CÁCH ĐỀ PHÒNG BỆNH UNG THƯ MÁU
VÀ CÁCH CHỮA PHỐI HỢP GIỮA TÂY Y
VÀ ĐÔNG Y-KHÍ CÔNG
::: Đỗ Đức Ngọc :::
o O o
PHẦN MỘT :
TỔNG QUÁT VỀ BỆNH UNG THƯ MÁU
1-HỆ THỐNG CẤU TẠO MÁU :
Trong con người ai cũng có tế bào máu sinh ra bởi tế bào gốc (stem cell). Từ tế bào gốc sinh ra hai dòng tế bào âm và dương là tế bào cơ sở và tế bào chức năng.
Tế bào cơ sở để nuôi dưỡng phát triển và duy trì các cơ quan vật chất như các tạng phủ, xương cốt da thịt… thuộc vinh khí tây y gọi là tế bào não tủy (myeloid stem cell) và tế bào chức năng nằm ở các tuyến hạch có chức năng bảo vệ cơ thể phòng chống bệnh tật gọi là vệ khí, tây y gọi là hệ miễn nhiễm,( là những tế bào lympho stem cell).
Từ 2 loại tế bào gốc não tủy và tế bào gốc hạch lympho, mỗi tế bào sinh ra một loại tế bào trung gian gọi là tế bào trung tính.
Tế bào gốc hạch lympho sinh ra tế bào trung tính đơn nhân (1 nhân) sẽ sản sinh ra tế bào bạch cầu đơn nhân có 2 loại B và T.
Tế bào gốc não tủy sinh ra tế bào trung tính đa nhân, có nhiều nhân, chia làm 3 loại, những nhân ấy sản sinh ra tế bào hồng cầu, tế bào tiểu cầu và tế bào bạch cầu thuộc dòng đa nhân.
Chức năng của tế bào hồng cầu đem oxy đến mô trên toàn cơ thể, tiểu cầu giúp kiểm soát ngừa chảy mất máu, và bạch cầu giúp chống nhiễm trùng.
Ngày nay tây y đã chứng minh được lý thuyết đông y là đúng. (Thái cực sinh lưỡng nghi) Có 2 nguồn cung cấp tế bào máu trắng từ một tế bào mầm (stem cell). Từ tế bào mầm sản sinh ra 2 loại tế bào là tế bào mầm lympho, theo đông y là tế bào mầm thuộc dương và tế bào mầm tủy xương là tế bào mầm thuộc âm
Những tế bào hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu được thay cũ đổi mới luôn luôn tùy theo nhu cầu của cơ thể. Nhưng quan trọng nhất, hầu hết các tế bào phát triển lệ thuộc vào các tế bào gốc trong tủy xương là một chất mềm nhão nằm ở não và trung tâm các ống xương.
2-HỆ THỐNG CẤU TẠO MÁU TRẮNG
Khi cơ thể bị bệnh, số lượng hồng cầu, bạch cầu tăng hay giảm bất thường. Theo đông y khi tăng gọi là bệnh thực chứng, khi giảm đông y gọi là bệnh hư chứng. .
1-Nguyên nhân làm cho bạch cầu chức năng giảm : dưới 4000 bạch cầu/cc máu
Tây y đã tìm ra nhiều nguyên nhân như :
Do sốt rét, do siêu vi cảm cúm, sốt xuất huyết, viêm gan siêu vi, ban đỏ.
Do lao hệ lưới ở gan tỳ bị sưng (spléno-hépatique) như xơ gan cổ trướng, lao lách.
Thương hàn nhiễm khuẩn Gram âm, viêm đa khớp dạng thấp, bệnh huyết học.
Do bệnh viêm đa khớp dạng thấp, lách to giảm bạch cầu đơn nhân trung tính.
Giảm bạch cầu đơn nhân kèm theo giảm bạch cầu trung tính riêng lẻ. Mất bạch cầu hạt đa nhân do thiếu máu bất sản.
Giảm bạch cầu trung tính nhưng bạch cầu không giảm.
Giảm bạch đơn nhân và mất bạch cầu đa nhân do thuốc trị sốt, trị đau nhức và thuốc trị ung thư.
Do thiếu máu trầm trọng. Khi đo áp huyết ở cả hai tay thấp dưới 100/60mmHg mà mạch tim đập qúa nhanh trên 100. Ngược lại, chỉ có một bên thấp dưới 100/60mmHg, mà bên kia bình thường từ 120-130/70mmHg, đông y xếp vào loại thiếu máu nửa bên đầu do tắc mạch cổ gây ra bệnh thiên đầu thống (migraine), bệnh này để lâu không chữa khỏi sẽ trở thành bệnh ung thư sọ não.
2-Nguyên nhân làm cho bạch cầu đa nhân, bạch cầu đa nhân trung tính tăng, trên 12000 bạch cầu/cc máu.
Trong đó bạch cầu đa nhân chiếm 80-95%, số lượng tuyệt đối trên 7000 bạch cầu đa nhân/cc máu :
Tây y tìm ra nhiều nguyên nhân như :
Do những bệnh nhiễm khuẩn sinh mủ như viêm ruột thừa, viêm họng, viêm túi mật, viêm phổi, viêm khuẩn huyết, viêm tĩnh mạch huyết khối, tinh hồng nhiệt.
