuyến khích. Những lời của Người tràn ngập ý nghĩ của tôi, tôi trằn trọc bên dưới bầu trời đêm lạnh giá với những ánh sao lấp lánh, và cuối cùng cũng ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau chúng tôi dậy sớm và chuẩn bị bữa sáng. Theo tập quán, chúng tôi làm lễ cầu nguyện buổi sáng và tôi, với vai trò thành viên cao cấp của giáo hội, chủ trì buổi lễ và sau đó chúng tôi tiếp tục hành trình dọc theo con đường mòn bên sông.
Khoảng giữa trưa, dòng sông chảy quẹo về bên phải, còn chúng tôi tiếp tục đi theo con đường thẳng về phía trước. Đến cuối con đường mòn, xuất hiện một con đường rất rộng. Ngày nay, tôi đã biết, trên thực tế, nó là con đường loại hai, nhưng trước đó chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy con đường do con người làm ra như con đường này. Chúng tôi cưỡi ngựa dọc theo con đường, lấy làm lạ về kết cấu của nó, về sự thuận tiện khi không phải để ý tránh những gốc cây hay ổ gà.
Chúng tôi đi nước kiệu chậm, dọc theo con đường vừa nghĩ rằng chỉ trong vòng hai hoặc ba ngày nữa chúng tôi sẽ có mặt tại Trùng Khánh. Sau đó, có điều gì đó trong không khí, một cái gì đó không thể giải thích được, chúng tôi nhìn nhau một cách khó hiểu. Một người trong đoàn chúng tôi ngẫu nhiên ngước nhìn lên về phía chân trời. Sau đó ông đứng thẳng trên bàn đạp với vẻ sợ hãi, mắt mở to và vẫy tay cuống quít. “Nhìn kìa” ông kêu lên. “Một cơn bão bụi đang đến gần”. Ông chỉ về phía trước nơi chắc chắn có một đám bụi màu xám đen đang đến gần rất nhanh. Ở Tây Tạng có những đám mây bụi; những đám mây mang đầy những cát sỏi di chuyển trong không khí có lẽ đến tám mươi dặm hoặc hơn nữa trong một giờ, khi đó tất cả mọi người, trừ những con yak, đều phải tìm nơi trú ẩn.
Bộ lông dày của con yak bảo vệ được nó không bị tổn hại, nhưng tất cả những sinh vật khác, đặc biệt là con người, đều có thể bị thương, bị chảy máu do cát sỏi cứa vào da mặt và tay. Chúng tôi đã rất lúng túng bởi vì đây là cơn bão bụi đầu tiên mà chúng tôi nhìn thấy kể từ khi rời khỏi Tây Tạng, và chúng tôi nhìn quanh để tìm nơi trú ẩn. Nhưng chẳng có chỗ nào phù hợp cả. Chúng tôi nhận thức được, với sự kinh hoàng, cơn bão đang đến gần kèm theo âm thanh kỳ lạ mà trước đây chưa bao giờ chúng tôi từng nghe thấy; nó là tiếng gì đó nghe giống như tiếng kèn của đền thờ do một người điếc về nhạc điệu chơi, hoặc, chúng tôi nghĩ một cách khổ sở, nó giống như tiếng ồn của một lũ ma quỷ đang tiến về phía chúng tôi.
Thrum... thrum ... thrum... nó đang đến. Rất nhanh, tiếng gầm rú tăng lên và trở nên ngày càng lạ hơn. Có những tiếng loảng xoảng và nổ lốp bốp trong đó. Chúng tôi gần như quá sợ hãi để làm bất cứ điều gì, để có thể suy nghĩ. Đám mây bụi tăng tốc về phía chúng tôi ngày càng nhanh hơn. Chúng tôi gần như tê liệt vì sợ hãi. Chúng tôi lại nghĩ đến những đám mây bụi ở Tây Tạng, nhưng chắc chắn ở đó không có những tiếng gầm như thế này. Trong hoảng loạn, chúng tôi lại cố gắng tìm kiếm chỗ trú ẩn, nơi mà chúng tôi cần được bảo vệ khỏi cơn bão khủng khiếp đang ập đến.
