Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 6 25, 2013 9:27 pm

Xin mời các Thầy góp ý bổ sung về những Sách KCYĐ cho được đầy đủ nội dung và những kinh nghiệm lâm sàng trước khi xuất bản

Dưới đây là nội dung SÁCH : ÁP HUYẾT GIẢ VÀ BỆNH UNG THƯ do Thầy Liêu biên soạn

(Vì post bài lên forum bị giới hạn 60000 chữ, nên phải chia thành nhiều tệp, tạm đánh dấu là Tệp 1, Tệp 2, ....để mọi người vừa xem vừa học, vừa tìm ra lỗi chính tả (mầu đỏ), lỗi phân đoạn, ngắt đoạn mục, nơi cần góp ý bổ sung thêm (mầu xanh)... rồi thông báo cho Thầy Liêu chỉnh sửa.trước khi giao cho nhà xuất bản. Đề nghị Thầy Liêu nhờ các qúy vị Giáo Sư ngành Y viết Lời Giới Thiệu cho Sách này )

-------------------
(TỆP 1)

LỜI NÓI ĐẦU
Huyết áp trong cơ thể con người phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chứ không chỉ phụ thuộc vào tim mạch. Từ cổ xưa, Đông y đã biết rằng khí của Lục phủ, Ngũ tạng đều chạy ra ống tay, do vậy Đông y mới có bắt mạch ở hai bên cổ tay để định bệnh.
Ngày nay nhờ có máy đo huyết áp của Tây y, Khí công Y đạo đã sử dụng nó để định bệnh, xác định được hư- thực, hàn- nhiệt, biểu- lý của con người thay cho bắt mạch của Đông y và có độ chính xác cao.
KCYĐ cũng đã xác định được huyết áp của con người phụ thuộc vào Tinh- Khí- Thần, ví dụ như huyết áp của một người hàng ngày bình thường, nhưng khi giận dữ huyết áp có thể tăng cao gây ra đứt mạch máu não; lại nữa có người bị huyết áp cao, uống thuốc giảm huyết áp đều đặn hàng ngày, huyết áp nằm trong tiêu chuẩn, nhưng sau một buổi ăn tiệc về no say về, huyết áp tăng cao gây đột tử .... Tất cả các trường hợp đó KCY Đ gọi là huyết áp giả.
Tây y không có khái niệm huyết áp giả. Nhưng chính huyết áp giả đã làm cho Tây y chẩn đoán sai lầm và đã không có cách nào chữa dứt hẳn căn bệnh cao huyết áp, cuối cùng gây ra nhiều biến chứng dẫn đến tử vong bất ngờ.
Một trong những căn bệnh nan y hiện nay là bệnh ung thư. Như chúng ta đã biết, các tế bào trong cơ thể cần hai yếu tố máu và oxy để nuôi dưỡng. Bổ máu do ăn uống, tăng oxy cho máu bằng cách tập thở Khí công.
Muốn biết có đủ khí và huyết hay không thì dùng máy đo khí huyết mà chúng ta thường gọi là máy đo huyết áp sẽ biết, khi so sánh với lứa tuổi của mình.
Dấu hiệu tiền ung thư cũng sẽ biết khi đo huyết áp, thay vì huyết áp phải ở tuổi của người lớn, thì kết qủa đo huyết áp chỉ bằng huyết áp của một đứa trẻ.
Ta có thể kiểm chứng được ở những người bị ung thư, huyết áp thật đều dưới 80mmHg khi so sánh với bảng huyết áp tiêu chuẩn của Khí công Y Đạo.

Tập 2. HUYẾT ÁP GIẢ VÀ BỆNH UNG THƯ là cuốn sách được biên soạn tiếp theo của Tập 1. KHÁM ĐỊNH BỆNH BẰNG MÁY ĐO HUYẾT ÁP, nhằm hệ thống hóa lại theo chủ đề của Khí Công Y Đạo Đỗ Đức Ngọc để giúp bạn đọc nắm bắt kiến thức dễ hơn cho việc tự học và tra cứu.

Cuốn sách gồm gồm 4 chương và 5 phụ lục.

Chương 1. Huyết áp giả.
Chương 2. Một số bệnh án chữa bệnh do huyết áp giả.
Chương 3. Bệnh ung thư.
Chương 4. Một số bệnh án và điện thư hướng dẫn chữa ung thư theo KCY Đ.
Phụ lục 1. Các bài thuốc, cây thuốc trị ung thư.
Phụ lục 2. Một hy vọng mới cho những người điều trị ung thư: áp dụng phương pháp điều trị bằng sinh tố D.
Phụ lục 3. Cách phòng chống ung thư.
Phụ lục 4. Cách đề phòng bệnh ung thư máu và cách chữa phối hợp gữa Tây y và Đông y- Khí công.
Phụ lục 5. Chữa ung thư bằng điều chỉnh ăn uống.
Phụ lục 6. Bảng huyết áp tiêu chuẩn theo tổ chức Y tế Thế giới.

Trong quá trình biên soạn, tác giả đã được Thầy Đỗ Đức Ngọc tận tình chỉ bảo. Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy Đỗ Đức Ngọc kính mến.
Do trình độ còn hạn chế, nên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Mong bạn đọc góp ý để tác giả sửa chữa trong lần tái bản.
Hà Nội, tháng 6 năm 2013
Vương Văn Liêu

Chương 1. HUYẾT ÁP GIẢ

Tây y không có khái niệm huyết áp giả. Nhưng chính huyết áp giả đã làm cho Tây y chẩn đoán sai lầm và đã không có cách nào chữa dứt hẳn căn bệnh cao huyết áp, cuối cùng gây ra nhiều biến chứng dẫn đến tử vong bất ngờ.
Việc khám phá này thật ra không có gì mới mẻ, nó đã có sẵn trong lý thuyết Đông y về Khí và Huyết trong Bát cương: Âm-Dương, Hư-Thực, Hàn-Nhiệt, Biểu-Lý, được áp dụng hàng ngày trong chẩn bệnh và chữa bệnh, nhưng không ai học hiểu để chữa đúng, vì nó mơ hồ, không kiểm chứng được. Giống như giáo lý Phật Giáo, trước kia chưa có ánh sáng khoa học thì cũng không ai hiểu trong nước có vi trùng hay những vi sinh vật, nay nhờ kính hiển vi mới thấy đúng hay câu nói Tam thiên, Đại thiên thế giới cũng là mơ hồ, ngày nay khoa học chứng minh thấy có các vì tinh tú trong những giải ngân hà Galaxy khác nhau, có những sinh vật sống ở đó.
Cũng nhờ vào khoa học, chúng ta có máy đo huyết áp. Nhưng Tây y chỉ biết cách sử dụng máy đo huyết áp để đo huyết áp tim mạch ở cánh tay trái, để biết huyết áp cao hay thấp. Ngược lại, Đông y Khí công đã nhờ máy đo huyết áp của Tây y để khám phá ra cách đo áp lực khí huyết trong Tạng, Phủ, thay cho bắt mạch chẩn bệnh để tìm Âm-Dương, Hư-Thực, Hàn-Nhiệt, Biểu-Lý một cách đơn giản và áp dụng trong chữa bệnh có nhiều hiệu qủa không ngờ.

Thế nào là huyết áp thật và huyết áp giả

1. Đối với Tây y, chỉ có một loại huyết áp thật, không có huyết áp giả. Nhưng thực tế theo kinh nghiệm khám phá của môn Đông y Khí công, về ảnh hưởng của Tinh-Khí-Thần đã có ảnh hưởng làm thay đổi huyết áp, đa số những bệnh nhân bị bệnh huyết áp đều là huyết áp giả do sự xung khắc Ngũ hành, Tạng, Phủ làm xáo trộn gây ra bệnh. Tuy nhiên, nếu các bác sĩ chuyên khoa tim mạch chịu khó nghiên cứu, để ý những bệnh nhân bị bệnh tim mạch là huyết áp thực sự do bệnh của tim mạch gây ra, các bác sĩ đã chữa bằng thuốc hay bằng giải phẫu giúp bệnh nhân được ổn định huyết áp. Bỗng nhiên, bệnh nhân bị huyết áp tăng cao đột ngột gây tử vong, các bác sĩ đều bỏ qua không tìm hiểu nguyên nhân tại sao. Đông y Khí công gọi là huyết áp giả tạo, có nguyên nhân mà Đông y đã biết khi xét đến 3 yếu tố căn bản của Đông y là Tinh-Khí-Thần.

2. Có những trường hợp, Đông y chẩn bệnh một bệnh nhân khí huyết suy kém, nhưng dùng máy đo huyết áp vẫn bị bệnh cao huyết áp theo Tây y, phải uống thuốc.

3. Có những bệnh nhân huyết áp ở mức giới hạn, Tây y chưa cần phải cho uống thuốc, nhưng bỗng nhiên chết bất đắc kỳ tử do huyết áp tăng cao đột ngột trước khi chết mà Tây y không khám phá ra nguyên nhân, trường hợp này Đông y cũng đã biết trước.

Cả 3 trường hợp trên Đông y đã biết nguyên nhân trước khi bệnh nhân chết, nhưng không có thể chứng minh được bằng lý thuyết Đông y vì Tây y thấy mơ hồ không thể chấp nhận.
Ngày nay Đông y Khí công có thể chứng minh cho Tây y hiểu bằng máy đo huyết áp được áp dụng trên từng huyệt. Từ đó Tây y mới có thể tin huyệt là một điểm nhạy cảm trên đường kinh mạch là có thực vì nó đã ảnh hưởng đến sự thay đổi huyết áp khác nhau trên từng huyệt.
Máy đo huyết áp của Tây y đem áp dụng thử nghiệm đo áp lực khí trên các huyệt lại có những kết qủa khác nhau, mặc dù vẫn để máy đo ở cánh tay. Tại sao có sự khác biệt ấy ?.

Theo lý thuyết Đông y gọi là Ngũ Tạng khí, khi chúng hoạt động đúng chức năng để điều hòa khí đẩy huyết lưu thông khắp cơ thể thì chúng ta không bệnh tật. Nhưng khi khí Ngũ Tạng bị xáo trộn do nguyên nhân Tinh-Khí-Thần mà Khí công gọi là Tinh sai, Khí thiếu, Thần suy, thì khí riêng của những tạng như Can khí, Tâm khí, Tỳ khí, Phế khí, Thận khí mất chức năng hòa hợp tạo ra áp lực khí từng vùng, chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ bị tắc nghẹt, chỗ được thông, không đồng đều gây sưng đau, nóng lạnh. Đông y bắt mạch tìm ra khí hay huyết ở Tạng hay Phủ nào hư hay thực, hàn hay nhiệt. Nhưng vì không có máy móc để chứng minh cho Tây y công nhận, vả lại các thầy thuốc bắt mạch chính xác ngày nay rất hiếm và hiện nay khoa học cũng chưa phát minh ra được máy bắt mạch hoàn chỉnh.
Vì thế ngay cả một tên bệnh Tai biến Mạch Máu Não mà Đông y gọi là trúng gió cũng đã bị Tây y hiểu sai. Trúng phong ở đây là Can phong nội động thuộc khí của gan do Tinh-Khí-Thần làm gan bơm căng các ống máu tăng huyết áp vỡ mạch máu não, chứ không phải gió bên ngoài.
Khi vỡ mạch máu não, ít nhất huyết áp lúc đó cao hơn 200/120mmHg mạch 90-100, sau khi mạch máu não bị vỡ, huyết áp xuống thật thấp, có nghĩa là áp lực khí mất, bệnh nhân đã chết, nếu áp lực khí xuống trên trung bình 145-150/mmHg là bị đứt những mạch máu nhỏ, nếu huyết áp còn cao 180-190/mmHg bệnh nhân vẫn còn đang trong cơn hôn mê, không chữa kịp thời cho huyết áp hạ xuống, máu não sẽ tiếp tục xuất huyết cho đến khi não bị bầm máu nghẽn lưu thông, Tây y không chữa được thì gọi là não chết. Có nhiều người huyết áp tự nhiên vọt lên qúa cao do bội thực, ăn không tiêu, huyết áp đo cao hơn 200/100mmHg nhưng may mắn thoát chết nhờ những ống mạch máu nhỏ ở niêm mạc mũi vỡ ra, chảy máu mũi lênh láng khoảng 200cc máu là chỗ thoát của áp lực khí, sau đó huyết áp trở lại bình thường.

Những số đo huyết áp này Tây y vẫn gọi là huyết áp thực sự của tim mạch, nên tìm cách chữa vào tim mạch mãi mà không thấy có kết qủa, nên phải mổ là giải pháp cuối cùng. Thực ra, các bệnh nhân đã được mổ và tin tưởng sẽ hết bệnh cao huyết áp, cuối cùng cũng vẫn bị tai biến, chết vì huyết áp giả của các loại khí trong Tạng, Phủ từ tim, gan, bao tử, phổi, thận….
Trong những trường hợp cấp cứu, KCYĐ không chữa tim mạch mà tìm cách cho áp lực đẩy máu thoát ra lối khác như châm nặn máu ra sau tai ở huyệt Ế Phong, đầu ngón tay, đầu ngón chân( huyệt Thập tuyên) để giải tỏa áp lực trên não, bấm huyệt dẫn áp lực khí xuống đường tiêu tiểu. Nhìn biểu đồ huyết áp trên máy xuống bình thường, bệnh nhân tỉnh dần, máu trong não, máu ứ nghẹt trong cơ thể từ từ thoát ra theo mũi, miệng, chảy theo ống tiểu mầu nâu đen bầm khoảng 300-500cc lẫn trong nước tiểu, lúc đó bệnh nhân đã được cứu sống.
Đông y Khí công gọi những trường hợp này là huyết áp giả, vì trước kia vẫn uống thuốc kiểm soát huyết áp lúc nào cũng ổn định, tự nhiên huyết áp tăng cao bất ngờ làm vỡ mạch máu não do nguyên nhân khác mà không phải do tim mạch.

Thử nghiệm huyết áp giả trên từng huyệt

Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu công dụng của huyệt và vị trí huyệt để áp dụng trong việc khám phá cách chữa bệnh kỳ diệu của huyệt trong trường hợp cấp cứu những bệnh về huyết áp giả.
Trước hết đo huyết áp thực ở hai cánh tay, có những trường hợp khác nhau xẩy ra sau đây:
Huyết áp tự nhiên ở hai tay bằng nhau dưới 140/90mmHg mạch 75 là người không bị bệnh huyết áp.
Huyết áp 2 tay cao bằng nhau 150/95mmHg là người có bệnh cao huyết áp, mà không uống thuốc chữa bệnh huyết áp.
Huyết áp tay bên trái thấp 140/90mmHg mạch 75, bên tay phải 150/90mmHg mạch 78 là bệnh nhân đang uống thuốc chữa cao huyết áp do thuôc giãn động mạch bên trái.
Huyết áp tay trái 135/90mmHg mạch 72, tay phải cao hơn nhiều 160/95mmHg, mạch 80, có dấu hiệu tê 5 ngón tay phải, đau cổ gáy tay vai phải, không dơ cánh tay lên được. Nếu chữa thuốc giảm đau hay giải phẫu thần kinh hay gân cổ tay, vai là chữa ngọn. Nguyên nhân chính là huyết áp cao, thần kinh ngoại biên bên tay phải bị co thắt làm đau, chỉ cần châm nặn máu 5 đầu ngón tay phải để áp lực khí thoát ra thì thần kinh ngoại biên bên tay phải hết co thắt, áp huyết tay phải sẽ xuống, tay vai phải hết đau.

Huyết áp tự nhiên ở một tay tốt như 120-130/80mmHg mạch 65-75, một tay qúa thấp dưói 100/65mmHg mạch 65. Bên nào thấp là nửa đầu bên đó bị đau thiên đầu thống, Tây y gọi là migraine, do tắc ống mạch dẫn máu ở sau tai lên nuôi não là huyệt Ế Phong. Bấm giữ huyệt này lâu trong thời gian đang đo huyết áp bên thấp, huyết áp nửa bên đầu sẽ tăng cao hơn 140/90mmHg, lúc đó mặt đỏ hồng, trán nóng ấm rịn mồ hôi, và đo lại huyết áp lên tự nhiên khoảng 110/80mmHg. Bấm huyệt Ế Phong một lần nữa cho huyết áp lên hơn 145/90mmHg, sau đó đo huyết áp tự nhiên ở cả 2 tay thấy xuống bằng nhau khoảng 110-115/80mmHg mạch 65-70. Như vậy huyết áp bất bình thường trước khi chưa điều chỉnh là huyết áp giả làm ra bệnh.

Đo huyết áp hai tay thấp dưới 110/70mmHg mạch 65 đối với Tây y là huyết áp tốt, nhưng bệnh nhân vẫn bị mệt, chóng mặt, rụng tóc, mất trí nhớ, kém ăn, mặt mất sắc không có thần, tinh thần suy nhược, hay phải chữa đau cổ, gáy, tay, vai kinh niên mà không khỏi. Đây là huyết áp giả, khi bấm huyệt điều hòa khí thông toàn thân, áp lực khí của Lục phủ, Ngũ Tạng chia đều, lúc đó huyết áp thực xuống ở cả 2 bên tay còn 95/60mmHg mạch 60, cần phải uống sirop bổ máu để huyết áp lên đúng và đủ mới tránh được những bệnh ung thư sọ não vì thiếu máu não và máu toàn thân.
Nếu huyết áp đo bình thường ở 2 tay thấp dưới 100/65mmHg mạch 65 là thiếu máu bẩm sinh, khi lớn tuổi huyết áp vẫn không lên do ăn uống kiêng khem, ăn chay, không có chất bổ máu, những người này thường hay bị bệnh ung thư, vì hồng cầu mất dần, bạch cầu tăng. Nếu phụ nữ, thường ung thư vú sau di căn sang ung thư tử cung, đàn ông thường ung thư Phổi di căn sang gan hay Bao tử.

Những người có huyết áp 125/80mmHg mạch lúc nào cũng cao trên 110, Tây y cho rằng huyết áp tốt, chỉ có mạch hơi cao. Thực ra bệnh này do thiếu lượng máu trong cơ thể trầm trọng, huyết áp giả đã gạt bác sĩ. Huyết áp thật sự của loại người này là 95/65mmHg mạch 80. Nếu mạch 80 không đủ lực bơm máu tuần hoàn cho đủ một chu kỳ toàn thân, nên tim phải đập nhanh thêm 30 lần nữa trong một phút, làm huyết áp tăng giả lên thêm 30 mới được 125.

Đông y Khí công lúc nào cũng điều chỉnh khí để tìm ra huyết áp thật sự, nên mới khám phá ra những căn bệnh nan y mà Tây y không giải quyết được. Có người bị những trường hợp này, trở thành bệnh Tâm thần, hoảng sợ, tim đập nhanh, hồi hộp, mất ngủ. Tây y chữa vào ngọn, dùng thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc trị điên suốt đời mà không chữa vào gốc bệnh nên bệnh càng ngày càng trầm trọng thêm. Trường hợp này Đông y Khí công cho dùng thuốc bổ máu, đủ máu nhịp tim sẽ chậm lại và huyết áp tăng dần cho đến mức tiêu chuẩn bình thường là khỏi bệnh.

Để nghiên cứu sự thay đổi huyết áp khi tác động vào huyệt, ta xét đồ hình huyệt của Mạch Nhâm ( hình 1.1), để ý đoạn giao điểm của 2 bờ xương sườn giao nhau tại huyệt Trung Đình. Từ Trung Đình xuống rốn chia làm 8 đoạn đều nhau, có 8 huyệt : Huyệt ở mỏm xương ức là Cưu Vĩ, đến Cự Khuyết, Thượng Quản, Trung Quản, Kiến Lý, Hạ Quản, Thủy Phân và Thần Khuyết (lỗ rốn).

Hình 1.1. Đồ hình huyệt của mạch Nhâm

Từ rốn là huyệt Thần Khuyết đến đỉnh xương mu là Khúc Cốt, chia làm 5 đoạn đều nhau. đoạn thứ nhất từ rốn xuống là huyệt Âm Giao, Thạch Môn, Quan Nguyên, Trung Cực. Huyệt Khí Hải chiếm 1 đoạn rưỡi, giữa Âm Giao và Thạch Môn.

1.2.1. Công dụng của từng huyệt

Huyệt CƯU VĨ :
Là giao hội huyệt của Mạch Nhâm, Đốc để điều chỉnh tim phổi, chữa đau tức dưới tim nghẹn ngực khó thở, thư giãn ngực, định thần.
Đo huyết áp ờ 2 tay khi chưa chữa bằng huyệt, tay nào cao hơn hết sẽ giữ máy đo thường trực ở tay đó, thí dụ tay bên phải cao là 220/120mmHg mạch 95. Sau dùng ngón tay cái bấm đè vào Cưu Vĩ rồi bấm máy, máy đo được 240/130mmHg mạch 95. Cứ bấm tiếp trên huyệt, bệnh nhân được thư giãn ngực, định thần, lần thứ 2 huyết áp xuống 190/110mmHg mạch 90, bấm tiếp lần thứ 3 bệnh nhân hết bị nấc nghẹn, dưới tay mình nghe có khí và nước từ lồng ngực chảy xuống kêu rọc rọc, huyết áp xuống 160/90mmHg, tiếp tục lần thứ 4 huyết áp xuống 140/90mmHg mạch 80. Buông tay ra không bấm vào huyệt nào cả, đo huyết áp tự nhiên trên tay xuống còn 130/85mmHg mạch 80. Nghĩa là huyết áp ở tay đo tự nhiên thấp hơn huyết áp ở tay lúc bấm huyệt Cưu Vĩ.
Trường hợp này Tây y không thể giải thích được, như huyết áp đo được ở tay lên tới 220-240/140mmHg mạch 120 mà không chết, vì huyết áp này là áp lực lồng ngực dẫn ra mạch ở tay chứ không phải là áp lực của tim dẫn ra mạch ở tay.

Huyệt CỰ KHUYẾT :
Là huyệt giao hội của tim với Bao tử, có công hiệu thông hòa ngăn nghẹn ở cách mô, giúp điều hòa tiêu hóa trung tiêu, chữa khí của tim suy, tỉnh thần, khí huyết suy nhược do huyết áp thấp.
Khi đo huyết áp ở 2 tay hay nhìn ở biểu đồ huyết áp trên máy trong phòng cấp cứu thấy huyết áp thiếu dưới 105/65mmHg mạch 75. Khi bấm đè giữ vào huyệt này, huyết áp lên từ từ đến mức 135-140/85-90 mạch 75 thì buông ra. Nếu buông tay không bấm huyệt, đo lại huyết áp vẫn ổn định thì không cần bấm nữa. Đó là huyết áp thực của bệnh nhân.

Huyệt THƯỢNG QUẢN :
Là huyệt giao hội của lá mía, Bao tử, ruột non. Có chức năng tiêu đàm ngăn nghẹn, hóa đàm tiêu thấp trọc, thông chức năng hoạt động của Tỳ Vị, làm tỉnh thần.
Khi đo huyết áp tự nhiên ở tay 190/100mmHg mạch 90, do đờm dãi trong lồng ngực ngăn nghẹn vì thức ăn trong Bao tử không tiêu hóa thành đàm ứ đọng ở cách mô, khó thở khò khè. Bấm ngón tay cái vào huyệt này, nghe bụng sôi, hạ đàm, huyết áp lên tới 220/120mmHg mạch 100, thông vài lần nghe tiếng ọc ạch, ho sặc, khạc đàm, hay có khí, có nước chạy xuống bụng là đàm đã hạ, đo lại huyết áp xuống còn 140/90mmHg ở huyệt này, nhưng buông tay không bấm huyệt nữa, đo huyết áp thực ở tay bây giờ là 130/85mmHg mạch 75

Huyệt TRUNG QUẢN :
Là giao hội huyệt của khí, Bao tử (vị khí) ,Tam tiêu, Tiểu trường, dẫn thức ăn xuống ruột non để thu nạp chất bổ khí toàn thân.
Khi đo huyết áp bình thường ở tay khoảng 160/100mmHg mạch 100, bấm huyệt này, nghe tiếng nước hay khí chạy xuống bụng và ruột, hơi thở mạnh hơn, bụng phồng xẹp được nhiều hơn, đều hơn. Lúc đó huyết áp xuống 120-130/80-90mmHg là lý tưởng, và nhìn vào nhịp thở đang thấp, có khi máy không chỉ vì dùng máy trợ thở mà cơ thể bệnh nhân không thở, chỉ nghe tiếng xì…xạch của máy, bệnh nhân không thở, nhưng khi bấm vào huyệt này, hơi thở bệnh nhân tăng lên, đều đặn hơn, giữ nhịp 18-20 hơi thở trong 1 phút. Như vậy huyệt này dùng để chỉnh giữ nhịp thở bệnh nhân được tự thở đều đặn. Khi buông tay ra khỏi huyệt, con số nhịp thở vẫn được duy trì, chứng tỏ thần của bệnh nhân được phục hồi, sẽ tỉnh ra khỏi cơn hôn mê rất nhanh.

Huyệt KIẾN LÝ :
Là huyệt điều chỉnh Tỳ Vị, dẫn khí từ thượng tiêu xuống trung tiêu, từ trung tiêu thức ăn được điều chỉnh tiêu tích trệ ứ đọng xuống hạ tiêu.
Đo huyết áp trước khi bấm vào huyệt này khoảng 180/100mmHg mạch 100 là ăn không tiêu, là huyết áp tăng giả tạo. Bấm huyệt này cho huyết áp xuống 120/80mmHg mạch 80 là lý tưởng. Buông tay, đo lại huyết áp xuống 120-125/80mạch 75 là huyết áp thực của tim mạch được thư giãn không do sức ép của Bao tử ở lồng ngực nữa.

Huyệt HẠ QUẢN :
Là huyệt giao hội của Tỳ (lá mía) có công dụng giúp Bao tử tiêu hóa, hấp thụ thức ăn thành chất bổ khí huyết, làm trống Bao tử tiêu hóa thức ăn.
Đo huyết áp trước khi bấm huyệt này, khoảng 170-200/100-120mmHg mạch 80-100 là Bao tử bị đầy không tiêu. Bấm huyệt giữ lâu, bệnh nhân thở sâu hơn, bụng có tiếng kêu ọc ọc, Bao tử bị đẩy thức ăn xuống dưới, nhịp thở mạnh hơn, có lực hơn. Đo lại huyết áp xuống còn 120/80mmHg là huyết áp thật của tim mạch.
Có thể cùng lúc bấm cả hai huyệt Kiến Lý và Hạ Quản. để giùp nhịp thở đều 18 hơi và tăng biên độ hơi thở để máy vẽ ra hình sin đều và cao hơn, mới trở thành người khỏe mạnh.

Huyệt THỦY PHÂN :
Là huyệt điều chỉnh chức năng của Thận và Tỳ, hai chức năng này tương phản không hòa hợp, (thổ khắc thủy) Tỳ Vị ngăn chặn sự thoát nước của Thận làm ra sưng phù nê.
Đo huyết áp trước khi bấm huyệt lên tới 200/120mmHg mạch 100, trong khi bấm huyệt, đo huyết áp xuống dần 120/80mmHg là lý tưởng, sau đó đo lại tự nhiên huyết áp thực của tim mạch bây giờ cũng khoảng 120/80 mạch 75.

Huyệt THẦN KHUYẾT :
Là huyệt của Bao tử và ruột già, có chức năng làm ấm bụng do mất nhiệt, điều chỉnh trường vị, huyệt cấp cứu hồi dương cố thoát do mất máu mất nước vì tiêu chảy.

Huyệt ÂM GIAO :
Là huyệt giao hội của Thận và Mạch Xung (của tim), có chức năng phân thanh trọc, cho xuất nước, xuất hàn lạnh ra khỏi cơ thể.
Cùng một lúc bấm hai huyệt Thần Khuyết và Âm Giao chữa người lạnh bụng trướng đầy nước, phù thủng. Hai huyệt này ít làm thay đổi huyết áp, nhưng có gía trị chữa bí tiểu do hàn kết.

Huyệt KHÍ HẢI :
Là huyệt điều khí bổ nguyên khí, ấm hạ tiêu, ấm toàn thân ra chân tay, khử thấp trọc, hòa vinh huyết để bổ khí huyết.
Bấm huyệt này huyết áp xuống, giúp hơi thở được sâu, có lực, làm tăng thận khí, là huyệt dùng để lọc thận bằng khí có kết qủa hơn là lọc thận bằng nứớc

Huyệt QUAN NGUYÊN :
Huyệt giao hội của Tiểu trường và Vị, ôn nguyên dương, bảo kiện Gan-Tỳ-Thận âm dương, chữa ứ kết, tán tà, tiêu viêm, trừ hàn thấp, phân thanh trọc, tiêu bướu vùng hạ tiêu.
Bấm huyệt này để bổ khí huyết điều chỉnh từ Gan-Tỳ-Thận. Huyệt điều chỉnh huyết áp ổn định.

Huyệt TRUNG CỰC :
Là huyệt chuyên trị bệnh của Bàng quang, chữa bí tiểu, viêm đường tiểu, ôn điều huyết ở tử cung, tiêu bướu tử cung, tuyến tiền liệt, giúp ổn định huyết áp, làm ấm hạ tiêu, tiêu thấp nhiệt.

Huyệt KHÚC CỐT :
Tiêu viêm vùng Bàng quang, tử cung, dịch hoàn, bí tiểu, không làm ảnh hưởng huyết áp.

1.2.2. Cách phối hợp huyệt

Khi đã hiểu rõ chức năng của mỗi huyệt có ảnh hưởng đối với huyết áp, chúng ta lấy máy đo huyết áp đo ở tay nào cũng được ở thế nằm tốt hơn ở thế ngồi, khoảng cách chênh lệch hiệu số huyết áp giống như hiệu số điện thế sẽ không làm ảnh hưởng đến não và tim mạch. Có những giai đoạn sau :
Chúng ta thực tập đo huyết áp khi chưa bấm vào huyệt nào.

2. Đo từng huyệt trong khi cho máy đo huyết áp làm việc xem là bao nhiêu. Rồi đo lại khi không bấm huyệt, để ghi nhớ huyệt nào làm tăng huyết áp, huyệt nào làm giảm huyết áp ở mỗi người hơi khác nhau do áp lực khí của Tạng, Phủ mỗi người có bệnh khác nhau.

3. Cuối cùng, không bấm huyệt nào nữa, chỉ đo huyết áp ở 2 tay, đó mới là huyết áp thực sự, mới lòi ra được những căn bệnh tiềm ẩn tích lũy trong cơ thể từ lâu, khi so sánh nó với số đo lúc ban đầu.
Thí dụ nhìn một người thấy mặt xanh xao, huyết áp cao 140/90mmHg mạch 110, vẫn uống thuốc huyết áp mà không xuống, thực ra khả năng của thuốc đã làm cho xuống thấp, nhưng cơ thể đã phản ứng chống lại khi huyết áp bị tụt, mạch phải đập nhanh hơn để đưa huyết áp lên cho phù hợp với sức khỏe của cơ thể. Khi áp dụng tìm huyết áp thật theo phương pháp này, ở thế nằm, huyết áp sẽ xuống dưới 100/70mmHg nhưng mạch đập chậm hơn. Lúc đó mới biết huyết áp giả đã hại mình và vì sao uống thuốc suốt đời mà không hạ, nhưng bỏ thuốc sẽ bị tai biến mạch máu não

Sự thay đổi huyết áp qua Tinh- Khí- Thần

Tây y chú trọng huyết áp của tim mạch, chỉ kết luận bệnh nhân bị bệnh cao huyết áp hay thấp huyết áp và điều trị bằng thuốc hay giải phẫu tim mạch.
Đối với Đông y Khí công, tất cả mọi bệnh đều xét về cả 3 yếu tố gây ra bệnh là Tinh-Khí-Thần, thì trường hợp bệnh huyết áp cũng không ngoại lệ.

1.3.1. Yếu tố do Tinh

Tinh là những thức ăn, thuốc uống đem vào cơ thể, nó có ảnh hưởng làm tăng hay hạ huyết áp của tim mạch. Theo lý thuyết Đông y: Tinh làm thay đổi khí huyết trong cơ thể.
Khi một người bị bệnh cao huyết áp, thí dụ 160/95mmHg mạch 80, uống thuốc làm hạ huyết áp xuống 140/85mmHg mạch 78 và cứ giữ ổn định ở mức này, bệnh nhân sẽ phải uống thuốc suốt đời để giữ được mức an toàn ấy, nếu bỏ thuốc huyết áp sẽ lên trở lại 160/95mmHg mạch 80.
Tinh còn do nguyên nhân thức ăn thay đổi hàng ngày, nếu không hiểu do nguyên nhân ăn uống làm thay đổi huyết áp, như ăn những thứ cay nóng, các loại ga, men, bia, rượu, coke, gan gà, cam thảo, thuốc lá, trái cây nhiệt đới như nhãn, xoài, sầu riêng… huyết áp lại tăng cao lên 150/95mmHg mạch 82, lúc đó bác sĩ sẽ tăng liều thuốc để làm huyết áp hạ xuống dưới 140/90mmHg mạch 75. Có người vẫn uống thuốc chữa áp huyết đều mỗi ngày, nhưng khi ăn 3 trái hồng và hơn 10 trái nhãn, sau đó người tăng nhiệt khó chịu, nhức đầu, đo áp huyết lên 180. lúc đó mới biết nguyên nhân thỉnh thoảng tại sao áp huyết tăng cao bất thường.

Những trường hợp này Đông y Khí công gọi là huyết áp giả tạo do thực phẩm gây ra. Tây y cũng có ngành thực phẩm dinh dưỡng, nhưng chưa chú trọng nghiên cứu loại thức ăn nào làm tăng huyết áp, loại thức ăn nào làm hạ huyết áp, vì không biết đến tương quan Ngũ hành về tính-khí-vị mà chỉ chú trọng đến calories, vitamines, chất khoáng, chất đường (glucid), chất đạm (protid), chất mỡ (lipid), chất xơ.

Còn Đông y xem tất cả các loại thức ăn là một vị thuốc, dù đơn chất hay hợp chất pha chế trong nấu nướng đều phải phân chất theo tính-khí-vị.

Vị là mùi vị của thức ăn, là chất dẫn thuốc đi vào riêng từng Ngũ hành, Tạng, Phủ như vị đắng vào Tâm, ngọt vào Tỳ (lá mía), cay vào Phế, mặn vào Thận, chua vào Can.
Tính của thuốc hay món ăn nó tạo cho cơ thể trở nên lạnh hay trở nên nóng, hay ấm gọi là tính hàn hay nhiệt, hay ôn.
Khí của thuốc hay thức ăn làm tăng khí (làm tăng huyết áp), hạ khí (làm hạ huyết áp), tăng huyết bổ máu, giảm huyết phá máu, liễm khí, thoát khí, làm ói mửa, làm táo bón hay tiêu chảy, xuất mồ hôi…

Cũng vì đặc tính này của thức ăn, Tây y không để ý, đó cũng là một nguyên nhân làm tăng huyết áp giả, mặc dù vẫn đang dùng thuốc kiểm soát huyết áp, nên đã có những trường hợp chết bất đắc kỳ tử trong khi ăn vẫn nói cười vui vẻ rồi đột qụy, hay sau khi ăn rồi bị mệt đi vào hôn mê bất tỉnh.

Có người huyết áp rất bình thường nhờ có uống thuốc kiểm soát huyết áp đều đặn, lúc nào cũng ở mức dưới 130/85mmHg mạch 82. Nhưng khi gặp bạn bè rủ đi ăn sáng, về nhà bị nhức đầu chóng mặt, nôn ói, gia đình nghĩ do rượu, ói rồi đi nghỉ sẽ khỏe. Đến chiều người nhà gọi không tỉnh dậy, gọi xe cứu thương đưa đến bệnh viện cấp cứu trong một tuần không kết quả.
Có trường hợp đang ngồi ăn, cảm thấy đầy bụng khó chịu không muốn ăn, rồi gục xuống bàn đi luôn; có một bà bị cao huyết áp, con cái chăm sóc nuôi ăn kiêng khem rất cẩn thận, cụ vẫn khỏe mạnh, một hôm cả nhà mua Sầu Riêng về ăn, cho cụ ăn 3 múi, sau đó cụ có vẻ thèm muốn ăn thêm. Ngày hôm sau con cụ mua cho cụ 1 trái để ăn, ăn nửa chừng cụ khó chịu, cấp cứu vào bệnh viện, huyết áp của cụ trên 200/125mmHg, mạch 100 khi cụ chết.