Do bệnh thấp khớp cấp, viêm động mạch thái dương.
Do hoại tử mô như nhồi máu cơ tim, viêm tụy xuất huyết, suy thận cấp, suy hô hấp, ngộ độc nặng, chấn thương chảy máu…
Do thuốc lá, corticoid, lithium, iode, ACTH…
3-Bạch cầu đơn nhân tăng, nhưng giảm bạch cầu đơn nhân trung tính
Do nhiễm khuẩn như viêm họng trắng, có hạch bạch huyết, lách to, nhất là sau khi dùng ampicillin.
Do sau khi truyền máu, ghép nội tạng, phẫu thuật ở tim ngực làm sốt cao, sốt chậm nhưng kéo dài vài tuần sau phẫu thuật 15-30 ngày…
Hội chứng bạch cầu đơn nhân có thể gặp trong bệnh trái rạ, giang mai và do phản ứng một vài loại thuốc.
4-Bạch cầu hạt mất.
Mất bạch cầu hạt do số bạch cầu đa nhân lưu hành tuột xuống rất thấp trong những bệnh rất nặng kèm với bệnh thiếu máu rất nặng làm mất tiểu cầu, do nguyên nhân suy tủy bởi ngộ độc hóa chất như benzen, tia X–quang, hóa trị liệu hoặc do ung thư mà tế bào bạch cầu xâm nhập tủy, hay di căn của ung thư biểu mô.
Nếu mất bạch cầu hạt riêng lẻ nguyên nhân đa số do thuốc, trên tủy đồ những dòng hồng cầu và tiểu cầu vẫn còn nguyên vẹn. Những thuốc làm mất bạch cầu hạt như các loại có chất amidopyrin, pyramidon, sulfamid, thuốc trị tuyến giáp trạng, thuốc trị động kinh, thuốc kháng histamin, thuốc kháng sinh, thuốc an thần kinh
5-Bạch cầu trung tính giảm (giảm số lượng bạch cầu đa nhân lưu hành)
Do siêu vi như cúm, viêm gan siêu vi, thương hàn, sốt rét lao, lách to, ban đỏ, lupus, làm tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn.
Giảm bạch cầu trung tính là dấu hiệu báo động bắt đầu mất bạch cầu hạt do thuốc gây ra.
3-NGUYÊN NHÂN UNG THƯ MÁU :
a-Những biến đổi bất thường trong cơ thể :
Theo thống kê hồ sơ bệnh của những người bị bệnh ung thư máu, không có sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ giữa nam giới và nữ gìới.
Trong cơ thể chúng ta ai cũng có đủ các loại tế bào hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu đơn nhân, bạch cầu đan nhân.,,,những tế bào này hoạt động không ngừng như một đội quân lưu thông tuần hoàn khắp cơ thể để duy trì sự sinh hóa, chuyển hóa của lục phủ ngũ tạng giữ cho cơ thể phát triển và duy trì mạng sống.
Khi xét nghiệm máu, tây y đếm được số lượng hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu đơn nhân, bạch cầu đa nhân, tế bào đơn nhân trung tính, tế bào đa nhân trung tính có bao nhiêu đơn vị trong một milimét khối máu. Lấy những con số thống kê trung bình của những người khỏe mạnh không bệnh tật làm tiêu chuẩn so với những người bị bệnh. Nếu thấp hay cao hơn tiêu chuẩn là đã bị bệnh, nhưng tây y không phân biệt bệnh thuộc hư chứng (thấp hơn tiêu chuẩn) và bệnh thuộc thực chứng (cao hơn tiêu chuẩn), trái lại đông y cần phải biết hư thực khác nhau mới có cách chữa đúng, nếu thấp sẽ bổ làm cho đủ, nếu cao sẽ tả cắt bớt giảm xuống cho đủ, cả hai phương pháp bổ hay tả cũng chỉ là phương pháp quân bình âm dương..
Nếu xét theo số lượng các loại tế bào đếm được trong 1mm khối máu, thì bình thường ai cũng có đủ. Nhưng thật ra ai cũng có mầm bệnh tiềm ẩn, nhất là bệnh ung thư máu mãn tính vì cơ thể không có triệu chứng gì, chỉ khi nào bác sĩ thường xuyên khám các bệnh khác qua xét nghiệm máu mới tìm thấy, bởi vì tế bào bạch cầu phát triển bất bình thường chưa đủ nhiều vượt qúa tiêu chuẩn, nhưng đến khi vượt qúa tiêu chuẩn là đã qúa muộn để chữa trị.
Giống như tất cả các tế bào máu, các tế bào bạch cầu đi du lịch thông qua cơ thể. Các triệu chứng của bệnh ung thư máu phụ thuộc vào số lượng các tế bào bạch cầu phát triển nhiều bất bình thường ở một nơi, nếu khu trú rõ ràng ở tạng phủ thì gọi là ung thư nội tạng như phổi, gan, lá mía, bao tử, thận, nếu không khu trú ở nội tạng mà ở ổ bụng tây y gọi là ung thư ổ bụng, riêng ung thư máu, bạch cầu sẽ phát triển ở những tuyến hạch lympho và dưới da có bướu không đau..