Những con ngựa còn nhanh hơn chúng tôi nhiều khi nghĩ cần phải đi đâu. Chúng phá vỡ các nguyên tắc, chúng lồng lên và nhảy dựng. Tôi lãnh trọn một cú đá, và dường như bị bẻ cong ở giữa, con ngựa của tôi hý lên dữ tợn. Một cú giật lạ lùng, và cảm giác có cái gì đó bị vỡ. “Ôi, cái chân tôi bị xé rách rồi!”, tôi thầm kêu đau đớn. Sau đó tôi bị văng ra khỏi con ngựa, bay trong không trung theo hình vòng cung, rồi rơi nện lưng xuống đất bên cạnh con đường, choáng váng. Đám mây bụi đến gần rất nhanh, và tôi nhìn thấy quỷ Satan bên trong nó, một con quái vật màu đen đang gầm rú, lắc lư. Nó đến rồi đi qua. Tôi nằm trên đất, lần đầu tiên nhìn thấy chiếc xe có động cơ, một chiếc xe tải cũ của Mỹ đã bị quăng quật nhiều, đang chạy một cách ồn ào khủng khiếp, do một người Trung Quốc đang cười nhăn nhở lái.
Hôi thối kinh khủng! Hơi thở của quỷ dữ, sau này chúng tôi gọi nó như vậy. Hỗn hợp của xăng, dầu, và phân bón; Hàng đống phân bón mà chiếc xe đang chở bị văng ra, một số bị lắc bật ra rơi xuống đất ngay bên cạnh tôi. Tiếng ồn ào gầm rú của chiếc xe tải vèo qua, để lại đám mây bụi nghẹt thở, và một làn khói đen khí thải. Chẳng bao lâu sau, nó chỉ còn là một chấm di chuyển ở xa, vật vã từ bên này sang bên kia con đường, tiếng ồn ào dịu xuống và rồi không còn âm thanh nào nữa.
Tôi nhìn quanh trong im lặng. Không nhìn thấy người đồng hành nào cả; thậm chí tệ hơn nữa là không thấy dấu vết con ngựa! Tôi vẫn đang tự cố gắng thoát khỏi cảnh rối rắm lúng túng bởi vì một phần bị vỡ của cái đai nịt yên ngựa vẫn đang quấn quanh chân tôi, khi những người khác xuất hiện, từng người một, nhìn vẻ rất xấu hổ và rất lo lắng vềtrường hợp những con quỷ huyên náo này sẽ lại xuất hiện. Chúng tôi thực sự vẫn không hiểu về những gì đã nhìn thấy. Tất cả đã diễn ra quá nhanh và đám mây bụi đã che khuất rất nhiều.
Những người khác ngượng ngùng xuống ngựa, và giúp tôi phủi bụi trên quần áo. Cuối cùng tôi cũng đã chỉnh tề, nhưng con ngựa của tôi đâu? Những người bạn đồng hành của tôi trở về từ các hướng, nhưng không ai trong số họ nhìn thấy con ngựa của tôi. Chúng tôi tìm quanh, và gọi nó, chúng tôi cố gắng tìm vết chân ngựa cả trong những đám bụi nơi xa. Nhưng chúng tôi đã không tìm thấy dấu vết nào cả. Dường như con vật khốn khổ đã nhảy vào chiếc xe và bị nó cán chết.
Nhưng không, chúng tôi không tìm thấy bất cứ dấu vết nào về nó và chúng tôi ngồi xuống bên vệ đường, cùng thảo luận về những việc cần làm. Một trong những bạn đồng hành của tôi đề nghị sẽ ở lại một túp lều gần đó, vì vậy tôi có thể dùng ngựa của ông ta, và ông sẽ trở về khi những người đồng hành khác trở lại, sau khi đã để tôi ở lại Trùng Khánh. Nhưng tôi biết không phải chỉ vì như vậy, tôi biết rõ ông làm thế vì ông muốn nghỉ ngơi và không phải để giải quyết bí ẩn của việc con ngựa bị mất tích.
Những con ngựa trong đoàn chúng tôi hý vang lên và từ túp lều của người nông dân Trung Quốc gần đó vang lên tiếng hý đáp lại. Nhưng nó liền bị bóp nghẹt ngay lập tức. Tia hy vọng bừng sáng lên trong chúng tôi. Chúng tôi nhìn nhau và sẵn sàng hành động. Vậy đấy, tại sao trong một túp lều nghèo nàn như thế kia lại có thể có được một con ngựa? Căn nhà xiêu vẹo đổ nát đó không thể là nhà của một người có khả năng sở hữu một con ngựa. Rõ ràng là con ngựa đang bị dấu đi không cho chúng tôi biết. Chúng tôi nhảy xuống ngựa và nhìn quanh tìm những cây gậy chắc chắn. Tìm không ra vũ khí phù hợp, chúng tôi cắt từ những cái cây gần đó, và sau đó bắt đầu tiến đến túp lều, kiên quyết làm rõ nghi ngờ về những điều ám muội đã xảy ra. Cửa túp lều ọp ẹp với những dây buộc thay cho bản lề.