Những trường hợp trên, bệnh nhân vẫn uống thuốc giữ huyết áp luôn luôn ổn định, nhưng chết đột ngột đều do nguyên nhân từ thức ăn, đồ uống, không phù hợp để chữa bệnh mà làm cho bệnh tăng huyết áp giả lên đột ngột bởi tính-khí-vị của thức ăn mà Đông y xem như tương đương với thuốc.
Ngoài ra huyết áp hay bất cứ một loại bệnh nào khác mà cơ thể có, còn do 2 yếu tố khác là Khí và Thần, thì Tây y chỉ biết mơ hồ, không tin tuởng và không biết cách áp dụng đúng.

1.3.2. Yếu tố Khí

Có 5 loại khí làm ra bệnh:
Lục khí :
Khí thời tiết và môi trường sống, có 6 thứ là phong ( gió), hàn (lạnh), thử (nóng oi bức), thấp (ẩm thấp), táo ( khô ráo), nhiệt (nóng)
Ngũ Tạng khí:
Khí trong cơ thể cũng có 5 thứ là phong, hàn, thấp, táo, hỏa, ứng với Ngũ hành, phong thuộc Can, hàn thuộc Thận, thấp thuộc Tỳ, táo thuộc Phế, hỏa thuộc Tâm.
Khí hấp thụ:
Khí là hơi thở, đem khí bên ngoài vào trong cơ thể, nó phù hợp hay cần thiết theo nhu cầu sẽ làm cơ thể khỏe, nếu không thuận và hợp với cơ thể sẽ làm cho cơ thể bệnh. Thí dụ như cơ thể đang lạnh nếu sống ở nơi có thời tiết ấm nóng, cơ thể sẽ ít đau đớn bệnh hoạn hơn, ngược lại những người đang bị nhiệt, cao huyết áp, mà phải làm việc trong lò nướng bánh mì hay lò đúc thủy tinh thì không phù hợp để chữa khỏi được bệnh đau sưng, nhức, thấp khớp, tim mạch và huyết áp mặc dù vẫn đang dùng thuốc chữa huyết áp …
Khí công:
Do tập luyện Khí công sai đã tạo ra huyết áp giả làm tăng hay giảm huyết áp đột ngột.
Khí công để chữa bệnh thuộc ngành y cũng phải tuân theo quy luật Ngũ hành Tạng, Phủ để điều chỉnh hư thực, hàn nhiệt, thăng giáng, liễm xuất…
Vì không hiểu quy luật dùng Khí công chữa bệnh theo Ngũ hành, Tạng, Phủ, nên các nhà Khí công cũng vẫn bị bệnh tim mạch, cao huyết áp, tiểu đường…mà không thể tự chữa được.
Bội thực khí do ăn không tiêu:
Còn một loại khí khác trong cơ thể cũng làm tăng huyết áp giả do vị khí quá thực, là khí của Bao tử khi ăn no bội thực, hay ăn uống không tiêu làm đầy hơi khiến ngộp thở, chèn ép tim mạch, huyết áp tăng cao làm vỡ mạch máu não dẫn đến hôn mê chết người, nếu không cho ói mửa thức ăn hay cho tiêu xổ ra kịp thời, mặc dù người bệnh không có bệnh cao huyết áp, trường hợp này đa số bị chết bất đắc kỳ tử mà Tây y không tìm ra nguyên nhân vì bội thực khí..

Huyết áp giả do nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến tim mạch như huyết áp giả từ gan gọi là Can phong nội động, huyết áp giả từ Bao tử là Vị khí thực không tiêu, huyết áp giả từ Phế khí thực như suyễn cấp tính, huyết áp giả từ Thận khí hư cơ thể phù trướng nước…

1.3.3. Yếu tố Thần

Trong Tây y có ngành chuyên khoa Tâm lý thần kinh để chữa bệnh, chỉ là một phần trong yếu tố Thần của Đông y.
Đông y dùng Thần để chữa bệnh hay khám bệnh cũng quy về nguyên tắc Ngũ hành về tâm lý, âm thanh, mầu sắc.
Tâm lý ứng với Ngũ hành Tạng, Phủ như : Vui thuộc Tâm, Lo thuộc Tỳ, Buồn thuộc Phế, Sợ thuộc Thận, Giận thuộc Gan.
Âm thanh có ngũ âm như : Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ theo nốt nhạc để diễn tả như Vui qúa thì cười như điên như dại, Lo thì hay ca hát, Buồn thì khóc, Sợ thì rên, Giận thì la hét.
Mầu sắc cũng chia Ngũ hành như mầu đỏ thuộc tim, mầu vàng thuộc Tỳ, mầu trắng thuộc Phổi, mầu đen thuộc Thận, mầu xanh thuộc gan.

Những người có bệnh chán đời, bác sĩ Tâm lý thần kinh khuyên nên vui vẻ lạc quan yêu đời. Những người điên thì không khuyên gì theo Tâm lý Ngũ hành mà chỉ uống thuốc an thần. Những người vui qúa khích như đội Hockey nhà thắng trận, đi đập phá bể kính các cửa tiệm buôn, đã có bảo hiểm đền, không cần phải quan tâm chữa bệnh cho những người này, nên cảnh này vẫn tái diễn. Nếu chữa theo Ngũ hành của Đông y, vui qúa khích là hỏa của Tâm, dùng Thận thủy là mầu đen, và sợ để khắc chế, có nghĩa là nếu những người bệnh này cho ở trong phòng sơn mầu đen, hay tối không có ánh sáng, và có luật phạt tiền, phạt tù về tội phá hoại, làm cho họ sợ sẽ mất hết tính qúa khích, hay chữa bằng cách mẹ thực tả con, Tâm là mẹ quá vui, tả con là Tỳ, có nghĩa làm cho họ biết lo lắng…

Đối với Đông y, thần có vai trò quan trọng làm giảm bệnh hay tăng bệnh cũng tương đương với cách chữa bằng thuốc.
Riêng về bệnh cao huyết áp, cấm kỵ không được giận sẽ hại gan, làm gan co bóp bơm máu dẫn đến căng đứt các ống mạch và sợi thần kinh, gọi là stroke.
Như vậy nếu có bệnh cao huyết áp mà chỉ chữa bằng thuốc là một phần của Tinh, còn phần thức ăn cũng là thuốc, yếu tố Khí và Thần cũng là thuốc, mà không biết sử dụng đúng để chữa bệnh, sẽ làm cho bệnh càng ngày càng nặng thêm.

1.4. Day bấm huyệt để điều chỉnh huyết áp theo chứng bệnh

A-Quy luật bổ tả theo thứ tự công thức huyệt

Bổ :
Vuốt trên huyệt thuận chiều đi của đường kinh là bổ. Trong trường hợp hợp huyệt ở những khe lồi lõm không thể vuốt được, hoặc trong trường hợp không nhớ chiều đi của đường kinh thì dùng đầu ngón tay cái day vào huyệt theo chiều thuận kim đồng hồ, lực vừa phải. Day hay vuốt 6 lần chuyển âm ra dương để bổ khí. Day hay vuốt 9 lần để chuyển dương ra âm để bổ huyết. Day 18 lần vừa bổ khí, bổ huyết.
Tả :
Vuốt trên huyệt nghịch chiều đi của đường kinh là tả. Trong trường hợp vị trí huyệt khó vuốt thì dùng ngón tay day vào huyệt nghịch chiều kim đồng hồ, lực vừa phải. Day hay vuốt huyệt cũng theo quy tắc 6 hay 9 để chữa khí hay huyết.
Bình bổ bình tả:
Dùng ngón tay vuốt hay day trên huyệt nghịch chiều đường kinh hay nghịch chiều kim đồng hồ để tả trước rồi vuốt thuận sau để bổ, gọi là bình bổ bình tả. Cũng theo quy luật 6/9.
Bấm huyệt:
Chỉ dùng ngón tay cái bấm đè ấn vào huyệt, không day bổ hay tả, mục đích kích thích huyệt.
Cứu:
Dùng đầu cây ngải cứu hoặc đầu thuốc lá hay đầu cây nhang to, hoặc chụm 5 cây nhang nhỏ để cách huyệt 3-5cm tạo nhiệt ấm nóng 45-55 độ C, thời gian hơ 40-60 giây lại lấy ra dụi tàn, rồi hơ tiếp lần thứ hai...mỗi lần hơ 40-60 giây là một mồi. Trước khi cứu vào huyệt phải thoa trên huyệt một lớp kem vaseline ngừa cháy phỏng da. Để ý, lúc đầu lâu tối đa 60 giây bệnh nhân mới cảm thấy nóng, những lần sau 50, 40, 30 giây đã cảm thấy nóng là đủ liều, nhưng nếu 60 giây nhiều lần vẫn chưa cảm thấy nóng thì chưa đủ liều, vẫn hơ tiếp, nhưng chỉ tăng số lần hơ chứ không tăng một mồi nhiều hơn 60 giây, bởi vì những bệnh nhân có bệnh tiểu đường, thần kinh da mất cảm giác nhưng nhiệt độ hơ sẽ gây ra phỏng lở da khó lành. Cho nên người có bệnh tiểu đường cấm cứu.
Chích lể:
Theo châm cứu cổ truyền, các thầy châm cứu dùng kim tam lăng, nhưng hiện nay nên dùng loại kim thử tiểu đường, mỗi lần dùng xong vất đi, châm vào đìểm đau gọi là A-thị-huyệt, rồi nặn ra một ít máu bầm tắc thì chỗ đau được khai thông hết đau.
Châm:
Dùng đầu bút bi châm vào huyệt, như châm vào các tỉnh huyệt hay vào các huyệt trên mặt.
Vuốt huyệt trên lưng bối du huyệt:
Vuốt từ huyệt này sang huyệt khác trên lưng, thay vì vuốt trên đường kinh Bàng quang thứ nhất cách Mạch Đốc giữa cột sống 1,5 thốn, để chữa những bệnh nhẹ, nhưng những bệnh nặng phải dùng đến đường kinh Bàng quang thứ hai, cách Mạch Đốc giữa cột sống 3 thốn, về Ngũ hành giống như đường kinh thứ nhất. Ngoài ra, đường sát cột sống, cách Mạch Đốc 0,5-1 thốn là đường Hoa Đà Giáp Tích cũng dùng để chữa những bệnh nan y. Cho nên Khí công vuốt huyệt trên lưng nên dùng nguyên nắm tay để cho khớp ngón trỏ trên đường Hoa đà giáp tích, khớp ngón giữa trên đường kinh Bàng quang thứ nhất, khớp ngón áp út trên đường kinh Bàng quang thứ hai, để mỗi lần vuốtt có thể vuốt được cả 3 đường mới có nhiều hiệu quả.

Huyết áp cao :
Ký hiệu: x- tả, o- bổ
xPhong trì (Đ.20)
xKhúc trì (ĐT.11) xHợp cốc (ĐT.4)
Hình 1.2. Huyệt điều chỉnh huyết áp( HĐC HA) cao

Huyết áp cao do âm dương đều suy :
oThận du (BQ.23) oQuan nguyên (MN.4)
oTam âm giao (Tỳ 6)
Hình 1.3. HĐC HA cao do âm dương đều hư

Huyết áp cao do âm dương lưỡng hư:
Điều bổ âm dương
oThận du (BQ.23) oQuan nguyên (MN.4)
oTúc tam lý (V.36) oTam âm giao (Tỳ 6)
Hình 1.4. HĐC HA cao do âm dương lưỡng hư

Huyết áp cao do âm hư, dương thịnh 1 :
Dưỡng âm tiềm dương
xPhong trì (Đ.20) xTam âm giao (Tỳ 6)
x Thái khê (Th.3)
Hình 1. 5. HĐC HA cao do âm hư, dương thịnh 1

Huyết áp cao do âm hư dương thịnh 2 :
oTam âm giao (Tỳ 6) oThái xung (C.3)
oThái khê (Th.3)
Hình 1. 6. HĐC HA cao do âm hư, dương thịnh 2

Huyết áp cao do Can dương thượng kháng :
xThái xung (C.3) xHành gian (C.2)
xThái dương (KH)
Hình 1.7. HĐC HA cao do can dương thượng kháng

Biến chứng :
Kèm Bệnh đàm nghịch
xPhong long(V.40)
Kèm bệnh chân phù
xÂm lăng tuyền (Đ.34)
Hình 1.8. HĐC HA cao do can dương thượng kháng kèm chân phù

Kèm bệnh hồi hộp mất ngủ
Kèm bệnh ói mửa
xNội quan (TB.6)
oThần môn (Tâ.5)
Hình 1.9. HĐC HA cao do Can dương thượng kháng kèm hồi hộp, mất ngủ

Huyết áp cao do co thắt bao tử, vẹo cổ :
xLạc linh ngũ (TH)
Hình 1.10. HĐC HA do co thắt bao tử, vẹo cổ

Huyết áp cao do gan, cholesterol :
xThái xung (C.3) xKhúc trì (ĐT.11)
xTúc tam lý (V.36) xPhong trì (Đ.20)
xNhân nghênh (V.9)
Hình 1.11. HĐC HA cao do gan, cholesterol

Huyết áp cao do can hỏa vượng :
Bình can tả hỏa
xPhong trì (Đ.20) xThái xung (C.3)
xKhúc trì (ĐT.11) xDương lăng (Đ.34)
xHành gian (C.2)
Hình 1.12. HĐC HA do can hỏa vượng

Huyết áp cao do phong rút bả vai làm liệt tay :
Tắc ống mạch ngoại vi
xKiên liêu (Tat.14) xKiên ngoại du (Ttr.14)
Hình 1.13. HĐC HA do phong rút bả vai

Huyết áp cao do phong đàm :
xẤn đường (KH) xKhúc trì (ĐT.11)
xPhong long(V.40)
Hình 1.14. HĐC HA cao do phong đàm

Huyết áp cao do tâm bào :
Tả 4 huyệt tay trái
xNội quan (TB.6) xThần môn(Tâ.7)
xĐại lăng (TB.8) xLao cung (TB.7)
Hình 1.15. HĐC HA cao do tâm bào

Huyết áp cao do thận nhiệt :
Triệu chứng đầu nóng chân nóng, cao huyết áp thường
xuyên, kèm theo bệnh tiểu đường, glucoza huyết tăng.
xThận nhiệt huyệt (KH)
xThái khê (Th.3) oThận du (BQ.23)
Hình 1.16. HĐC HA do thận nhiệt

Huyết áp cao do trường vị nhiệt :
xKhúc trì (ĐT.11)
xTúc tam lý (V.36) xNhân nghênh (V.9)
Hình 1.17. HĐC HA cao do thận nhiệt

Huyết áp cao do Tỳ vị, ăn uống không tiêu :
xTúc tam lý (V.36) xẨn bạch (Tỳ 1)
Hình 1.18. HĐC HA cao do ăn uống không tiêu

Huyết áp cao do viêm xoang mũi:
(thiếu công thức huyệt)

Hình 1.19. HĐC HA cao do viêm xoang mũi

Huyết áp cao đầu nóng chân lạnh :
Tâm thận bất giao làm âm hư hỏa vượng
xHợp cốc (ĐT.4) oTam âm giao (Tỳ 6)
Hình 1.20. HĐC HA do đầu nóng, chân lạnh

Huyết áp ổn định tự động :
Day Nội quan trái (TB.6)
Hình 1.21. HĐC HA ổn định tự động

Huyết áp thấp do âm hư phong động :
Bổ âm tiềm dương, bình can tức phong
oThái khê (Th.3) oTam âm giao (Tỳ 6)
xThái xung (C.3) xPhong trì (Đ.20)
Hình 1.22. HĐC HA thấp do âm hư, phong động

Huyết áp thấp do can thận hư tổn :
Bổ ích can thận, kiện tỳ
oThận du (BQ.23)
oCan du (BQ.18) oTỳ du (BQ.20)
oThái khê (Th.3) oThái xung (C.3)
oTam âm giao (Tỳ 6 ) xPhong trì (Đ.20)
Hình 1.23. HĐC HA thấp do can thận hư tổn

Biến chứng :
Sụp mí mắt :
Day thêm Dương bạch (Đ.14) và Ngư yêu (KH)
Hình 1.24. HĐC HA thấp do can thận hư tổn biến chứng sụp mí mắt

Tay chân giá lạnh :
Cứu Bách hội (M Đ.20) , Khí hải (MN.6)
Hình 1.25. HĐC HA thấp do can thận hư tổn biến chứng tay chân giá lạnh

Huyết áp thấp do dương nguyên khí suy :
oKhí hải (MN.6) oQuan nguyên (MN.4)
Hình 1.26. HĐC HA thấp do dương nguyên khí suy

Huyết áp thấp do thận hư suy :
Bổ thận ích tủy
oThái khê (Th.3) oChiếu hải (Th.6)
oThận du (BQ.23) oTam âm giao (Tỳ 6)
Hình 1.27. HĐC HA thấp do thận hư suy

Biến chứng : Ù tai
xThính cung (Ttr.19)
Hình 1.28. HĐC HA thấp do thận hư suy biến chứng ù tai

Huyết áp thấp do trung khí suy kém :
Bổ trung ích khí, thăng thanh dương
oBách hội (MĐ.20) xPhong trì (Đ.20)
oCách du (BQ.17) oTỳ du (BQ.20)
oVị du (BQ.21) oTúc tam lý (V.36)
Hình 1.29. HĐC HA thấp do trung khí suy kém

Biến chứng :
Lợm giọng muốn ói mửa
Day Nội quan (TB.6)
Hình 1.30. HĐC HA thấp do trung khí suy kém có biến chứng lợm giọng muốn ói mửa

Huyết áp thấp làm chóng mặt :
oBách hội (MĐ.20)
Day Nội quan (TB.6) day Nhân trung (MĐ.26)
Day Tố liêu (MĐ.25) day Thái xung (C.3)
Hình 1.31. HĐC HA thấp làm chóng mặt

25. Huyết áp thấp tim đập chậm :
Day Tố liêu (MĐ.25)
Hình 1.32. HĐC HA thấp, tim đập chậm

26. Huyết áp thấp thoát dương :
Hồi dương cố thoát
oTúc tam lý (V.36)
Cứu Khí hải (MN.6) o Phục lưu (Th.7)
Hình 1.33. HĐC HA thấp thoát dương
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 6 25, 2013 11:53 pm

(TỆP 2)
----------------------

Chương 2. MỘT SỐ BỆNH ÁN CHỮA BỆNH DO HUYẾT ÁP GIẢ

2.1.Tây y chẩn đoán stroke nhẹ, đứt một sợi thần kinh nhỏ trên đầu

Nữ bệnh nhân hơn 60 tuổi khai bệnh, hôm qua bị té xỉu, xe cấp cứu chở vào bệnh viện, khám, chụp hình não cho biết kết qủa như trên, khi tỉnh lại sáng nay cho xuất viện, bà đến đây nhờ khám tìm nguyên nhân tại sao bà bị tê yếu bên tay phải và hay bị mệt không có sức, ưa buồn ngủ mê mệt, thỉnh thoảng hay té xỉu.

Khám Bệnh :
Đo huyết áp tay phải 150/90mmHg mạch 60, tay trái 144/87mmHg mạch 60.
Đo đường trong máu lấy ở tay 4.8mmol/l, ở huyệt Đại Đôn chân phải thuộc kinh gan 4.3mmol/l
Dùng máy bấm nhiệt kế hiệu ThermoFlash đo nhiệt độ trên đầu dọc theo đường kinh Đởm, kinh Vị, tất cả mọi chỗ đều 36.4 độ C, riêng huyệt Đầu Duy hai bên góc trán ở kinh Vị chỉ 37.9 độ

Định Bệnh :
Tôi cho bà biết kết qủa đo huyết áp của bà theo Tây y cho là cao, nhưng không phải vì lý do này mà bà bị tai biến mạch máu não, bà bị té xỉu không phải là đột qụy (stroke) mà do đường trong máu của bà lúc đó xuống thấp qúa.
Bà đến tôi lúc 14 giờ là sau khi đã ăn bữa trưa, mà đo đường trong máu có 4.8mmol/l. Bà nói sáng nay bà đã uống thuốc trị huyết áp và thuốc trị tiểu đường. Bà kể, mỗi sáng chưa ăn gì đo đường là 7.0mmol/l, sau đó bà uống thuốc, có hôm uống thuốc xong đường xuống còn 3.0mmol/l, những hôm đó rất mệt, ngủ li bì, đầu nặng, chóng mặt, đo huyết áp thường lên đến 160/90 mmHg mạch 60
Tôi cho bà biết cách dùng thuốc của bà không đúng. Theo tiêu chuẩn của hãng dược phẩm Bayer, đường trong máu bình thường, được ghi chú trên hộp Test Strips hiệu Contour từ 6.0-8.3 mmol/l thì không phải uống thuốc. Khi nào bụng đói thử đuờng trên 8.3 mmol/l mới cần uống. Bà cho biết bác sĩ dặn 7.0 mmol/l là uống, nên bà uống thuốc trị tiểu đường và thuốc huyết áp mỗi ngày, còn bà tưởng stroke do huyết áp cao.
Theo lý luận của Khí công, qua đúc kết kinh nghiệm nhịn ăn12 ngày, uống nước chanh đường, khi lượng đường trong máu nhiều thì huyết áp tăng và thân nhiệt tăng, còn lượng đường trong máu thấp thì huyết áp giảm, thân nhiệt lạnh. Do đó huyết áp cao của bà là huyết áp giả, huyết áp thật của bà sẽ thấp theo với kết qủa của đường trong máu thấp, vì hai tay của bà đang tê lạnh.
Tôi nói với bà, thật ra bệnh này không cần chữa, vì huyết áp và đường trong máu đo ở tay, là kết qủa không trung thực đối với cơ thể. Vì muốn biết huyết áp thực và lượng đường trong máu thực, cần phải cho cơ thể thông khí huyết đều khắp toàn thân bằng bài tập Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần, sau 5 phút đo huyết áp và đường mớí chính xác. Vì sau khi tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng thì huyết áp và đường trong máu đều xuống khác với số đo ban đầu. Nếu bà không tin thì tập thử.

Cách đìều chỉnh Tinh-Khí-Thần :

Khí :
Cho bà tập thử Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, trán bà xuất mồ hôi, mặt hồng hào, tập đến gần 100 lần bà nói hơi chóng mặt, cho bà ngưng tập. Đo đường ở tay xuống còn 3.5mmol/l. Đo huyết áp bên tay phải xuống 126/89mmHg mạch 60, tay trái 125/86mmHg mạch 59
Đối với Khí công, sáng khi bụng đói tập Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần, sau đó thử đường dưới 8.3 thì không uống thuốc chữa tiểu đường, khi nào bụng đói mà sau khi tập, đo đường cao hơn 8.3mmol/l mới dùng thuốc.

Tinh :
Tôi bảo bà nhắm mắt cho khỏi chóng mặt, bóp mạnh hai huyệt Toản Trúc đầu chân mày cho máu lên nuôi não để chữa chóng mặt do tụt máu não, rồi xé 1 gói đường cát cho vào miệng bà, rồi đo lại đường lên được 4.7mmol/l. Như vậy cơ thể của bà đang thiếu đường trầm trọng, chứ không còn là bệnh tiểu đường.
Kiêng ăn chua làm huyết áp và đường xuống, khi đường xuống dưới 6.0mmol/l đối với Khí công, cơ thể có thể ăn đường được. Vì cơ thể thiếu đường trong máu, làm nồng độ máu giảm, khiến cơ thể mệt, làm huyết áp hạ, và tay chân lạnh khi mạch tim đập dưới 60.

Thần :
Hướng dẫn bệnh nhân tập thở Đan Điền Thần để điều chỉnh chức năng hấp thụ và chuyển hóa đường về gan cho đủ tiêu chuẩn 6.0-8.3mmol/l, làm ổn định huyết áp và mạch tim đập.
Sau khi cho bà ăn thêm đường rồi tập luyện Khí công tiếp tục, bà cho biết bà cảm thấy khỏe, người có sức, tỉnh táo, đi đứng nhanh nhẹn bình thường. Điều bà vui mừng nhất là Khí công chẩn đoán bệnh không cho là bà bị stroke do huyết áp cao, mà bị xỉu vì thiếu đường trong máu.

2.2. Cấp cứu huyết áp cao bằng châm nặn máu

Một nữ bệnh nhân cũ người Colombienne gọi điện thoại đến phòng mạch xin đưa chồng đến cấp cứu. Khi bà đưa ông tới, người ông lừ đừ, việc cấp cứu là ưu tiên, nên không có thời gian để hỏi nguyên nhân, tôi dùng máy đo huyết áp, đo tay bên trái lên 240/140mmHg mạch 110, sờ trán nóng sốt, với huyết áp này không dám để cho bệnh nhân biết, họ hoảng sợ tạo ra cơn "sốc" sẽ vỡ mạch máu não, còn nếu chữa sai lầm, sẽ đứt mạch máu não làm xung huyết não có thể chết ngay tại phòng mạch, nếu gọi xe cứu thương, khi di chuyển cũng sẽ bị chết trên đường đi. Tôi vội châm nặn máu huyệt Chí Âm, châm nặn máu 2 đầu chân mày, châm sau dáy tai, 10 ngón tay, ngón chân, dùng tay cái bấm đè dưới rốn 2cm huyệt Âm Giao để đưa áp lực khí trong người xuống, máu tự nhiên rịn ra do áp lực khí đẩy ra những lỗ thoát vừa châm.
Cách chữa này áp dụng theo nguyên tắc giảm áp, một thí dụ dễ hiểu, mình có căn nhà 5 tầng lầu, vì một nguyên nhân nào đó làm vỡ ống nước trên lầu 5, nếu tìm nguyên nhân chữa trên lầu 5 thì không kịp, áp lực vẫn đẩy nước tràn ra ướt tầng 5 và lan xuống những tầng dưới. Cách giải quyết là mở cho nước thoát ở tầng dưới tràn ra ngoài, những tầng trên không còn áp lực phun nước ra nữa. Tầng 5 ví như đầu bệnh nhân, tầng dưới là huyệt Chí Âm dưới chân.
Những chỗ châm nơi bệnh nhân máu tuôn ra, mình nặn cho ra hết, bệnh nhân tỉnh dần, huyệt dưới rốn làm bệnh nhân dễ thở vì thở bằng bụng, nhưng chức năng huyệt sẽ làm hạ nhiệt, giúp bệnh nhân đi tiêu tiểu, đo lại huyết áp xuống còn 150/80mmHg mạch 80, lúc đó huyết áp xuống qua được cơn nguy hiểm, bệnh nhân cười hỏi tại sao đã uống thuốc huyết áp rồi mà không hạ, lúc nãy tôi có cảm giác ai cầm dao đâm vào tim tôi sắp vỡ tung ra. Tôi bảo cảm giác của ông cũng đúng gần như thế, vì huyết áp tâm trương của ông sắp bung vỡ ra, rồi tôi cho ông xem kết qủa còn lưu lại trên máy đo, còn thuốc chữa chỉ có công hiệu làm giãn nở mạch máu, nhưng bây giờ các mạch đã nở tối đa mà áp lực khí từ Bao tử ăn nhiều no qúa, không tiêu đã làm tăng men tạo áp lực khí ép vào tim sẽ làm vỡ mạch máu não, Tây y gọi là xung huyết não, nhưng Tây y không biết nguyên nhân, chỉ biết hậu qủa.
Muốn làm hạ huyết áp nhanh chỉ có cách làm sao tống khứ hết những thức ăn trong Bao tử ra thì sẽ không còn áp lực khí ép tim tạo ra huyết áp cao nữa, do đó cần phải uống thêm thuốc xổ Phan Tả Diệp (Senna Laxatif), uống 3 viên vào buổi tối, ngày hôm sau đi cầu 3 lần tống hết phân có chứa độc tố trong gan ra ngoài, trở thành phân loãng mầu đen lợn cợn dầu mỡ, xơ sợi, cholestreol kết tủa mầu xanh, đỏ, trắng, vàng, nâu, đen, những cholesterol kết tủa này sau biến thành sạn mật.
Những bệnh nhân người ngoại quốc đủ mọi quốc tịch sinh sống vùng Montreal đã từng đến phòng mạch chữa bệnh bằng phương pháp Khí công, đều hiểu những bệnh huyết áp tăng giảm bất bình thường mà các bệnh viện Tây y không chữa được vì không tìm ra nguyên nhân thì đều đến nhờ tôi điều chỉnh lại, nên đã có rất nhiều người qua được cơn nguy hiểm thoát chết một cách dễ dàng.

Có người hỏi, nếu trường hợp thân nhân bị như vậy sau khi ăn tiệc sinh nhật, tiệc cưới, giáng sinh, Noel, hội hè, mà bị như vậy, chúng tôi phải làm sao để tự cấp cứu người thân.
Tôi đã hướng dẫn họ những điểm cần lưu ý để làm theo như :

Trước khi ăn tiệc, đo huyết áp, nếu cao hơn bình thường, trong bữa ăn sẽ ăn ít hơn thường lệ, không được dùng rượu.
Sau khi đi ăn về, đo lại huyết áp, nếu cao hơn bình thường mặc dù đã uống thuốc hạ áp, bệnh nhân nằm nghỉ ngơi, hai tay để trên bụng dưới, há miệng thổi hơi ra bằng miệng mà không cần hít vào, cứ để tự nhiên cơ thể hít vào đầy hơi thì mình lại thổi hơi ra, có nghĩa là không tăng thêm áp lực khí vào người, mà làm sao đẩy bớt khí lực trong người ra khỏi cơ thể.
Châm nặn máu ở huyệt Chí Âm, 10 đầu ngón tay, ngón chân, hai đầu chân mày, sau tai để khi áp lực máu đẩy lên đầu có lối thoát.
Khi thấy máu ra đặc, uống 1ly nước chanh không đường, công hiệu tốt hơn 1 viên aspirin, vừa làm hạ nhiệt, vừa làm loãng máu, vừa làm hạ huyết áp, vừa giúp bệnh nhân đi tiểu hay đi cầu nhanh.
Trường hợp bụng đầy tức muốn ói, thì móc họng cho ói thức ăn ra để giải tỏa áp lực khí của Bao tử làm nghẹn hơi thở và làm mệt tim. Nếu không ói được thì tối cho uống 3 viên Phan Tả Diệp (Senna Laxatif) để giải độc máu trong gan, làm hạ huyết áp, sáng hôm sau đi cầu tống hết phân ra ngoài làm cho nhẹ bụng, và khỏi bệnh.
Điều chỉnh lại huyết áp cho hai bên tay được đều và bình thường bằng bài tập Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần, người sẽ xuất mồ hôi, bụng mềm, thông khí đều toàn thân, tăng cường oxy cho tế bào và các Tạng, Phủ, huyết áp sẽ xuống thấp nhanh hơn là uống thuốc làm hạ huyết áp chỉ có công dụng ức chế thần kinh trung ương và làm giãn mạch, chứ không làm thông khí toàn thân và tăng oxy cho cơ thể.

Đã có nhiều gia đình bệnh nhân người ngoại quốc áp dụng theo để tự chữa cho người thân có kết qủa, họ thắc mắc tại sao Tây y không áp dụng cách chữa này.
Tôi trả lời, lý do quyền hạn và chức năng của bác sĩ gia đình không được phép giải quyết những căn bệnh về chuyên khoa, còn bác sĩ chuyên khoa không được phép chữa ra ngoài khoa chuyên môn của mình. Còn Đông y là cách chữa toàn khoa thì không được Tây y công nhận, chỉ tạm thời gọi là ngành Y Học Bổ Sung bao gồm massage, châm cứu, bấm huyệt, Yoga, Khí công, Dưỡng sinh..., nhưng không đem vào chương trình học.
Muốn được công nhận đem vào chương trình học thì phải đợi Đông, Tây y cùng kết hợp chữa chung và theo dõi so sánh cùng một ca bệnh, thấy có kết qủa nhanh hơn cách chữa của ngành y khoa chính thống, rồi qua nhiều năm đuợc thống kê, rồi hội thảo, rồi phổ biến, rồi áp dụng lâm sàng trong nhiều bệnh viện…, hơn 100 năm sau mới có thể đưa vào chương trình học Đông Tây y kết hợp.
Còn Đông y bị chìm đi vì từ trước đến nay chưa có một báo cáo nào thành công, được Tây y công nhận, vì các thầy thuốc không học Tây y nên không giải thích được theo khoa học. Còn ở Trung Quốc và Việt Nam những giáo sư Đông y giỏi lý thuyết nhưng không giỏi thực hành, đến nỗi khi có bệnh huyết áp và tiểu đường, đều phải dùng thuốc Tây y, và cũng phải ngồi xe lăn khi bị tai biến mạch máu não, thì ai còn tin tưởng vào Đông y nữa.

Cả hai ngành y Đông và Tây đều phục vụ chữa bệnh cho con người, nếu được dung hòa trong trường y, Tây y phải biết về Đông y, Đông y phải học về Tây y. Lúc đó những thầy thuốc ở thế hệ sau này mới thực sự đầy đủ kiến thức y khoa để chữa bệnh cho con người có hiệu qủa nhầt. Nhưng đó là lý thuyết, đời sống còn lệ thuộc vào lợi nhuận kinh tế nên không bao giờ thực hiện được hoài bão này, cho nên ai biết Đông thì cứ đi Đông, ai biết Tây thì đi Tây vậy.

2.3. Chuột rút cổ chân và vai

Bị chuột rút ở cổ chân trái và thỉnh thoảng vai phải cử động tự nhiên bị co rút đau phát khóc, Tây y tìm không ra bệnh.
Một nữ bệnh nhân Québécoise 55 tuổi khai bệnh như trên.

Khám Bệnh :
Đo huyết áp tay trái 118/80 mmHg mạch 60, tay phải 132/86 mmHg mạch 71. Đo lại tay phải lần thứ hai 114/80 mmmHg mạch 45. Đo đi đo lại, chỉ ở bên tay phải huyết áp biến đổi bất thường. Đo đưòng ở huyệt gan (Đại Đôn bên chân mặt) 4.5 mmol/l, đo đường trong máu ở tay 5.1 mmol/l.

Định Bệnh :
Để ý mỗi khi đang đo, bệnh nhân bị rút gân ở vai đau phát khóc, thì huyết áp xuống thấp, khi huyết áp cao lên thì bệnh nhân lại hết đau. Đo huyết áp bên tay trái nhiều lần đều tương tự, nhưng bên tay phải, bệnh nhân nói có cảm tưởng đau như ai cầm dao rạch thịt ở bả vai thuộc đường Kinh Đại Trường và Kinh Phế.
Theo kinh nghiệm Khí công, mạch thấp 45 hay 60 là mạch hàn, so với lượng đường trong máu thấp cũng làm cho mạch hàn.
Sau khi mời bệnh nhân uống 1 ly trà Gừng mật ong, vừa làm tăng đường vừa tăng nhiệt làm ấm Bao tử, rồi đo lại huyết áp, tay trái huyết áp lên 118/86mmHg mạch 60, tay phải 117/81mmHg mạch 62.

Cách điều chỉnh Tinh-Khí-Thần :

Khí :
Ép cánh tay theo hơi thở, rồi bảo bà cử động tay phải xem còn đau không, và chỉ vào chỗ nào đau, tôi sẽ chích lể nặn máu, bà thử nhiều lần không còn đau nhiều như trước, nhưng bà chỉ chỗ đau chạy theo dọc đường kinh Phế và Đại Trường.
Khi châm vào điểm đau bằng kim thử tiểu đường, bình thường phải nặn chỗ châm nó mới ra máu, nhưng trường hợp này máu tự chảy ra loãng, thuộc bệnh loãng máu.
Hướng dẫn cho bệnh nhân tập thử bài Vỗ Tay 4 Nhịp, bà cảm thấy hết đau, nhưng khi đang tập, bỗng nhiên lại đau muốn khóc, không dơ tay lên được.

Tinh :
Liên kết giữa huyết áp lúc nào cũng thấp, và mạch thấp mới là dấu hiệu thiếu khí và không đủ máu, cần phải dùng thêm thuốc bổ máu Acti-B12, còn mạch hàn là trong máu thiếu đường, sau mỗi bữa ăn, uống nước trà Gừng mật ong làm tăng nhiệt, tăng huyết áp và tăng lượng đường trong máu, nhưng huyết áp thấp có thêm dấu hiệu chuột rút, máu loãng là do thiếu chất vôi calcium, cần phải uống thêm Calcium Sandoz loại xủi bọt tan trong nước, dùng một tuần. Đề nghị trước khi dùng và sau khi dùng đều kiểm chứng bằng máy đo huyết áp và đo đường để biết cách áp dụng đó có kết qủa tốt hay không.