Nếu cơ thể được tìm thấy có một số tế bào di truyền bất bình thường (như loại trisomy 21) hay một số bệnh như còi xương (rickets), một số bệnh nhiễm trùng và các bệnh ung thư của tủy xương cũng có nguy cơ trở thành ung thư máu.
b-Những ảnh hưởng từ môi trường :
Người ta đã biết, một số yếu tố khác có nguy cơ được đa số công nhận là tác nhân gây bệnh ung thư máu :
Do hậu qủa hóa chất hay phóng xạ trị liệu trong điều trị của một bệnh ung thư khác.
Do tình cờ tiếp xúc với bức xạ, với X-quang, với hóa chất như benzene, hydrocarbons hay phân bón, thuốc trừ sâu. Nhất là các bà mẹ đang mang thai tiếp xúc với những loại này ở nơi làm việc thì những đứa trẻ sinh ra có nhiều nguy cơ bị bệnh ung thư máu hay những người nhiễm nhiều từ tính (magnetic) dương do sống gần đường dây điện cao thế, hay bệnh tăng sinh tủy xương (myeloproliferative), bệnh tăng hồng cầu vô căn (polycythemia vera), u xơ tủy (myelofibro) tăng sinh nguyên bào sợi (proliferating fibroblasts), hay bệnh thiếu máu bất sản (aplastic)..
4-DẤU HIỆU CỦA BỆNH UNG THƯ MÁU
Những người có ung thư máu cấp tính thường không biết là mình bị bệnh ung thư máu, nhưng họ cảm thấy bị bệnh. Nếu não bộ bị ảnh hưởng, họ có thể có nhức đầu, ói mửa, rắc rối tiêu hóa, mất kiểm soát của cơ bắp, hoặc động kinh co giật.
Những triệu chứng của bệnh ung thư máu cấp tính hoặc mãn tính có thể bao gồm:
Sốt, giảm lượng tế bào máu trắng, dẫn đến nhiễm trùng lặp đi lặp lại nghiêm trọng, chẳng hạn như bệnh viêm họng nặng, viêm phổi, huyết nhiễm khuẩn.
Giảm tiểu cầu gây chảy máu ở nướu răng, màng nhầy và mô dưới da .
Giảm số lượng tế bào hồng cầu, gây thiếu máu, kèm theo nước da xanh xao và hồi hộp
Các tế bào máu trắng xâm nhập vào một số cơ quan như hạch bạch huyết (lympho nodes)
Sưng hạch lympho thường không đau, đặc biệt nhất là ở cổ hoặc ở nách. Bệnh nhân bị sốt, đông y gọi là sốt âm, hoặc sốt đổ mồ hôi ban đêm. Bệnh nhân cảm thấy yếu mệt mỏi, mất sức. Bệnh nhân tự nhiên bị giảm cân không biết lý do gì, cảm thấy bụng sưng cứng ở bên trái là lá lách hay ở bên phải là gan. Thỉnh thoảng bệnh nhân hay bị chảy máu dễ dàng ở mũi, chân răng, nướu răng, có đốm tụ máu đỏ tím hay tím xanh dưới da không do va chạm và thường đau trong xương hoặc khớp, cơ thể thường xuyên bị nhiễm trùng.
Bất cứ ai có những triệu chứng này nên nói cho bác sĩ đề có thể được chẩn đoán và điều trị càng sớm càng tốt.
Bệnh ung thư máu cũng có thể ảnh hưởng đến các bộ phận khác của cơ thể như làm co thắt trở ngại tiêu hóa, hại đến thận, phổi, tim, hoặc tinh hoàn.
Thường xuyên nhất, những triệu chứng này chưa chắc đã phải là do các bệnh ung thư. Một sự nhiễm trùng hay các vấn đề khác về sức khỏe cũng có thể gây ra những triệu chứng này. Chỉ có bác sĩ sau khi đã xét nghiệm kỹ càng.mới có thể xác nhận có phải là ung thư máu hay không..
Tuy nhiên theo kinh nghiệm của đông y khí công, tất cả các bệnh ung thư đều do vinh khí và vệ khí suy kém, các chức năng của tạng phủ không còn đủ máu để tuần hoàn làm nhiệm vụ khí hóa ngũ hành, hay nói rõ hơn cơ thể thiếu máu trầm trọng, và áp huyết qúa thấp dưới 90/60mmHg trong thời gian kéo dài khiến tế bào gốc não tủy bất sản. Vì thế khi chữa bệnh ung thư máu muốn có được kết qủa nhanh phải nhờ vào ghép tủy phù hợp để phục hồi lại chức năng sinh sản ra tế bào gốc mới cung cấp đủ hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu hoạt động trở lại bình thường.
5-XÉT NGHIỆM CÁC LOẠI UNG THƯ MÁU
Phân tích mẫu máu thấy các tế bào máu trắng bình thường, nhưng bạch cầu đa nhân trung tính (neutropenia) giảm, do một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng nào đó và giảm lượng tiểu cầu (thrombocytopenia), là nguyên nhân bị chảy máu tự phát (spontaneous).
Các các tế bào bạch cầu cũng có thể xâm lấn vào cơ quan khác như hạch bạch huyết (lymph nodes), vào tỳ (lá lách) , gan, tinh hoàn, hoặc vào hệ thần kinh trung ương.