Chúng tôi lịch sự gõ cửa, nhưng không có ai trả lời. Một sự im lặng chết chóc, không một tiếng động. Không một phản ứng nào về những yêu cầu dứt khoát của chúng tôi. Tuy nhiên, lúc trước con ngựa đã hý lên và tiếng hý của nó đã bị bót nghẹt. Vì thế chúng tôi dộng cửa thật mạnh. Sau một lúc chịu đựng, các dây buộc đứt dần và cánh cửa từ từ đổ nghiêng, rồi sụp hẳn xuống. Bên trong có một người đàn ông Trung Quốc trông xác xơ, vẻ mặt ông ta méo mó vì khiếp sợ. Đó là một túp lều thảm hại, bản thỉu, và chủ nhân của nó là một người đàn ông rách rưới.
Nhưng đó không phải là điều chúng tôi quan tâm. Bên trong túp lều còn có con ngựa của tôi đang bị buộc quanh mõm bằng một cái túi để giữ nó im lặng. Chúng tôi rất không hài lòng với người nông dân Trung Quốc và nói ngắn gọn về sự phản đối của chúng tôi về cách xử sự xấu của ông ta. Đáp lại những câu chất vấn của chúng tôi, ông ta thú nhận là đã cố gắng lấy trộm con ngựa của chúng tôi. Ông ta nói, chúng tôi là những nhà sư giàu có và có thể để mất một hay hai con ngựa. Ông ta chỉ là một người nông dân nghèo khổ. Nhìn dáng vẻ của ông ta, có thể thấy ông ta nghĩ chúng tôi sắp giết ông ta. Trông chúng tôi hẳn là rất dữ giằn, có lẽ vì chúng tôi đã đi tám trăm dặm, rất mệt mỏi nên trông hung dữ.
Tuy nhiên, chúng tôi không có ý định làm hại ông ta. Phối hợp những hiểu biết của chúng tôi về tiếng Trung hoàn toàn đủ để cho phép chúng tôi truyền đạt cho ông ta đánh giá của chúng tôi về hành động của ông ta, kết cục có thể xảy ra trong kiếp sống này, và những điều chắc chắn sẽ đến với ông ta trong kiếp sau. Gạt bỏ những suy nghĩ, hầu như chắc chắn về ông ta, chúng tôi đóng yên lại cho con ngựa, thắt đai ngựa thật cẩn thận và tiếp tục lên đường đến Trùng Khánh.
Đêm đó chúng tôi nghỉ lại trong một lạt ma viện nhỏ, rất nhỏ. Chỉ có sáu nhà sư ở đây, nhưng tất cả đều dành cho chúng tôi lòng mến khách. Đêm sau sẽ là đêm cuối cùng của cuộc hành trình. Chúng tôi đến một lạt ma viện mà ở đó, vì là những người đại diện của đức Thái Tuế, chúng tôi đã được chào mừng nhờ ơn riêng mà chúng tôi được hưởng như là của mình vậy. Chúng tôi lại được cung cấp thức ăn và chỗ ở; cùng tham gia vào buổi lễ cầu nguyện của họ và nói chuyện tới khuya về các sự kiện ở Tây Tạng, về những chuyến đi đến những Cao nguyên phía Bắc rộng lớn và về đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi rất lấy làm hài lòng khi biết rằng thậm chí ở đây Thầy của tôi, đức Lạt Ma Mingyar, rất nổi tiếng. Tôi cũng rất quan tâm đến việc gặp các nhà sư Nhật Bản những người đã đến Lhasa và nghiên cứu về Phật giáo của chúng tôi, sự khác biệt giữa Phật Giáo Tây Tạng và Phật giáo của Zen[8].