Thần :
Hướng dẫn cho bệnh nhân cách tập thở thiền ở Đan Điền Thần để tự tập ở nhà trước khi đi ngủ 30 phút mỗi ngày.
Một tuần sau bệnh nhân đến tái khám, cho biết kết qủa khỏi bệnh sau khi định bệnh đúng và áp dụng thêm Calcium Sandoz, bệnh nhân tập Vỗ Tay 4 Nhịp và Dậm Chân Phía Trước Phía Sau /Chachacha không còn bị đau tay và chân hay bị chuột rút nữa.

2.4. Tim đập chậm và mất nhịp

Nữ bệnh nhân tên Daniella, 45 tuổi, khai bệnh bị mệt, Tây y tìm không ra nguyên nhân, bà có thêm bệnh, mau đói, ăn nhiều, đau hạ vị (phía dưới Bao tử).

A-Khám Bệnh bằng máy đo huyết áp :
Đo ở tay phải thuộc gan 137/79mmHg mạch chỉ Lo (Low=thấp dưới 40 nhịp trong 1 phút), tay trái 151/86mmHg mach Lo

B-Định Bệnh theo Ngũ hành :
Nhịp tim đập dưới 40 thay vì tay chân lạnh, thì tay chân ấm, như vậy do nguyên nhân chức năng gan bẩm sinh thiếu huyết, theo Đông y thuộc Chứng Can Thận Âm Hư, có dấu hiệu như :
Một trong hai tạng suy đều có ảnh hưởng cả hai, nên dấu hiệu cả hai tạng đều xuất hiện cùng lúc như xây xẩm, tai ù, mắt mờ, lòng bàn tay bàn chân nóng, di tinh, mất ngủ, lưng gối mỏi, lưỡi đỏ ít nước bọt, thường gặp ở các bệnh nhiệt cấp tính thời kỳ cuối, bệnh rối loạn tiền đình, bệnh thiếu máu, bệnh thần kinh, bệnh nội thương, bệnh kinh nguyệt.

C-Chữa bệnh theo Tinh-Khí-Thần :

1-Tinh :
a-Kiêng ăn những thức ăn có chất chua làm mất máu như chanh, cam, bưởi, nho, táo chua, yaourt,…
b-Cần uống thuốc bổ máu Đông y Sirop Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin), pha 2 muỗng lớn sirop với 1 ly nước nóng, khuấy đều uống trước mỗi bữa ăn 5 phút, hay thuốc uống bổ máu của Tây y không cần toa, Acti-B12 mỗi sáng uống 1 ống.

Khí :
Tập Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần, đo mạch bên tay trái liên quan đến Bao tử được 131/68-62, tay phải liên quan đến gan 121/74-42, mạch của máy đo huyết áp trước khi tập chỉ Lo.
Tập lại 200 lần, lần thứ hai, đo huyết áp tay trái được 140/93-66, tay phải được 136/82-60. Điều đó chứng tỏ bệnh nhân ăn không tiêu, cơ Bao tử và gan không co bóp chuyển hóa thức ăn.
Sau khi tập nhiều lần, bụng mềm, trán xuất mồ hôi, tim đập nhanh.
Yêu cầu bệnh nhân tập mỗi lần sau khi ăn 30 phút. Một tuần sau tái khám, huyết áp 2 tay trở lại bình thường lọt vào tiêu chuẩn, tay trái 128-80-73, tay phải 125-80-70.

Thần :
Hướng dẫn bệnh nhân tập thở Đan Điền Thần, làm tăng huyết áp, nhịp đập tim mạch, giúp an thần ngủ ngon.

2.5. Cột sống bị lủng lỗ làm dò tủy cần phải mổ để tránh tê liệt

Một nữ bệnh nhân kể bệnh sử, bà cảm thấy cứng cổ gáy gây đau nhức xuống vai lưng. Đi bệnh viện khám, bác sĩ cho biết trên phim thấy có một đốt sống lưng trên nứt mọc nhánh đâm vào đốt sống ở dưới nên bị dò tủy (syrinx) chảy ra ngoài lan sang nhiều đốt cột sống khác thành từng bong bóng nhỏ rải rác dọc cột sống đốt C1,2,3. Cách giải quyết theo Tây y cần phải mổ cột sống, trám lại lỗ dò tủy, nếu không tủy tràn lên não hoặc mất hết tủy cột sống sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng. Bác sĩ cũng yêu cầu tránh đụng chạm đến cột sống, nếu không sẽ bị tê liệt bán thân bất toại. Tây y đặt tên bệnh này là Dị Tật Chiari bẩm sinh, Mal Formation.
Trong gia đình bà có 6 người là bác sĩ cũng khuyên cần phải đồng ý để cho bác sĩ mổ ngay, và dọa rằng nếu đi châm cứu hay massage đụng đến lưng là bị liệt ngay, khiến bà lo sợ, nên cái đau càng gia tăng, đêm nằm ngủ gân cổ căng cứng co rút đau không nhúc nhích cựa quậy được, bác sĩ chỉ cho thuốc uống giảm đau, và cái đau cứ tăng dần theo ngày tháng. Nhiều lần bà muốn đến với phương pháp Khí công, nhưng đều bị cấm cản. Người nhà chia hai phe, phe đồng ý theo giải pháp Tây y, còn phe kia muốn khuyến khích bà đi theo Đông y Khí công, với lý do phương pháp chữa bằng Khí công giúp giảm đau mà không cần thuốc, trong khi bà đã sử dụng thuốc Tây y nhiều nhưng bệnh mỗi ngày một đau nặng hơn khiến tinh thần khủng hoảng.
Cuối cùng bệnh nhân đến với Khí công, có người con rể là luật sư đi giám sát cách chữa bằng Khí công ra sao, và quan sát xem có đụng chạm làm tổn thương cột sống nơi bị đau hay không và đặt những câu hỏi thắc mắc về cách chữa. Tôi giải thích, nguyên nhân đau theo Đông y thường nói “đau thì không thông, thông thì không đau”( thống bất thông, thông bất thống), như vậy có nghĩa là khí huyết đã bị tắc nghẽn không lưu thông trên một đoạn đốt sống. Tôi cũng yêu cầu bệnh nhân không cần chỉ nơi đau ở đoạn nào, và tôi cũng nói trước là tôi sẽ không ấn đè mạnh nơi đau, mà chỉ dùng máy đo oxymètre để đo khí và huyết trên từng đốt của cột sống, chỗ nào khí huyết thông, máy sẽ hiện lên đèn và con số đo được của máy, số bên trái của máy chỉ SpO2, Đông y gọi là khí, số bên phải của máy vẽ trái tim, Đông y gọi là huyết. Máy chuyền một sợi dây gắn sensor để đo trên huyệt, máy này thường dùng trong bệnh viện với bộ phận sensor là cái kẹp để kẹp vào đầu ngón tay bệnh nhân, dùng để đo xem bệnh nhân có đủ oxy để thở hay không, nếu số đo bên trái SpO2 chỉ dưới 90, thì cần phải cho bệnh nhân thở bằng máy trợ thở tăng thêm oxy, nếu không, bệnh nhân sẽ bị ngộp thở làm mệt và rối loạn nhịp tim.
Tôi đặt sensor đo từ đốt đầu xương cổ chỗ hõm gáy sau ót xuống dần đến đốt sống lưng trên, có đoạn máy hiện lên số, có đoạn máy câm, không có số, chỉ hiện đèn báo mầu đỏ, tức là không bắt được tần số sóng của khí huyết chạy qua, chứng tỏ nơi đó khí huyết bị tắc không thông gây đau do thần kinh cột sống bị chèn ép.
Theo kinh nghiệm Đông y Khí công, nếu đau cổ gáy vai tay là nguyên nhân làm co rút thần kinh ngoại biên, hoặc ngược lại, thần kinh ngoại biên bị co rút sẽ làm cho huyết áp động mạch cảnh tăng, nên tôi cũng đo kiểm chứng huyết áp ở hai cánh tay, qủa nhiên tay trái cao 181/99mmHg mạch 89, tay phải thấp bình thường.
Ông luật sư khen cách tìm bệnh hay qúa, nhưng đặt câu hỏi là có chữa được không và cách chữa làm sao, có phải đụng vào cột sống không, có nguy hiểm không, có làm cho bị tê liệt không…
Tôi nói, có 4 giai đoạn chữa theo thứ tự, thứ nhất, trước hết tôi phải hướng dẫn bệnh nhân tập thổi hơi ra làm hạ huyết áp để giảm áp lực động mạch cảnh và làm thư giãn thần kinh ngoại biên, thứ hai làm thư giãn thần kinh cột sống, thứ ba làm thông khí huyết bằng máy kim châm tiểu đường, thứ tư hướng dẫn bệnh nhân tập Khí công, rồi dùng máy đo huyết áp và máy đo oxymeter kiểm chứng lại kết qủa sau khi chữa.

Giai đoạn 1 : Làm hạ huyết áp
Bệnh nhân nằm ngửa, máy đo huyết áp đo ở bên tay đau, tôi xòe một bàn tay đặt trước mặt bệnh nhân cách xa miệng bệnh nhân cao khoảng 50cm, tôi bảo bà tập thổi hơi đủ mạnh vào bàn tay tôi, giống như thổi bếp củi cho lửa cháy, tay kia của tôi đặt ở bụng bệnh nhân, và dặn bà tập thổi làm sao tay tôi cảm thấy mát, cùng lúc khi bà thổi hơi ra thì phải chú ý làm cho bụng xẹp mềm xuống chứ không được gồng bụng, và giữa hai hơi thổi phải có thì nghỉ thư giãn, không được thổi gấp dồn dập . Cách thổi hơi ra để làm hạ huyết áp là cách thổi giảm dương xuống âm, thí dụ mức nằm ngang của bụng đang ở thì nghỉ là 0, khi thổi hơi ra bụng xẹp xuống được 3-5cm là bụng xuống âm, khi thả lỏng thư giãn để hơi bụng tự phình lên trở về 0, tức là khi hơi vào là dương về 0 là dương trong âm, chứ không được hít vào để bụng phồng cao hơn mức 0, nếu bụng phồng cao lên là cách hít dương tăng lên là dương trong dương, nếu thở kiểu dương trong dương huyết áp sẽ tăng lên cao, thở vào như thế là đã dùng mũi hít hơi vào là sai, cách thở dương trong âm không dùng mũi hít vào. Khi điều chỉnh hơi thở ra từ 0 xuống âm rồi từ âm lên 0 đúng cách, tôi bắt đầu đếm1, nhìn bụng ở thì thở ra xẹp từ từ xuống, rồi cơ bụng và miệng thả lỏng chờ hơi vào tự nhiên để bụng phồng lên đủ, tôi đếm 2, bà lại thổi hơi ra, tôi đếm 3,….và đếm cho tới 20 lần thở ra . Sau đó để bệnh nhân tự tập, hai bàn tay bệnh nhân để lên bụng theo dõi bụng xẹp xuống và phồng lên từ từ mỗi lần thở một cách nhẹ nhàng đều đặn, lúc đang tập, bấm máy đo huyết áp để kiểm chứng, huyết áp xuống dần từ 181 xuống 160, xuống 140, xuống 125/85mmHg mạch 75. Để bệnh nhân nằm thả lỏng không cần nghĩ đến hơi thở nữa, cứ thở bình thường tự nhiên, rồi đo lại thấy huyết áp vẫn ổn định dưới 130/90mmHg, mạch vẫn đều 75.

Giai đoạn 2 : Làm thư giãn giảm áp lực thần kinh cột sống
Bệnh nhân nằm úp, hai đầu gối hơi dạng ra hình con ếch, một bàn tay tôi đặt ở Mệnh Môn trên lưng bệnh nhân, bàn tay kia cầm cổ chân bên phải bệnh nhân ép gót chân bệnh nhân vào từ từ chạm mông trong thì thở ra của bệnh nhân để vừa giảm đau lưng và chân, nó còn có công dụng làm giãn thẳng cột sống mà không đau ở thì thở ra, vừa làm thông máu cho Mạch Đốc từ dưới lên đầu, tập ép gót chân chạm mông ở chân phải 10 lần rồi đổi sang chân trái 10 lần, lại đổi sang chân phải, rồi chân trái… cho đến khi đoạn lưng trên hết cong cứng, và bệnh nhân không cảm thấy đau.

Giai đoạn 3 : Thông khí huyết bằng bút kim châm tiểu đường trên đốt sống lưng
Bệnh nhân vẫn nằm úp, cho đầu ló ra khỏi đầu bàn, mục đích cho cột sống thẳng, tôi đứng phía đầu bàn, bôi dầu trơn trên cột sống dài xuống xương khu, rồi bắt đầu vuốt nhẹ từ gáy theo cột sống dài xuống xương khu để tìm điểm đau, hoặc bệnh nhân báo cho biết chỗ nào đau khi ngón tay của tôi vuốt qua, khi xác định được điểm đau, dùng máy đo oxymeter đo ở những điểm đau đó trước khi chữa, máy báo câm, sau dùng máy bấm kim tiểu đường bấm kêu tạch, tạch, tạch…vào mỗi điểm đau, không có máu chảy ra, và bệnh nhân cũng không cảm thấy gì khi bấm máy.
Cho bệnh nhân tập trở lại giai đoạn 2 thì máu rịn ra như vết muỗi cắn, dùng bông gòn thấm cồn nặn máu ra, Đông y gọi là chích lể, nặn máu xong, sát trùng, rồi đo lại bằng oxymeter, máy báo cả số và đèn hiệu đo tần số sóng cho biết khí huyết thông hay còn tắc, thí dụ điểm trên chỗ đau bên khí báo 96, huyết báo 80, đèn báo hiệu màu xanh, đó là lý tưởng khí huyết đều thông, khi đo trên điểm đau thứ nhất vừa nặn máu, máy báo khí 80, huyết 60, đèn hiệu chớp màu vàng, cho biết điểm này còn hơi tắc, khí chưa qua đủ trên 90, huyết chưa qua đủ 70, điểm đau khác máy báo khí 80, huyết 120, đèn hiệu chớp mầu đỏ, chứng tỏ khí thiếu, huyết bị tích tụ làm sưng nên con số chỉ huyết mới tăng cao, phải nặn thêm cho máu ra ở điểm đó rồi đo lại, máy chỉ khí qua đó trên 90, huyết được thông còn 80, chớp đèn hiệu mầu xanh là đoạn đó đã thông.
Ông luật sư quan sát thấy những thao tác rất nhẹ nhàng, tôi hỏi bà có cảm thấy đau không, bà trả lời không thấy đau, lưng và cột sống thấy nhẹ, dễ chịu.

Giai đoạn 4 : Tập Khí công duy trì cho khí huyết lưu thông để ngừa bệnh không bị tái phát.
Giai đoạn thông huyệt và giải tắc đã xong, nhưng muốn khỏi được bệnh và ngừa bệnh không bị tái phát, bệnh nhân cần phải được hướng dẫn tập luyện mỗi ngày để cơ thể tạo ra thuốc nội dược tương đương với thuốc ngoại dược nhưng không sợ bị những phản ứng phụ như ngoại dược. Mục đích làm khí huyết lưu thông dễ dàng, đều đặn khắp cơ thể, giảm đau, ăn ngủ được, tiêu hóa tốt.
Bệnh nhân nằm ngửa tập bài Kéo Ép Đầu Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng ở thì thở ra, mỗi bên chân kéo 1 lần, thay đổi chân này rồi chân kia, tập kéo 100 lần liên tục không nghỉ, một ngày có thể tập hai lần mới đủ liều thuốc chữa bệnh.

Sau một tuần bệnh nhân trở lại, bà cho biết, khi về nhà thấy khỏe và dễ chịu làm sao, người nhẹ, tay chân cử động hết đau, không như hồi chưa bị bệnh. Tôi hỏi bà sao lần này không có con rể bà đi theo quan sát. Bà cười nói : Nó tin rồi, nó khen thầy chữa hay qúa, không cần phải đến quan sát nữa. Mấy đứa con bác sĩ trong nhà chúng nó cứ hăm mẹ không được đi chữa Khí công, đụng vào lưng mẹ là mẹ bị tê liệt ngay đó.
Sáu tuần lễ trôi qua, bà cho biết các con bác sĩ ở bên Mỹ ngày nào cũng gọi điện thoại hỏi thăm, bà đã nói thật, đã chữa bằng Khí công và bây giờ thấy khỏe, hết đau, ăn ngủ ngon, cúi ngửa lưng cổ được dễ dàng, cầm được những vật nặng trong tay mà không bị đau và không bị rớt như trước. Đối với bà, nhờ Khí công bà không còn phải lo sợ mổ cột sống, đối với các bác sĩ con của bà thì họ ngạc nhiên như đứng trước một con đường lạ, không biết nên tin hay không .

2.6. Chóng mặt, yếu sức, mệt, hay quên, bác sĩ không tìm ra nguyên nhân

Nữ bệnh nhân 80 tuổi khai bệnh như trên.

Khám Bệnh bằng máy đo huyết áp :
Tay trái 130/85mmHg mạch 70, tay phải 122/80mmHg mạch 66, bà cho biết vẫn uống thuốc hạ huyết áp đều mỗi ngày nên huyết áp mới tốt như vậy.

Định bệnh theo Ngũ hành :
Nhìn sơ qua thấy hai tay có sự khác biệt, chứng tỏ chức năng gan suy yếu, không đủ khí và huyết đúng theo lứa tuổi.

Chữa theo Tinh-Khí-Thần :

Khí :
Tôi hướng dẫn cho bà tập thở thổi hơi ra, cùng lúc dùng ngón tay ấn đè vào huyệt Trung Quản, điểm giữa đoạn từ mỏm xương ức đến rốn. Hơi thở vào tự nhiên, không nâng ngực nâng vai, nhưng thay vì thở ra thì thổi hơi ra nhiều cho bụng mềm và xẹp xuống. Mỗi lần bụng xẹp hơi, khí từ gan và Bao tử thoát ra nghe bụp bụp như sôi bụng. Sau khi thở 60 hơi, đo lại huyết áp hai tay xuống qúa thấp : tay trái 106/80mmHg mạch 66, tay phải 102/80mmHg mạch 65.
Để bà nằm nghỉ ngơi, nhưng cứ mỗi lần muốn thở ra thì thổi hơi ra đều đều bình thường, bà cho biết bây giờ hơi thở đã được dài ra, thở thấy dễ và thấy khỏe.
Đo lại huyết áp lần nữa để xem huyết áp thực, kết qủa tay trái 104/80mmHg mạch 66, tay phải 103/80mmHg mạch 65.
Như vậy, khí huyết trong cơ thể đã lưu thông đều toàn thân, hiện ra huyết áp thật sự qúa thấp, chứng tỏ cơ thể thiếu khí và huyết trầm trọng, huyết áp chỉ bằng lứa tuổi thiếu nhi, so với huyết áp ban đầu : tay trái 130/85mmHg mạch 70, tay phải 122/80mmHg mạch 66 là huyết áp giả tưởng như rất tốt, nó đã đánh lừa các bác sĩ không tìm ra nguyên nhân bệnh.

Tinh :
Bà hỏi tôi bây giờ phải làm sao cho đủ khí và huyết. Tôi trả lời :
Trường hợp này rất phổ biến cho những người già vẫn uống thuốc trị cao huyết áp thường gặp phải, giống như bà, bà đang dùng thuốc Tây y, bà có thể uống thêm thuốc bổ máu Acti-B12 mỗi ngày uống 1 lọ, và tập thổi hơi ra đều khi đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng kiểm soát hơi thở ra, thì oxy mới vào cơ thể nhiều hơn là hít vào, để duy trì công thức máu đỏ Fe2O3.
Muốn biết cơ thể của bà đủ khí huyết chưa thì bà đo huyết áp trước khi tập thở, và sau khi tập thở, nếu huyết áp trước và sau giống nhau, không bị chênh lệch như ngày hôm nay, lúc nào cũng từ khoảng 130-140/80-90mmHg mạch 70-80 là cơ thể khỏe mạnh hoàn toàn.

Thần :
Hướng dẫn cho bà tập thở Đan Điền Thần để tập vào buổi tối trước khi đi ngủ, giúp an thần, ngủ ngon.

2.7. Đau thần kinh khớp hàm

Nữ bệnh nhân người Mể 65 tuổi khai đã bị đau khớp hàm hơn 1 tuần, không ăn, không nhai được, đi Tây y uống thuốc giảm đau không hết.

Khám Bệnh bằng máy đo huyết áp :
Đo huyết áp bên tay phải 128/95mmHg mach 71, tay trái 138/87mmHg mạch 74.

Định Bệnh theo Ngũ hành :
Nếu theo Tây y thì huyết áp vẫn tốt không có bệnh huyết áp. Nhưng theo Khí công, có sự chênh lệch ở hai tay là có nguyên nhân, một bên tắc một bên thông theo lý thuyết Đông y : thông thì không đau, đau thì không thông. Trong đường kinh làm đau hàm có đường kinh Vị đi qua má, miệng, hàm; có hai huyệt Hạ Quan, Giáp Xa, châm nặn máu ở hai huyệt này.

Chữa Bệnh theo Tinh-Khí-Thần :
Khí :

Hình 2.1. Huyệt Hạ Quan, Giáp Xa
Mình dùng ngón tay trỏ day vào hai huyệt Hạ Quan, Giáp Xa bên trái, hỏi bệnh nhân xem có đau không, thử lại hai huyệt bên phải xem có đau không, dĩ nhiên bên phải không đau. Dùng kim châm tiểu đường nặn máu ở 2 huyệt này. Rồi bảo bệnh nhân tập nhai, và tập ngáp, tập há miệng lớn, mỗi động tác làm 10 lần, xem có còn đau không. Sau đó, bảo bệnh nhân tìm xem còn chỗ nào đau dùng một ngón tay chỉ vào đúng chỗ đau, gọi là a thị huyệt, cũng châm nặn máu tiếp.
Tập Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần làm hạ huyết áp đều hai bên, và điều chỉnh chức năng của kinh Vị, kích thích tiêu hóa.
Đo lại huyết áp 2 tay, tay phải xuống 124/88mmHg mạch 72, tay trái 126/90mmHg mạch 70

Thần :
Kết qủa huyết áp của bà thấp không đúng lứa tuổi, tập thở ở Đan Điền Thần là tăng huyết áp, làm ấm và làm mạnh chức năng Bao tử.

Tinh :
Do Bao tử tiêu hóa chậm nên huyết áp bên tay trái cao hơn tay phải, cho bà biết nguyên nhân và khuyên bà không nên ăn chất hàn lạnh, nên ăn ít một.

2.8. Gan thiếu máu, nguyên nhân của nhiều loại bệnh nan y

Bệnh nhân khoảng 40 tuổi, bị đau nhức xương khớp, đang đi làm, sở cho nghỉ để chữa bệnh, đã hai năm bệnh càng nặng, Tây y chẩn đoán xương thoái hóa, các khớp khô, sưng đau, thần kinh bị chèn ép, uống đủ loại thuốc giảm đau không bớt. Bệnh nhân xuống tinh thần vì cảm thấy có cái gì đang đe dọa đến sức khỏe trong người mà tìm không ra nguyên nhân, cô đã đến với Khí công .

Khám Bệnh bằng máy đo huyết áp :
Tay trái 121/73mmHg mạch 73, tay phải 119/73mmHg mạch 78.

Định bệnh theo Ngũ hành:
Huyết áp tay phải thuộc gan thấp hơn do chức năng gan hư, ấn ngón tay đè vào huyệt Trung Quản cứng, bệnh nhân kêu đau, đo huyết áp bên tay phải, nhưng bấm vào huyệt Trung Quản huyết áp xuống còn 109/72mmHg mạch 60, chứng tỏ vị khí suy do gan không cung cấp men tiêu hóa để chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu nuôi cơ thể, và mạch 60 là Bao tử hàn.

Chữa Bệnh theo Tinh-Khí-Thần :

Thần :
Đặt tấm nệm sưởi nhỏ (coussin chauffant) lên bụng, vùng Trung Quản giữa bụng, bảo bệnh nhân, cuốn lưỡi, nhắm mắt, ngậm miệng, thở bằng mũi, theo dõi bụng nóng, và nghe khí chạy từ gan đi ra trong 5 phút.
Sau 5 phút, mặt bệnh nhân hồng hào, ấn đè vào huyệt Trung Quản hết cứng đau, nhưng bệnh nhân cho biết không nghe có chuyển động gì ở gan cả, điều đó chứng tỏ trong gan chứa không đủ máu.Theo Đông y gan tàng huyết, là nơi chứa máu cung cấp cho tim dẫn truyền đi khắp cơ thể nuôi dưỡng tế bào. Đó là lý thuyết Đông y, nhưng thưc tế phải kiểm chứng lại bằng máy đo huyết áp xem có đúng huyết áp bên tay trái bị ảnh hưởng bởi gan không, và khí huyết trong gan đã thay đổi tốt xấu ra sao, cần phải biết chính xác. Khi đo lại bên tay trái, huyết áp 113/77mmHg mạch 68, tay phải 105/71mmHg mạch 66, điều đó chứng tỏ trong gan thiếu máu, và không đủ men gan cung cấp cho Bao tử chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu..

Khí :
Hướng dẫn bệnh nhân tập bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần, làm tăng thân nhiệt, tăng huyết áp, sau khi tập, cuốn lưỡi ngậm miệng giữ khí, nằm nghe khì chuyển động trong bụng, giúp cơ thể nóng ấm. Đo lại huyết áp, tay trái 115/75mmHg mạch 72, tay phải 106/75mmHg mạch 71, có nghỉa là thân nhiệt tăng, bàn tay ấm nóng, mạch bình thường 70-80, huyết áp trong Bao tử tăng, kích thích chức năng Bao tử hoạt động mạnh hơn, nhưng huyết áp trong gan vẫn thiếu (106) chứng tỏ gan đang thiếu máu, trước khi tập và sau khi tập Khí công không thay đổi mấy.

Tinh :
Khuyên bệnh nhân nên uống sirop bổ máu Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin), pha 2 muỗng canh sirop với 1 ly nước nóng, uống trước mỗi bữa ăn 5 phút, giúp chức năng Tạng Phủ chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu. Uống liên tục mỗi ngày không ngưng cho đến khi huyết áp hai tay đo bằng nhau lên đến 130/80mmHg, mạch 70-80 mới ngưng, lúc đó máu đủ sẽ đi nuôi dưỡng khắp cơ thể, xương cốt sẽ ngưng thoái hóa, làm chậm tiến trình lão hóa.
Khi khí huyết đầy đủ sẽ tập tất cả các bài Khí công, giúp cơ thể phòng chống bệnh tật.



Chương 3. BỆNH UNG THƯ

3.1. Khái lược về ung thư theo Y học hiện đại

Khái niệm
Ung thư là một nhóm các bệnh liên quan đến việc phân chia tế bào một cách vô tổ chức và những tế bào đó có khả năng xâm lấn những mô khác bằng cách phát triển trực tiếp vào mô lân cận hoặc di chuyển đến nơi xa (di căn). Hiện có khoảng 200 loại ung thư. . .

Nguyên nhân
Nguyên nhân gây ung thư là sự sai hỏng của ADN, tạo nên các đột biến ở các gene thiết yếu điều khiển quá trình phân bào cũng như các cơ chế quan trọng khác. Một hoặc nhiều đột biến được tích lũy lại sẽ gây ra sự tăng sinh không kiểm soát và tạo thành khối u. Khối u là một khối mô bất thường, có thể ác tính, tức ung thư hoặc lành tính, tức không ung thư. Chỉ những khối u ác tính thì mới xâm lấn mô khác và di căn. Khái niệm ác hay lành tính ở đây nên hiểu về mặt giải phẫu bệnh học nhiều hơn là về khả năng gây chết người. Thật vậy, một người có thể sống nhiều năm với một ung thư hắc tố da, trong khi một khối u "lành tính" trong hộp sọ có thể chèn ép não gây tàn phế hoặc tử vong.
Ung thư có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau phụ thuộc vào vị trí, đặc điểm và khả năng di căn của khối u.
Nhiều dạng ung thư có liên quan đến các yếu tố môi trường mà có thể tránh khỏi. Hút thuốc lá là một trong những yếu tố gây nguy cơ ung thư nhiều nhất.

Chẩn đoán ung thư
Chẩn đoán xác định ung thư thường đòi hỏi phải sinh thiết rồi quan sát trên kính hiển vi.
Hầu hết các ung thư lần đầu được chẩn đoán dựa vào các triệu chứng xuất hiện hoặc nhờ vào quá trình tầm soát. Qua đó không thể chẩn đoán xác định được mà phải nhờ vào sinh thiết. Một số trường hợp ung thư khác được chẩn đoán tình cờ nhờ khi đang khám hoặc điều trị bệnh khác.

Điều trị ung thư
Ung thư có thể được điều trị bằng phẫu thuật, hóa trị liệu, xạ trị liệu, miễn dịch trị liệu hay các phương pháp khác. Việc chọn lựa phương pháp điều trị phụ thuộc vào vị trí và mức độ của khối u, giai đoạn của bệnh, cũng như tổng trạng của bệnh nhân. Một số điều trị ung thư nghiệm cũng đang được phát triển.
Loại bỏ hoàn toàn khối u mà không làm tổn thương phần còn lại của cơ thể là mục tiêu điều trị. Đôi khi công việc này được thực hiện bằng phẫu thuật, nhưng khả năng xâm lấn ung thư đến các mô lân cận hay lan đến nơi xa ở mức độ vi thể thường hạn chế hiệu quả điều trị. Hiệu quả của hóa trị thì hạn chế bởi độc tính đối với các mô lành khác. Xạ trị cũng gây thương tổn đến mô lành.
Bởi vì ung thư được xem như là tập hợp các bệnh lý, nên dường như chẳng bao giờ có một phác đồ điều trị ung thư đơn lẻ so với khả năng có một phác đồ điều trị duy nhất cho tất cả các bệnh lý nhiễm trùng.

Ngoài ra người ta còn sử dụng Y học thay thế và bổ sung.
Y học thay thế và bổ sung (complementary and alternative medicine - CAM) là nhóm phong phú các hệ thống săn sóc sức khỏe và y tế, thực hành và sản phẩm vốn không được xem là có hiệu quả bởi các chuẩn mực của Tây y. Một số phương pháp điều trị được dùng "bổ sung" cho điều trị Tây y, nhằm tạo sự thoải mái và nâng cao tinh thần cho bệnh nhân.
Các phương pháp bổ sung thông thường như cầu nguyện hay các biện pháp tâm lý như "tưởng tượng". Nhiều người cảm thấy phương pháp này mang lợi ích cho họ, nhưng hầu hết không chứng minh được tính khoa học và vì thể phải đối diên với sự hồ nghi.

Các phương pháp bổ sung khác như Đông y.
Nhiều biện pháp điều trị thay thế đã được sử dụng trong ung thư ở thế kỷ qua. Tính hấp dẫn của trị liệu thay thế đến từ các nguy cơ gây chán nản với điều trị, chi phí và tác dụng phụ của điều trịTây y, hoặc triển vọng chữa lành thấp. Những người đề nghị các phương pháp này không thể hay không muốn chứng minh tính hiệu quả bằng các tiêu chuẩn Tây y. Các điều trị thay thế bao gồm chế độ ăn đặc biệt hoặc bổ sung thành phần thức ăn (ví dụ "chế độ ăn nho" hay điều trị vitamin liều cao), các dụng cụ điện (ví dụ "các máy xoa bóp"), xổ ruột hay thụt tháo, các thao tác vật lý trên cơ thể.
Hầu hết các thầy thuốc chống lại việc sử dụng các phương pháp này đơn độc trong điều trị các bệnh lý có khả năng tử vong như ung thư.

3.2. Nguyên nhân ung thư và nguyên tắc chữa ung thư theo KCYĐ.

3.2.1. Nguyên nhân
Chúng ta biết rằng, các tế bào trong cơ thể cần hai yếu tố máu và oxy để nuôi dưỡng. Bổ máu do ăn uống, tăng oxy cho máu bằng cách tập thở Khí công.
Muốn biết có đủ khí và huyết không thì dùng máy đo khí huyết mà chúng ta thường gọi là máy đo huyết áp sẽ biết, khi so sánh với lứa tuổi của mình.
Môt thí dụ đơn giản, người nặng 30 kg cần 2 lít máu và một lực khí 100 mmHg để đẩy máu đi nuôi 30 kg tế bào khắp cơ thể, nếu người nặng 60 kg cần 4 lít máu và một lực khí 130 mmHg để đẩy máu nuôi 60kg tế bào khắp cơ thể.
Nhưng khi chúng ta bị ung thư, có nghĩa là cơ thể có 60kg tế bào mà chỉ có đủ máu nuôi 30kg tế bào, nên những tế bào còn lại không được nuôi dưỡng sẽ bị hủy hoại lâu dần chúng trở thành tế bào ung thư, kết thành bướu hạch cộm cứng, gây tắc tuần hoàn làm đau.

Dấu hiệu tiền ung thư sẽ được biết khi đo huyết áp, thay vì huyết áp phải ở tuổi của người lớn, thì kết qủa đo huyết áp chỉ bằng huyết áp của một đứa trẻ.
Ta có thể kiểm chứng được ở những người bị ung thư, huyết áp thật đều dưới 80mmHg khi so sánh với bảng huyết áp tiêu chuẩn của Khí công Y đạo:

95-100/60-65mmHg, mạch tim đập có thể trên 100 là huyết áp ở tuổi thiếu nhi ( 5 tuổi-12 tuổi)
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là huyết áp ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là huyết áp ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là huyết áp ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là huyết áp ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)

Tại sao gọi là huyết áp thật và huyết áp giả ?.

Huyết áp thật ở một người bị bệnh ung thư thường có 3 số như sau :
80-90/70-80mmHg mạch 60-65.
Ví dụ: Một người có huyết áp tay trái là 145/80 mmHg, tay phải là 166/80 mmHg, mạch đập 120.
Vì thiếu máu nên tim phải đập nhanh để đủ đẩy máu đi nuôi bảo vệ tế bào để tạo ra áp lực đẩy máu tăng lên.
Theo tiêu chuẩn bình thường một người khỏe mạnh có nhịp tim trung bình 75, vì thiếu máu nên tim phải đập nhanh thêm 45 nhịp, huyết áp thật của cơ thể sẽ là 145-45 hay 100/80mmHg mạch 75 ở tay trái, và 166-45 hay 121/80mmHg mạch 75 ở tay phải.
Khi nhịp tim nhanh thông thường đều làm cho cơ thể bị sốt nhiệt, người nóng, nhưng ngược lại, những ngườì bị ung thư tuy nhịp tim nhanh nhưng người vẫn lạnh, đó là huyết áp giả, Đông y gọi là nhiệt giả hàn, bên ngoài lạnh nhưng bên trong người nóng là một chứng bệnh nan y.
Muốn biết diễn biến của khí huyết do chức năng hoạt động của Tạng Phủ còn mạnh hay yếu, nên cần phải đo huyết áp ở hai tay trước khi ăn và sau khi ăn.
Nếu ăn uống những chất bổ đúng nhu cầu cơ thể cần, thì sau khi ăn 30 phút, hoặc uống thuốc, hoặc sau khi được chữa bệnh theo bất cứ một phương pháp nào mà huyết áp tăng lên lọt vào tiêu chuẩn là cơ thể đủ khí huyết, cơ thể sẽ khỏe mạnh hết bệnh tật. Ngược lại, chữa theo phương pháp nào, mà huyết áp xuống dần đến 70mmHg là phương pháp đó đã làm cho cơ thể cạn kiệt mất hết khí và huyết, các tế bào đều chết thì cơ thể lạnh dần và sẽ tan rã.

3.2.2. Nguyên tắc chữa theo KCYĐ

Nguyên tắc chữa theo KCY Đ là điều chỉnh Tinh-Khí-Thần.