Theo tây y, bệnh nhân có thể có một hoặc nhiều loại xét nghiệm sau đây:
a-Sinh thiết tủy xương hoặc rút tủy ở xương sống lưng.:
Bác sĩ sử dụng một cái kim rất dài, để lấy một mẩu xương nhỏ và tủy xương đi khám nghiệm.. Sinh thiết là cách để biết chắc rằng cơ thể đang có các tế bào ung thư tủy xương. Trước khi được lấy mẫu ở vùng nào, nơi ấy được chích thuốc tê để làm giảm cơn đau. Bác sĩ sẽ lấy một số tủy xương từ xương hông hoặc một xương lớn của bệnh nhân, rồi sử dụng kính hiển vi để kiểm tra xem các tế bào bạch cầu.
b-Thiết chẩn :
Bác sĩ khám tìm chỗ hạch lympho bị sưng to ấn không đau ở cổ và nách, và ấn đè tìm nơi sưng đau ở lá lách và gan..
c-Thử máu:
Các phòng thí nghiệm tiên tiến đủ phương tiện máy móc để kiểm tra đếm số lượng tế bào máu trắng, tế bào hồng cầu, tiểu cầu và huyết sắc tố.
d-Tìm tế bào di truyền học (cytogenetics):
Các phòng thí nghiệm xem xét các nhiễm sắc thể (chromosomes) từ mẫu của các tế bào máu, tủy xương, hoặc những hạch bạch huyết lympho. Nếu tìm thấy nhiễm sắc thể bất bình thường, có thể biết bệnh ung thư máu của bệnh nhân thuộc loại nào, thí dụ, những bệnh nhân thuộc loại bệnh bạch cầu tủy mãn tính (CML) có một nhiễm sắc thể bất thường gọi là Philadelphia
6-PHÂN LOẠI UNG THƯ MÁU :
Trong 1847, Rudolf Virchow, một bác sĩ histologist người Đức, là một trong những người đầu tiên mô tả bệnh bạch cầu, là một bệnh ung thư máu của tế bào tủy xương (các tế bào trong tủy xương sản xuất các tế bào máu. Các tế bào bạch cầu đột biến bất thường làm chuyển đổi các tế bào trong bộ gien tích lũy ở DNA của bệnh nhân
Ở thế kỷ 19, nói đến bệnh ung thư máu người ta cho rằng nó là bệnh nan y chết người. Các mẫu máu của bệnh nhân bị bệnh ung thư máu biến thành máu trắng, do sự phát triển tăng số lượng tế bào máu trắng mà từ đó có tên là bệnh bạch cầu (leucosis).
Bệnh bạch cấu được phân biệt là hạch bạch huyết phát triển từ hạch bạch huyết thành những bướu, trong chẩn đoán chia thành 2 loại : nguyên bào lympho bạch huyết cấp tính và tạo nguyên bào bạch huyết (lympho bymphoblastic) thâm nhiễm vào tủy xương, nhưng chữa cùng một cách.
Ngày nay khoa học phân biệt được nhiều loại bệnh bạch cầu và có những cách điều trị cụ thể từng loại.
Chức năng các tế bào gốc từ tủy xương sản xuất hàng ngày hàng tỷ tế bào hồng cầu, tế bào trắng và những tiểu cầu.
Khi bạch cầu sinh sản bất thường và gia tăng quá mức báo trước của các tế bào máu trắng đã bị tắc ở một nơi nào đó, cuối cùng nó xâm nhập vào đến tủy xương và máu làm cho tủy sống không còn sản xuất đủ tế bào hồng cầu nên gây ra bệnh thiếu máu.
1-Bệnh ung thư máu cấp tính do nguyên bào lympho (Acute lymphoblastic leukemia =ALL)
Là đặc trưng của các tế bào non (immature) từ tủy xương gia tăng nhanh chóng, cấu tạo tế bào không bình thường và không hoạt động. Bệnh thường gặp nhất ở trẻ em.từ 2 đến 5 tuổi, nhưng rất hiếm với người lớn.
2-Bệnh bạch cầu tủy bào cấp tính (Acute myeloblastic leukemia =AML) Bệnh bạch cầu tủy cấp tính rất hiếm xảy ra với trẻ em, chỉ phổ biến đối với người lớn.
3–Bệnh ung thư bạch cầu mãn tính do nguyên bào lympho:
Bệnh bạch huyết bào mãn tính (Chronic lymphocytic leukemia =CLL): Bệnh bạch cầu lympho mãn tính chỉ thường xảy ra ở trẻ em từ 3.-4 tuổi hoặc trên 50 tuổi..
4-Bệnh bạch cầu tủy bào mãn tính (Chronic myeloblastic leukemia =CML) thường xảy ra ở người lớn và hiếm khi ở trẻ em. Sự tiến triển của bệnh này âm thầm theo thời gian. Các khối u được tạo ra trong các tế bào lớn hơn bình thường. Việc điều trị các loại bệnh này được bắt đầu chỉ sau một khoảng thời gian dài quan sát qua thử nghiệm máu..
Việc phân loại này dựa theo tốc độ phát triển khi xét nghiệm tế bào học (cytological) liên kết với dòng tế bào của bệnh bạch cầu nguyên bào lympho hoặc bệnh bạch cầu lympho ở nguyên tủy bào hay ở tủy sống.