Chúng tôi thảo luận nhiều về những thay đổi sắp xảy ra tại Trung Quốc, về cuộc cách mạng, về trật tự mới, một trật tự mà trong đó tất cả các chủ đất sẽ bị đánh đổ và những người nông dân mù chữ sẽ nắm quyền. Những nhân viên mật vụ Nga đi khắp nơi hứa hẹn những điều kỳ lạ, những điều không thể thực hiện được, hoàn toàn không mang tính xây dựng. Những người Nga này, chúng tôi nghĩ, là tay sai của quỷ dữ, là những kẻ phá hoại, những kẻ bại hoại về đạo đức giống như bệnh dịch hạch tàn phá cơ thể.
Hương tàn lại được thắp tiếp, cứ như vậy không biết bao nhiêu lần, khi chúng tôi nói chuyện mãi trong đêm, về những thay đổi nghiêm trọng đã được báo trước giờ đây đang diễn ra. Giá trị của con người đang bị bóp méo, hiện nay không chỉ các vấn đề về linh hồn không được coi trọng mà nó chỉ còn là sức mạnh thoảng qua. Thế giới này chỉ là một chốn bệnh hoạn, các vì sao đã cuốn cao lên bầu trời xanh. Cuộc chuyện trò của chúng tôi kéo dài mãi và cuối cùng từng người một nằm xuống ngủ. Đến sáng chúng tôi biết rằng chuyến đi đã đến hồi kết thúc. Tôi sẽ tiếp tục hành trình của mình, còn các bạn đồng hành của tôi sẽ trở về Tây Tạng để lại tôi một mình trong thế giới xấu xa lạ lùng nơi mà lẽ phải luôn thuộc về kẻ mạnh. Tôi hầu như đã không ngủ.
Buổi sáng, sau buổi lễ cầu nguyện và bữa ăn sáng ngon lành, chúng tôi lại lên đường đi tiếp đến Trùng Khánh, những con ngựa của chúng tôi đã được nghỉ ngơi thoải mái. Xe cộ đi lại trên đường đã nhiều hơn.
Xe tải và các loại phương tiện giao thông có bánh xe đi lại nhan nhản.
Những con ngựa của chúng tôi rất bất ổn và sợ hãi, chúng không quen với tiếng ồn của xe cộ, và mùi xăng cháy khét lẹt làm chúng rất cáu kỉnh. Chúng tôi phải rất nỗ lực để có thể ngồi được trên yên ngựa.
Chúng tôi để ý nhìn những người đang làm việc trên những cánh đồng, các thửa ruộng bậc thang, được tưới bằng phân người. Mọi người đều mặc quần áo màu xanh, màu xanh đặc trưng của Trung Quốc. Họ dương như già nua và rất mệt mỏi. Họ đi lại một cách chậm chạp như thể cuộc sống quá nặng nề đang chất lên mình họ, hay cũng có vẻ như tinh thần họ đã bị suy sụp và chả có gì tồi tệ hơn là sống và cố gắng để tồn tại. Những người đàn ông, đàn bà và trẻ em làm việc cùng với nhau. Chúng tôi cưỡi ngựa đi tiếp, vẫn theo dòng sông mà chúng tôi đã gặp lại nó mấy dặm trước. Cuối cùng chúng tôi cũng nhìn thấy những vách núi cao mà thành phố cổ Trùng Khánh đã được xây dựng trên đó.
Đối với chúng tôi, đây là hình ảnh đầu tiên về một thành phố được lưu ý đến bên ngoài Tây Tạng. Chúng tôi dừng lại và chăm chú ngắm nhìn nó, nhưng cái nhìn của tôi không chứa đựng một chút sợ hãi nào về cuộc sống mới đang chờ tôi ở phía trước.
Ở Tây Tạng tôi có quyền sở hữu đất nhờ cấp bậc và những thành tích đã đạt được của tôi, đồng thời cũng do mối quan hệ thân thiết với đức Đạt Lai Lạt Ma. Giờ đây, tôi đến một thành phố ở nước ngoài với tư cách là một sinh viên. Nó nhắc tôi nhớ lại một cách sinh động những khó khăn trong những ngày thơ ấu của tôi. Vì thế, chẳng có gì là vui khi tôi nhìn chằm chằm vào khung cảnh phía trước. Điều này tôi biết rõ nhưng vẫn bước tiếp hết con đường này đến con đường khác dẫn tôi đến những khó khăn, đến những đất nước kỳ lạ, thậm chí còn kỳ lạ hơn cả đất nước Trung Quốc, tới phương Tây nơi mà người ta chỉ tôn thờ vàng.