1. Điều chỉnh Tinh :

Là điều chỉnh lại cách ăn, chọn thức ăn thuốc uống phù hợp. Nhớ rằng tế bào cần cơ thể bổ sung máu để nuôi dưỡng nó khỏe mạnh sẽ không bị hủy hoại thành tế bào ung thư, lúc đó tế bào ung thư sẽ ngưng không phát triển. Cách thử nghiệm thức ăn thuốc uống phù hợp chính là máy đo huyết áp, cần theo dõi sự biến chuyển của khí huyết trong cơ thể do phản ứng của mỗi loại thuốc uống hay mỗi loại thức ăn. Thức ăn thuốc uống nào làm huyết áp lọt vào tiêu chuẩn là thức ăn và thuốc uống chữa đúng bệnh, lọt ra ngoài tiêu chuẩn là thuốc hay thức ăn đó không cần thiết mà làm cho bệnh nặng thêm.
Khi đo huyết áp càng ngày càng xuống thấp thì kết qủa thử nghiệm máu hay những xét nghiệm y khoa cũng cho kết qủa xấu. Nhờ máy đo huyết áp mình cũng sẽ biết trước được kết qủa thử nghiệm tốt hay xấu.

2. Điều chỉnh Khí :
Sự điều chỉnh khí cũng quan trọng không kém, chỉ có môn KCYĐ mới có phương pháp này mà Đông và Tây y không có.
Theo Đông y khí là áp lực khí đẩy máu lưu thông, nếu khí huyết thông tốt thì không nơi nào bị tắc nghẽn, sẽ không có đau bất cứ nơi nào, giống như một đoàn xe lưu thông đều đặn trên đường thì đường không bị kẹt xe. Nhưng nếu có một chiếc xe nào chết máy do hết xăng giữa đường thì đường sẽ bị kẹt xe. Giống như thế, tế bào tự nhiên thiếu máu nuôi nó, nó ngưng hoạt động, không di chuyển, đứng lại, làm cản trở đường lưu thông của máu nên chỗ ứ tắc gây đau. Đông y mới diễn tả tình trạng khí huyết bằng câu nói rất đơn giản là: Thông thì bất thống. Thống thì bất thông. Có nghĩa khí huyết lưu thông được thì không đau. Còn đau thì do khí huyết bị bế tắc không thông.
Cách giải quyết một xe chết máy do hết xăng có hai cách, chờ cảnh sát giao thông đến mở đường, gọi xe kéo chiếc xe chết máy đi, nhưng cách nhanh nhất là đi mua xăng về đổ cho xe chạy tiếp. Cách sau này có kết qủa nhanh hơn mà không tốn kém nhân lực, vật lực, tài lực.
Cách chữa một khối u ung thư cũng giống như thế. Thay vì, mổ xẻ cắt bỏ, hóa trị, xạ trị tốn kém, chỉ cần sao cho khí và máu đủ lưu thông đến nơi tế bào ung thư, thì tế bào ung thư tự thu nhỏ lại và biến mất, nơi đó được thay thế tế bào mới hoạt động bình thường.

Theo Khí công : Ý ở đâu, thì khí đến đó, sẽ dẫn theo máu lưu thông qua đó. Với nguyên tắc này, mình muốn cho khí huyết lưu thông qua vùng bướu, để làm mềm và tan bướu, thì cần đặt một dụng cụ tên gọi là Thất Tinh Châm (dụng cụ của Diện Chẩn) đặt lên trên bướu, hay nơi nào ấn đè cảm thấy cứng cộm đau nhất. Nhờ dụng cụ này đặt trên điểm đau, dùng hai bàn tay đè lên trên, mình sẽ có cảm giác đau nhói buốt nhưng chịu được. Nằm nhắm mắt cuốn lưỡi ngậm miệng, thở bằng mũi bình thường, nhẹ nhàng, chỉ cần đặt ý vào điểm đau theo dõi hơi thở đang dẫn khí huyết đến điểm đau, cho đến khi nơi đó hết đau, khối u mềm, nhỏ, ấn đè không còn đau nữa. Đó là chúng ta tự áp dụng hai câu Khí công : Ý ở đâu khí ở đó, khí huyết sẽ lưu thông qua đó, cho đến khi khí huyết thông thì bất thống, khi ấn đè bướu không còn làm tắc nghẽn khí huyết lưu thông thì đã có kết qủa thông thì bất thống.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 6 26, 2013 12:20 am

(TỆP 3)

----------------

Chương 4. MỘT SỐ BỆNH ÁN VÀ ĐIỆN THƯ HƯỚNG DẪN CHỮA UNG THƯ THEO KCYĐ

4.1. Bệnh Tâm thần hoảng sợ do cách chữa dồn dập không đồng bộ của Tây y

Nữ bệnh nhân Québecoise 70 tuổi, bị bệnh bướu đường ruột gây co thắt đau, điều trị theo Tây y 6 năm, bà kể : thường xuyên chích cortisone giảm đau, cái đau tăng dần, thời gian giảm đau ngắn dần nên phải tăng liều thuốc đến tối đa mỗi năm, gây biến chứng mất ngủ, suy nhược, không ăn được, ăn vào đau bụng, bụng trướng nổi nhiều cục bướu trong bụng, sờ đau, huyết áp rất thấp, khó thở, ốm mất 15 kg, yếu sức hay bị té ngã, đã bị gẫy xương chân… Bà khai rằng, lần cuối, bác sĩ điều trị báo tin cho bà biết, mở đầu bằng câu : malheuresement…Không may thay, đây là lần điều trị cuối cùng mà chúng tôi đã làm hết sức cho bà, bà có thể về nhà nghỉ ngơi…. Bác sĩ cũng tốt bụng, đề nghị bà có muốn theo cách chữa của medecine douce hay không, tôi biết nhiều thầy giỏi, tôi sẽ giới thiệu cho bà, và bà nói: Bác sĩ ấy đã giới thiệu đến tôi.
Khám bệnh bằng máy đo huyết áp :
Tôi đo huyết áp 2 tay, tay trái 82/65 mmHg mạch 65, tay phải 80/63 mmHg mạch 62

Định Bệnh theo Ngũ hành :

Trường hợp này là thiếu khí huyết trầm trọng, bà đem theo cả một giỏ thuốc Tây mà bà đang phải dùng đến nó. Nhưng đối với sức khỏe hiện nay, tình trạng bệnh đã qúa nặng do biến chứng của nhiều thuốc. Tôi giảng giải cho bà nghe cách chữa của tôi là ưu tiên chữa bổ huyết và tập luyện bổ khí. Bổ huyết thì thuốc Tây có loại Acti-B12, còn bổ khí, tôi sẽ hướng dẫn bà tập Khí công để giảm đau, tăng cường khí, oxy, hồng cầu, tăng cường thể lực và tống độc trong cơ thể ra ngoài. Bà chấp nhận theo phương pháp này.

Cách chữa theo Tinh-Khí-Thần :

Tinh :
Tôi dặn bà không được ăn những chất chua, bà nói : bác sĩ cho bà dùng aspirin mỗi ngày để giảm đau co thắt và làm loãng máu, đang dùng ensures… Tôi cho bà biết hai loại mà bà đang dùng theo Đông y, đó là hai chất tối kỵ làm phá máu, tạo đờm đóng cục trong ruột vì ruột bị lạnh trương sình, sờ có rất nhiều cục.
Bà phải ăn chất nào có Gừng như uống trà Gừng, nấu cháo, súp Gừng và ăn với 1 chút bánh mì.

Khí :
Tôi hướng dẫn bà nằm thở bụng, bà để ngón tay ấn vào giữa bụng, huyệt Trung Quản, chỉ chú ý hơi thở ra làm bụng xẹp. Bà nghe tiếng sôi trong bụng một lúc, bụng mềm hết trương và hết đau bụng.
Tôi hướng dẫn bà tập Kéo Éo Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, bà tập được bao nhiêu lần thì tập, đừng để bị mệt. Bà hỏi, tôi muốn hết bệnh ung thư ruột thì tập bao nhiêu lần một ngày. Tôi nói, thông thường bài tập này chuyên trị những bệnh ung thư trong nội tạng, cần phải tập 2000 lần/ ngày.

Thần :
Sau khi tập Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, bà cảm thấy không còn đau tức bụng khi ấn đè vào bụng. Tôi hướng dẫn bà nằm tập thở ở Đan Điền Thần. Trên bụng tôi đặt một miếng nệm sưởi điện (coussin chauffant=soft-heating-pad) bên ngoài lớp áo, bên trên đặt một cái gối giữ hơi nóng, trên cùng hai bàn tay bà đặt lên gối ngay trên khoảng xương ức. Tôi dặn bà nằm nghe bụng nóng ấm, để ý theo hơi thở ra, thì trong bụng xảy ra hiện tượng gì. Đấy là một cách dụ để bệnh nhân chý ý vào bụng, theo Khí công, ý ở đâu, khí sẽ ở đó, đó là nơi kết tụ khí ở Đan Điền Thần làm tăng huyết áp, tăng thân nhiệt, tăng hồng cầu, giúp an thần, giảm đau, ngủ ngon.

Tuần sau bà đến lần thứ hai, bà vui mừng khoe rằng, tôi mỗi ngày tập Kéo Ép Gối, ông dặn 2000 lần, mà tôi tập mỗi ngày 3000 lần. Tôi ghi nhận có kết qủa như sau :
Thứ bảy, sau khi tập. tôi đi cầu ra nhiều cục trắng tròn lẫn máu. Chủ Nhật, tập xong, đi cầu hai lần ra nhiều cục tròn trắng lẫn máu, ra nhiều hơn hôm trước, Thứ Hai, sau khi tập, đi cầu ra nhiều cục tròn trắng không có máu, bụng tôi nhỏ, ấn vào không có chỗ nào đau, hôm nay Thứ Ba, tôi lại ông khám xem sao, tôi mới đi toilet ra thêm nhiều cục nữa mà không có máu.
Tôi tiếp tục cho bà nằm thiền thở Đan Điền Thần với tấm nệm sưởi điện 20 phút.
Hôm nay thứ Sáu, bà đến, chờ ngoài phòng đợi một vài người nữa rồi mới đến lượt của bà. Vừa bước vào phòng, bà khóc lên, chắp hai tay lạy tôi, nhờ tôi cứu mạng, bà nói :
- Tôi sợ lắm, tôi sợ lắm…hôm nay ông ngồi nghe tôi nói, tôi sẽ trả tiền ông, ông không cần phải chữa… Sáng hôm nay, bác sĩ ở bệnh viện gọi tôi đến cho ngày hẹn mổ xương chân tôi bị té ngã lần trước, một cú điện thoại khác, bệnh viện gọi tới lấy hẹn mổ ruột, một nha sĩ gọi tới 4 ngày nữa đến nhổ răng, một cú gọi khác đến chụp hình đầu… tôi ốm yếu thế này mà mổ với thử đủ thứ làm sao tôi sống nổi… tôi phải làm sao..
Bà khóc và lạy tôi, nắm lấy tay tôi như trẻ em.
Tôi nghĩ đây cũng là bệnh khủng khoảng Tâm thần, mình phải lấy Tâm chữa Tâm, ngồi nghe bà kể, bà khóc xong, tôi khuyên bà, nếu bà thấy không khỏe, quyền của bà có thể từ chối bệnh viện, không sao đâu. Bà đừng lo sợ qúa sẽ mất hết năng lượng trong người. Để tôi giúp bà có thêm năng lượng, giúp bệnh mau khỏi. Tôi hỏi bà còn đau bụng không, bà sờ bụng của bà còn có cục cộm nào không. Bà trả lời không, bụng tôi hết đau. Tôi nói :
- Hôm nay tôi hướng dẫn bà tập Nạp Năng lượng, tập thở Đan Điền Thần, sau đó, bà sang restaurant bên cạnh ăn một tô phở gà nhỏ, bà ăn được bao nhiêu thì ăn, để bà có thêm năng lượng, có chất bổ vào cơ thể rồi tập thở Đan Điền Thần giúp chuyển hóa thành chất bổ máu nuôi dưỡng lại các tế bào.
Và khi đi bà chú ý, mỗi bước chân đi phải hát one, two, three…, mỗi bước đi là một chữ, đó là định Tâm, giúp cơ thể đi vững, được thăng bằng, sẽ không bị ngã. Tôi cho bà tập đi trên hành lang, tôi đi bên cạnh để bà tự tin là bà có thể tập đi một mình không cần đến chồng dìu bên cạnh.

Khi ra khỏi phòng, bà đi được một mình, bà bảo chồng, đi qua restaurant mua phở đem về,” ông cứ đi đi, còn tôi đi một mình vào toilet”, thế là bà vừa đi vừa hát one, two, three….
Tâm bệnh chữa bằng Tâm bệnh, bà đã an Tâm, hài lòng, vui vẻ trở lại. Thay vì phải chữa đủ tinh-khí-thần theo ý mình thì chỉ chữa đến thần cũng là yếu tố làm hưng phấn thần kinh, cho bà ăn phở là bồi bổ tinh khí cũng là một cách chữa thuận duyên không bắt buộc, miễn sao đạt được mục đích khỏi bệnh. Tâm thầy thuốc vững vàng, điềm đạm, vui vẻ là niềm tin vững chắc cho bệnh nhân có chỗ dựa tin tưởng nhất để bệnh mau hồi phục.

4.2. Khám bệnh bằng máy đo huyết áp tìm ra được bệnh ung thư máu

Nữ bệnh nhân ở Toronto, khoảng 40 tuổi, người gầy ốm, mặt xanh xao, vai rút, thở khó như suyễn mãn tính, cơ thể suy nhược, mắt đờ đẫn, không còn thần sắc, tinh thần lo sợ, không có hơi sức để nói, nên bệnh nhân không khai bệnh được.

Khám bệnh bằng máy đo huyết áp :
Khi bệnh nhân nằm trên bàn khám, tôi đo huyết áp hai tay có kết qủa như sau :
Tay trái 128/68mmHg mạch 115, tay phải 115/66mmHg mạch 102, tay chân lạnh, da khô.

Định bệnh :
Theo Tây y thì kết quả huyết áp như vậy là tốt, chỉ có mạch bị nhanh, nhưng theo Khí công là huyết áp giả, bệnh thuộc hàn giả nhiệt, vì bắt mạch thuộc mạch sác là mạch nhiệt 115 và 102, huyết áp không cao là khí lực không mạnh, không thuộc mạch phù, khí không thấp không thuộc mạch trì, mà khí thuộc mạch trầm, nên Đông y gọi mạch có số đo này là mạch trầm sác. Nếu trầm sác thì tứ chi phải thực nhiệt thì có da khô, nhưng chân tay lại lạnh là mâu thuẫn, vì thế mạch này đã đánh lừa thầy thuốc thiếu kinh nghiệm.
Theo Khí công, khi người lạnh, chân tay lạnh mà số đo huyết áp có mạch cao, nguyên nhân do thiếu máu (huyết). Nếu một người có đủ huyết thì mạch đập trung bình là 75, căn cứ vào mạch trung bình này để tìm huyết áp thực theo cách tính sau đây :
Huyết áp tay trái mạch 115 trừ đi mạch tiêu chuẩn 75, thì do thiếu máu mà tim đã phải đập nhanh hơn 40 lần. Do đó huyết áp giả đo được 128 trừ đi 40, huyết áp thật sẽ là 88/68mmHg mạch 75.
Cách tính huyết áp bên tay phải cũng vậy, mạch 102-75, tim đã phải đập nhanh hơn 27 lần, huyết áp giả đo được 115/66mmHg mạch 102 thì huyết áp thật sẽ là 88/66mmHg mạch 75. Huyết áp này so sánh với huyết áp tiêu chuẩn của Khí công theo lứa tuổi là tình trạng khí huyết đều thiếu, dưới huyết áp của đứa bé 1 tuổi không đủ khí huyết nuôi đầy đủ các tế bào của một thân xác người lớn 40 tuổi, do đó kết luận bệnh này là bệnh ung thư máu .
Khi tôi khám và định bệnh xong, tôi nói : Cô bị bệnh ung thư máu. Bệnh nhân nghe xong giựt mình, trả lời : Con bị ung thư máu, đang chữa hóa xạ trị được đến lần thứ 7. Cơ thể mất sức dần, không ăn ngủ được, khó thở, đau nhức da thịt toàn thân.

Cách chữa theo Tinh-Khí-Thần :
Tôi cho biết, ung thư là do thiếu khí huyết, như một cây cao lớn mà mỗi ngày chỉ tưới nước rất ít như tưới nước cho một cây bé, thì cây sẽ chết khô, con người thiếu khí huyết cũng như vậy. Cho nên, dù chữa theo cách nào, phương pháp nào của Tây y hay Đông y, mà huyết áp mỗi ngày hay mỗi đợt chữa trị phải tăng lên dần đúng theo tiêu chuẩn ở trên là khỏi bệnh, còn càng chữa huyết áp càng xuống thấp là phương pháp chữa đó đã sai, thiếu khí huyết con người phải chết oan uổng vì sự sai lầm này.
Do đó cách chữa của Khí công không cần diệt tế bào ung thư, vì cơ thể không đủ máu nuôi dưỡng đủ các tế bào, nên tế bào không được máu nuôi dưỡng sẽ bị hủy hoại dần mới trở thành tế bào ung thư, sẽ tự phát triển vô tổ chức làm tắc nghẽn tuần hoàn khí huyết gây đau đớn da thịt và toàn thân. Nên việc ưu tiên là phải bổ máu và biết cách giữ công thức máu không bị phá vỡ bằng cách luyện khí tăng cường oxy cho cơ thể để máu có nhiều oxy sẽ không bị trở thành máu đen, vì công thức máu đen là oxyde sắt nhị Fe2O2, nếu cơ thể có thêm oxy do biết cách hít thở máu đen sẽ biến thành máu đỏ oxyde sắt tam Fe2O3, ngược lại không biết cách hít thở Khí công, cơ thể mất thêm oxy thì máu đen oxyde sắt nhị mất Oxy chỉ còn lại chất sắt Fe2, lúc đó cơ thể mất máu, máu bị khô đen, mầu da biến đổi thành xanh đen, lúc đó huyết áp xuống đến dưới 80, mạch cao hơn 120, các tế bào chết, cơ thể đau đớn, hơi thở thoi thóp cho đến khi tim mạch ngưng đập.

Cách điều chỉnh Tinh :

1. Cần phải tiếp máu, uống hay chích B12 với truyền nước biển.
2. Ăn uống những thức ăn có chất bổ máu, những chất làm tăng dương, tăng khí lực, như súp thịt bò, rau dền, củ dền, súp xương gà, súp đồ biển…
3. Kiêng ăn những chất chua hàn lạnh làm mất máu, mất hồng cầu.
4. Mỗi lần ăn ít một chia làm nhiều lần để cơ thể dễ hấp thụ và tiêu hóa.
5. Uống nước trà Gừng mật ong, trà quế Gừng mật ong, trà bạch quả (ginkgo) hay thuốc bổ ống Ginkgo để thanh lọc máu, tăng cường oxy cho máu, giúp phục hồi chức năng thần kinh não bộ cho tỉnh táo, tăng cường chức năng Tạng, Phủ làm việc đồng bộ, giảm đau, an thần, ngủ ngon.
Đo huyết áp theo dõi thức ăn uống mỗi ngày, nếu thấy huyết áp tăng dần là có kết qủa khỏi bệnh.

Cách điều chỉnh Khí :
1.Tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 50 lần sau mỗi bữa ăn 30 phút, ngày ăn 6 lần thì tập 6 lần, giúp cơ thể tăng tính hấp thụ và chuyển hóa chất bổ của thức ăn thành máu đỏ, loại bỏ độc tố nhanh theo đường tiêu tiểu, sẽ không bị táo bón hay tiêu chảy, bài tập này làm da tươi nhuận hồng hào, mềm mại.
2. Khi cơ thể có sức lực, khi đi đứng không bị chóng mặt hay mệt mỏi, sẽ tập thêm những bài tập Khí công ở thế đứng như :
-7 bài đầu Khí công để phục hồichức năng thần kinh.
-Bài Vỗ Tay 4 Nhịp 100 lần tăng oxy cho tim Phổi.
-Bài Cúi Ngửa 4 Nhịp 20 lần để cung cấp máu lên nuôi não.
-Bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 50 lần, sau đó ngậm miệng giữ khí, đo lại huyết áp sẽ thấy huyết áp tăng, cơ thể nóng ấm, hơi thở mạnh, cảm thấy khỏe.

Cách điều chỉnh Thần :
Tối trước khi đi ngủ 30 phút, nằn tập thở thiền ở Đan Điền Thần.
Nam đặt bàn tay trái, nữ đặt nhẹ bàn tay phải lên mỏm xương ức nơi Đan Điền Thần, tay kia đặt chồng lên trên, thả lỏng vai. Cuốn lưỡi ngậm miệng, nhắm mắt, thở bằng mũi bình thường giống như lúc đang ngủ, chỉ cần cho bộ óc làm việc theo dõi bụng phồng lên xẹp xuống theo hơi thở tự nhiên, cách này gọi là theo dõi hơi thở, danh từ chuyên môn gọi là Quán Tức (quan sát hơi thở), không những quan sát hơi thở còn theo dõi để ý khí huyết chuyển động trong bụng như sôi bụng, bụng nóng ấm, bàn tay rịn mồ hôi, khí chạy từ ngực, từ Bao tử, từ gan chạy xuống bụng dưới….
Khi quán tức được chính xác, bắt đầu luyện trí nhớ để tập trung ý vào nơi bụng đang phồng lên xẹp xuống, bắt đầu đếm hơi thở mỗi khi bụng xẹp xuống, đầu ghi nhớ là 1 lần, rồi bụng xẹp lần thứ 2 ghi nhớ là 2 lần, đếm từ 1 đến 10 kể là 1 chục, rồi từ 1 đến 10 nữa kể là 2 chục, 1 đến 10 nữa kể là 3 chục, có thể đếm lên tới 100 chục trở lên mà không nhầm lẫn thì trở thành thiền sư rồi.
Có hai công dụng của thiền :
Nếu đạt tới 100 chục lần thì lúc đó đã đạt được trạng thái Thiền Tỉnh Thức, tức là sóng não xuống thật thấp khoảng 1-2 Hertz dưới tần số ngủ là 5-6 Hertz mà vẫn tỉnh táo, như vậy người ta mới so sánh 1 giờ thiền tương đương với 2 giờ được ngủ ngon không mộng mị.
Nếu không đạt được trạng thái Thiền Tỉnh Thức, vì chúng ta không phải là Thiền sư, nên vừa mới đếm được tối đa khoảng 30 chục đã rơi vào trạng thái Hôn Trầm (buồn ngủ) bàn tay đã mất sự kiểm soát của bộ não, tự nhiên rơi xuống, cơ thể thả lỏng, đi vào giấc ngủ sâu mà không biết, khi giựt mình tỉnh giấc là đã ngủ được 8 tiếng êm đềm không mệt mỏi đau đớn mộng mị.
Cho nên tập thiền là liều thuốc an thần, giảm đau, mau phục hồi thể lực, tăng hồng cầu, tăng tính hấp thụ và chuyển hóa, tăng cường hệ miễn nhiễm của cơ thể. Nếu tập được đúng như thiền sư thì không cần ngủ, thức đến sáng mà không mệt mỏi, đó là thiền Tỉnh Thức, bộ óc và thần kinh cũng thư giãn như được ngủ 16 tiếng, còn chỉ bắt đầu tập thở thiền đếm hơi thở được 5 phút là cơ thể rơi vào hôn trầm, được ngủ say sưa 8 tiếng cho đến sáng thức dậy con người cảm thấy tỉnh táo nhẹ nhàng khỏe mạnh, như người không bệnh tật, thì mọi bệnh tự nhiên được tiêu trừ.

Cầu ơn trên giải nghiệp bệnh :
Tuy nhiên, những ngườt bị bệnh ung thư, giống như người nghiện thuốc. Muốn khỏi bệnh thì phải có nghị lực quyết tâm bỏ thuốc thì sẽ bỏ được bệnh nghiện dễ dàng. Những hướng dẫn và giải thích nguyên nhân và hậu qủa thiếu máu, thiếu khí từ năm này sang năm khác lâu dài hơn 10 năm trở lên, sẽ gây ra mọi bệnh ung thư, nếu áp dụng đúng theo cách hướng dẫn trên thì khỏi bệnh, nhưng không mấy ai chịu theo, cứ phó mặc cho thầy thuốc, và hậu qủa dẫn đến tử vong, nên thế gian gọi là nghiệp bệnh vì không có nghị lực hay không có sức để tập luyện, do đó lại cần phải có sự trợ lực của tha lực của chư vị thần thánh, gọi là thần lực.
Nên bệnh nhân này đã được hướng dẫn cầu ơn trên giải nghiệp bệnh. Sau khi được tập múa làm tăng thể lực khoảng 30 phút, bệnh nhân xuất mồ hôi, tăng khí lực, tăng hồng cầu, tăng huyết áp, trong lúc tập không đau đớn mệt mỏi, khi nói chuyện, giọng nói mạnh, nét mặt tươi vui mừng rỡ.
Tôi cho bệnh nhân biết, bệnh nhân phải tự cứu mình, cần phải siêng năng tập luyện, bỏ những thứ thuốc có nhiều độc tố gây mất máu mất khí, làm thiếu máu, khiến cơ thể suy nhược thêm, cần phải yêu cầu bệnh viện cho tiếp thêm máu, kiên trì tập luyện, bổ sung những thức ăn bổ dưỡng để mau khỏi bệnh. Sự sống chết còn tùy vào nghiệp bệnh và nghị lực của mỗi người.

4.3. Ung thư sọ não, di căn của ung thư phổi do hút nhiều thuốc lá

Nam bệnh nhân người Rumanian khoảng 50 tuổi, người vợ dắt ông bước vào phòng, theo vọng chẩn của Đông y Khí công, tôi đã thấy ngay bệnh nhân có bệnh ở Tâm Phế Thận, mặt trắng bủng, người mệt mỏi, lo lắng, đi chậm chạp, thiếu hơi sức, mặt hơi phù, hai gò má hiện mầu đỏ tối. Ông kể bệnh sử hiện đang chữa trị chemotherapy bệnh ung thư Phổi, và bây giờ bác sĩ khám thấy di căn lên não có khối u 1cm sau não bên phải, bác sĩ dặn sau 1 tháng tái khám nếu bướu lớn hơn nữa thì phải mổ, còn hiện nay cách hai tuần một lần đi chữa ung thư Phổi bằng chemo, đã chữa được 2 lần và ông thấy sức khỏe càng ngày càng suy giảm.
Tôi mời ông nằm trên giường khám, đo huyết áp hai tay đều thấp 105/65mmHg mạch 62, bụng to, khó thở, tức ngực. Tôi bấm huyệt Ế Phong đưa huyết áp lên cao 152/98mmHg mạch 85, rồi hướng dẫn ông tập thở bài dương trong dương để làm tăng dương khí và tăng huyết áp bằng cách tập trung ý tại Đan Điền Thần, bàn tay trái đặt trên mỏm xương ức, bàn tay phải đặt chồng lên trên (đối với người nam, nữ đặt ngược lại). Hơi thở 3 thì, thở bằng mũi, cuốn lưỡi ngậm miệng để giữ khí, thì thở vào phình bụng lâu 5 giây thì ngưng thở lâu 5 giây, thì thở ra xẹp bụng lâu 5 giây. Tôi đếm cho bệnh nhân tập thở để tự điều chỉnh cho đều hơi không bị mệt, sau 30 lần thở, mặt bệnh nhân sáng sủa hồng hào, hơi thở đều nhẹ và sâu, tôi đo lại huyết áp trở lại bình thường của một người khỏe mạnh 125/82mmHg mạch 72. Ông cảm thấy như một phép lạ, con người nhẹ nhõm, khỏe mạnh, tiếng nói to, ông sờ tay vào sau đầu chỉ cho tôi chỗ bướu và nói 1 tháng sau sẽ phải mổ, ông hỏi tôi phải làm sao. Tôi trả lời, đối với môn Khí công, chỗ nào khí huyết bị tắc nghẹt không lưu thông được là chỗ bị bệnh, cách chữa bằng Khí công là kích thích cho khí huyết nơi đó lưu thông trở lại được bình thường thì nơi đó sẽ hết bệnh.
Ông hỏi làm sao mà biết nó lưu thông hay không lưu thông.
Tôi thí dụ cho ông hiểu một cách đơn giản, trong xe hơi đi mùa đông giá tuyết, tuyết đóng băng trên mặt kính, tài xế trong xe không thấy đường lái, vết đóng băng đó ví như là một khối u trong cơ thể. Tây y công nhận ung thư không do vi trùng, khối u lành chỉ là khối chứa mỡ, nước, thịt dư, khối máu tích tụ, còn khối u ác tính là những khối máu xấu tích tụ mọc rễ thần kinh ăn sâu lây lan vào xương thịt và Tạng Phủ. Khi kính ngoài xe bị đóng đá do thời tiết lạnh bên ngoài trời mưa dưới 0 độ, còn trong xe ví như cơ thể con người, cũng lạnh vì máy sưởi trong xe không làm việc. Muốn cho hết băng tuyết dính trên kính xe, có 3 cách giải quyết, thứ nhất dùng dụng cụ chuyên môn cạo tuyết, thứ hai dùng nước hóa chất làm tan, thứ ba mở sưởi trong xe cho kính xe đủ nóng ấm làm tan chảy băng tuyết, cách này phải chờ thời gian lâu nhiệt độ trong xe mới đủ ấm lên. Bướu trong cơ thể cũng vậy, có 3 cách là cắt bỏ, dùng hóa trị liệu, và làm ấm, nhưng cách làm ấm của Tây y chưa thích hợp với cơ thể con người, tạm dùng phóng xạ trị liệu. Còn môn tập thở Khí công có ưu điểm làm ấm cơ thể toàn thân bằng hít thở thiền, và tập luyện mỗi ngày để duy trì độ ấm giúp khí huyết tích tụ đủ tan biến khối u mà không có phản ứng phụ nào. Để kiểm chứng được độ ấm cơ thể ở những nơi có bướu bị đông lạnh, môn Khí công biết tận dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật áp dụng trong cách kiểm chứng bằng máy đo nhiệt kế, máy đo huyết áp, máy đo oxymètre để đo khí huyết lưu thông đủ hay thiếu, thông hay tắc.
Tôi bảo ông chỉ cho tôi chỗ bướu sau não phải, tôi dùng máy đo oxymetre để đầu sensor vào vùng bị bướu, cho ông xem máy, số hiện bên trái là SpO2 chỉ oxy thuộc khí, bên phải vẽ qủa tim chỉ huyết, cả hai bên không hiện số, chỉ có đèn báo hiệu lúc đỏ lúc tắt . Tôi đặt sensor vào bên não trái, đối xứng với bên bướu, thì máy hiện ra số SpO2 thuộc khí chỉ 84, bên huyết chỉ 54. Ông hỏi số đó chứng tỏ điều gì ?
Tôi trả lời, theo tiêu chuẩn bình thường, bất kỳ đặt sensor vào những đại huyệt phản ảnh khí huyết của Tim, Gan, Phổi, Thận, Tỳ, Vị …của Lục Phủ, Ngũ Tạng hay bất cứ một huyệt nào trên đường kinh mạch của Đông y châm cứu, số chỉ khí phải từ 95 đến 100 là tốt, số bên huyết chỉ theo mạch đập đều và khỏe của qủa tim từ 70-80 là tốt. Chỗ đặt sensor bên não phải của ông, vùng đó khí huyết không đi qua, nên máy câm không hiện số, bên não trái, số chỉ khí thiếu, chưa được 95, số chỉ huyết là tốc độ mạch đập của ống máu chậm do tuần hoàn yếu chỉ có 54, mà tiêu chuẩn tối thiểu phải 70.
Tôi nhờ ông cầm máy oxymetre để theo dõi số và đèn mầu báo hiệu trong khi tôi sử dụng bấm huyệt. Theo kinh mạch, có những đường kinh chạy lên đầu để thông khí huyết trong đầu gồm có huyệt Chí âm kinh Bàng quang, huyệt Túc Khiếu Âm kinh Đởm, huyệt Quan Xung kinh Tam tiêu, huyệt Lệ Đoài kinh Vị và huyệt Đại Đôn kinh Can đi trong đầu lên đỉnh đầu ra sau gáy. Mỗi lần tôi bấm vào một trong những huyệt kể trên, ông nhận thấy, máy hiện số, và đèn báo đều khác nhau, có đường kinh khí huyết lên đủ, có đường kinh khí huyết không lên đến đầu…
Ông lấy làm lạ, ông chỉ tay vào máy và nói với tôi rằng, ông là kỹ sư làm trong công ty đã góp công sức chế ra loại máy này, nhưng không ngờ nó có thể biến đổi theo từng huyệt trong cơ thể, ngoài dự kiến của những người chế tạo, vì mục đích ban đầu của máy chỉ để đo oxy và nhịp đập qủa tim, dùng cho các bệnh viện trong trường hợp cấp cứu để biết bệnh nhân bị thở khó do thiếu oxy, sẽ được tiếp oxy bằng máy trợ thở
Ông hỏi, bây giờ khí huyết tuần hoàn không đủ tôi phải làm sao cho đủ?.
Tôi nói, Khí công có những phương pháp tập bằng động tác thể dục Khí công, có những phương pháp thở Khí công thiền để điều chỉnh khí huyết lưu thông trở lại bình thường.
Trước hết, tôi hướng dẫn ông tập động công, bài Cúi Ngửa 4 Nhịp để chỉnh thần kinh cột sống, tăng cường hệ miễn nhiễm, kích thích gan đưa máu lên đầu nuôi não.
Sau khi tập 20 lần, ông trở lại giường nằm, mặt và vành tai của ông hồng lên, đo lại vùng bướu sau não phải, máy đo chỉ khí 90, huyết 72, vùng đối chiếu với bướu bên não trái máy đo chỉ khí 95, huyết 75.
Khi khí huyết đã thông được lên não, giống như nối dây cho thông với nhau, nhưng trong người cần phải tạo cho tăng nhiệt để dẫn nhiệt theo đường dẫn của khí huyết lên não giúp làm tan khối u mới là cách chữa ung thư của Khí công, nó đòi hỏi phải kiên nhẫn bỏ ra công phu để luyện tập
Ông hỏi làm sao để biết khối u teo nhỏ dần ?
Theo Đông y, đa số các bệnh ung thư đều thuộc hàn, có nghĩa là chỗ bị bướu do khí huyết lạnh tích tụ đóng thành một khối băng nhỏ, bị cô lập, không đủ nhiệt để lưu thông như các chỗ khác. Nói hàn thì Tây y không hiểu, nên tạm dùng nhiệt kế để đo nhiệt nơi vùng huyệt trước khi tập và sau khi tập thở Khí công thiền.
Ông hỏi không tập thở thiền và tập thở thiền khác nhau chỗ nào ?
Tôi giải thích rằng, động công bài Cúi Ngửa 4 Nhịp như ông vừa tập, chỉ tạm thời đưa khí huyết đi qua đầu nuôi não, đo khí huyết lúc đó máy chỉ đủ tiêu chuẩn, nhưng sau đó đo lại nó sẽ xuống, không duy trì lâu được.
Vì thế cần tập thở Khí công thiền, có 3 công dụng chính :
Thứ nhất, tăng cường khí của hơi thở được sâu, thu nạp được nhiều oxy cho máu, và tạo khí lực giúp máu tuần hoàn mạnh hơn, lâu hơn.
Thứ hai, tập trung ý vào một điểm, theo Đông y, khí ở đâu, huyết sẽ ở đó, và chỗ nào có huyết lưu thông thì nơi đó có sức nóng ấm tăng nhiệt, do đó trước khi tập, để máy đo nhiệt kế vào huyệt, bàn tay đè lên trên, máy chỉ 29 độ C, sau khi tập, tùy theo yếu tố thời gian và ý có tập trung được vào huyệt hay không, cho đến khi nào, nhiệt độ tăng dần đến 36,5 hay 37 độ C, lúc đó nơi huyệt nóng, bàn tay và trán rịn mồ hôi, có người tập 5 phút nhiệt kế đã chỉ 37 độ C, có người tập 15 phút, nhiệt kế mới chỉ được 36 độ C và nếu tập thêm nữa, nhiệt kế cũng không thể nào tăng thêm được, có người tập 30 phút mới đầu nhiệt kế chỉ lên 36 độC, nếu tập thêm nữa, nhiệt độ lại xuống 30 độ C, vì ý đang suy nghĩ đến chuyện khác, đang mơ màng ngao du sơn thủy, ý không còn tập trung vào huyệt nữa. Điều này chứng minh được lý thuyết của Khí công là đúng : Ý ở đâu, khí ở đó, khí đến đâu, huyết đến đó. Mất tập trung ý là khí huyết đều đi loạn sẽ làm mất quân bình âm dương.
Thứ ba, chọn đại huyệt để cho ý tập trung, mà đại huyệt ấy có khả năng chữa bệnh, Khí công thường chọn Đan Điền Thần vùng huyệt Cưu Vĩ, Cự Khuyết ở mỏm xương ức, làm mạnh Tâm hỏa, chữa chức năng tim mạch, Tâm bào, tan mỡ đóng ở vách thành mạch, làm tăng huyết áp, tăng cường chức năng tiêu hóa, chữa Gan, Tỳ Vị, giúp ăn ngon, tăng tính hấp thụ, khi Tỳ Vị được mạnh, giúp Bao tử ấm nóng, theo Ngũ hành tương sinh, khi Tỳ Vị thổ mạnh sẽ nuôi dưỡng cung cấp năng lượng cho con là Phế kim, giúp khí của Phổi mạnh, chứa nhiều khí, và đem sức nóng của Tâm hỏa vào Phế để làm tan những khối u trong Phổi bị tích tụ hàn khí..
Nếu chọn Đan Điền Tinh ở vùng huyệt Khí Hải dưới rốn 1,5 thốn có chức năng chuyển hóa tinh chất thành khí chất, chứa vào biển khí tên là Khí Hải, nếu đặt ý tập trung theo dõi những biến đổi của khí ở huyệt này, lưu lượng huyết cũng tăng khi chạy qua huyệt này làm tăng nhiệt sẽ chuyển tinh hóa khí đi sang cửa giữ mạng sống của con người được lâu dài gọi là Mệnh Môn nằm trên cột sống sau lưng đối xứng với rốn, rồi khí huyết sẽ tự động đi theo ống tủy xương sống lên não bộ làm vững mạnh thần kinh trung ương để điều chỉnh lập lại sự quân bình khí hóa của toàn thân.
Đan Điền Tinh cũng làm mạnh Thận khí, theo Ngũ hành, con mạnh, mẹ tự dưỡng, thay vì Phổi là kim phải cung cấp năng lượng nuôi dưỡng con nó là Thận thủy, thì ngược lại, Thận đã đủ mạnh, năng lượng của Phế không cần phải nuôi dưỡng Thận, nên nó không cần phải tiêu hao năng lượng đang còn thiếu hụt để tự chữa bệnh cho mình. Đối với Khí công ý ở đâu khí ở đó, vị trí của Đan Điền Tinh nằm phần bụng dưới, khi ý dẫn khí huyết đi xuống dưới thì huyết áp đang cao sẽ xuống thấp.