Các tế bào máu trắng xâm nhập vào một số cơ quan như hạch bạch huyết lympho
Các hình thức phổ biến nhất ở người lớn là những loại bạch cầu tủy bào cấp tính (AML), bạch cầu lympho mãn tính (CLL) và bạch cầu tủy bào mãn tính (CLM)
Đầu năm 1970, một nhóm quốc tế bao gồm các nhà nghiên cứu Pháp, Mỹ và Anh đã thảo luận đề tài này và phân loại các bệnh bạch cầu cấp tính của hàng trăm hồ sơ của bệnh nhân ung thư máu thành tiêu chuẩn FAB mà ngày nay vẫn còn được sử dụng để phân loại ung thư máu cấp tính, sau đó được cơ quan y tế quốc tế phân loại theo tiêu chuẩn WHO .
Có 3 loại ung thư bạch cầu lympho cấp tính (ALL) là L1, L2, L3
9 loai ung thư tủy bào cấp tính (AML) là M1, M2, M3, M4, M4Eo, M5, M6, MO, M7.
Cách điều trị L1, L2 được điều trị giống nhau, loại L3 được gọi là bệnh bạch cầu Berkitt có cách điều trị khác
Loại bạch cầu Berkitt rất hiếm, có quá nhiều các tế bào máu trắng phát triển nhanh chóng được gọi là mẫu B lymphocytes trong máu và tủy xương. Nó có thể bắt đầu trong hạch lympho và sau đó lây lan vào máu và tủy xương, hoặc nó có thể bắt đầu trong máu và tủy xương mà không có sự tham gia của các hạch lympho. Cả hai Burkitt leukemia và Burkitt lymphoma ( u bạch huyết) đã được liên kết với nhiễm với vi-rút Epstein-Barr.
Đối với AML, loại M3 là bệnh bạch cầu tủy bào cấp tính (promyelocytic leukemia) sử dụng tất cả các vitamine A (axit-trans retinoic hay tretinoin) và muối arsenic được điều trị theo cách riêng, còn các loại khác được điều tri tương tự.
Xét nghiệm DNA và các mẫu bản sao (RNA) sẽ bổ sung các kiểu nhân (karyotype) để tìm ra được huyết sắc tố bất binh thường hoặc đột biến nhiễm sắc thể. Trong tương lai gần cũng sẽ được phân tích tất cả các RNA trong tế bào của bạch cầu để có thể tiên đoán trước được bệnh.
Thí dụ sự đột biến nhiễm sắc thể được xác định bởi các nghiên cứu kiểu nhân tế bào bạch cầu chuyển đoạn nhiễm sắc thể (chromosomal translocation) từ kiểu giữa 9 và 22 làm gia tăng loại bệnh bạch cầu tủy mãn tính (CML), theo FAB xếp vào loại loạn sản tủy (myelodysplasia) rất hiếm, chỉ xảy ra ở trẻ vị thành niên.
Loại tăng sản nhanh tế bào bạch huyết lympho mãn tính (CLL, lymphoid proliferations) thường gia tăng tế bào B, có loại tăng tế bào bạch huyết lympho T Galton, loại nấm…
Phân loại các bệnh bạch cầu tủy bào cấp tính khác nhau như :
AML 1: bệnh bạch cầu nguyên tủy bào (myeloblastic) không có khác biệt
AML 2: myeloblastic có khác biệt
AML 3: promyelocytairy
AM L4: myelomonocytic
AML 4Eo: myelomonocytic với giảm bạch cầu ưa eosin (eosinophilia)
AML 5: monoblastic (không có khác biệt với M5A, nhưng khác biệt với M5B)
AM L6: erythroblastic hoặc bệnh tăng sinh nguyên tủy bào hồng cầu (erythroleukemia)
AML 7: megakaryoblastic
Phân loại các bệnh bạch cầu lympho cấp tính khác nhau như :
Loại L3 hoặc Burkitt’s leukemia là luôn luôn tăng sản tế bào B. Các loại L1 và L2 có thể tăng sản sẵn B, với các mức độ khác biệt khác nhau, hoặc gia tăng của tế bàoT.
Loại ALL 3 khác với các loại bạch cầu khác, nó có tế bào bạch cầu lympho khổng lồ.(LGL)
Bệnh bạch cầu có tế bào lông (hairy cell leukemia) chỉ thấy được dưới kính hiển vi là một loại bệnh bạch cầu mãn tính rất hiếm xảy ra.
PHẦN HAI :
ĐIỀU TRỊ THEO TÂY Y
Phương pháp điều trị tùy thuộc vào từng loại của bệnh bạch cầu:
Bệnh bạch cầu cấp tính được chữa trị với các trị liệu bằng hóa chất, mà thường đòi hỏi phải nằm trong bệnh viện một thời gian khá dài. Mục đích là để tiêu diệt tế bào bất thường trên nguyên bào (blast). Sau khi điều trị, không chỉ làm mới các tế bào máu và hệ thống miễn dịch, bệnh nhân rất cần nhiều nhu cầu chăm sóc sức khỏe và đặc biệt cần truyền thêm máu. Các giai đoạn đầu tiên điều trị được gọi là bước đầu và cuối cùng của việc điều trị là củng cố, và bảo trì điều trị.