Trước mặt chúng tôi trải dài những ruộng bậc thang bám chênh vênh trên những triền núi. Phía trên đỉnh cao mọc nhiều cây xanh, đối với những người ít nhìn thấy cây như chúng tôi thì đó có thể gọi là rừng. Ở đây, cũng lại những người mặc quần áo màu xanh làm việc trên những cánh đồng xa, lê bước khó nhọc giống như ông bà tổ tiên ngày xưa của họ. Những chiếc xe một bánh được những con ngựa nhỏ kéo chất đầy những sản phẩm trồng trọt đã thu hoạch mang ra chợ Trùng Khánh. Những chiếc xe rất kỳ quặc, bánh xe nằm ở giữa, hai bên là những chỗ để hàng hóa. Trên một trong những chiếc xe chúng tôi nhìn thấy có một bà già giữ thăng bằng ở một bên bánh xe, và hai đứa trẻ nhỏ ngồi phía bên kia.
Trùng Khánh! Nơi cuối cùng cuộc hành trình của các bạn đồng hành của tôi, cũng là nơi bắt đầu hành trình của tôi, khởi đầu một cuộc sống khác. Tôi sẽ không có tình bạn trong hành trình mới này khi tôi nhìn lên những đèo dốc do những con sông xoáy vào tạo ra. Thành phố được xây dựng trên những vách đá cao, phủ kín những ngôi nhà. Nơi chúng tôi đứng giống như một hòn đảo, nhưng chúng tôi biết rõ. Chúng tôi biết không phải vậy, mà nó được bao bọc về ba hướng bởi hai con sông Trường Giang và Gia Lăng[9].
Dưới chân vách đá, đã được nước rửa sạch, là một dải cát rộng, thót dần lại nơi các con sông gặp nhau. Đây là một nơi được tôi biết rõ những tháng sau này. Chúng tôi cưỡi ngựa tiến chậm rãi về phía trước. Khi đến gần hơn, chúng tôi nhìn thấy những bậc thang ở khắp mọi nơi và chúng tôi đau nhói trong tim nỗi nhớ quê hương khi trèo lên bảy trăm tám mươi bậc của con phố bậc thang. Nó gợi nhớ về cung điện Potala. Vậy là chúng tôi đã đến Trùng Khánh.
CHƯƠNG II: TRÙNG KHÁNH
Chúng tôi đi dọc phố, qua các cửa hàng có các cửa sổ thắp sáng rực rỡ, và bên trong đó có những vật liệu và hàng hóa mà trước đây chúng tôi chưa từng nhìn thấy. Một vài thứ chúng tôi đã nhìn thấy trong ảnh trên các tạp chí đã được đưa đến Lhasa qua dãy Himalaya từ Ấn Độ, và trước đó, chúng được đưa đến Ấn Độ từ Mĩ, miền đất huyền thoại. Một thanh niên Trung Quốc lao nhanh về phía chúng tôi trên một vật kỳ lạ nhất mà tôi đã từng nhìn thấy, đó là một khung sắt với hai cái bánh xe, một ở phía trước, một ở phía sau. Anh ta nhìn chúng tôi không rời mắt, và vì vậy anh ta đã không kiểm soát được chiếc xe, bánh xe đằng trước lao vào đá, và rẽ ngoặt ra bên đường, người thanh niên lao thẳng lên phía trên bánh xe đằng trước và ngã đập lưng xuống đất.
Một phụ nữ lớn tuổi người Trung Quốc chạy đến bên anh ta, bà ta đi quanh và mắng nhiếc con người đáng thương đó, chắc chắn là anh ta đang rất đau đớn. Anh ta đứng dậy, trông khá ngơ ngác, nhặt lên cái khung sắt còn gắn với bánh xe trước bị vặn méo, và vác lên vai rồi buồn bã đi xuống núi, theo phố bậc thang. Chúng tôi nghĩ là mình đang đến một nơi điên rồ, bởi vì mọi người hành động rất khác thường. Chúng tôi chậm rãi đi dọc trên phố, kinh ngạc về hàng hóa trong các cửa hàng, cố gắng giải nghĩa giá cả là gì và để làm gì, bởi vì mặc dù chúng tôi đã nhìn thấy các tạp chí đến từ Mỹ, nhưng không ai trong chúng tôi hiểu những từ ngữ sơ sài nhất, mà chỉ để giải trí với những bức hình mà thôi.