Ngoài ra, tập động công bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng để kích thích chức năng sinh hóa lưu chuyển khí huyết trong Tạng Phủ càng ngày càng mạnh, giống như đang thổi bễ nhóm lửa của lò rèn, trong khi đó người thợ rèn chuẩn bị chọn cục sắt nào hợp với nhu cầu để bỏ vào lò nướng cho đỏ và mềm, rồi mới đập rèn cho thành dụng cụ hữu ích như con dao, cái kéo…Người thầy chữa bằng Khí công cũng vậy, phải biết chọn phối hợp huyệt trên cơ thể bệnh nhân tùy theo mục đích chữa để bấm vào huyệt cùng lúc bệnh nhân đang tập, để chuyển hóa chức năng của huyệt tạo ra thuốc nội dược tự chữa bệnh, nên phương pháp Khí công gọi bài này là bài : Cùng Nhau Luyện Thuốc.

Cách thức pha chế thuốc theo huyệt, Đông y Khí công áp dụng nguyên tắc bổ tả theo Ngũ hành Tạng Phủ để có những công dụng như thuốc ngoại dược của Đông y như : Bổ Trung Ích Khí, Kiện Tỳ Dưỡng Vị, Bình Can Tức Phong, Thanh Can Hòa Vị, Thanh Nhiệt Giải Độc, Khai Uất Hoạt Huyết, Khu Phong Tán Hàn…nhưng không phải lúc nào Đông y cũng cho cùng một loại thuốc, mà cần phải đối chứng lâm sàng mỗi khi tái khám để biết sự biến chuyển tốt xấu của khí huyết đối với bệnh, để điều chỉnh thêm bớt những vị thuốc khác cho phù hợp với tình trạng bệnh. Do đó thầy chữa bệnh bằng Khí công cũng phải thay đổi cách chọn huyệt tương xứng như thuốc để bấm trên huyệt cùng lúc với bệnh nhân trong bài tập Cùng Nhau Luyện Thuốc.
Liều lượng thuốc nhiều hay ít đủ cân lượng hay không để chữa khỏi bệnh là do thời gian luyện tập, là yếu tố quyết định mang lại hiệu qủa nhất so với các phương pháp chữa bệnh khác của ngành y mà chúng ta hiện có.
Tôi cũng hướng dẫn ông tập bài kế tiếp là Bài Sinh Tinh Hóa Tủy thở ở huyệt Mệnh Môn, rồi Ép Gối cho gót chân chạm mông theo hơi thở ra, cứ ép mỗi bên chân 60 lần có mục đích tăng cường chức năng chuyển hóa của Thận, và bơm khí huyết lên nuôi não. Theo y lý của Đông y Khí công, não được tiếp nhận đủ máu sẽ làm tăng cường chức năng thần kinh trung ương để điều chỉnh được mọi chức năng sinh hóa và chuyển hóa của Tạng Phủ được hữu hiệu hơn, nhất là chức năng Thận mạnh, thì năng lượng của Phổi không bị tiêu hao nếu phải cung cấp cho Thận theo nguyên tắc Ngũ hành kim sinh thủy, vì thủy đã đủ thì kim tự dưỡng nên chức năng phục hồi những tổn thương của Phổi cũng sẽ mau có kết quả.

Tất cả những kết qủa tập luyện Khí công tự chữa bệnh đều phải được theo dõi kết qủa xấu, tốt bằng những xét nghiệm y khoa như thử máu, chụp hình…
Bệnh nhân này sau khi tập Khí công được một tháng, cùng lúc vẫn tiếp tục điều trị ung thư Phổi và ung thư sọ não theo Tây y. Lần chụp kết qủa về khối u sọ não, ông báo tin mừng, bác sĩ nói không cần mổ, vì nó không phát triển lớn lên mà teo nhỏ lại. Họ không tin vào Khí công đem lại kết qủa ấy, nhưng họ đề nghị dùng tia laser bắn thẳng vào khối u là đủ. Khối u đó đã được bắn 1 lần rồi nghỉ 3 tuần, tái khám. Ông xin tôi hướng dẫn phải tập bài Khí công nào tiếp theo, đó là bài Cúi Ngửa 4 Nhịp để dẫn máu lên nuôi não, sau khi tập 20 lần, dùng máy oxymetre đo lại khí huyết chạy qua chỗ bướu, khí chỉ 97, huyết chỉ 80.
Ông nói với tôi, đến thứ hai ngày 11 tháng 5 năm 2009 ông sẽ biết kết qủa xét nghiệm của ung thư Phổi.
Ngày thứ ba ông đến phòng mạch báo cho tôi biết một tin vui đã làm cho gia đình ông lên tinh thần, ông nói bác sĩ điều trị làm scan Phổi, kết luận rằng khối u trên đỉnh Phổi phải đã biến mất, không còn dấu vết, nên ngưng lịch trình điều trị Phổi.

Trước kia ông chỉ tập các bài tập riêng cho từng giai đoạn mà tôi đã hướng dẫn trong phòng mạch, bây giờ ông đã mạnh khỏe và có nhiều niềm tin vào các bài tập thể dục động công và tĩnh công thiền. Ông hứa với tôi, từ nay ông sẽ tập mỗi ngày đầy đủ toàn bộ các bài tập Khí công theo băng video mà trước kia ông chưa đủ sức khỏe để mắt tới cuốn băng DVD này.
Tôi nhắn nhủ ông, tất cả những bệnh nan y, Tây y cần phải dùng thuốc trong thời gian dài để duy trì sức khỏe và ngăn ngừa bệnh không tái phát mới kéo dài được tuổi thọ, môn tập Khí công của chúng tôi cũng tương đương như khả năng của thuốc, vì thế mọi người dù có bệnh hay không, cũng cần phải luyện tập và duy trì mỗi ngày để cơ thể tự tạo ra thuốc giúp cho sức khỏe được tăng cường kéo dài tuổi thọ, đó mới chính là giá trị qúy báu của phương pháp chữa bệnh bằng Khí công Y Đạo mà chúng tôi hiện đang truyền bá phổ biến rộng rãi vô vụ lợi đối với tất cả mọi người .

4.4. Chữa ung thư Phổi kết

Một nam bệnh nhân người Quebecois 65 tuổi bị ung thư Phổi, khó thở, đau tức nhói ngực, hàng tuần vẫn đi trị liệu định kỳ ở bệnh viện, bệnh càng ngày càng trở nặng, cơ thể suy nhược, huyết áp thấp dần .

Tinh:
Theo cách chữa của Đông y Khí công khuyên bệnh nhân về ăn uống: Nên chọn những thức ăn làm cho cơ thể tăng huyết áp tăng nhiệt, như Gừng, hạt tiêu, thức ăn uống bổ máu như thịt đỏ, cà rốt, củ dền đỏ, hành, tỏi, ba rô, xả, những thức uống tiêu đàm bướu như nước trà Gừng, vỏ quýt khô, mật ong, uống sau bữa cơm thay trà. Tránh những thức ăn uống làm mất máu, thức ăn làm hạ nhiệt và tạo thêm đàm như kem, sữa, yaourt, nước đá, cam, chanh, dừa, ensure…
Cần uống thêm B12 dạng nước. Tất cả những thức ăn hàng ngày phải được kiểm chứng bằng máy đo huyết áp ở hai bên tay trước và sau khi ăn 30 phút, xem những thức ăn hôm đó có làm tăng huyết áp không, nếu làm tăng huyết áp lên thì đúng, còn nếu làm hạ huyết áp dưới tiêu chuẩn càng xa thì món ăn hôm đó đã làm cơ thể không có đủ năng lượng lại còn mất thêm năng lượng làm bệnh nặng thêm.

Khí:
Đặc biệt môn Khí công Y Đạo có cách trục những bướu trong Phổi ra khỏi cơ thể nhanh hơn là Tây y. Đó là bài thở Thông Cột Sống.
Tôi cho bệnh nhân nằm úp, đầu ló ra ngoài đầu giường, cột sống cổ và lưng thẳng. Tôi cho cầm một khăn giấy lau tay lớn và bảo ông, khi tôi ấn đè bàn tay trên lưng và ép gót chân của ông vào mông, thì ông khạc mạnh đàm trong Phổi ra theo từng nhịp ấn đè lưng của tôi.
Tôi đứng trên bục kê cạnh giường cho cao hơn lưng của ông, một tay cầm cổ chân phải của ông, đầu gối dang hình con ếch, để khi ấn đè gót chân của ông vào mông không bị đau trật gân đầu gối, phần chính là bàn tay trái của tôi đặt trên lưng cùa ông vùng Thận ngang thắt lưng. Tôi nói : Khạc đàm khi tôi ấn đè bàn tay trái cho lưng ông hơi lõm xuống rồi thả ra, để có thề thấy lưng ông xẹp xuống khi khạc ra, phồng lên khi khạc xong. Thay vì để bệnh nhân tự khạc, không ấn đè lưng thì bệnh nhân chỉ khạc được đàm ở nơi cổ họng, nhưng lúc đó thăn cơ ở lưng bụng ruột gồng cứng lại, khác với cách này ở chỗ, lợi dụng khi bệnh nhân đang há họng khạc thì ấn đè lưng tạo khí ép từ sâu trong bụng đẩy bướu đàm theo họng trong Phổi ra ngoài, cứ mỗi chân ấn đè 36 lần bàn tay trái di chuyển dần dần lên Phổi, chúng ta nghe được đàm khạc ra ở họng khò khè, xuất ra từng khối cục to, ông vất giấy đó đi, lấy tờ khăn giấy khác tiếp tục ấn đè cho đủ 36 lần, chúng ta nghe thấy hơi thở vào sâu trong bụng mà khi khạc ra không có tiếng đàm khò khè nữa.
Cứ mỗi tuần ông đến, tôi lại dùng cách này lấy đàm ra. Sau khi lấy đàm ở sâu trong các xoang Phổi ra, thì ông thấy thở khỏe, dễ dàng. Tôi dạy ông thở Đan Điền Thần khi huyết áp ông thấp, thở ở Đan Điền Tinh khi huyết áp của ông cao.
Tôi đưa cho ông cây bút bảo ông cầm đề ấn đầu bút vào huyệt Trung Quản giữa bụng, trung điểm đoạn thẳng từ mỏm xương ức đến rốn, cuốn lưỡi ngậm miệng, nhắm mắt, thở bằng mũi tự nhiên, chỉ cần theo dõi khí huyết chuyển động dưới huyệt Trung Quản trong 30 phút, để tăng nhiệt tăng tính co bóp, hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành chất lỏng mà không biến thành đàm.
Sau đó hướng dẫn ông tập bài Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần làm tăng thân nhiệt, huyết áp, khi ông bỏ 2 chân xuống nghỉ, miệng vẫn ngậm, bàn tay tôi bôi dầu menthol pha Camphre đặt vào mũi của ông, lúc đó bụng ông đang thở như sóng nhồi khí, do sau khi tập Nạp Khí Trung Tiêu, khí chỉ thông theo mũi ra vào rất mạnh, ngửi phải mùi này, thông vào đến Phổi để sát trùng đường Phổi.
Sau 2 tháng, người ông khỏe mạnh hồng hào, lên cân, thở dễ. Ông báo tin mừng, các xét nghiệm máu và chụp Phổi thấy các bướu biến mất không còn dấu vết, nên được ngưng chữa trị theo Tây y, và bây giờ ông vẫn tiếp tục tập Khí công để tăng cường oxy và hồng cầu giữ cho cơ thể lúc nào cũng đầy đủ khí huyết phòng chống bệnh tật.

Thần:
Mỗi tối trước khi đi ngủ 30 phút, nằm tập thở thiền ở Đan Điền Thần làm tăng thân nhiệt, oxy, hồng cầu, tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu mà không biến thành đàm, giúp thở dễ, an thần, ngủ ngon, theo đúng châm ngôn của cổ nhân, một cơ thể không bệnh tật thì phải đạt được những điều kiện: Ăn được, ngủ được (là tiên).

4. 5. Chữa ung thư vòm họng

Kính chào Thầy Ngọc
Con có người chị dâu, 54 tuổi, nội trợ, sống vùng thôn quê. Ban đầu, chị con bị ù tai. Sau đó, chị con bị hạch ở cổ. Kết quả sinh thiết là K vòm hầu.
Hiện chị con đang chờ được điều trị tại bệnh viện Ung bướu Tp. HCM. Nay, con xin hỏi Thầy về trường hợp của chị con thì cách sinh hoạt, tập thể dục những động tác thể dục Khí công nào là tốt nhất. Bởi con không rõ khi bị bệnh K có chống chỉ định xoa vuốt hay không. Con muốn giúp đỡ chị con nhưng nếu làm bệnh nặng hơn thì con mang tội. Có người chỉ dẫn uống nước lá đu đủ bệnh sẽ giảm. Con không biết có đúng vậy không? Nhân đây, con cũng xin trình bày với Thầy là: số người bệnh viêm mũi các loại rất nhiều. Con rất mong Thầy có chuyên đề về bệnh này và cách phòng chống K vòm hầu v.v... Cảm ơn Thầy rất nhiều. Con kính chúc Thầy nhiều sức khoẻ.

Trả lời :
Thân gửi Dung
Bệnh về họng, theo Đông y cũng chia làm 2 loại hư chứng, thực chứng, bằng cách dựa vào kết qủa xét nghiệm của Tây y xem dư calcium hay thiếu, nếu dư calcium thì đo huyết áp sẽ cao, thiếu calcium huyết áp sẽ thấp.

Phối hợp thêm với cách tìm nguyên nhân gốc bệnh của Đông y, họng có liên quan đến kinh Tỳ Vị và kinh Thận, Thận âm tốt sẽ đưa khí đến cuống lưỡi làm cho lưỡi ướt ra nước bọt, kinh Tỳ Vị đưa lên họng làm ra nước dãi, khi mình nhìn thấy người khác ăn một món gì ngon mà mình thích thì mình sẽ bị thèm nhỏ nước dãi.
Khi vòm họng bị viêm, chứng tỏ cổ họng khô không có nước dãi, nước bọt, thì bệnh thuộc Tỳ Vị và Thận. Dựa trên hư chứng và thực chứng để bổ hay tả cho đường kinh ấy.
Bệnh thưc chứng do hỏa của tim vượng, huyết áp cao, làm khô cạn Thận thủy, Bao tử nóng, nên nước bọt nước dãi không có.
Bệnh hư chứng do chức năng Tỳ Vị và Thận hư không đủ dịch chất để tạo ra nước bọt nước dãi lên họng.

Muốn chữa cả hai cách này là phải làm sao cho cổ họng có nước, bằng cách nằm thở thiền chú ý vào Đan Điền Tinh ở huyệt Khí Hải, cuốn lưỡi ngậm miệng, hát bằng mũi ư,ư,ư,ư,ư,ư,ư, tức là phát âm 1,2,3,4,5,6,7 (one, two, three, four, five, six, seven) trong cổ họng, tạo ra sự rung động tuyến hạch ở cổ họng giúp cổ họng tiết ra nước, rồi nuốt vào.
Đã có một trường hợp bệnh nhân ở Mỹ được Tây y xét nghiệm kết luận ung thư lưỡi, bị dộp như bánh tráng, họng khô, lưỡi đỏ bầm, ăn và nói không được, người gầy ốm dần tưởng sẽ không còn sống được bao lâu nếu không ăn nuốt được. Đã sang Montreal tập Khí công tự chữa bệnh. Nhờ tập cách này mà trong 1 ngày, lưỡi hết bị khô và phồng dộp, ngày hôm sau ăn uống nói năng bình thường được, cô ấy trở về Mỹ tiếp tục bài tập thở Khí công này, bây giờ đã bình phục. Nếu muốn chữa bằng huyệt, vuốt từ Chiếu Hải lên Thái Khê ở hai bên cổ chân trong 36 lần, mỗi ngày vuốt 3 lần.

Kiêng ăn thức ăn cay nóng, khó tiêu, không nên uống nước lá đu đủ, vì chưa rõ tính chất âm dương của bệnh và của thuốc để chữa chứng hư hay chứng thực, tránh trường hợp tối kỵ của Đông y là hư làm thêm hư, thực làm thêm thực, dân gian gọi là chữa lợn lành thành lợn què.
Tập uống nước, mỗi lần 1/2 ngụm, ngậm trong họng, cuốn lưỡi ngậm miệng, xúc nước miếng 36 lần, rồi nuốt 1/2. xúc tiếp 36 lần, nước miếng lại trào ra đầy miệng, nuốt vào 1/2, lại xúc tiếp 36 lần rồi nuốt 1/2. Cách này gọi là cách luyện nước cam lồ. Ở Việt Nam đã có một bệnh nhân mỗi ngày uống 4-6 lít nước mà người vẫn ốm, da khô cằn cỗi, cổ họng khô khát bắt buộc phải uống nước nhiều, nhưng vẫn không hết bệnh, khiến ăn ngủ không được, bị nhiệt chứng, Tâm Thận bất giao, cơ thể suy nhược. Tôi đã chỉ cho phương pháp này, mới đầu bệnh nhân không tin.
Tôi bảo cứ làm thử 1 ngày đi, và đếm cho tôi biết anh đã nuốt được bao nhiêu lần nước miếng. Ngày hôn sau bệnh nhân đến phòng mạch, da dẻ hồng hào tươi nhuận, cổ họng hết khô, bệnh nhân khen phương pháp này hay qúa, tôi đếm được gần 4000 ngụm ( tương đương với 4000cc nước = 4 lít nước) , bây giờ không còn phải uống nước nhiều, ăn ngon ngủ khỏe.
Sau đó bệnh nhân bắt đầu có sức khỏe để tập Động công và Tĩnh công thiền để cơ thể tự điều chỉnh những chức năng Tạng Phủ hoạt động trở lại tốt bình thường làm cho khỏi bệnh. Chị dâu của Dung nên bắt chước phương pháp này rồi cho tôi biết kết qủa.

4.6. U xơ tử cung ác tính, u sọ não đi đứng mất thăng bằng

Câu hỏi:
Thầy cho phép con được làm cầu nối để hai bệnh nhân này được Thầy che chở, cứu giúp. Họ mới bị bệnh và đi khám thì nhận được kết luận là bị u ác tính.
Kính mong Thầy cứu giúp và cho họ phác đồ điều trị .
1. Bệnh nhân thứ nhất (27 tuổi) bị u xơ cổ tử cung (U ác tính) được phát hiện cách nay 10 ngày; Tình trạng sức khỏe hiện nay: rất gầy và vàng da cứ 5 – 10 phút lại đau bụng một lần
2. Bệnh nhân thứ hai (50 tuổi) được phát hiện ra u não cách nay nửa tháng; Chụp X-Quang thì thấy thùy phải có một khối u. Tình trạng sức khỏe hiện nay: cảm thấy đầu luôn ong ong; mất thăng bằng, đi đứng lảo đảo không vững, tay không cầm được. Mất ngủ.
Con cám ơn Thầy !
Con
Bùi Thăng Long

Trả lời:
Cả hai loại bệnh trên đều do thiếu máu, huyết áp thấp so với số tuổi, theo bảng tiêu chuẩn của Khí công .
Thí dụ đang ở tuổi trung niên, mà có huyết áp của thiếu nhi là thiếu khí huyết bẩm sinh, không đủ máu hành kinh và không đủ máu lên nuôi não, theo thời gian huyết áp phải tăng theo số tuổi mới phù hợp với cơ thể. Nếu huyết áp càng cách xa với số tuổi, Tây y không thể nào phát hiện ra bệnh, nhưng cuối cùng dẫn đến cả bệnh ung thư nội tạng, nặng nhất là ung thư máu là loại ung thư toàn thân.

Trường hợp 1. U xơ cổ tử cung ác tính

Chữa theo Tinh-Khí-Thần :

Tinh :
a) Kiêng ăn những chất chua, hàn lạnh, dưa leo, củ cải trắng, khoai mì, làm bướu to ra, và làm phá mất máu, mất hồng cầu, và sinh ra huyết trắng. Nên ăn Gừng làm ấm khí trung tiêu, mạnh Tỳ Vị, khi Tỳ Vị hư hàn, sẽ làm ra bệnh huyết trắng, khi bệnh huyết trắng chữa không hết sẽ đổi mầu thành huyết trắng vàng (có mủ) rồi trắng xanh đến ung thư, bướu to làm băng huyết.
b) Ra tiệm thuốc bắc mua thuốc viên Bổ Trung Hoàn, chữa khí hư, huyết trắng, xích bạch đái hạ, giữ chân khí ở hạ nguyên, rong huyết, nếu không có thuốc viên, hốt thuốc thang : Bạch Chỉ, Long Cốt, Phục Linh, Bạch Thược, Lộc Giác Sương, Sơn Dược, Bạch Truật, Mẫu Lệ, Xích Thạch Chi, mỗi thứ 20g và Gừng sao chín khô 10 g. Nhờ tiệm thuốc xay giã thành bột, hay bỏ vào máy xay thành bột, cất vào lọ. Chia làm 12 phần, mỗi ngày uống một phần với nước cơm vào buổi tối.
c) Uống sirop bổ máu Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin) pha 2 muổng canh sirop với 1 ly nước nóng khuấy đều uống trước mỗi bữa ăn 5 phút làm tăng khí huyết, tăng hồng cầu, giảm đau, ăn ngủ ngon, phục hồi lại sức khỏe, khi nào huyết áp tăng lên 130/80mmHg mạch 70-80 thì ngưng, không cần uống Đương Quy Tửu nữa, nhưng trường hợp lưng còn lạnh, tối trước khi đi ngủ uống 15 viên Bát Vị Quế Phụ mỗi ngày cho đến khi hết bệnh lạnh lưng.
d) Trong dân gian thường ăn khoai sọ luộc hay nấu canh và ăn khoai lang nướng trên vỉ đinh: Nếu dùng lò nướng nhỏ, bỏ 10-20 cây đinh mới dài hơn 10cm để trên khay trong lò, rồi xếp các củ khoai lang lên trên, nướng khoai chín như bình thường, ăn mỗi ngày vài củ. Công dụng chữa tất cả các loại bướu trong cơ thể như hạch cổ, tử cung…
e) Cuối tuần uống 2 viên Phan Tả Diệp bán ở tiệm thuốc tây tên Senna Laxatif để tẩy độc máu trong gan.

Khí :
a)Tập bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần làm tăng thân nhiệt, tăng huyết áp, thông khí huyết ở tử cung. Nằm Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần làm khí huyết thông tử cung, mềm bướu.
b) Bệnh u xơ tử cung là các mô hóa sợi do lão hóa. Đông y nói giải thích khí huyết không thông để điều tiết hormone là chức năng bảo vệ mô thuộc hệ sinh dục. Bệnh u xơ tử cung ác tính phải mổ, u lành tính không nguy hiểm đến tính mạng nhưng khối u lớn cũng gây ra băng huyết, rong kinh. Đối với Khí công, phải tập cho khí huyết dồn về tử cung làm cho các mô trở lại hoạt động bình thường, các u xơ teo nhỏ lại để hết làm băng và rong kinh. Áp dụng bài tập “Nạp Khí Trung Tiêu”, “Nạp Khí Ngũ hành”.

c) Chữa bằng huyệt:
Mỗi ngày tự vuốt huyệt từ đoạn Thái Xung đến Hành Gian, và day theo chiều kim đồng hồ 18 lần trên huyệt Tam Âm Giao để kích thích duy trì sự hoạt động tốt của hormone tuyến sinh dục.

Thần:
Theo Đông y, huyệt Khí Hải nằm trong Đan Điền Tinh là biển khí tạo ra sức nóng, nên thở Đan Điền Tinh để chuyển âm chất thành dương khí chuyển ra sau Mệnh Môn làm ấm lưng, thở càng nhiều thì sức nóng chạy ra đến đầu tay chân, cho nên cần thở Đan Điền Tinh. Còn muốn chuyển hóa nhanh và làm hạ nhịp đập của tim thì cần đặt ý trụ tại Mệnh Môn, thở vào ý trụ tại Đan Điền Tinh, thở ra ý trụ tại Mệnh Môn. Hơì thở tự nhiên hòa hoãn, không phải dẫn chuyển khí, chỉ cần ý trụ ở đâu là khí ở đó.

Chữa bằng cách đắp bên ngoài:
Trong dân gian thường đắp cao khoai sọ, Gừng:

Có 2 giai đoạn:
a) Cách làm cao:
Mỗi lần dùng 200g Khoai Sọ hoặc củ nhánh của khoai Môn, mục đích dùng vỏ và lông ngoài vỏ khoai nhiều hơn, nó là chất thuốc đặc biệt, 200g Gừng già có vỏ. Cả hai rửa sạch đất, đem xay hay giã nát nhuyễn, không cho nước. Sau đó cho 1 muổng bột (mì hay gạo…) nhào chung cho thành một chất dính kết. Lấy ra đổ lên trên một miếng nylon, khoảng chừng 1 tấc vuông, dầy 1cm.
b) Chất xúc tác :
Lấy 1 củ Gừng chừng 50g đập nát, bỏ vào nồi nưóc nấu sôi vừa. Dùng khăn dầy, nhúng vào nước Gừng rồi vắt khô, chờ giảm nóng còn khoảng 60 độ, đắp trên chỗ sưng đau ở bụng dưới cho đến khi hết nóng, đắp lại vài lần như thế. Mục đích tác động trên chỗ bướu làm mềm, giảm đau, làm cho bướu nóng lên sẽ tăng tính hấp thụ thuốc của miếng cao, và làm giảm ngứa của cao Khoai Sọ khi đắp lên bướu.
Mỗi tối, trước khi đi ngủ, phải đi tiêu tiểu xong, nằm trên giường, đắp chất xúc tác chừng nửa giờ, rồi đặt miếng cao lên, dùng băng cột buộc cho khỏi rớt thuốc khi ngủ.
Phản ứng của thuốc rất ngứa nếu không dùng chất xúc tác, và sẽ không có kết qủa. Nhờ đắp chất xúc tác, đêm đỡ cảm thấy ngứa, nhưng cảm thấy như có kiến bò. Sáng ngủ dậy thấy cao khô thành bột rời rơi vãi ra ngoài.
Khi vừa đắp cao lên tử cung, nằm ngửa, nhắm mắt, cuốn lưỡi, ngậm miệng, thở bằng mũi bình thường, tay trái đặt trên Đan Điền Thần, tay phải chồng lên trên tay trái, nằm nghe khí chuyển động và hơi nóng đang làm bướu chuyển động thoát khí ra ngoài làm bướu teo nhỏ dần, khi ấn đè cảm thấy bướu hết cứng cộm đau, cho đến khi nào cảm thấy trong bụng nóng và bướu mềm lại.
Đắp khoảng 10 tối, khi nào thấy sáng ngủ dậy cao thuốc vẫn còn chất nhão mà không khô, là bướu không còn nó mới không rút chất thuốc của miếng cao nữa.
Bài thuốc này đã chỉ cho những người bị bướu to bằng trái cam, bác sĩ tưởng lầm bệnh nhân có thai bị làm băng, sau biết là bướu, đề nghị phải mổ gấp. Trong khi chờ thời gian đến ngày hẹn mới mổ, bệnh nhân làm băng đau qúa, đã tạm dùng phương pháp trên để cầm cự. Nhưng sau đó không thấy bướu và làm băng, đi khám lại không còn bướu. Bài cao Khoai Sọ chữa có kết quả bệnh lao hạch cổ.

Trường hợp 2. Bệnh u não ác tính

Tuổi 50 trung niên mà có số đo huyết áp ở tuối thiếu niên hay thiếu nhi là có bệnh thiếu khí huyết. Trường hợp u sọ não đã có dấu hiệu báo trước là đau nửa đầu, Đông y gọi là thiên đầu thống, Tây y gọi là migrain trong một thời gian dài, gốc bệnh do nửa bên đầu máu không đủ lên nuôi não, đo huyết áp bên tay phía có khối u sẽ có huyết áp thấp ở tuổi thiếu nhi, còn bên không bệnh huyết áp bình thường hay huyết áp ở tuổi thanh niên, hay trung niên, đó là sự chênh lệch huyết áp ở hai tay, càng chênh lệch nhiều càng mau hình thành khối u sọ não
Cả Tây y lẫn Đông y không chữa vào gốc bệnh do nguyên nhân trên, mà cho uống thuốc giảm đau, nên thời gian đau nửa đầu bị thiếu máu càng lâu sinh ra u sọ não. Theo kinh mạch của châm cứu, gọi là tắc mạch, nhưng châm cứu dù có biết huyệt cũng chỉ làm thông mạch, mà không làm tăng khí huyết lên đầu 1 bên bị thiếu, mà làm tăng khí huyết lên đầu cả hai bên do uống thuốc. Bệnh này chỉ chữa bằng Khí công day bấm huyệt mới có kết qủa nhanh, có thể kiểm chứng được sự thay đổi huyết áp và nhiệt độ trước và sau khi bấm huyệt.

Cách chữa theo Tinh-Khí-Thần :

Tinh :
Chữa gốc bệnh bằng sirop bổ máu Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin). Pha 2 muổng canh sirop với 1 ly nước nóng, khuấy đều uống trước mỗi bữa ăn 5 phút. Kiêng ăn những chất chua, hàn lạnh. Uống đến khi nào huyết áp hai bên tay lên đều đúng số tuổi của trung niên là an toàn, lúc đó hết bệnh đau nửa đầu và tập Khí công mỗi ngày cho đến khi bướu teo nhỏ.
Thật sự bướu không phải to hay nhỏ, mà vì khí huyết không đủ nên không thông, khiến vùng đó bị cô lập dần thành bướu, khi khí huyết lưu thông thì chỗ cứng hóa mềm bình thường người ta gọi là tan bướu, giống như cục thịt heo mới cắt ra, thịt đỏ mềm, nhưng bỏ vào trong tủ lạnh thành cứng, khi lấy ra để 1-2 tiếng sau vẫn có chỗ cứng chỗ mềm, chỗ cứng do lạnh chưa tan gọi là bướu, thì khối u sọ não hay bất kỳ bướu nào trong cơ thể cũng hình thành hay tan biến theo nguyên tắc này : Thông thì bất thống, thống thì bất thông.

Khí :
a) Nằm ngửa, đo huyết áp hai tay, xem bên nào cao, bên nào thấp, thí dụ một bên tay có số đo 125/80mmHg mạch 70, một bên có số đo 98/70mmHg mạch 65…như vậy bên cần chữa làm tăng huyết áp bên thấp lên, bằng cách người chữa bấm mạnh ngón tay vào huyệt Ế Phong chỗ hõm sau chân tai của bệnh nhân cho đau, giữ nguyên, trong lúc để máy đo huyết áp bên tay ấy, bấm cho máy chạy bơm khí lên đến 200 rồi buông tay ra không bấm nữa. Để ý khi bấm, bệnh nhân kêu đau, khí huyết chạy lên đầu, làm trán nóng xuất mồ hôi, mặt đỏ, tai đỏ, bệnh nhân cảm thấy mắt sáng, mũi thở thông, tai nghe rõ hơn, khi máy ngưng sẽ cho kết qủa là huyết áp tăng 130/80mmHg mạch 70.
Bây giờ huyết áp hai bên cao nhưng không bằng nhau, người chữa bấm luôn vào huyệt Ế Phong cả hai tai, trong khi bấm máy đo huyết áp, khi máy bơm lên 200, buông cả hai tay ra, chờ kết qủa của máy sẽ chỉ 110-120/70-80mmHg mạch 70-80 cả hai tay, chứng tỏ khí huyết đã thông đều hai tay, nhưng số đo huyết áp này là huyết áp ở tuổi thanh niên, chưa đúng với số tuổi trung niên, Khí công vẫn gọi là bệnh thiếu máu, nên vẫn cần phải dùng thuốc sirop bổ máu Đương Quy Tửu.
b) Nếu dùng nhiệt kế đo trên đầu, vùng có khối u, nhiệt độ thấp hơn các vùng khác, và dùng tay gõ vào vùng khối u có cảm giác gõ vào cục đá, khi gõ bệnh nhân không có cảm giác đau, bệnh đau nửa đầu là đau trong đầu, chứ không phải bên ngoài da đầu, ngược lại bệnh huyết áp cao thì nhức đầu, nhiệt độ trên đầu trán cao hơn ở tay chân và ngực bụng. Do đó phải tập 7 bài đầu của Khí công chỉnh thần kinh đầu cho khí huyết lưu thông đều ( trong đĩa DVD- các bài tập động công).
c) Bài tập làm tăng huyết áp và dẫn máu lên đầu : Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần. Cúi Ngửa 4 Nhịp 20 lần.
d) Tập bài Vận Khí Ngũ hành.
e) Tập Vỗ Tay 4 Nhịp 200 lần cho khí huyết thông ra tay. Đứng Hạc Tấn mở mắt và Hạc Tấn Nhắm Mắt 5 phút, Vặn Mình 2 Nhịp 20 lần, để điều chỉnh huyết áp và thăng bằng.