Phóng xạ trị liệu não bộ là cần thiết trong một số trường hợp.
Ghép tủy xương có thể được chỉ định trong một số loại bệnh nghiêm trọng nhất trong các trường hợp bị tái nhiễm
Các cơ hội thành công của điều trị khoảng 80% đối với trẻ em, nó còn thay đổi theo độ tuổi và loại bệnh bạch cầu .
-Các AML3 (bệnh bạch cầu tủy cấp tính) được điều trị kết hợp bằng hóa chất và các axit-trans retinoic salts và arsenic. Cơ hội phục hồi được lớn hơn 70%.
-CML (Bệnh bạch cầu tủy mãn tính) được chữa trị hiện nay (2006) là loại thuốc mới dùng để ức chế một loại enzyme trong gan là ITK, cụ thể trên tế bào bạch cầu có bệnh.. Các tùy chọn khác cũng là những loại thuốc trị (hydroxyurea, Interferon, aracytine …) và ghép tủy xương.
-Các CLL (Bệnh bạch cầu lympho mãn tính) phát triển thường rất chậm, có một sự đột biến cao, tùy thuộc vào giai đoạn tiến triển theo độ tuổi của bệnh nhân.
Theo một hội nghị của giáo sư Laurent Degos, khoa Hematology, Bệnh viện Saint-Louis ở Paris, sự phát triển của bệnh bạch cầu nhanh hơn đối với các loại bệnh ung thư khác.
Những người có bệnh bạch cầu hiện nay có nhiều lựa chọn. như trị liệu bằng hóa chất, trị liệu sinh học, bức xạ trị liệu, và ghép tế bào gốc. Nếu lá lách bị viêm sưng, bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật để loại bỏ nó. Đôi khi cách trị liệu được sử dụng phối hợp.
Sự lựa chọn cách điều trị phụ thuộc vào các loại bệnh ung thư máu cấp tính hoặc mãn tính và độ tuổi.
1-Hóa trị liệu :
Nhiều bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất để tiêu diệt các tế bào bạch cầu bằng một vài cách khác nhau:
Bởi miệng: Một số loại thuốc cho bệnh nhân dùng để nuốt vào miệng..
Tiêm vào tĩnh mạch (IV=:Into a vein) Các loại thuốc thông qua một ống kim hoặc đưa vào một tĩnh mạch thông qua một ống được đặt trong một tĩnh mạch lớn, thường ở trên ngực, rất hữu ích cho các bệnh nhân cần rất nhiều phương pháp trị liệu IV. Phương pháp này tránh được sự cần thiết phải tiêm rất nhiều lần có thể gây ra bất tiện làm tổn thương các tĩnh mạch và da.
Tiêm chất lỏng vào cột sống: Bác sĩ có thể tiêm các loại thuốc vào cột sống .
Đưa thuốc vào não tủy : Trị liệu bằng hóa chất được đưa vào não tủy. Bệnh nhân được trị liệu bằng hóa chất đặc biệt thông qua một ống gọi là Ommaya reservoir. Các bác sĩ đặt ống thông dưới sọ não. Bác sĩ tiêm các loại thuốc vào trong ống. Phương pháp này tránh sự đau đớn như tiêm vào cột sống.
Hóa trị diệt các tế bào bạch cầu nhanh chóng, nhưng thuốc cũng có thể gây tổn hại cho tế bào khỏe mạnh bình thường cũng nhanh chóng nên có nhiều khả năng bị nhiễm trùng, da nổi vết bầm tím hoặc chảy máu một cách dễ dàng, và cảm thấy rất yếu và mệt mỏi. Bệnh nhân sẽ nhận được thử máu để kiểm tra mức độ thấp của các tế bào máu. Nếu cơ thể qúa yếu có thể dừng việc trị liệu bằng hóa chất trong một thời gian, hoặc giảm liều thuốc, hoặc cần phải truyền thêm máu.
Hóa trị có thể gây rụng tóc, trục trặc tiêu hóa, kém ăn, buồn nôn và ói mửa, tiêu chảy, hoặc đau môi miệng.
Hóa trị có thể gây tổn hại tế bào tinh trùng và noãn sào nên cần phải lưu trữ tinh trùng hay noãn sào trong ngân hàng đông lạnh trước khi trị liệu, nếu sau này muốn sinh con.
Phản ứng phụ khi trị liệu làm cơ thể bị sưng phù, và đột ngột tăng cân, thiếu máu, nôn mửa, tiêu chảy, vọp bẻ, hoặc ban sốt.
2-Trị liệu sinh học
Trị liệu sinh học cho rằng điều trị là cải thiện cơ thể một cách tự nhiên để bảo vệ chống lại bệnh.
Đối với một số người bị bệnh bạch cầu tủy mãn tính Một trong những loại trị liệu sinh học là một chất gọi là kháng thể đơn dòng, kháng thể nhân tạo sinh sản từ một dòng tế bào vì vậy chỉ gồm một kìểu globulin miễn dịch(monoclonal) truyền vào ven dưới da hay vào bắp thịt đưa chất này vào các tế bào bạch cầu. Một trong những loại kháng thể monoclonal mang độc chất sẽ giết chết các tế bào gây bệnh hay làm chậm sự phát triển của nó. Đó là một loại thuốc giúp hệ miễn dịch tiêu diệt các tế bào bạch cầu.
Các loại thuốc khác có thể được đưa ra cùng một thời gian để ngăn chặn các phản ứng phụ.
Những phản ứng phụ của trị liệu sinh học khác, thường gây ra sưng ở nơi da bị tiêm. có thể gây ra nhức đầu, đau bắp thịt, sốt, hoặc cơ thể suy nhược.
3-Bức xạ trị liệu
Bức xạ trị liệu (còn gọi là phóng xạ trị liệu radiotherapy) sử dụng năng lượng cao-quang để diệt các tế bào bạch cầu. Một số bệnh nhân được bức xạ từ một máy tính lớn nhằm vào lá lách, não bộ, hoặc các bộ phận khác của cơ thể, nơi tụ nhiều các tế bào bạch cầu. Loại trị liệu này kéo dài 5 ngày một tuần trong một vài tuần, mỗi ngày từ 1-2 lần, tùy theo loại bệnh..
Các tác dụng phụ của bức xạ trị liệu phụ thuộc vào liều bức xạ và sức chịu đựng của cơ thể được điều trị. Ví dụ, bức xạ vào bụng có thể gây ra, nôn mửa và tiêu chảy. Ngoài ra, làn da nơi khu vực đang được điều trị có thể trở nên đỏ, khô, đau, có thể bị rụng tóc và rất mệt mỏi trong thời gian bức xạ trị liệu, đặc biệt là sau một vài tuần điều trị. Nghỉ ngơi rất quan trọng, nhưng bác sĩ thường khuyên bệnh nhân cố gắng duy trì hoạt động bình thường sẽ tốt hơn nếu có thể được.
4-Ghép tế bào gốc Stem Cell
Ghép tế bào gốc cho phép bệnh nhân được điều trị bằng các loại thuốc liều cao, bức xạ, hoặc cả hai. Những liều cao, tiêu diệt cả hai loại tế bào bạch cầu và tế bào bình thường và các tế bào máu trong tủy xương. Sau khi trị liệu bằng hóa chất liều cao, bức xạ trị liệu, hoặc cả hai, bệnh nhân nhận được các tế bào khỏe mạnh mới thông qua việc truyền máu.để thay thế những tế bào đã bị tiêu huỷ trong lúc điều trị.
5-Nguồn cung cấp tế bào gốc :
a-Của chính bệnh nhân :
Trước khi được trị liệu bằng hóa chất liều cao hoặc bức xạ trị liệu, các tế bào gốc của bệnh nhân được được lưu trữ đông lạnh. Sau khi trị liệu, các tế bào gốc lưu trữ được ghép trả lại cho bệnh nhân.
b-Từ anh chị em, cha mẹ, anh chị em sinh đôi, hoặc có thể là từ những người hiến tủy phù hợp không liên quan huyết thống gia đình :
Các bác sĩ sử dụng cách thử máu để tìm hiểu một cách chặt chẽ với những người hiến tủy để tìm các tế bào gốc phù hợp với các tế bào của bệnh nhân.
Một nguồn khác từ các tế bào gốc ở cuống rốn.được lấy từ một trẻ sơ sinh được lưu giữ trong một tủ đông lạnh.
Sau khi được ghép tế bào gốc, bệnh nhân phải ở lại bệnh viện từ vài tuần đ ến 1 tháng. vì sẽ có nguy cơ nhiễm trùng và chảy máu do liều bức xạ trị liệu hay hóa chất trị liệu.. Trong thời gian nằm viện, những tế bào đã được ghép sẽ bắt đầu sản xuất các tế bào máu khỏe mạnh.
Đôi khi có vấn đề phản ứng nhẹ hay nặng của cơ thể chống lại những tế bào gốc được ghép làm tăng các tế bào máu trắng tạo phản ứng chống lại ở các mô bình thường ở gan, da, hoặc bị ảnh hưởng tiêu hóa. Nó có thể xảy ra bất kỳ thời điểm nào sau khi ghép, thậm chí cả năm sau đó.
6-Chăm sóc và hỗ trợ :
Điều trị bệnh ung thư máu và có thể dẫn đến các vấn đề về sức khỏe. Bệnh nhân có thể được hỗ trợ chăm sóc trước, trong, hoặc sau khi điều trị bệnh ung thư để ngăn chặn hoặc chống lại nhiễm trùng, để kiểm soát đau đớn và các triệu chứng khác, để giảm các phản ứng phụ của việc trị liệu, và để cải thiện tiện nghi và chất lượng cuộc sống trong thời gian điều trị.
Nhiễm trùng:
Những người bị bệnh ung thư máu rất dễ dàng bị nhiễm trùng, có thể nhận được các loại thuốc kháng sinh nh ư vắc xin chống bệnh cúm và viêm phổi. Cần tránh xa đám đông và từ những người có cảm lạnh và các người có bệnh hay lây khác. Nếu bệnh nhân bị lây bệnh nhiễm trùng, nó có thể nghiêm trọng và cần phải đượcvào bệnh viện nằm điều trị ngay.