Thần :
Tập thở Đan Điền Thần:
Nằm ngửa, người nam. tay trái để ở mỏm xương ức nơi Đan Điền Thần, tay phải chồng lên trên. Nữ, đặt tay ngược lại. Nhắm mắt, cuốn lưỡi, ngậm miệng, thở bằng mũi bình thường, chỉ cần theo dõi bụng phồng-xẹp theo hơi thở ra vào, cho đến khi bụng sôi, mềm, ấm nóng, bàn tay rịn mồ hôi là đúng. Bài này làm tăng hồng cầu, oxy, tăng huyết áp, an thần, ngủ ngon.
Tất cả các bài tập Khí công đều phải tập đều đặn mỗi ngày 2 lần để tạo ra nội dược, tương đương với thuốc ngoại dược mà không có phản ứng phụ.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 6 26, 2013 12:20 am

(TỆP 4)

------------------


4.7. Một trường hợp bị 2 bệnh ung thư

…..Mẹ HL năm nay 71 tuổi, mẹ bị hai ung thư cùng một lúc, một là Phổi, hai là ung thư bụng (gastric cancer), bác sĩ nói mẹ chỉ còn sống khoảng chừng 1 tuần, nhưng HL không có tuyệt vọng, vẫn tiếp tục nấu thuốc Bắc và mua thuốc Bắc cho mẹ
Mẹ HL uống đến bây giờ đã được 3 tuần, nhưng HL rất là lo, thấy mẹ có ngày khỏe, ngày yếu, không biết phải làm sao.
Đại tiện của mẹ thì có ngày màu vàng, có ngày mầu đen, cũng có ngày mầu nâu, HL cũng biết bụng của mẹ bị lở loét, bị mất máu cho nên phân đổi mầu.
Đo huyết áp khi đói, tay trái 99/51mmHg mạch 81, tay phải 104/53mmHg mạch 82.
Bây giờ HL bó tay rồi, nhờ thầy giúp giùm mẹ HL.
…..

Trả lời :
Thư này đến qúa trễ, nhưng nó cũng là bài học cho mọi người biết đến nguyên nhân của bệnh để phòng ngừa hậu qủa tương tự trở nên khó chữa. Hy vọng mẹ HL còn có dịp áp dụng được bài này.
Theo Ngũ hành và biến chứng truyền kinh, Bao tử bị bệnh trước, có hai loại bệnh là hư chứng hay thực chứng, đều do ảnh hưởng của mẹ nó là bệnh của tim mạch.
Nếu bệnh tim mạch, có huyết áp cao, cơ thể tăng nhiệt, nhiệt ở Tâm truyền cho Bao tử nên Bao tử cũng bị nhiệt gây loét Bao tử, lại bị nóng thêm do ăn uống nhiều chất cay nóng, không tiêu, sinh ợ hơi, thời gian chữa lâu không khỏi, khiến chức năng Bao tử suy yếu trở thành bệnh hư mãn tính, lại trở thành hàn ăn không tiêu, chức năng Bao tử hư không nuôi Phổi mà lại còn truyền bệnh cho con là Phổi bị bệnh, tế bào Phổi không được nuôi dưỡng.

Bệnh truyền theo mẹ con từ Bao tử sang Phổi xảy ra ở hai giai đọạn:

a) Giai đoạn Bao tử thấp nhiệt làm Phổi thiếu khí hụt hơi, không trao đổi oxy đủ, lúc đó Tâm hỏa vượng khắc Phế kim, làm Phổi bị nóng, bệnh nhân có lúc cảm thấy nóng ngực, khó thở như suyễn, như vậy trong Phổi bị khí thấp của Bao tử và khí nhiệt của Tâm truyền sang, khí của Phổi không còn là khí táo (khô ráo) mà tích lũy khí thấp nhiệt (ẩm, nóng), nên mỗi khi ho, tạo thêm vết nứt chảy máu, nên ho ra đàm thấp nhiệt có lẫn sợi máu dính bên ngoài.

b) Giai đoạn hai khi Bao tử để lâu không chữa khỏi trở thành mãn tính hư hàn, lại truyền hư hàn sang cho con là Phế, khiến Phế hư hàn.. Ở giai đoạn này càng nguy hiểm hơn nếu bệnh nhân đang dùng thuốc điều trị bệnh cao huyết áp, huyết áp xuống thấp mà vẫn tiếp tục uống theo lời dặn của Tây y, huyết áp tụt xuống thấp khiến cơ thể mất năng lượng, mất sức đề kháng chống bệnh tật, tim thu nhỏ lại và mạch tim đập nhanh. Cần phải kiểm chứng bằng máy đo huyết áp, số tâm thu thấp là thiếu khí, số tâm trương thấp dưói 70 là van tim bị hẹp, mạch trên 90 là nhiệt, dưới 65 là hàn. Bệnh nan y thay vì mạch trên 90 là cơ thể nhiệt nhưng ngược lại trên thực tế cơ thể và chân tay lạnh, Đông y gọi là hàn, nhưng máy báo là nhiệt, cho nên mới gọi là bệnh nhiệt giả hàn để gạt những thầy thuốc dở. Những bệnh như nhiệt giả hàn, hàn giả nhiệt, hư giả thực, thực giả hư là loại bệnh nan y. Nếu chữa sai lầm bệnh càng nặng thêm, nên Đông y gọi là hư càng thêm hư hay thực càng thêm thực, muốn tránh khỏi chữa sai lầm, dù chữa theo Đông y hay Tây y, hay Khí công, hay chữa bằng cách điều chỉnh ăn uống, cũng phải nhờ đến máy đo huyết áp để kiểm soát khí huyết ở hai tay, kiểm chứng sự tiến triển của bệnh tốt hay xấu mỗi ngày khi so sánh với bảng huyết áp tiêu chuẩn của Khí công..
Những bệnh nan y, không biết cách chữa đúng gốc ở từng mỗi giai đoạn sẽ khiến bệnh nặng thêm.

Với số đo huyết áp khi đói, tay trái 99/51mmHg mạch 81, tay phải 104/53mmHg mạch 82, đem so với tiêu chuẩn của người không bệnh tật với nhịp tim trung bình 75, thì huyết áp thực của tay trái khi đói sẽ trừ đi (81-75=6) huyết áp sẽ là 93/51mmHg mạch 75. Huyết áp tay phải 104-(82-75)/53mmHg mạch 75, huyết áp thực sẽ là 97/53mmHg mạch 75.
Theo kết qủa của số đo huyết áp, bệnh nhân bị bệnh van tim hẹp, tâm trương chỉ có 51 và 53 là dưới tiêu chuẩn phải ở mức 80-90 nên không tiếp đủ oxy để duy trì công thức máu nuôi dưỡng các tế bào.
Đông y kết luận nguyên nhân bệnh này do ăn uống sai lầm có nhiều chất làm phá mất máu, và không vận động khiến chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn không hoạt động làm trở ngại tiêu hóa nên bị ứ đọng thức ăn trong Bao tử lâu ngày sẽ bị lên men gây loét Bao tử.
Đối với Đông y, thức ăn thì cung cấp cho cơ thể máu, còn vận động, thể dục thể thao cung cấp cho cơ thể khí lực, khi khí huyết đầy đủ, hoạt động đồng bộ thì công thức máu được duy trì âm dương, thân nhiệt và huyết áp đúng tiêu chuẩn lúc đó tế bào mới được nuôi dưỡng để hoạt động theo đúng chức năng của nó.
Có người hỏi tại sao ăn chua làm phá máu, mất máu, mất hồng cầu, trong khi các nhà dinh dưỡng và Tây y khuyến khích ăn cam, chanh, những chất có vitamine C đều tốt. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh của âm và dương. Còn muốn cho âm dương trong cơ thể luôn giữ được quân bình không bệnh tật thì âm dương cũng phải quân bình, tùy theo tình trạng bệnh của cơ thể thiếu âm hay dương để bổ sung.
Người có huyết áp thấp, đang thiếu máu thì cần ăn uống thuốc men chuyên về bổ máu mà không thể dùng những chất phá máu. Tại sao các chất chua lại phá máu. Theo phản ứng hóa học, các chất chua chứa Hydro, thí dụ như ClH acide chlorhydric… trong khi công thức máu cần Oxy và chất sắt mới tạo ra máu, và càng nhiều oxy thì càng có nhiều hồng cầu, nếu ăn chất chua thì công thức máu Fe2O3 sẽ bị acide trung hòa lấy mất đi oxy, thì máu đỏ trở thành máu đen Fe2O2, ăn nhiều chất chua nữa thì lại mất oxy, trong máu chỉ còn lại chất sắt Fe2, mầu da lại hiện ra chất sắt trở thành mầu xám xanh không còn hồng hào nữa.
Vì ngành dinh dưỡng chưa biết phân biệt âm dương, khí huyết, hàn nhiệt của một chất như Đông y đã có kinh nghiệm hàng ngàn năm, đã phân loại một chất rõ ràng về khí huyết, hư thực, hàn nhiệt…
Thí dụ như Gừng được phân chất cho các thầy thuốc nhờ vào kinh nghiệm đó để chọn lựa nó chữa vào bệnh nào thì có lợi, bệnh nào có hại sẽ không được dùng. Như Gừng có vị cay ngọt, thì cay vào Phế, để chữa Phổi hàn lạnh, ngọt vào Tỳ để chữa Bao tử, khí của Gừng làm tăng nhiệt khí, sẽ làm ấm Bao tử, có tính thu liễm giữ lại, nên cầm mồ hôi, cầm tiêu chảy, thu giữ thức ăn chuyển thành máu, làm tăng huyết áp…Có phần chống chỉ định là những ai có bệnh cao huyết áp, táo bón, sốt nhiệt không dùng được vì nó làm tăng huyết áp, tăng nhiệt và táo bón thêm..
Ngược lại chanh thì vị chua, hàn, khí thì hạ, tính thì xuất…chua vào gan làm mát máu, hạ huyết áp, xuất mồ hôi giải nhiệt, chữa táo bón…Chống chỉ định là những ai huyết áp thấp, tiêu chảy, thiếu máu, người hàn lạnh không dùng được vì nó lám hạ huyết áp, làm cơ thể lạnh, và làm tiêu chảy thêm…Nếu những người bị dư máu, dư mỡ, cao cholesterol, cao huyết áp, táo bón, cơ thể nhiệt…cứ mỗi ngày sau mỗi bữa ăn uống nước chanh, thì những bệnh trên sẽ biến mất, đâu cần phải uống thuốc chữa cholesterol và chữa bệnh cao huyết áp nữa.. Nhưng vì ngành dinh dưỡng không đi chuyên sâu về khả năng chữa bệnh của những thức ăn, uống theo quan niệm khí, huyết, âm, dương, hàn, nhiệt, mà lại chú trọng đến những yếu chất như đường, glucid, chất đạm protid, chất béo lipiđ mà theo Đông y vẫn có thể nghiên cứu thêm 3 chất này xem chất đường, đạm, béo nào tạo ra hàn, ra nhiệt, tạo ra khí thăng, giáng, xuất, liễm, tạo ra khí phong, hàn, thấp, táo, nhiệt…thì mới có thể trở thành thuốc để dùng được. Do đó ngành phân chất dinh dưỡng của Tây y khác với Đông y, nên chỉ được gọi là chất bổ sung, không được xem như là vị thuốc để chữa bệnh.
Khi chữa bệnh bằng thức ăn uống hay thuốc men nếu phù hợp với cơ thể thì theo Đông y cũng mới chỉ điều chỉnh về Tinh thuộc âm huyết. Còn muốn duy trì cho huyết được ổn định, thì cần phải tập luyện khí, giúp cơ thể tăng cường nhiều oxy bằng cách tập luyện Khí công để âm-dương, khí - huyết được quân bình thì cơ thể sẽ không bị bệnh tật
Trường Đại Học Hopkin bên Hoa Kỳ chuyên nghiên cứu về những phương pháp chữa bệnh tiên tiến nhất trên thế giới mong tìm cách nào tốt nhất để có thể chữa được những bệnh nan y như ung thư, mới đây cũng đã có chiều hướng nghĩ đến oxy liệu pháp để duy trì cho bệnh nhân không bị mất máu sau khi truyền máu, nhưng chưa biết đến cách tập luyện Khí công để bổ sung khí oxy cho cơ thể.
Môn học chữa bệnh của Khí công Y Đạo vì thế được xem là môn Y học Bổ sung cho những thiếu sót của Tây y giúp cho bệnh nhân hiểu biết để áp dụng cách chữa của môn Đông y Khí công chữa bệnh, giúp cho bệnh của mình được mau khỏi hơn.
Đề nghị những bệnh nhân và người thân trong gia đình đang săn sóc bệnh nhân ung thư nên mua một máy đo huyết áp, Đông y gọi là máy đo khí và huyết trong cơ thể con người, để biết cách điều chỉnh phần âm huyết bằng những thức ăn và cách tập luyện Khí công bằng hai bài tập căn bản Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần và Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mền Bụng 200 lần sau mỗi bữa ăn 30 phút, làm tăng khí, tăng huyết áp, tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu, và giữ được công thức máu không bị phá vỡ.
Ăn uống tẩm bổ với tập luyện Khí công đều đặn, và đo huyết áp theo dõi kết qủa để điều chỉnh ăn uống và tập luyện xem đúng hay sai so với tiêu chuẩn huyết áp của Khí công, bao giờ huyết áp lên đủ tiêu chuẩn, da thịt hồng hồng, tươi trẻ lại thì khỏi bệnh mà không sợ biến chứng thành di căn.

Những bệnh nhân ung thư nếu được Tây y chữa đã tuyên bố khỏi bệnh, rồi 1-2 năm sau tái phát gọi là di căn thì do không kiểm soát khí huyết mỗi ngày để đưa huyết áp lên cho đủ tiêu chuẩn, chứ không nên ỷ lại tin lời bác sĩ, cứ ăn uống thoải mái vô tình lại làm mất âm huyết, và không tập luyện Khí công lại làm mất dương khí oxy, đã tự mình phá vỡ công thức máu, theo đạo Phật đó là vô minh tạo ra nghiệp, chết vì nghiệp, mà thật ra con người có thể tự cải nghiệp xấu thành tốt được.

Về yếu tố luyện Thần cũng quan trọng trong việc chữa bệnh. Theo Đông y thì Thần với khí hòa hợp mới chuyển thức ăn là Tinh hoá khí là năng lượng nuôi dưỡng cơ thể, rồi khí lại dưỡng Thần để củng cố làm mạnh hệ thần kinh, giúp cho các tế bào chức năng hoạt động có kiểm soát đồng bộ để cơ thể phát triển sinh tế bào mới, làm trẻ hóa tế bào và loại bỏ tế bào bệnh. Bài tập dưỡng Thần là bài tập thở 30 phút trước khi đi ngủ, ý và hai tay đặt tại Đan Điền Thần làm tăng huyết áp, hồng cầu, oxy, thân nhiệt, để tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn, giúp an thần ngủ ngon..
Nhiều bệnh nhân ung thư của tôi đã nhờ phương pháp kiểm soát khí huyết bằng máy đo huyết áp để kịp thời điều chỉnh ăn uống và tập luyện Khí công đều đặn nên vẫn sống vui sống khỏe, đi làm viện thiện, trở thành thầy thuốc, nên không có một tế bào nào bị biến hoại để trở thành tế bào ung thư được, còn những bạn bè của họ bị ung thư sau khi trị liệu theo Tây y cũng chỉ sống được vài năm là từ giã cõi đời đem theo chủng tử ung thư sang thế giới khác để học hỏi kinh nghiệm tiến hóa lại từ đầu ở đời sau.

4.8. Hậu qủa thiếu khí huyết, huyết áp thấp, bị ung thư Bao tử đã cắt 4/5, sinh biến chứng

Câu hỏi:
Thưa thầy!
Con xin phép được mô tả về quá trình điều trị bệnh của mình:
Con năm nay 44 tuổi, bắt đầu bị lâm râm đau bụng (phần trên rốn) từ 5 năm nay, con vẫn ăn uống bình thường, không đầy bụng, ợ chua, không đi ngoài phân đen, chỉ thỉnh thoảng nếu ăn thức ăn lạ (cá, hồng xiêm, cam, đu đủ, …) thì đau bụng, nhiều khi đi ngoài ngày 3, 4 lần. Con đã đi khám ở bệnh viện địa phương họ nói viêm trợt hang vị, viêm niêm mạc hành tá tràng, con uống thuốc theo đơn bác sĩ nhưng chỉ đỡ mà không khỏi.
Đầu năm 2010, con ra Hà Nội nội soi và làm sinh thiết 2 lần cách nhau 1 tuần ở 2 bệnh viện:
- Kết quả nội soi:
Lần 1: Loét lớn tiền môn vị (Thực quản bình thường. Dạ dày: Dịch trong, tiền môn vị mặt sau là một ổ loét sâu D1cm có giả mạc bẩn, ổ loét ăn lan hầu hết mặt sau hang vị và đến phần ngang bờ cong nhỏ niêm mạc rất sung huyết ST cứng).
Lần 2: Loét sùi hang vị, tiền môn vị, nghi K (Dịch Dạ dày trong, nhu động bình thường, chiếm một phân lớn tiền môn vị lan ra phía mặt sau hang vị và phần ngang góc BCN có ổ loét KT 3cm x 4cm, đáy sâu ít giả mạc, bờ sần sùi gồ ghề xung huyết đỏ rực, dễ chảy máu khi chạm đèn soi.Lỗ môn vị không tròn đều, đóng mở bình thường. Hành tá tràng niêm mạc bình thường, tá tràng niêm mạc bình thường)
Kết quả sinh thiết:
- Lần 1: Ung thư biểu mô tuyến típ kém biệt hoá.
- Lần 2: Carcinom tế bào nhẫn.
Trong thời gian này, con vẫn chỉ đau bụng âm ỉ, không đầy bụng, không ợ hơi, ợ chua, vẫn đi làm được bình thường. Con vẫn bàng hoàng và vẫn không tin là mình bị ung thư dù kết quả nội soi và sinh thiết như vậy.
Hiện, con đã được mổ, cắt 4/5 dạ dày được 14 tháng, con đã qua điều trị hoá chất 6 lần, hiện đã đi khám định kỳ 2 lần, các kết quả nội soi và xét nghiệm tốt . Kết quả lần nhất, cách đây 2 tuần:
- Nội soi: Miệng nối mềm mại, không loét, không u sùi, không thức ăn ứ đọng.
- Xét nghiệm máu: Chỉ số CEA là 1.11; CA19-9 là 30.8 (Trong lần kiểm tra thứ nhất, cách hơn 4 tháng trước, các chỉ số là CEA là 0.96; CA19-9 là 27.91)
(Con xin lỗi thầy là trước và trong suốt quá trình điều trị ung thư, vì kém hiểu biết nên con không tìm hiểu nên không nắm được các chỉ số này của mình là bao nhiêu)
Hiện con thấy người khoẻ, đi làm công chức văn phòng được bình thường ngày 8 h. Tuy vậy, một điều rất buồn là con ngủ ít và không tăng cân được, thi thoảng con vẫn cứ thấy hơi lâm râm đau bụng (như trước khi mổ) . Con đã cố gắng ăn nhiều rau và hoa quả tươi, đồng thời ăn 6 lần/ngày với nhiều loại thức ăn bổ dưỡng nhưng vẫn không thể tăng cân được Con cao 165cm, trước khi bị bệnh, nặng 52 kg; trước khi mổ cắt dạ dày, nặng 49kg; mổ xong còn 43kg, gần 1 năm nay, chỉ luôn đạt mức 45kg).
Con nghe nói luyện tập Yoga rất tốt nhưng lại không biết phải tập thế nào. Con cũng nghe nói cần phải uống thuốc Bắc nhưng lại chưa tìm được thầy cắt thuốc cho mình. Vì vậy, lâu nay chưa dám thực hiện gì.
Kính mong thầy thông cảm, không trách mắng sự ngu muội trên của con. Kính mong Thầy chỉ cho con cách thức luyện tập, ăn uống, thuốc thang để tránh tái phát bệnh và vươn lên khoẻ mạnh.
Con vô cùng cảm ơn thầy! Kính chúc Thầy luôn luôn mạnh khoẻ và nhiều niềm vui!

Trả lời :
Trước khi điều trị và sau khi điều trị Tây y, bụng vẫn đau như cũ, như vậy cách điều trị đó đã chữa không đúng gốc bệnh, mà thân thể bị cắt mổ giống như lợn lành chữa thành lợn què rồi và trở thành carcinom là một loại ung thư đường tiêu hóa.

A-Phân Tích Nguyên nhân :

1. Đau bụng lâm râm quanh rốn: Do ăn chất hàn lạnh, Bao tử không đủ nhiệt lượng (trên 41 độ) để hấp thụ thức ăn thành chất bổ, nên nó bị tống ra ngoài, như vậy Bao tử thuộc vị hàn, nếu thức ăn không chuyển hóa, bị giữ lại trong Bao tử và đường ruột sẽ bị lên men làm viêm loét trường vị, làm Bao tử và ruột bị thương tổn thuộc hư, nên Đông y gọi bệnh này là trường vị hư hàn.
2. Theo nguyên tắc Khí công, cơ thể hàn lạnh làm cho máu lưu thông chậm, khi thức ăn không được chuyển hóa để trở thành chất bổ máu, hoặc không ăn những chất bổ máu, ngược lại còn ăn những chất chua làm mất thêm máu, cuối cùng cơ thể thiếu khí và thiếu huyết làm huyết áp thấp so với số tuổi tiêu chuẩn của Khí công.
Tất cả những tế bào trong cơ thể được nuôi bằng máu do khí dẫn máu nhờ vào áp lực đẩy của qủa tim, khi áp lực đẩy máu yếu thì huyết áp thấp, thiếu máu, lúc đó mạch nhịp tim đập nhanh, sẽ có dấu hiệu chân tay lạnh, trong người nóng, những tế bào ở lớp biểu mô trong Bao tử và vách thành ruôt không được máu đến nuôi sẽ chết dần trở thành tế bào ung thư là hậu qủa của bệnh thiếu khí, do thiếu vận động luyện tập phần bụng để đưa máu và oxy nuôi dưỡng những tế bào. Trong cơ thể, những nơi nào tế bào không được máu đến nuôi dưỡng sẽ bị hủy hoại thành tế bào ung thư.
Những diễn tiến về sau như cắt mổ Bao tử và chữa trị chỉ là chữa ngọn, vẫn không chữa vào gốc bệnh là thiếu máu do ăn nhiều trái cây, rau qủa làm phá máu và làm cho chức năng của Bao tử và ruột liệt thêm vì những chất chua hàn lạnh, không tạo ra máu, và không tạo ra năng lượng, bụng vẫn đau như cũ là nguyên nhân gốc bệnh vẫn còn giống như khi chưa mổ. Nhưng tình trạng trước khi chưa mổ dễ chữa hơn vì Bao tử chưa bị cắt, còn sau khi bị cắt, sức làm việc của Bao tử chỉ hấp thụ và chuyển hóa yếu chỉ bằng khả năng của một em bé, nên không thể co bóp nhồi nát những thức ăn như người lớn được.

Theo Đông y, Bao tử Ngũ hành thuộc về thổ có bổn phận cung cấp năng lượng cho con nó là Phế kim. Vậy di căn của bệnh ung thư Bao tử sẽ di căn sang Phổi, dưỡng trấp từ Bao tử được thấm qua ruột theo mao quản ly ti vào xoang Phổi để nhận oxy biến thành máu, nhưng dưỡng trấp hấp thụ được từ thức ăn không có chất tạo máu, nó sẽ biến thành đàm nằm ở xoang Phổi, cơ thể lại không đủ máu nuôi các tế bào cục bộ là Bao tử và Phổi, những tế bào ở Bao tử và Phổi chỗ nào không được máu đến nuôi sẽ kết thành hạch bướu, nên lúc đó Tây y gọi là di căn thành bệnh ung thư Phổi, trước đó vì đàm chiếm mất thể tích của Phổi sẽ có dấu hiệu khó thở, tức ngực, ho nhẹ, dấu hiệu da trên mặt trắng nhạt dần, những hậu qủa của bệnh thiếu khí, thiếu máu trở nặng thêm khi đo huyết áp càng ngày càng tụt xuống thấp so với những lần đo trước dẫn đến một loạt hậu qủa khác như ăn không tiêu, đau bụng, khó thở, suyễn, chân tay lạnh, chóng mặt, yếu sức, mất ngủ, tiêu chảy hay táo bón giả do ruột liệt không co bóp đẩy phân…Tất cả những điều này đều do thiếu máu và thiếu khí có thể kiểm chứng được bằng máy đo huyết áp.
Thí dụ huyết áp đo được 110/67mmHg mạch 60 khi chưa chữa. Dù bất cứ chữa bằng phương pháp nào như uống thuốc Tây y, hóa trị, xạ trị, dưỡng sinh, Khí công, thuốc Nam, thuốc Bắc, Trường sinh năng lượng, Thiền, tập thở, Yoga hay thay đổi cách ăn uống, sau 3-7 ngày, so sánh huyết áp nếu tăng lên lọt vào tiêu chuẩn thì chứng tỏ cơ thể đã tăng được khí và huyết, lúc đó bệnh sẽ hồi phục dần, còn trong khi đang chữa trị, 1 tuần sau đo lại huyết áp xuống thấp thêm có nghĩa là bệnh trở nặng thêm, như vậy phương pháp chữa đó đã sai, kể cả phương pháp Tây y, vì nó đã làm cho mình mất khí huyết . Khi đang chữa mà huyết áp xuống thấp dến 70/60mmHg mạch trên 120 thì gọi là bệnh tái phát cấp tính lên cơn sốt thì lìa đời nhanh, còn mạch dưới 60 thì vài tuần sẽ từ giã mọi người và lịm dần như ngọn đền tắt ra đi từ từ trong giấc ngủ sâu.
Như vậy muốn khỏi bệnh, việc quan trọng là cứ lấy khí và huyết để nuôi tế bào hoạt động được đầy đủ, có nghĩa là cần ưu tiên bồi bổ khí và huyết để chữa gốc chứ không cần lo chữa những hậu qủa của bệnh là bệnh này hay bệnh kia, hoặc đau đây hay đau kia, đều là do không đủ khí khí huyết lưu thông, Đông y có câu : thông thì bất thống, thống thì bất thông.(thông thì không đau, đau thì không thông). Và người thầy thuốc theo dõi sức khỏe của mình hằng ngày chính là cái máy đo huyết áp để kiểm soát huyết áp sau mỗi bữa ăn xem huyết áp có lên không, nếu chưa có máy đo huyết áp thì nên mua một máy để tự mình chữa bệnh cho mình.

B-Cách điều chỉnh Tinh-Khí-Thần

Tinh :
Kiêng ăn những chất chua làm phá mất máu, mất hồng cầu, kiêng ăn những chất lạnh làm máu lưu thông chậm, nhịp tim chậm khiến tay chân và người lạnh, và trong Bao tử sẽ không đủ nhiệt độ 41 độ trở lên để làm chín nhuyễn thức thành chất lỏng, Bao tử giống như máy vắt nước cốt của thức ăn thành một loại sữa chảy thấm qua ruột đi theo hệ thống ống máu lên Phổi nhận oxy để trở thành máu và được tim bơm đẩy đi nuôi dưỡng khắp các tế bào trong cơ thể. Sự sống của tế bào bệnh nhờ vào máu và oxy để phục hồi, chứ không phải nhờ vào thuốc giảm đau, hay thuốc đánh chết nó, hay cắt bỏ vất nó đi.
1. Hãy nghiên cứu và tìm những món ăn nào thích hợp làm cho huyết áp được tăng lên, trong bài này để bổ phần huyết:
2. Tối đi ngủ uống 1 ống thuốc bổ máu B12, hay nấu thuốc bắc Bổ Hư Thang, mỗi tối uống 1 thang trong 10 ngày, rồi so sánh huyết áp, khi huyết áp lên đủ tiêu chuẩn thì ngưng, nếu chưa lên đủ thì uống đợt hai 10 thang nữa.

Khí :
Cần phải tập Khí công để cơ thể có khí lực đẩy máu tuần hoàn, có nhiều oxy để duy trì công thức máu Fe2O3 để khỏi bị thiếu oxy làm mất máu. Do đó cần phải có khí đủ mạnh để dẫn máu đi lưu thông khắp cơ thể thì không còn chỗ nào bị đau.
1. Tập toàn bài Khí công trong lớp vào mỗi sáng và tối.
2. Tập bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần và bài Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần sau mỗi bữa ăn 30 phút làm tăng huyết áp và thân nhiệt để chuyển hóa thức ăn.

Thần :
Trước khi đi ngủ 30 phút, nằm tập thở thiền ở Đan Điền Thần tăng cường thân nhiệt, oxy, để tăng huyết áp và chuyển hóa thức ăn không bị biến thành đàm, giúp an thần, ngủ ngon.


4.9. Hỏi cách định bệnh và cách chữa bệnh ung thư tử cung di căn có nhiều bướu hạch trong ổ bụng.

Câu hỏi:
…..
Con xin trình bày cụ thể về tiến trình cũng như tình trạng bệnh của mợ con như sau:
Mợ con năm nay 35 tuổi.
-2/2009: mợ con bị rong kinh, đi khám ở bệnh viện tỉnh không phát hiện được gì.
-12/2009: đi khám ở bệnh viện Ung bướu & viện K, họ đều kết luận mợ con bị ung thư tử cung
-2/2010: mổ cắt bỏ tử cung
-3/2010: đi chụp và khám lại ở bệnh viện Ung bướu, họ kết luận hạch di căn (có nhiều hạch nhỏ trong ổ bụng)
-4/2010 -> nay: ăn gạo lứt + muối mè và uống thuốc Nam (mợ con chỉ ăn uống như vậy ngoài ra không ăn uống bất cứ thứ gì khác). Bây giờ nhìn mợ con rất gầy so với trước khi ăn gạo lứt.
Hơn chục ngày nay mợ con bị rong kinh ra máu loãng (máu cá), có ngày ra rất nhiều. Sờ trên bụng thấy có bướu to khoảng bằng quả trứng vịt (bướu này nằm ngay chỗ mỏm cắt tử cung), đặc biệt là mợ con thỉnh thoảng cảm thấy nhói đau và tức vùng bụng dưới. Cơn đau lan ra cả phía sau lưng đối diện với bướu, đau hơn khi nằm xuống, nhất là cơn đau trở nên dữ dội về ban đêm làm mợ con mất ngủ mấy ngày nay.
Chỉ số huyết áp của mợ con là:
Tay trái: 110/65 mmHg
Tay phải: 110/65 mmHg
Con xin thầy định bệnh và cho cách chữa trị.
Con Văn Giang.

Trả lời :

Nguyên nhân của tất cả các loại ung thư đều do thiếu máu không đủ máu cung cấp nuôi các tế bào đầy đủ, nên tế bào bị cô lập, tự phát triển để sinh tồn nên trở thành tế bào ung thư.
Những nguyên nhân gây ung thư :
Ngoài việc thiếu máu là nguyên nhân chính, cón có các nguyên khác là thiếu máu cục bộ do khí huyết tắc nghẽn ở một nơi máu không thể đến nuôi tế bào được thì nơi đó tế bào trở thành tế bào ung thư, do đó Đông y Khí công chú trọng đến sự lưu thông của khí huyết được đầy đủ khắp nơi khắp chỗ cơ thể mới không bị bệnh tật.
Một nguyên nhân khác do ăn uống sai lầm, ăn nhiều chất chua lám phá mất máu mất hồng cầu, ăn nhiều chất hàn lạnh làm nhịp tim đập chậm, khiến tuần hoàn khí huyết yếu chậm sinh đau nhức.
Về vấn đề ăn gạo lức làm tăng dương khí chứ không làm tăng huyết, cho nên người mập, hàn lạnh….là dư thừa âm, thiếu dương. Ăn gạo lức làm giảm âm tăng dương thì hợp. Nhưng điều kiện duy trì sức khỏe không bệnh tật là luôn luôn giữ quân bình âm dương về khí và về huyết.
Muốn biết những thức ăn thuốc uống có lợi hay hại cho sức khỏe của mình, cần phải đo huyết áp. Áp tức là áp lực khí đẩy máu lưu thông thuộc khí, số lượng máu trong người thuộc huyết, đủ hay thiếu do kết qủa của máy đo huyết áp cho biết đủ tiêu chuẩn hay không.
Nên trước khi ăn món gì cần đo huyết áp trước khi ăn và sau khi ăn để biết nó có lợi cho mình hay không, nó có lợi cho người này, nhưng có hại cho người khác. Thí dụ, người mập ăn gạo lức 1 tháng trở thành bớt cân, người khỏe thì có lợi, nhưng người đã ốm yếu, ăn không đủ chất bổ, thiếu âm, dư dương ăn gạo lức 1 tháng xuống 5-10kg làm ốm thêm thì có hại. Người cao huyết áp sau khi ăn gạo lức 1 ngày, đo lại huyết áp xuống thấp thì có lợi, người thấp huyết áp là thiếu khí huyết, ăn gạo lức thử một ngày, đo lại huyết áp xuống thấp nữa thì có hại, khi huyết áp xuống thấp dưới 100mmHg thì bắt đầu có dấu hiệu tế bào dần dần mất máu nuôi dưỡng, vài năm sau trở thành tế bào ung thư. Vì thế khi bị ung thư, Tây y vẫn xác nhận là không do vi trùng, nhưng không hiểu tại sao phát sinh ra bệnh ung thư.
Khi còn con gái, huyết áp thấp, mỗi kỳ kinh bị đau bụng, lớn tuồi, không biết bổ sung máu, sẽ bị bệnh ung thư tử cung. Khí huyết không lưu thông đến chỗ nào là chỗ đó sẽ bị bệnh. Thầy thuốc chữa bệnh chỉ cần tìm hiểu tạo sao nó không thông, không thông do thiếu khí hay thiếu huyết. Thiếu huyết thì phải bổ huyết, đừng ăn những thứ phá huyết. Thiếu khí phải tập luyện cho tăng khí. Đó là phương pháp điều chỉnh theo Tinh-Khí-Thần.
Khi đã chữa ung thư, cắt bướu, mà vẫn không điều chỉnh khí huyết đầy đủ sẽ bị ung thư chỗ khác gọi là di căn. Cho nên mỗi nhà nhà đều phải mua một máy đo huyết áp để theo dõi khí huyết mỗi ngày cho tất cả mọi người trong gia đình, để biết món ăn, thức uống hay thuốc uống nào đã làm cho khí huyết mình lên, hay xuống, từ đó biết đúng sai để tự điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu cần của cơ thể, không thể mù quáng theo một thứ mãi, nó sẽ có lợi cho người này nhưng hại cho người kia.
Thí dụ ở nhà có người huyết áp cao, đường máu cao, ăn khổ qua huyết áp và đường xuống, nhưng trong gia đình có người thiếu máu huyết áp thấp ăn theo trong bữa cơm, một thời gian sau người huyết áp cao thấy khỏe hết bệnh, thì bắt đầu người huyết áp thấp bị bệnh suy nhược ốm yếu gầy còm.
Đo huyết áp cần lấy cả 3 số, đo ở 2 tay, trước và sau khi ăn 30 phút, sẽ biết rõ tình trạng bệnh ở gan hay ở Tỳ Vị, chức năng hấp thụ và chuyển hóa tốt hay xấu.
Số thứ nhất cho biết khí đủ hay thiếu, số thứ hai cho biết bệnh của van tim hở hay hẹp.
Số thứ 3 thuộc nhịp đập của qủa tim nhanh thuôc nhiệt, chậm thuộc hàn.
Dấu hiệu ung thư có thể huyết áp 110mmHg Tây y vẫn cho là tốt, nhưng không để ý đến mạch nhanh đến 100 thay vì mạch thuộc nhiệt, nhưng người lạnh, chân tay lạnh, Đông y gọi là bệnh nan y hư nhiệt giả hàn. So với mạch trung bình 75 thì vì do thiếu máu nên tim phải đập nhanh thêm 25 nhịp, lấy số đo huyết áp 110 trừ cho 25, tìm ra huyết áp thực 85mmHg.
Những người có huyết áp thực dưới 100mmHg là đã có dấu hiệu ung thư, thấp dưới 80 là đang bị ung thư, dù chữa theo cách nào, đông hay Tây y, huyết áp xuống đến 75 là chết. Khi một người đang có bệnh huyết áp thực 100mmHg, theo Khí công là thiếu khí huyết tuần hoàn để nuôi các tế bào, nhưng chưa đến nỗi bị bệnh ung thư, chỉ đau nhức khắp chỗ này chỗ kia trong cơ thể. Theo lý thuyết Đông y : đau là không thông.
Với bệnh đau là không thông, có một loại Tây y chữa được là đau có cơ sở vật chất, hay điểm cố định sờ thấy, chụp hình thấy, và huyết áp của bệnh nhân cao hoặc bình thường.
Còn đau do loại huyết áp thấp, không có nơi đau cố định, chụp hình không thấy, nên không có nơi để chữa, chỉ cho thuốc giảm đau, an thần, trấn thống thần kinh tạm thời. Chúng ta dùng máy đo huyết áp để theo dõi cách chữa có tiến bộ hay là cách chữa ủ bệnh, nuôi bệnh nặng thêm, nếu huyết áp tăng lên là chữa đúng, nếu huyết áp từ từ thấp dần là chữa sai.
Nên đa số những bệnh nhân 10 năm trước chỉ bị bệnh đau nửa bên đầu, bệnh này Tây y không đo huyết áp, hay có đo mà không biết bệnh đau nửa bên đầu sẽ có một bên huyết áp bình thuờng, một bên qúa thấp. Chỉ cho thuốc giảm đau liên tục đến 10 năm sau mới khám phá ra bệnh nhân bị bệnh u sọ não, tiếp tục mổ khối u, rồi bây giờ lại tái phát, cũng vẫn không biết huyết áp thấp dưới 100 là vẫn có nguy cơ tái phát nữa, nếu không được bổ máu cho huyết áp tăng lên.
Ngược lại, tôi từng chừng kiến, đã có nhiều bệnh nhân khi nằm chữa bệnh ở bệnh viện bị đau qúa mà thuốc giảm đau an thần không còn hiệu nghiệm thì bắt buộc phải chích morphine để cho bệnh nhân ngủ say quên đau, đi vào hôn mê, chính thuốc morphine làm hạ huyết áp từ từ cho đến khi huyết áp xuống 70 là ngủ giấc ngủ ngàn thu không đau đớn.
Với kinh nghiệm này, chúng ta không nên quên rằng khi cơ thể bị bất cứ bệnh gì, ăn uống thuốc men gì, cũng đều có ảnh hưởng đến khí huyết, do đó khi đo huyết áp để kiểm tra sức khỏe lọt ra ngoài bẳng tiêu chuẩn của Khí công là đã có bệnh, cao hơn tiêu chuẩn dễ chữa hơn thấp hơn tiêu chuẩn. Vì thấp hơn là một bệnh suy nhược đang có những tế bào không đủ máu nuôi dưỡng bị hủy hoại dần, từ từ kết thành khối u lúc đó mới khám phá ra bệnh ung thư thì qúa muộn.