Thiếu máu và chảy máu:
Thiếu máu và chảy máu cũng là những vấn đề thường xuyên yêu cầu phải được hỗ trợ chăm sóc ngay. Bệnh nhân có thể cần phải được truyền thêm máu, tế bào hồng cầu hoặc tiểu cầu, giúp chữa trị thiếu máu và giảm nguy cơ chảy máu nghiêm trọng.
Các vấn đề về răng miệng:
Khi trị liệu bằng hóa chất có thể làm miệng nhạy cảm, dễ mắc bệnh, và có thể chảy máu. Các bác sĩ thường khuyên bệnh nhân phải thường xuyên khám nha khoa, và nếu có thể, các chăm sóc nha khoa cần thiết trước khi bắt đầu trị liệu bằng hóa chất. Nha sĩ chỉ dẫn cho bệnh nhân như thế nào để giữ miệng sạch sẽ và khỏe mạnh trong thời gian điều trị.
Hoạt động dinh dưỡng và vật lý
Điều quan trọng là để bệnh nhân có thể chăm sóc cho mình bằng cách ăn uống tốt và duy trì hoạt động như bình thường nếu có thể.
Họ cần phải có số lượng calo để duy trì một trọng lượng tốt, cần đủ protein để giữ sức mạnh. Ăn uống cũng có thể giúp bệnh nhân cảm thấy tốt hơn và có thêm nhiều năng lượng.
Đôi khi, bệnh nhân có thể bị khó chịu hoặc mệt mỏi cảm thấy rằng thức ăn không mùi vị nhạt nhẽo chán ăn. Bác sĩ chăm sóc sức khỏe có thể đề nghị phương pháp để đối phó với những vấn đề này.
Nghiên cứu cho thấy rằng những người có bệnh ung thư cảm thấy tốt hơn khi họ đang hoạt động. Đi bộ, yoga, và các hoạt động khác có thể giữ cho cơ thể mạnh, và tăng năng lực. Tập thể dục có thể làm giảm đau, hay buồn nôn, giúp giảm căng thẳng và giúp cho việc điều trị được thực hiện dễ dàng hơn.
Bác sĩ sẽ kiểm tra lại các bệnh ung thư máu, như thử máu, tế bào di truyền học, chụp quang tuyến, tủy xương, hay cột sống…, ngay cả khi các bệnh ung thư đã tiêu huỷ hoàn toàn, nh ưng bệnh đôi khi tái phát, vì những tế bào bạch cầu chưa bị tiêu diệt còn sót ở một nơi nào đó trong cơ thể sau khi điều trị. Ngoài ra, kiểm tra giúp phát hiện các vấn đề sức khỏe, có thể từ kết quả điều trị bệnh ung .
7-Tiếp tục nghiên cứu cách chữa bệnh Ung Thư Máu
Những nghiên cứu về bệnh ung thư máu đã thực sự tiến bộ trong điều trị. Bởi vì các nghiên cứu, người lớn và trẻ em bị ung thư máu có thể mong muốn có được một chất lượng cuộc sống tốt hơn và ít bị chết hơn vì bệnh này. Tiếp tục nghiên cứu đem lại hy vọng trong tương lai, cách điều trị bệnh này được thành công hơn.
Bác sĩ trên tất cả các quốc gia đang tiến hành nhiều loại thử nghiệm lâm sàng (nghiên cứu, trong đó mọi người tình nguyện tham gia). Thử nghiệm lâm sàng được thiết kế để trả lời câu hỏi quan trọng và để tìm hiểu xem phương pháp tiếp cận mới là an toàn và hiệu quả.
Các bác sĩ đang theo học các phương pháp mới và tốt hơn cách thức để điều trị bệnh ung thư máu, và cách để cải thiện chất lượng cuộc sống. Họ đang thử nghiệm mới nhắm mục tiêu trị liệu, sinh học trị liệu, và trị liệu bằng hóa chất. Họ cũng đang làm việc với các kết hợp của phương pháp trị liệu.
Thậm chí nếu mọi người trong một thử nghiệm dù không lợi ích trực tiếp, họ vẫn đang làm cho một đóng góp quan trọng của ngành y giúp đỡ tìm hiểu thêm về bệnh ung thư máu và làm thế nào để có thể chữa trị được, mặc dù thử nghiệm lâm sàng có thể có sự rủi ro, nhưng các bác sĩ có thể làm tất cả để bảo vệ các bệnh nhân.
Số người bị bệnh ung thư máu đang tăng đáng kể do nguy cơ phát triển các bệnh nhiễm trùng, thiếu máu, và chảy máu.
Nếu qúy vị quan tâm về những cuôc thử nghiệm lâm sàng, xin vào trang Web NCI bao gồm một phần trên thử nghiệm lâm sàng tại :
http://www.cancer.gov/clinicaltrials.
Nó có thông tin chung về các thử nghiệm lâm sàng cũng như các thông tin chi tiết cụ thể về việc tiếp tục nghiên cứu của bệnh bạch cầu
Thông tin các chuyên gia tại 1-800-4-Ung thư hay tại LiveHelp tại
http://www.cancer.gov/help
có thể trả lời các câu hỏi và cung cấp thông tin về các thử nghiệm lâm sàng.
(còn tiếp Phần Ba...)