Cách chữa theo Tinh-Khí-Thần

Tinh :
Tinh là điều chỉnh cách ăn uống và thuốc men cho đúng và phù hợp với bệnh, cần nhất phải tập trung vào bổ khí huyết cho đủ tiêu chuẩn thì những cái đau biến mất.
1. Chích hay uống thuốc bổ máu B12 mỗi ngày vào buổi sáng.
2. Ngưng ăn gạo lứt, ngưng uống nhiều nước, không được ăn những chất chua sẽ phá máu, mất máu, nhất là đang làm băng, ăn thức ăn mát như hoa cúc, khổ qua, cam, rau má, tắm lạnh… sẽ chảy máu loãng ra hoài như máu cá.
3. Mua 1 kg râu bắp khô ở tiệm thuốc Bắc, lấy 250g nấu với 1 lít nước cạn còn nửa lít, chia làm 2 lần uống mỗi ngày để cầm máu.
4. Dùng sirop bổ máu Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin) pha 2 muỗng canh sirop với 1 ly nước nóng uống trước mỗi bữa ăn 5 phút, giúp ăn cơm ngon miệng, tăng tính hấp thụ và chuyển hóa chất bổ của thức ăn thành máu, làm tăng máu và tăng huyết áp.
5. Thức ăn phải có chất bổ máu như củ Dền, thịt Bò bít tết, rau Dền, Hải sâm, lẩu đồ biển, canh Khoai Sọ, ăn thêm gia vị như Gừng, Hành, Tiêu, Ớt, Nghệ có trong những món ăn phở, bún bò Huế, cà ri bò, bò kho…
6.Sau mỗi bữa cơm, mua 1 lọ bột Điền Thất sống, pha 1 muỗng nhỏ bột với 1 ly nước nóng, khuấy đều uống như trà, làm thông khí huyết, bổ khí, tan máu bầm, tan bướu. Có thể pha Điền Thất chung với Gừng, táo đỏ, giúp an thần ngủ ngon
7. Tối đi ngủ uống 20 viên thuốc Phụ Tử Lý Trung Hoàn giúp làm ấm cơ thể, ấm trung tiêu, hạ tiêu, tăng huyết áp, cầm đi tiểu đêm, tan những hạch nhỏ trong ổ bụng.

Khí :
1. Tập 7 bài đầu Khí công.
2. Tập bài Cúi Ngửa 4 Nhịp đưa máu lên nuôi não và thần kinh bộ đầu, kích thích thần kinh tỉnh táo không bị suy nhược, mất ngủ.
3. Tập bài Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần rồi bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng100-200 lần, sau khi tập xong ngậm miệng giữ khí lâu 15-30 phút, cho khí huyết chạy toàn thân làm tan bướu mỡ trong bụng. Tập nhiều lần trong ngày sẽ thấy bụng mềm, bướu tan biến mất dần.
4. Tối trước khi đi ngủ, lấy 1 củ nghệ bằng ngón tay cái và 1 muỗng lớn phèn chua, cả hai giã nhỏ, nấu chung với 1 lít nước cho tan thuốc, dùng để xông cửa mình để làm co rút lên săn chắc lại và sát trùng tiêu viêm, hết bị làm băng xuất huyết. Sau đó đắp cao khoai sọ Gừng lên tử cung nơi có bướu, sáng gỡ cao ra. Đắp liên tiếp 15 ngày-30 ngày.

Thần :
Sau khi đắp cao xong, nằm tập thở thiền ở Đan Điền Thần làm tăng thân nhiệt, tăng hồng cầu, tăng huyết áp, giảm đau, an thần, ngủ ngon.


4.10. Hỏi cách chữa Phổi có bướu phát triển nhanh, có cách gì ngăn chặn sự phát triển của nó

Câu hỏi:
Phổi có bướu phát triển rất nhanh uống thuốc gì để ngăn chặn sự phát triển của nó, hiện tôi ho rất nhiều ăn không được nhiều, phải ăn thực phẩm lỏng, bác sỹ vui lòng cho xin toa thuốc hoặc địa chỉ để mua thuốc.

Trả lời :

Bệnh Phổi theo Ngũ hành thuộc hành kim. Theo Đông y, con hư cần bổ mẹ, con là Phế kim cần bổ thổ để thổ nuôi kim, tức là bổ Tỳ Vị thổ cho ăn được ngon, làm tăng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành chất bổ nuôi Phổi. Vì ăn không được nên Phổi không được mẹ nuôi dưỡng bệnh mới phát triển nhanh. Đó là chữa gốc.
Ngừa biến chứng, Phổi là mẹ của Thận, nên Phổi hư thì trước sau Thận cũng bị hư, gọi là truyền kinh, Tây y gọi là di căn. Do đó Đông y phải chữa ngừa cả biến chứng không để cho bệnh tiến sang Thận.

A-Khám tìm nguyên nhân :

Đo huyết áp ở hai bên tay trước và sau khi ăn 30 phút để biết tại sao bướu phát triển nhanh.
Huyết áp đo ở tay trái liên quan đến chức năng Bao tử. Sau khi ăn, chức năng Bao tử phải làm việc nhiều hơn, nên huyết áp sẽ cao hơn trước khi ăn là đúng. Nhưng nếu sau khi ăn huyết áp thấp hơn so với trước khi ăn, là chức năng Bao tử không làm việc, còn nếu mạch tim đập chậm hơn, là do ăn nhiếu chất hàn, lạnh, chua, thức ăn sẽ không đủ nhiệt để chuyển hóa thành chất bổ nuôi dưỡng phục hồi cho Phổi, như vậy vô tình Phổi không được cung cấp năng lượng khiến Phổi càng bệnh thêm.
Huyết áp đo ở tay phải liên quan đến chức năng gan, nếu sau khi ăn, huyết áp bên tay phải xuống thấp sẽ làm hại mẹ của nó là Thận khiến Thận suy, Thận là con Phế bị suy, thì Phổi càng phát triển bệnh nặng thêm.

B-Định Bệnh :
Bệnh thuộc 3 tạng Tỳ-Phế-Thận hư hàn.
Theo Đông y chức năng của Tỳ sinh huyết do chức năng hấp thụ và chuyển hóa thành chất bổ từ thức ăn. Phế thu nạp oxy để duy trì công thức máu, tăng dương vệ khí, diệt tế bào ung thư. Chức năng Thận lọc máu thải độc, tạo ra các loại hormone điều chỉnh quân bình âm dương, giúp vệ khí bảo vệ cơ thể mạnh khỏe.

C-Cách điều chỉnh Tinh-Khí-Thần

Tinh :
Như vậy cách ăn uống hay thuốc uống phải làm mạnh chức năng hấp thụ và chuyển hóa của Tỳ Vị, giúp ăn ngon, bổ cho Phế, bổ thêm máu cho cơ thể, tăng nhiệt lượng làm tiêu hóa đờm, mỡ là nguyên nhân tạo bướu đàm trong Phổi :
1. Không ăn những chất chua làm mất máu, chất mát hàn lạnh làm mất khí, mất nhiệt. Cần ăn những chất bổ máu, chất làm ấm cơ thể, giúp tiêu hóa hấp thụ và chuyển hóa được thức ăn thành máu mà không biến thành đàm. Nên bỏ thêm chất ngọt, cay, ấm vào những thức ăn bổ máu như ăn phở, bún bò huế, bò nấu cà ri, rau dền, củ dền đò, thịt bó bí-tết, rau muống xào thịt bò, canh rau muống có nhiều chất sắt.
2. Nấu súp Canh Gà Gừng Non
Mỗi tuần ăn 2 lần. Có thể ăn thay phiên với món canh khác cũng bổ Phổi : Canh Phổi heo nấu với rau Răm, 1 cái Phổi heo nhỏ với 50-100g rau Răm nấu với 2 lít nước, nêm nếm vừa ăn, hầm cạn còn 1 lít, uống nước ăn cái hết trong ngày.
3. Sáng uống 1 lọ thuốc bổ nước Acti-B12 để bổ máu, tăng huyết áp. Trước mỗi bữa ăn ngậm trong miệng 20 viên thuốc nhỏ Bổ Trung Ích Khí Hoàn, giúp cơ thể tăng khí, tiêu đàm, trừ ho, giúp thèm ăn. Sau khi ăn, uống 1 ly Trà pha Gừng, Mật Ong, Trần Bì (vỏ quýt khô) giúp tiêu hạ đàm mỡ, ấm Bao tử, tiêu hóa nhanh. Tối đi ngủ uống 20 viên thuốc nhỏ Phụ Tử Lý Trung Hoàn vừa tăng dương, ấm cơ thể, bổ Phổi, Tỳ, Thận, Bàng quang.
Phối hợp 3 loại thuốc trên giúp phục hồi chức năng của Phổi sẽ hết ho. Khi huyết áp tăng, cơ thể tăng nhiệt, ấm nóng, thì bỏ thuốc Phụ Tử Lý Trung Hoàn, thay vào thuốc để bổ Phổi là Bách Hợp Cố Kim Hoàn, mỗi ngày ngậm 3 lần, mỗi lần 20 viên, khi Phổi mạnh thì Thận cũng mạnh theo.

Khí :
1. Tập 7 bài đầu Khí công. Vỗ Tay 4 Nhịp 200 lần. Cúi Ngửa 4 Nhịp 20 lần. Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần rồi ngậm miệng giữ khí, làm mạnh chức năng thần kinh, mạnh Tâm-Phế, tăng huyết áp, ấm Phổi.
2 .Mỗi ngày tập 3 lần sau bữa ăn 30 phút bài Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần rồi tập tiếp bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần sau đó ngậm miệng giữ khí, giúp thông nhiệt khí toàn thân để trục hàn khí trong người, giúp máu thêm oxy để duy trì công thức máu, và tăng thêm oxy trong máu tiêu diệt tế bào ung thư.

Thần :
Trước khi đi ngủ 30 phút, tập lại bài Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần, Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm bụng 200 lần rồi ngậm miệng nằm tập thở thiền, ý tập trung ở Đan Điền Thần, làm tăng oxy, hồng cầu, tăng huyết áp, an thần, ngủ ngon.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 6 26, 2013 10:25 am

(TỆP 5)

------------------


4.11. Những kết qủa kỳ diệu của phương pháp tập thở Khí công để chữa những bệnh nan y

Hiện nay trên thế giới, mọi người đều xếp loại bệnh ung thư vào mục bệnh nan y khó chữa, vì chưa tìm ra nguyên nhân, chỉ tìm ra hậu quả là bướu, nên chữa vào ngọn, tiêu diệt hậu quả mà không tiêu diệt nguyên nhân, nên chữa xong bướu này, nguyên nhân phát sinh bệnh vẫn còn lây lan sang nơi khác, Tây y gọi là di căn.

Cách chữa ung thư duy nhất theo Tây y là hóa học trị liệu từ trước đến nay theo phương pháp của Trường Đại Học Johns Hopkins, đã được xem là cách duy nhất để thử nghiệm và loại bỏ ung thư. Nhưng ngày nay phương pháp này đã có một cách nhìn khác dần dần đi đúng lý thuyết tinh-khí-thần trong Đông y.

Chúng ta xem bài viết: “Cập nhật về căn bệnh ung thư từ Trường Đại Học Johns Hopkins” như sau :

1. Ai cũng có tế bào ung thư trong cơ thể. Những tế bào này không thể bị phát hiện trong những cuộc kiểm tra tiêu chuẩn, trừ khi chúng nhân ra thành vài tỷ tế bào. Khi bác sĩ thông báo với bệnh nhân ung thư rằng sau khi trị liệu, cơ thể họ không sản sinh thêm tế bào ung thư nào khác, điều này có nghĩa là cuộc kiểm tra không phát hiện ra các tế bào ung thư do chúng chưa phát triển tới mức độ có thể nhận biết.
2. Tế bào ung thư xuất hiện từ 6 tới 10 lần trong cuộc đời con người.
3. Khi hệ thống miễn dịch của cơ thể mạnh, hệ thống này tiêu diệt các tế bào ung thư đồng thời ngăn chặn chúng sinh sản và hình thành khối u.
4. Khi một người mắc bệnh ung thư có nghĩa là người đó suy dinh dưỡng đa cấp… Điều này có thể do các nhân tố về di truyền, môi trường, thức ăn và lối sống..
5. Để tránh suy dinh dưỡng đa cấp, thay đổi thói quen ăn uống và bổ sung thực phẩm sẽ giúp tăng cường khả năng miễn dịch.
6. Hóa học trị liệu bao gồm việc làm nhiễm độc các tế bào ung thư phát triển nhanh, đồng thời cũng tiêu diệt các tế bào khỏe mạnh trong tủy xương và vùng dạ dày – ruột, và có thể gây tổn thương các cơ quan như Gan, Thận,Tim, Phổi…vv..
7. Các tia phóng xạ trong quá trình tiêu diệt tế bào ung thư có thể gây thương tổn tới các tế bào khỏe mạnh, các mô tế bào và các cơ quan trong cơ thể..
8. Trị liệu ban đầu bằng hóa học trị liệu và phóng xạ thường làm giảm kích cỡ khối u, song sử dụng các biện pháp này lâu dài không tiêu diệt được khối u hoàn toàn.
9. Khi cơ thể nhiễm độc do hóa học trị liệu và tia phóng xạ, hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ trở nên yếu ớt và bị tổn thương, do vậy cơ thể thường không chống đỡ nổi với bệnh tật và các biến chứng.
10. Hóa học trị liệu và phóng xạ có thể khiến các tế bào ung thư biến chứng và khó tiêu diệt hơn. Phẫu thuật có thể khiến các tế bào ung thư di căn tới vùng khác trên cơ thể..
11. Một cách hữu hiệu để đối phó với các tế bào ung thư là “bỏ đói” chúng, không cung cấp dưỡng chất khiến chúng có thể sản sinh.

TẾ BÀO UNG THƯ CẦN NHỮNG DƯỠNG CHẤT GÌ?

a) “Đường “ là một trong những dưỡng chất cho tế bào ung thư. Cắt bỏ đường là cắt bỏ nguồn dưỡng chất quan trọng cho tế bào ung thư. Các sản phẩm thay thế đường như NutraSweet, Equal, Spoonful. .. làm từ Aspartame và không gây hại.
Sản phẩm thay thế từ thiên nhiên là mật ong Manuka và mật đường nhưng với một lượng rất nhỏ. Muối bột cũng có chất hóa học tẩy trắng màu muối.
Lựa chọn tốt hơn là amino Bragg và muối biển.

b) “Sữa “ khiến cơ thể tiết ra niêm dịch, đặc biệt là ở vùng dạ dày và ruột. Chất niêm dịch là dưỡng chất cho tế bào ung thư. Bằng cách cắt bỏ sữa trong khẩu phần và thay thế bằng sữa đậu nành không đường, tế bào ung thư sẽ bị “bỏ đói”.

c) Tế bào ung thư sống sót trong môi trường acide. Khẩu phần ăn chứa nhiều thịt cung cấp nhiều acide. Sẽ tốt hơn nhiều nếu bạn ăn cá và thịt gà thay cho thịt lợn và thịt bò. Thịt gia súc cũng chứa kháng sinh, hormon tăng trưởng và ký sinh không tốt cho cơ thể, nhất là với bệnh nhân ung thư.

d) Khẩu phần ăn có 80% rau xanh và nước ép, ngũ cốc, hạt và chút trái cây sẽ giúp cơ thể sản sinh nhiều kiềm. Khoảng 20% có thể là thực phẩm nấu chín, bao gồm cả đậu. Nước ép rau chứa các enzyme sống, dễ dàng hấp thu và ngấm vào các tế bào trong vòng 15 phút, giúp sản sinh các tế bào khỏe mạnh. Để tạo ra các enzyme sống nhằm sản sinh ra các tế bào khỏe mạnh, hãy thử uống nước ép rau (có giá đỗ) và ăn rau sống 2 tới 3 lần/ ngày. Các enzyme sẽ bị tiêu diệt ở nhiệt độ 104 độ F (40 độ C)

e) Tránh các chất caffeine như cà phê, trà và sô cô la. Trà xanh chứa chất chống ung thư và là một lựa chọn tốt. Hãy uống nước lọc hoặc nước tinh khiết để tránh chất độc và kim loại nặng trong nước thường. Tránh uống nước cất vì nước này chứa axit.

12. Protein trong thịt khó tiêu hóa và cần tới nhiều enzyme tiêu hóa. Thịt không tiêu hóa nằm nguyên trong ruột, gây thối và tạo ra chất độc cho cơ thể.
13. Các tế bào ung thư được bao phủ bằng một lớp protein. Bằng cách hạn chế thịt trong khẩu phần ăn, các enzyme sẽ hoạt động dễ dàng hơn trong việc tấn công lớp protein bao phủ tế bào ung thư và giúp các tế bào hủy diệt tự nhiên của cơ thể tiêu diệt tế bào ung thư.
14. Một số các chất tăng cường hệ miễn dịch (IP6, Flor-ssence, Essiac, anti-oxidants, vitamins, khoáng chất, EFAs….) giúp các tế bào hủy diệt tự nhiên tiêu diệt tế bào ung thư. Một số chất khác như vitamin E tạo ra cơ chế tiêu diệt tế bào, một cách thông thường của cơ thể nhằm đào thải các tế bào gây hại hoặc không cần thiết.
15. Ung thư là căn bệnh của thể xác và tinh thần. Một tinh thần lạc quan và sảng khoái sẽ giúp các bệnh nhân ung thư giành giật được sự sống. Giận dữ, căm thù và cay đắng khiến cơ thể bị căng thẳng và tạo ra acide. Hãy học cách sống vị tha và đầy yêu thương. Học cách thư giãn và hưởng thụ cuộc sống (Thiền).
16. Các tế bào ung thư sẽ không tồn tại được trong môi trường đầy oxy. Tập thể dục đều đặn, hít thở sâu sẽ giúp các tế bào được nạp đầy đủ oxy. Liệu pháp oxy cũng là cách tiêu diệt các tế bào ung thư (Khí công)

Như vậy, cách nhìn của y khoa ngày nay cũng chú trọng đến TINH là cách ăn uống, chất nào tạo duyên xấu làm tăng trưởng tế bào ung thư phải nên tránh, chất nào là duyên tốt vừa tăng cường cho tế bào tốt, làm mạnh hệ miễn nhiễm, vừa tiêu diệt tế bào ung thư cần phải bổ sung.

Về KHÍ thì Tây y công nhận môi trường tạo nhiều oxy sẽ làm cho tế bào ung thư không tồn tại được, nhưng chưa tìm ra đúng phương pháp, chỉ có phương pháp tập thở Khí công mới thu nạp và giữ được oxy lâu trong cơ thể, khác với tập thể dục thể thao, có oxy vào rồi lại ra mất. Bác sĩ Ngô Gia Hy đã kiểm chứng qua xét nghiệm máu về kết quả tăng hồng cầu sau thời gian tập Khí công, nhưng có nhiều loại Khí công, loại Khí công chúng ta thường gặp và tập luyện nhất là Tài Chi, nhưng khi thử nghiệm máu không thấy tăng hồng cầu, do đó nhiều người còn nghi ngờ khả năng chữa ung thư bằng Khí công vì không biết loại nào đúng và có hiệu quả nhanh khi thử nghiệm máu. Vì thế mà môn học Khí công Y Đạo ra đời để chuyên chữa những bệnh nan y bổ sung cho ngành y khoa hiện đại. Các bài tập thể dục Khí công y đạo, cách tập thở thiền, được phân loại có kết quả tương đương như thuốc ngoại dược để chữa bệnh.

Về THẦN, Tây y công nhận Tâm tính cũng có những duyên tốt làm cho bệnh mau lành, tế bào ung thư sẽ không thể phát triển, còn duyên xấu sẽ làm tăng trưởng tế bào ung thư làm bệnh nặng thêm, và khuyên bệnh nhân không nên giận dữ, căm thù, bi quan, cay đắng mà phải sống lạc quan yêu đời, biết sống thư giãn, không gì hơn là phương pháp thiền tĩnh Tâm buông xả . Nhưng thiền cũng có nhiều cách, có cách dùng để chữa bệnh mau khỏi là cách thở thiền trên các Đan Điền hay trên đại huyệt của Khí công Y Đạo mới có kết quả hơn cách thiền chỉ để thư giãn kém kết quả hơn nếu muốn dùng thiền để chữa bệnh.

Chúng ta thử tìm hiểu cách chữa bệnh nan y theo phương pháp Khí Công Y Đạo qua các bệnh sau đây:

Bệnh ung thư Phổi do hút nhiều thuốc lá, di căn sang gan và lên não.
Bệnh ung thư Phổi kèm theo bệnh suyễn cấp tính có dấu hiệu nhồi máu cơ tim
Bệnh ung thư Phổi thời kỳ chót do sống trong môi trường khí ammoniac
Bệnh ung thư lưỡi
Bệnh ung thư máu
Vết sẹo lao Phổi trở thành ung thư Phổi
Bệnh chai gan
Bệnh ung thư Bao tử
Bệnh viêm xoang mũi kinh niên được Tây y chẩn đoán là Bệnh Mal Formation
Bướu não
Bệnh Ung Thư Ruột Già
Bệnh hư Thận, 4 Thận không làm việc

1. Bệnh ung thư Phổi do hút nhiều thuốc lá, di căn sang gan và lên não.
Một nam bệnh nhân người Rumany là kỹ sư chế tạo những máy móc điện tử cho ngành y khoa, ông bị bệnh ung thư Phổi do hút nhiều thuốc lá, bướu trong Phổi bên phải to 8cm, đã di căn tạo bướu trong gan và bướu não bên phải, đang chữa hóa trị theo Tây y. Ông vẫn tiếp tục chữa theo Tây y nhưng bắt đầu tập thêm cách thở Khí công.
Thông thường, sau mỗi lần chữa hóa trị, cơ thể bệnh nhân suy nhược cả thể xác lẫn tinh thần do phản ứng thuốc qúa mạnh, đa số những triệu chứng xẩy ra sau khi chữa là đau đớn, khó thở, không ăn uống được, không ngủ được, người xanh xao, mất máu, mất hồng cầu…
Khi chữa lần đầu, những triệu chứng này kéo dài khoảng 1 tuần, rồi cơ thể từ từ phục hồi lại sức vào tuần lễ thứ hai, cơ thể chưa thấy gì là suy nhược. Khi điều trị lần thứ hai, hệ thống miễm nhiễm giảm, chức năng hoạt động của Tạng Phủ yếu dần mất sức đề kháng, triệu chứng đau đớn, mệt mỏi, mất ăn, mất ngủ kéo dài đến 2 tuần, mới vừa phục hồi lại sức, thì đến đợt trị liệu thứ 3, chức năng khí hóa của cơ thể không đủ sức kịp chuyển hóa tẩy độc để giúp cơ thể phục hồi sức khỏe, mà trái lại, độc tố lưu giữ trong cơ thể trở thành kẻ nội thù phá hỏng chức năng nội tạng làm tinh thần suy nhược, mất máu, mất hồng cầu, rụng tóc, mặt trắng mét, hơi thở gấp, mắt lõm, má hóp, tiêu hóa không thông, táo bón, ăn uống không được, mất ngủ, người mệt mỏi, chân tay mất sức…
Có nhiều người ở giai đoạn này, bệnh nhân tự cứu mình, đã đến với Khí công để học cách tập thở tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
Bệnh nhân thường quan niệm sau khi chữa hóa trị, cơ thể mệt mỏi mất sức, chắc không thể tập thở Khí công ngay được, đợi nghỉ ngơi vài ngày cho cơ thể khỏe lại một chút mới đi tập, cho nên tập thở Khí công được ít ngày rồi nghỉ theo chu kỳ trong thời gian hóa trị, và rồi đến với Khí công thưa dần cho đến khi sức kiệt quệ không đi đứng dễ dàng để đến với Khí công được nữa, bệnh càng nặng và trút hơi thở cuối cùng mà chưa hoàn tất xong lịệu trình chữa trị bằng hóa chất theo Tây y.

Rút kinh nghiệm trong phương pháp hướng dẫn tập thở Khí công để tự chữa bệnh ung thư, tôi thường khuyên bệnh nhân, sau khi ở bệnh viện ra, hãy đến tôi để tập thở loại độc tố ra khỏi cơ thể ngay, khiến cho phản ứng phụ của thuốc mất tác dụng nên không bị mất máu, mất hồng cầu không làm mất ảnh hưởng đến đội quân trong hệ thống miễn nhiễm phòng chống bệnh, và cái đau hay xáo trộn chức năng Tạng Phủ chỉ kéo dài 2 ngày là biến mất, lúc đó cơ thể còn nhiều thời gian để phục hồi lại tinh-khí-thần càng ngày càng khỏe hơn để đợi ngày hóa trị kế tiếp.
Bệnh nhân Rumany kể trên đã áp dụng chiến thuật này, ông nhận thấy, sau khi hoá trị, cơ thể vẫn bình thường khỏe mạnh, thỉnh thoảng, khi đo huyết áp tôi thấy xuống thấp, thiếu máu, thiếu hồng cầu, tôi đề nghị ông xin với bác sĩ truyền máu cho ông. Ông tập thở suốt ngày, khi đi, đứng, hay ngồi, còn khi nằm ông tập thở ở Đan Điền Thần làm cơ thể ấm, tăng hồng cầu, tăng sức tuần hoàn máu cho tim mạch, khi tiêu hóa kém không hấp thụ và chuyển hóa, ông tập thở ở Trung Quản, khi cơ thể nóng hay khó thở, nói chuyện hay bị mệt, ông tập thở ở Đan Điền Tinh để phục hồi nguyên khí, khi suy nhược thần kinh ông tập thở ở Mệnh Môn.
Ba tháng sau, ông cho biết, sau khi scan xem tình trạng bướu trong Phổi, ông và bác sĩ nhìn trên màn hình, không còn thấy bướu to 8cm nữa, mà chỉ thấy một chấm đen mờ khoảng 2mm, gần như không còn bướu, cả ông và bác sĩ ngạc nhiên vui mừng. Hiện nay ông khỏe hơn như lúc chưa bị bệnh.
Ông thắc mắc hỏi tôi tại sao tập thở Khí công lại có kết quả kỳ diệu như vậy.
Đối với Đông y Khí công, chỉ quan niệm nguyên nhân gây ra bệnh do 3 yếu tố tinh-khí-thần, và khi cơ thể đã bị bệnh thì do khí huyết thiếu, và cơ thể bị hàn trong đa số những trường hợp bị bệnh ung thư.
Một thí dụ cụ thể, khi mùa đông tuyết đóng băng dính trên cửa kính xe hơi do qúa lạnh, cục băng đó ví như một bướu ung thư. Muốn loại bỏ cục băng này có 3 cách: dùng dụng cụ cào tuyết, dùng hóa chất làm tan, 2 cách này có thể làm trầy kính hay nứt kính, cách thứ 3, vào trong xe, mở sưởi cho nhiệt độ trong xe ấm lên, cục băng đóng ngoài kinh xe sẽ tự tan biến mất.
Phương pháp Khí công ví Phổi là kính xe, bướu là cục tuyết đóng băng lạnh trên kính, phải tập hơi thở cách nào để làm tăng thân nhiệt, làm ấm Phổi, tăng lưu lượng khí huyết tuần hoàn trong Phổi để tăng oxy, tăng hồng cầu để bảo vệ nuôi dưỡng tế bào tốt, loại bỏ tế bào xấu…, và phương pháp thở này phải được duy trì liên tục thường xuyên có gía trị như dùng thuốc.
Đối chứng trị liệu là dùng những phương pháp thở tùy tình trạng bệnh như thiếu máu lên đầu nuôi não, dùng bài tập Khí công Cúi Ngửa 4 Nhịp, đau nhức mỏi tay chân dùng bài Vỗ Tay 4 Nhịp, người lạnh tập thở Đan Điền Thần, người nóng tập thở Đan Điền Tinh, huyết áp cao tập thở Mệnh Môn, ăn không tiêu tập bài Kéo Ép Gốt Thở Ra làm Mềm Bụng, tăng hồng cầu và bạch cầu để chữa bệnh tập bài Đứng Ngũ hành Tấn 10 phút ép độc tố xuất ra bằng đường mồ hôi, Thận suy nằm úp tập thở Mệnh Môn…Những bài tập của Khí công, mỗi bài có giá trị riêng giống như một loại thuốc đặc trị để giúp cơ thể tự điều chỉnh chức năng khí hóa của lục phủ, ngũ tạng vẫn theo quy luật âm dương Ngũ hành trong cách chữa bệnh của Đông y, nên cần phải theo dõi những biến đổi Ngũ hành do phản ứng thuốc Tây y mỗi lúc mỗi khác để lúc nào cũng giữ được sự quân bình khí hóa âm dương Ngũ hành của tinh-khí-thần hoà hợp sẽ tránh được bệnh trở nặng hơn hay bị tái phát.

2. Bệnh ung thư Phổi kèm theo bệnh suyễn cấp tính có dấu hiệu nhồi máu cơ tim
Một nam bệnh nhân khoảng 45 tuổi, do hút nhiều thuốc, thừa lúc thời tiết lạnh bị nhiễm cảm ho kéo dài trong hai tháng, bệnh ho không khỏi trở thành suyễn cấp tính làm ngộp thở. Thông thường ở xứ nhiệt đới, bệnh ho kéi dài, sẽ có đàm, thân nhiệt tăng, sốt về chiều, tình trạng bệnh sẽ trở thành bệnh lao Phổi. Ngược lại, ở xứ lạnh, ho do hàn, cơ thể không bị sốt, đàm bị kết khối làm giảm dung tích Phổi càng ngày càng tăng gây ra khó thở, và làm hại đến chức năng co bóp của tim mạch, bệnh không biến thành lao Phổi mà biến thành bướu trong Phổi, Tây y gọi là ung thư Phổi và sẽ phải điều trị theo phương pháp hóa trị. Tuy nhiên tình trạng sức khỏe bệnh nhân rất tồi tệ, ngộp thở, sốt, trán nóng, hai bàn tay nóng, chân lạnh, mặt đỏ bầm, tiếng nói đứt đoạn vì thiếu hụt hơi, huyết áp 2 tay cao, bên phải đo được 165/101mmHg mạch 114, bên trái đo được 178/105mmHg mạch 113, hơi thở 40 hơi /1 phút.

Theo kinh nghiệm của Đông y-Khí công, bệnh nguy hiểm cấp thời không phải là bệnh ung thư, mà có dấu hiệu cận nhồi máu cơ tim, sắp vỡ mạch nếu hơi thở càng ngày càng dồn dập tạo ra một gia tốc gây cộng hưởng cho tim nhồi bóp bất bình thường cho đến khi vỡ tim. Bệnh nhân này may mắn gặp tôi khi anh ta kêu mệt quá, mệt quá, đau ngực, khó thở qúa, lúc đó hơi thở dồn dập, dồn dập, môi tím tái, mắt lạc tròng, muốn ngất xỉu….

Tôi hướng dẫn bệnh nhân nằm, khuyên bệnh nhân bình tĩnh, buông lỏng, đừng hít vào, đừng sợ hãi, thả lỏng người, lỏng ngực bụng, đừng nghĩ đến hơi thở, tập nằm ngủ như trẻ em khi ngủ, chỉ chú ý khi hơi thở ra ngắn đứt đoạn , thì dùng miệng thổi hơi ra từ từ như người ta thổi một chén cháo nóng, rồi buông lỏng cho hơi tự nhiên vào mà không được nâng ngực hít vào. Tôi đề nghị thổi hơi ra theo tiếng đếm của tôi. Bắt đầu, thổi hơi ra 1, buông lỏng cho khí vào tự nhiên, thổi hơi ra 2, buông lỏng cho khí vào tự nhiên, thổi hơi ra 3 lần, 4 lần , 5 lần, 6 ,7 ,8 ,9, 10 lần rồi lại thổi hơi ra 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10 lần….chỉ chú ý thì thổi ra chậm nhẹ, mục đích giảm gia tốc của nhịp tim đập. Từ từ bệnh nhân thở được dài hơi, số hơi thở trong một phút giảm xuống còn 18 hơi như người bình thường. Tiếp tục tập thổi hơi ra nhẹ, từ từ, chậm, dài hơn một chút, bệnh nhân có hơi thở đều 12 hơi trong một phút.

Các bệnh trong cơ thể muốn được chữa khỏi phải tập thở bằng cả hai cách :

Cách thứ nhất :
Luyện hơi thở theo Khí công theo 6 yếu tố : chậm, nhẹ, sâu, lâu, đều, bình thường. Yếu tố lâu là thời gian tập càng lâu vẫn như người bình thường không bị mệt, không cần nghỉ để thở bù lại vì bị hụt hơi… tập làm sao hơi thở phải thở được bình thường tự nhiên không ngộp thở, không cố sức mà đi đứng nằm ngồi suốt ngày, trừ khi đi ngủ, vẫn thở được từ 6-12 hơi, giỏi hơn nữa là 2 hơi trong một phút, làm tăng lưu lượng máu, tăng hồng cầu và bạch cầu, tăng sức đề kháng chống bệnh tật, và loại bỏ độc tố thoát ra bằng đường mồ hôi, và bằng đường đại tiểu tiện.
Cách thứ hai :
Sau khi đã tập đúng đưa hơi thở xuống 12 hơi hay 6 hơi trong 1 phút, lúc đó mới dùng hơi thở tác động trên huyệt theo quy luật âm dương Ngũ hành Tạng Phủ, dùng ý tập trung vào các đại huyệt như Bách Hội, Chiên Trung, Trung Quản, Khí Hải, Mệnh Môn, Dũng Tuyền, để điều chỉnh sự khí hóa Ngũ hành tổng thể tùy tình trạng bệnh, mỗi lúc mỗi khác. Lúc đó ý sẽ dẫn khí đi vào huyệt đạo kinh mạch điều chỉnh sự khí hóa Ngũ hành Tạng Phủ trở lại bình thường thì mọi bệnh tật được tiêu trừ. Đông y Khí công không chú trọng đến vi trùng, virus, hay bướu, vì đó là hậu quả tất yếu đã xảy ra rồi do các nguyên nhân khí huyết và tinh-khí-thần tạo ra. Việc chính là phòng bệnh ngăn ngừa không phát sinh duyên xấu làm cho bệnh phát triển nặng thêm, tạo duyên tốt phục hồi chức năng Tạng Phủ để tống độc ra ngoài. Công việc này phải làm suốt đời để cơ thể được hồng hào khỏe mạnh, còn hơn là phải dùng thuốc suốt đời đem độc tố vào cơ thể để chữa được bệnh này chưa xong lại sinh ra bệnh khác.

Đúng ra, muốn chữa thân bệnh cần phải chữa Tâm bệnh trước, tự mình có ý chí chữa cho mình, không ỷ lại vào thầy vào thuốc. Chúng ta hãy xem một trường hợp áp dụng phương pháp thở tự chữa bệnh cho mình của cố bác sĩ Nguyễn Khắc Viện trong bài viết trích đoạn dưới đây :
Sống thêm 50 năm chỉ nhờ… bài thở

Bị lao Phổi, sau 7 lần mổ, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ còn một góc Phổi bên trái, mất 8 xương sườn. Bệnh viện bảo ông chỉ còn sống được hai năm. Thế nhưng ông đã sống đến tuổi 85 chỉ nhờ một bài thở cổ xưa.
Ông sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học Ðại học Y khoa Hà Nội rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ Nhi khoa năm 1941.. Năm 1942, ông bị lao Phổi nặng, điều trị ở Bệnh viện Saint Hilaire du Touvet, Grenoble.
Thời đó, bệnh lao chưa có thuốc chữa. Từ năm 1943 đến 1948, ông phải chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá Phổi bên phải và một phần ba lá Phổi bên trái. Các bác sĩ Pháp bảo ông chỉ có thể sống được hai năm nữa.
Trong thời gian nằm chờ chết, ông đã tìm ra phương pháp thở để tự chữa bệnh cho mình. Và kết quả là ông đã sống đến tuổi 85 mới mất (1997), nghĩa là sống thêm được 50 năm nữa.
Ông là bác sĩ, đồng thời là một nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội rất nhiệt tâm. Ông là cố vấn của bộ môn Tâm lý – xã hội học, tại Trung Tâm Ðào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế TP HCM, (nay là Ðại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch).
Trong lúc nhiều người giảng bài, nói chuyện, hội họp, làm việc… thấy uể oải, hụt hơi, thì một người chỉ còn hai phần ba lá Phổi, chỉ còn gần một nửa “dung tích sống” như ông lại vẫn ung dung, thư thái.
Những buổi hội họp dông dài, vô bổ, ông chỉ ngồi… thở, nhờ vậy mà ông không bị stress, không bị mệt. Ông bảo sau này khi ông mất đi, điều quan trọng ông để lại không phải là những tác phẩm văn học, triết học này nọ, mà chính là bài vè dạy thở chỉ với 12 câu.
Bác sĩ Ðỗ Hồng Ngọc, bạn đồng nghiệp với bác sĩ Viện, kể lại: “Trước kia, tôi cũng chỉ nghe để mà nghe chớ chẳng thực hành. Rồi một lần tôi bị tai biến nặng, phải nằm viện dài ngày, lúc đó tôi mới thử đem ra áp dụng. Quả có điều kỳ diệu!”
Phương pháp này giúp ông thảnh thơi hơn, ít nhọc mệt hơn và sức khỏe tốt hơn. Trong thời gian dưỡng bệnh, các bạn đồng nghiệp cho rất nhiều thuốc, nhưng ông chỉ chọn một vài món thực sự cần thiết, còn thì chỉ dùng phương pháp thở để tự chữa bệnh cho mình.
Phương pháp thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thực ra không phải là điều hoàn toàn mới. Nó chỉ là một sự tổng hợp của Khí công, thiền, yoga, dưỡng sinh… của Ðông phương từ ngàn xưa, được nhìn bằng sinh lý học hô hấp hiện đại của một người thầy thuốc.

Dưới đây là bài vè 12 câu dạy thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện:

Thót bụng thở ra
Phình bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm chậm sâu đều
Tập trung theo dõi
Luồng ra luồng vào
Bình thường qua mũi
Khi gấp qua mồm
Ðứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được
Lúc nào cũng được!

Trên đây là phương pháp thở mà bác sĩ Viện đã áp dụng, chỉ là một trong hàng trăm phương pháp của Khí công tự chữa bệnh. Thành công hay thất bại do bệnh nhân tự chọn, Khí công Y Đạo chỉ hướng dẫn con đường tự tập luyện để tự mình cứu mạng cho mình, vì thế có người tập có kết quả, có người không có kết quả, chỉ khác nhau ở khẩu quyết, 3 chữ đầu giống nhau : chậm, nhẹ, sâu, nhưng khác nhau ở 3 chữ sau lâu, đều, bình thường.
Bệnh nhân kể trên sau khi tập thở đã hết suyễn, hết ngộp thở, hơi thở trở lại đều với nhịp 12 hơi trong một phút, huyết áp xuống còn 133/87mmHg mạch tim đập 89, dấu hiệu nhồi máu cơ tim không còn nữa.

3. Bệnh ung thư Phổi thời kỳ chót do sống trong môi trường khí ammoniac
Chuyện xảy ra cách nay 14 năm, một nam bệnh nhân người Québecois 70 tuổi, quản lý một tiệm giặt, trong môi trường hít thở không khí ammoniac dùng để hấp tẩy quần áo, trông ông còn rất khỏe mạnh, em trai của ông là Hiệu trưởng một trường Trung học dẫn ông anh tìm đến tôi, nói nhỏ cho tôi biết anh của ông bị ung thư Phổi nặng thời kỳ 3, bác sĩ cho biết bệnh nhân chỉ còn sống được 2 tuần nên ngưng không chữa hóa trị nữa, cả nhà dấu không cho bệnh nhân biết tin này, nên bệnh nhân vẫn lạc quan không làm cho tinh thần hoảng loạn suy nhược.
Ông em nói tôi có cần xem phim và hình scan để biết vị trí và tình trạng bệnh không. Tôi trả lời không cần, vì sau khi bệnh nhân được hướng dẫn tập Khí công, nơi khí huyết bị tổn thương do tắc nghẽn làm thành bướu sẽ hiện ra.
Tôi hướng dẫn ông đứng Ngũ hành Tấn, giả bộ đố ông làm sao đứng được lâu nhất, cuốn lưỡi ngậm miệng thở bằng mũi bình thường tự nhiên. Ông còn khỏe lắm, đứng lâu dược đến phút thứ 7, ông ở trần mặc quần đùi, trên da bắt đầu hồng hào, trán, gáy và lưng xuất mồ hôi, người em hỏi đứng bao lâu nữa, tôi bảo đứng đến khi nào dấu vết nơi bướu ung thư hiện ra trên da, lúc đó khí huyết bị ép ra ngoài da làm da thịt càng đỏ lên, nhưng ngược lại sau hạ sườn phải phía lưng gần cùi chỏ bên tay phải tụ lại vết bầm nhỏ bằng một nắm tay mầu xanh đen, cả trên da nổi mồ hôi hột. Tôi bảo ông em dùng ngón tay chấm vào mồ hôi chỗ da đỏ ngửi xem có mùi khác với mùi của mồ hôi nơi khác không, ông cho biết, mồ hôi nơi ung thư thối như mùi phân, còn chỗ không bị bệnh mồ hôi không mùi. Anh của ông tiếp tục đứng đến phút thứ 10, tôi bảo ông em dùng giấy lau chùi mồ hôi độc riêng ra không cho chảy lây lan ra chỗ khác, rồi lau tất cả các nơi ra mồ hôi để tránh mồ hôi độc lại xâm nhập vào máu, cuối cùng vết xanh đen thu nhỏ dần còn bằng một đồng xu và màu nhạt dần, ông đứng lâu được 12 phút, là người từ trước đến nay đứng được lâu như vậy.
Ông em hỏi khi về nhà thì chữa thế nào, tôi nói cứ tiếp tục tập 3 lần mỗi ngày, mỗi lần từ 10-15 phút, mồ hôi ra đến đâu phải lau liền, khi nghỉ ngơi nên uống nước bù vào sự mất nước của cơ thể và đến tôi mỗi ngày kiểm tra xem bướu biến mất hẳn chưa, rồi tôi sẽ hướng dẫn tiếp những bài thở tĩnh công thiền giúp cơ thể điều chỉnh lại sự khí hóa Ngũ hành Tạng Phủ trở lại bình thường..
Ông tập Khí công trong 2 tháng, người rất khỏe mạnh như không còn bệnh tật, ăn uống, ngủ nghỉ, tiêu hóa, không có gì trở ngại. Ông muốn đi tái khám bác sĩ xem kết quả ra sao. Tôi nói chưa cần thiết, ông tiếp tục tập thêm 1-2 tháng nữa rồi mới đi tái khám cũng không muộn.
Khi ông đi tái khám, 2 bác sĩ của ông ngạc nhiên thấy ông chưa chết, sau khi khám, 2 bác sĩ xác nhận bệnh thuyên giảm, bướu nhỏ đi nhiều lắm, gần như biến mất. Bác sĩ hỏi ông vẫn uống thuốc đều đặn của bác sĩ cho chứ. Ông không uống vì càng uống thấy càng bệnh nặng, nhưng ông vẫn nói dối. Bác sĩ vui mừng, hẹn ông sau 15 ngày đề nghị ông nhập viện để theo dõi biến chuyển của bệnh trong 1 tháng xem có phải nhờ ông uống thuốc mà khỏi bệnh hay không, nếu phải, thì đó là một thành công mới nhất trong ngành y dược của Tây y về ca chữa ung thư Phổi này, các bác sĩ sẽ đem trường hợp của ông để tổ chức một buổi công bố kết quả với báo chí.
Trong thời gian nằm viện, bệnh nhân bị cho uống thuốc liên tục, lấy máu, thử máu xét nghiệm, chụp hình, đến ngày thứ 15, em của ông chạy lại tôi cho biết không xong rồi, anh của ông mệt, bị ngộp thở, gầy ốm hốc hác, đang ngủ mê man không còn biết gì nữa, chắc không qua khỏi…
Kinh nghiệm của Đông y Khí công có nhận xét, bệnh nhân không chết vì ung thư mà đa số chết vì ngộp thở, tim mạch xáo trộn, huyết áp cao, và đau đớn rất nhiều, nên Tây y cần phải chích morphine mỗi ngày để giảm đau, làm bệnh nhân ngủ mê man cho đến khi hơi thở thoi thóp lịm dần, trái với cách chữa của Đông y, phải làm cho thần bệnh nhân tỉnh táo không đau đớn, khí phải đầy đủ, mới có thể kiểm soát mọi chức năng khí hóa Ngũ hành của Tạng Phủ trở lại bình thường để đẩy lui bệnh tật. Do đó môn Khí công tự chữa bệnh mới ra đời để hướng dẫn những người bệnh một phương pháp tự tập để cứu mạng mình mà không ỷ lại vào thuốc, giống như trường hợp của Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện.

4. Bệnh ung thư lưỡi
Một nữ bệnh nhân khoảng 45 tuổi ở Mỹ, bị ung thư lưỡi, bác sĩ cho hay, chỉ còn sống được 2 tháng. Cô sang Canada thăm bà con lần cuối, được người nhà giới thiệu đến với Khí Công Y Đạo để học cách thở xem bệnh tình có thuyên giảm phần nào không.
Tôi xem lưỡi có mầu đỏ bầm, miệng khô, cổ họng không có nước bọt, mặt lưỡi khô bị phồng dộp như bánh tráng nướng, gân lưỡi bị co rút, nói nhỏ thì được nhưng không ăn không nuốt được, chỉ húp cháo hay chất lỏng.
Theo Đông y, vị trí của lưỡi cũng có Ngũ hành liên quan đến chức năng Tạng Phủ, như đầu lưỡi thuộc Tâm, da mặt lưỡi thuộc Phổi, giữa lưỡi thuộc Tỳ, hai cạnh lưỡi thuộc Can, cuống lưỡi thuộc Thận. Nếu quan sát lưỡi của cô theo Đông y, có đủ 5 hành bị bệnh, nhưng bệnh chính do Thận nhiệt.
Tôi hướng dẫn cô ấy nằm thở thiền theo phương pháp động trong tĩnh. Tĩnh là thế nằm, ý tập trung tại Đan Điền Tinh nơi huyệt Khí Hải, theo dõi 2 bàn tay đặt trên Đan Điền Tinh có cảm giác từ lạnh sang nóng ấm rịn mồ hôi trong lòng bàn tay, đó là tĩnh thuộc thiền quán (thiền quan sát vào một điểm), sau khi quán sự thay đổi của khí làm bụng phồng lên khi thở vào, xẹp xuống khi thở ra một cách tự nhiên không cố ý hít vào thở ra, sau đó khó hơn một bậc là thiền sổ tức (thiền đếm hơi thở), tiến bộ hơn nữa áp dụng cả hai phương pháp vừa quán tức vừa sổ tức, mỗi hơi thở vào ra làm bụng phồng lên xẹp xuống, đếm là 1 lần, tiếp tục vào ra, phồng lên xẹp xuống đếm 2 lần….dần dần đếm đến 10 lần, rồi quay trở lại đếm 1, 2, 3….Còn thêm động trong tĩnh, thay vì cuốn lưỡi ngậm miệng thở ra vào bằng mũi, thì đổi cách thở bằng cách hát one, two, three…bằng mũi, vì lưỡi vẫn cuốn lên sâu vào trong hàm trên, hát như vậy nhịp thở vẫn đều nhưng tạo tần số rung ở cuống lưỡi sẽ kích thích hạch nước miếng chảy ra làm ướt lưỡi, hạch nước miếng thuộc chức năng của Tỳ được kích thích thì chức năng Tỳ sẽ được phục hồi làm nhiệm vụ dẫn khí, huyết, và dịch chất của hệ thống tuyến nội tiết sản xuất ra thuốc trong cơ thể để tự chữa bệnh, Đông y gọi là nội dược. Nếu cuốn lưỡi đúng trong khi hát ư ư one, two, three.. bằng mũi, sau khi hát xong 4 câu, nước miếng sẽ trào ra họng thì nuốt vào một lần, trong một ngày có thể nuốt được từ 1000 lần đến 3000 lần, đạo Phật gọi là nước Cam lồ.
Cô áp dụng phương pháp tạo nước miếng này, sau một ngày, cô trở lại tái khám, cô khoe rằng lưỡi của cô đã khỏi, cô há họng đưa lưỡi dài ra, lưỡi cử động dễ dàng, mặt lưỡi không bị phồng dộp mà bằng phẳng, lưỡi ướt, tươi nhuận, cạnh lưỡi hết bị gai hình răng cưa, chứng tỏ chức năng Tâm -Thận (hỏa-thủy), và Can- Tỳ (mộc-thổ) đã hòa hợp không còn xung khắc, đúng với câu khẩu quyết của Khí công :

Mộc thái càn giao hoà tứ tượng,
Âm dương thượng hạ hiệp chung minh,
Phong xuân phấn lý sanh ư biến,
Toàn chất tinh ba tịnh thủy bình

Tâm thuộc quẻ Ly (hỏa), Thận thuộc quẻ Khảm (thủy). Tập Khí công cũng nhờ bài này lấy thủy từ Thận lên để khống chế Tâm hỏa bớt nóng, cổ họng tạo ra nước miếng, nên không cần uống nhiều nước mà cơ thể vẫn chuyển hóa nước từ Thận lên họng gọi là phương pháp chiết Khảm điền Ly để trở về quẻ Địa Thiên Thái (địa là đất, thiên là trời được thông không còn bế tắc). Cô chỉ cần tập bài này suốt đời bệnh sẽ khỏi. Cô tập thêm một ngày nữa và cho biết, trong người không bị nóng khô khó chịu, bớt uống nước, lưỡi mềm, ăn thử cơm, nuốt dễ dàng như người bình thường. Cô mừng vì cô đã khỏi bệnh dộp cứng lưỡi không ăn uống được, tưởng không sống nổi. Cô chia tay với người thân để trở về Mỹ, sau hai ngày học thở Khí công thiền.
Một tuần sau, cô gọi điện thoại gửi lời cảm ơn khi được bác sĩ cho biết khỏi bệnh.
Sáu năm sau, tôi gặp lại người thân của cô cho biết, lưỡi của cô được chữa khỏi, cô nghỉ ngơi không còn làm việc, tha hồ ăn chơi hưởng thụ sung sướng, ăn nhiều lên cân, cô tưởng bệnh đã khỏi không cần tập Khí công thiền nữa, cô đã sống sung sướng được 6 năm và cô đã chết bất đắc kỳ tử vì bệnh tim mạch vì Tinh-Khí-Thần không hòa hợp.

5. Bệnh ung thư máu
Nói đến ung thư máu ai cũng sợ hãi, nhưng cũng may bệnh này rất hiếm so với những bệnh ung thư khác. Tôi sẽ viết đề tài này trong một bài khác chi tiết hơn.
Dưới đây, chúng ta so sánh kết quả thử nghiệm máu có thay đổi rõ rệt trong một tuần lễ tập hít thở Khí công và vuốt huyệt theo hơi thở Khí công của một cháu gái bị bệnh ung thư máu đã chữa khỏi song song với hóa trị liệu, cách đây 6 năm.
Kết quả thử máu ngày 14 tháng 2 năm 2003 có 4 yếu tố bất thường, sau 1 tuần tập thở và vuốt huyệt theo hơi thở rồi tái xét nghìệm máu ngày 21 tháng 2 năm 2003, có thay đổi, 2 yếu tố trở lại bình thường là DVE và Neutrophilles, 2 yếu tố khác là leucocytes từ 2,43 đã lên được 3,34 , lymphocytes từ 0,7 đã lên được 1,1.
Mẹ của bé tự chữa cho bé bằng phương pháp Khí công, và theo dõi kết quả xét nghiệm máu mỗi tuần cho đến khi khỏi bệnh không cần phải hóa trị liệu nữa. Để duy trì được tình trạng tốt như vậy, vẫn cần phải tập thường xuyên để làm mạnh hệ miễn nhiễm của cơ thể.
Đã có lần tôi email cho cô Hoàng Mộng Thu, cô đang kêu gọi hiến tủy trên Đài Truyền Hình Calitoday để cứu con gái của cô là cháu Michelle cũng đang bị ung thư máu, tôi đề nghị cho cháu tập Khí công, nhưng rất tiếc cô không hưởng ứng vì chưa có duyên lành đến với phương pháp Khí công y đạo.

Đa số người Đông phương tin phương pháp Tây y, ngược lại, những người Phương Tây lại tin vào phương pháp Đông y, nên không có gì làm lạ, đó là quy luật của Âm-Dương, cho nên phòng mạch của tôi 90% là những người Phương Tây đến tập Khí công để tự chữa những bệnh nan y mà Tây y đã bó tay, họ tập Khí công nhưng vẫn xét nghiệm máu và cho tôi biết kết quả để điều chỉnh những bất thường kịp thời theo nguyên tắc Tinh-Khí-Thần hòa hợp.

6. Vết sẹo lao phổi trở thành ung thư phổi
Bố vợ của anh tôi là dược sĩ bị lao Phổi ở tuổi 40 đã chữa khỏi từ năm 1950, ông rất khỏe, tập đi bộ, đi xe đạp mỗi buổi sáng sớm và ăn uống, nghỉ ngơi, thể dục thể thao đều đặn, người hồng hào khỏe mạnh. Khi anh tôi đi diện H.O. ông được đi theo, khi khám sức khỏe, ông có vết sẹo lao cũ nên phải uống thuốc lao, liều mạnh, hại tim gan, thận làm mờ mắt, mất sức, sau 6 tháng vết sẹo còn nhưng phát triển to ra do độc tố, bị nghi ngờ ung thư, và phải theo hóa trị được 1 tháng khiến ông gầy ốm, ngộp thở và từ giã cõi đời ở tuổi 80. Anh tôi là bác sĩ cho rằng Tây y dùng phương pháp qúa mạnh tay cho những người có đủ sức khỏe mới chịu nổi cách điều trị theo kiểu này.
Khi đến lượt tôi khám sức khỏe, cũng có vết xơ trong Phổi (fibro) do luyện tập Judo, nên cũng bị uống thuốc lao 6 tháng, vết xơ vẫn còn, nhưng thể lực mạnh khỏe nhờ tập Khí công, bác sĩ nghi ngờ ung thư Phổi, nhưng dặn đem hồ sơ đến nước định cư điều trị ung thư tiếp. Tôi đã bỏ qua vì thấy không cần thiết, đôi khi Tây y cũng có những sai lầm trong điều trị. Nhưng có một điều chắc chắn vẫn cần phải duy trì chức năng tinh-khí-thần hòa hợp thì chúng ta sẽ không bao giờ bị bệnh tật.

7. Bệnh chai gan
Khi thử men gan tăng cao trên 400 là gan đã có bệnh, triệu chứng gan sưng cứng, người phù nề. Những bệnh nhân này được hướng dẫn tập Khí công bài : Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, mỗi ngày 3-4 lần, mỗi lần 200 cái theo băng DVD hướng dẫn. Tập trong một tháng, gan đã mềm, bụng nhỏ lại, mặt hồng hào, ăn uống tiêu hóa được không còn căng cứng bụng, khi thử máu men gan xuống từ từ, xuống 300, xuống 200, xuống đến tiêu chuẩn bình thường. Có những bệnh nhân mặc dù thử máu tốt, men gan xuống bình thường, nhưng Tây y vẫn không tin, cứ đề nghị mổ thay gan.
Tôi đề nghị bệnh nhân đặt câu hỏi với bác sĩ trong hai trường hợp. Nếu không thay gan, hậu quả sẽ ra sao, và nếu thay gan thì hậu quả sẽ ra sao. Bệnh nhân được trả lời : Nếu không thay gan sẽ chết sớm. Còn nếu thay gan, thời gian thay mất 4 tiếng đồng hồ, có những bệnh nhân yếu sức không chịu nổi chết trên bàn mổ.
Cả hai câu trả lời này làm bệnh nhân hoang mang, nên tiếp tục đến với Khí công để phục hồi chức năng gan không cần mổ, tình trạng sức khỏe càng ngày càng tốt, người hồng hào khỏe mạnh.

8. Bệnh ung thư Bao tử
Một bệnh nhân là kỹ sư trung Tâm năng lượng Liên Xô bị bệnh ung thư Bao tử, Tây y bó tay, không ăn uống được. Cô con gái du học ở Canada là bệnh nhân của tôi, cô đề nghị tôi giúp, và ông sang Canada 1 tháng để học phương pháp thể dục Khí công và tập thở thiền, nhất là bài Nạp Khí Trung Tiêu, và bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng.
Sau 1 tháng ông khỏe mạnh, ăn uống được như bình thường không còn triệu chứng không dám ăn vì ăn không tiêu gây đau bụng trên như trước nữa, ông từ giã trở về nước. Con gái ông vẫn liên lạc với tôi và cho biết sức khỏe của ông rất tốt, đã đi làm trở lại.
Một năm sau ông sang Canada tái khám, nhìn sắc diện ông không có gì là bệnh tật. Tôi hướng dẫn ông tập Khí công cao cấp hơn, một tuần sau ông trở về nước, đến nay đã 8 năm ông vẫn ăn ngon ngủ khỏe, thể lực tốt, làm việc bình thường.

9. Bệnh viêm xoang mũi kinh niên được Tây y chẩn đoán là Bệnh Mal Formation
Nữ bệnh nhân 62 tuổi có triệu chứng đau cứng cổ gáy, nặng đầu, khi chụp xương đầu cổ thấy có nước trong tủy nơi xương cổ gáy và lưng. Bà được đề nghị mổ từ xương cổ đến xương sống lưng.
Tôi đề nghị bà hỏi bác sĩ 2 câu hỏi : Nếu không mổ sẽ có hậu quả gì, và nếu mổ có khỏi bệnh đau cứng cổ gáy không ?
Bác sĩ trả lời, nếu không mổ sẽ bị tê liệt bán thân bất toại, nếu mổ thì không sợ tê liệt, còn đau nhức thì không biết.
Khi bà tập Khí công lần đầu, tôi để ý thấy bà hay lấy tay day mũi giống như bị ngứa mũi, đó là dấu hiệu đầu tiên của viêm xoang mũi dị ứng, tôi không chữa mũi, cứ để cho bà hít nước mũi vào tự nhiên theo thói quen bà vẫn làm, thay vì bảo bà xịt nước mũi ra, mục đích để thử nghiệm xem dự đoán của mình có đúng không, tôi chỉ chữa ngọn, chữa cho hết đau khi cử động cổ gáy vai tay.
Đến ngày bà đi tái khám chụp xương, bác sĩ cho biết chung quanh tủy xương có nhiếu nước hơn, Tây y gọi là dò tủy.
Tôi nói với bà, người lớn tuổi xương khô tủy rỗng, đâu còn tủy mà dò tủy, đấy chính là nước chứa nhiều virus của bệnh viêm xoang mũi kinh niên chảy đầy vào xoang trán tràn lên óc xuống đáy não vào tủy sống, nếu bà không tin, đề nghị bà từ nay xịt hết nước mũi trong mũi và khạc nước trong cổ họng ra xem nó đã chứa được bao nhiêu nước từ trước đến nay khi tôi kích thích những huyệt chữa xoang mũi, xoang trán( huyệt Ngạch Trung, Thần Đình, Dương Bạch, Toản Trúc, Ấn Đường, Thừa Khấp), bệnh nhân ở thế nằm, khi day vào huyệt này, nước trong xoang chảy xuống mũi và xuống cổ họng. Tôi bảo bà ngồi dạy ra lavabo xịt nước mũi và khạc nước trong họng ra, rồi day lại các huyệt trên, lại xịt nước mũi ra, ngày càng nhiều, nước loãng trong, số lượng nước chừng được nửa ly. Dặn bà về nhà dùng 2 muổng dấm táo pha 1 ly nước sôi, xông mũi, khi nước mũi chảy ra thì xịt nước mũi ra ngoài, tiếp tục phương pháp này mỗi ngày 2 lần, liên tiếp trong 2 tuần, bà đã hết triệu chứng nặng đầu trán, mũi thông, đi tái khám chụp lại xương, bác sĩ cho hay kết quả nước ở tủy sống lưng không còn, nhưng trên xương cổ còn, vẫn phải mổ xương cổ gáy. Bà cứ bị hù dọa không mổ sẽ bị tê liệt, và bác sĩ cho ngày hẹn mổ. Bà trả lời bác sĩ cứ ghi ngày, còn mổ hay không để tôi còn xét lại, bà hỏi ý kiến tôi. Tôi đề nghị bà yêu cầu bác sĩ 2 điều trước khi chấp thuận mổ :
Xin bác sĩ cho biết tên và địa chỉ những bệnh nhân trước của bác sĩ mà họ đã từ chối không mổ cách đây 5-10 để bà liên lạc với họ kiểm chứng xem họ có bị tê liệt hay không, nếu họ bị tê liệt bà sẵn sàng mổ.
Nếu bác sĩ không tiện cho tên những bệnh nhân ấy, tôi cũng bằng lòng mổ với điều kiện nếu bác sĩ quả thật có lòng tốt muốn cứu tôi khỏi bị tê liệt, sẽ mổ cho tôi hoàn toàn miễn phí được không.
Bà cho tôi biết bác sĩ không trả lời được 2 câu này.
Cho nên mình phải tự cứu mình, bà vẫn tiếp tục áp dụng phương cách xông dấm táo, xịt nước mũi trong xoang ra, nước mũi bây giờ ra nhiều, từ mầu vàng đặc đến mầu hơi vàng xanh, đó là virus tạo mủ nhưng chưa ăn mòn vào xương trán và xương mũi, nhờ vậy đêm ngủ bà không còn bị đau cứng đầu cổ gáy vai nữa.

10. Bướu não
Bác Quy là bệnh nhân bị bướu não, bác đến với phương pháp Khí Công tự chữa bệnh đã được hơn 3 năm, nhờ tập Khí Công bài Cúi Ngửa 4 Nhịp, và 7 bài đầu trong phần động công, bướu não của bác nhỏ dần.
Những người bị bệnh bướu não đa số do những nguyên nhân tắc máu lên đầu nuôi não hay cơ thể thiếu máu toàn bộ hay chỉ cục bộ vùng đầu, có dấu hiệu đau nửa đầu kinh niên, Đông y gọi là thiên đầu thống mãn tính. Nếu đo huyết áp 2 bên tay đều thấp dưới 105/70mmHg mạch 60 trở xuống là thiếu máu toàn bộ, nếu một bên tay bị cao huyết áp thí dụ như 145/90mmHg mạch 90, một bên bị thấp huyết áp, thí dụ như 105/75mmHg mạch 100 là thiếu máu cục bộ nửa bên đầu làm thành bệnh migrain (thiên đầu thống) để lâu không chữa khỏi sẽ tạo bướu hàn, Tây y gọi là bướu não . Đối với Đông y Khí công, chỉ cần bấm huyệt điều chỉnh cho huyết áp bên cao xuống thấp, và bên thấp tăng cao, cho hai bên bằng nhau, tạm thời chữa ngọn, tập bài Cúi Ngửa 4 Nhịp để cung cấp máu lên nuôi não, dùng thuốc Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin) để bổ máu, tăng lượng máu trong qúa trình tăng hấp thụ chất bổ từ thức ăn để tạo thành máu, khoảng 1-2 tháng sau đo huyết áp 2 bên tay trở thành bình thường khoảng 120-130/75-85mmHg mạch 70-80, lúc đó những triệu chứng do thiếu máu não sẽ tự khỏi như váng đầu, chóng mặt, đau đầu, rụng tóc, mắt mờ, kém trí nhớ, đau nhức cổ gáy vai tay…

11. Bệnh ung thư ruột già
Bệnh ung thư ruột già nếu chưa mổ hay chưa hóa trị thì thời gian chữa bằng Khí công sẽ nhanh hơn. Khi tôi hướng dẫn tập Khí công tự chữa bệnh tại Tu Viện Tây Tạng ở Longueil, năm 2002, vào những những buổi chiều thứ bẩy hằng tuần, một cô học viên cho biết chồng cô đang bị bệnh ung thư ruột, thứ hai sẽ phải mổ. Tôi đề nghị cô gọi điện thoại cho chồng cô đến ngay để tôi hướng dẫn cách tập Khí công tự chữa bệnh ung thư ruột. Chồng cô cũng đến tập bài Nạp Khí Trung Tiêu, Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, mỗi khi tập xong, thấy mệt thì nằm thở thiền, ý và tay đặt tại Đan Điền Thần cho cơ thể tăng nhiệt, hết tập động công đến tĩnh công, sau khi tập xong, chồng cô cảm thấy khỏe, ấn đè vào bụng không còn chỗ nào đau, không thấy những hòn cục nào ở bụng dưới như trước. Dùng thuốc Phụ Tử Lý Trung Hoàn mục đích làm ấm đường ruột, giúp cơ ruột co bóp, rút nước và tẩy độc tống ra ngoài theo đường phân và giúp phân đặc lại có mầu vàng bình thường, không còn bị tiêu chảy ra nước hoặc bí đại tiện do những bướu chặn nút ở hậu môn.
Chồng cô sau khi tập cảm thấy khỏe, nhưng trong hai ngày tập không biết có khỏi bệnh không, vì thứ Hai phải đi mổ rồi. Tôi dặn trước khi mổ, nói với bác sĩ là tôi cảm thấy khỏe, sờ bụng dưới thấy các bướu biến mất, xin cho khám lại trước khi mổ, thì khỏi bị mổ oan uổng.
Chiều thứ bẩy tuần sau, cô đến học Khí công, báo cho tôi tin mừng, chồng cô không phải mổ, sau khi khám lại bác sĩ cho biết không thấy bưới nữa.
Tình trạng hiện nay của chồng cô đã khỏi hẳn do tập luyện Khí công thường xuyên, lúc nào cũng giữ 3 yếu tố tinh-khí-thần hòa hợp, tôi thường xuyên gặp chồng cô trong những buổi sinh hoạt cộng đồng.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 6 26, 2013 11:01 am

(TỆP 6)

------------------


Phụ lục 1. CÁC BÀI THUỐC ĐÔNG Y, CÂY THUỐC TRỊ UNG THƯ

P1.1. Quế Chi, Phục Linh tán chữa ung thư Bao tử và ruột

Tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng phối hợp với bài thuốc Chữa bụng có hòn cục như bướu trong ổ bụng, bướu ung thư trong Bao tử và ruột :

Đan bì, Phục Linh, Đào nhân, Quế chi, Bạch Thược.
Mỗi thứ bằng nhau 16g, tán bột, hoặc dùng máy xay tiêu hay cà phê, xay ra thành bột, chia ra làm 8 gói, mỗi tối uống 1 gói với nước nóng, uống được 8 ngày.

Cần đo huyết áp hai tay trước khi áp dụng và sau khi áp dụng, tập Khí Công mỗi ngày 2 lần sau mỗi bữa ăn 30 phút. Theo dõi huyết áp trong 1 tuần lễ và sờ nắn bụng thấy những hòn cục nhỏ dần và tiêu mất cho đến khi bụng mềm, ăn uống tiêu hóa sẽ không bị khí nghịch trào lên cổ họng làm nghẹn ngực tăng huyết áp, và huyết áp lọt vào tiêu chuẩn thì ngưng.
Thỉnh thoảng ăn không tiêu làm rối loạn huyết áp, nghẹn ngực, uống tiếp tục. Bệnh nặng có thể dùng liên tục 1 tháng, nhưng cần nhất phải theo dõi huyết áp mỗi ngày.
Nếu chỉ uống thuốc mà không tập Khí công sẽ không có kết qủa.
Đã có nhiều bệnh nhân thoát khỏi bệnh ung thư Bao tử và ruột nhờ cách tập Khí công và áp dụng thêm bài thuốc này.
Dưới đây là phần tham khảo tính chất và công dụng của từng vị thuốc

Công dụng của Đan Bì : (Vỏ của rễ cây Mẫu đơn)

Tên khoa học:
Cortex Moutan, Cortex Paeoniae Suffuticosae.Họ Thuộc họ Mao Lương (Ranunculaceae).
Tính vị:
+ Vị cay, tính hàn (Bản Kinh).
+ Vị đắng, hơi hàn, không độc (Biệt Lục).
+ Vị chua, cay, tính hàn (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Vị cay, đắng, tính mát (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vị cay, đắng, tính hơi hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Qui kinh:
+ Vào kinh Phế (Lôi Công Bào Chích Luận).
+ Vào kinh thủ Quyết âm Tâm bào, túc Thiếu âm Thận (Trân Châu Nang).
+ Vòa kinh Tâm, Can, Thận (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vào kinh Tâm, Can, Thận và Tâm bào (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Phần dùng làm thuốc:
Vỏ rễ (Cortex Mutan). Vỏ sắc đen nâu, thịt trắng, nhiều bột. Vỏ dày, rộng, không dính lõi, mùi thơm là tốt.

Tác dụng dược lý:
Tác dụng kháng viêm: do chất Phenol Đơn Bì (Trung Dược Học).
Các Glucosid khác của Đơn Bì có tác dụng kháng viêm mạnh hơn (Trung Dược Học).
In vitro, nước sắc Đơn Bì có tác dụng kháng khuẩn mạnh đối với trực khuẩn thương hàn, tụ cầu khuẩn vàng, liên cầu khuẩn dung huyết, Phế cầu khuẩn, trực khuẩn bạch hầu (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Phenol Đơn Bì có tác dụng giảm đau, an thần, chống co giật, giải nhiệt do ức chế trung khu thần kinh (Trung Dược Học).
Trên thực nghiệm, Phenol Đơn Bì có tác dụng chống gây loét trên chuột bị kích thích, ức chế xuất tiết dạ dầy của chuột (Trung Dược Học).

Đơn thuốc kinh nghiệm:

Trị trường ung, ruột dư viêm cấp:
Đơn Bì, Đại hoàng, Đào nhân, Đông quỳ tử, Mang tiêu (Đại Hoàng Mẫu Đơn Bì Thang – Kim Quỹ Yếu Lược).

Trị vùng hạ bộ lở loét, đã hõm một lỗ sâu:
Dùng 4g bột Mẫu Đơn Bì, sắc uống ngày 3 lần (Trửu Hậu Phương).

Trị dịch hoàn xệ xuống, căng lên làm cho không cử động được:
Mẫu Đơn Bì, Phòng phong, hai vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 8g với rượu (Thiên Kim phương).

Trị bị thương do dao chém, huyết rỉ ra:
Mẫu Đơn Bì tán bột, uống chừng 3 nhúm ngón tay với nước là đi tiểu ra huyết (Thiên Kim Phương).

Giải các loại ngộ độc trùng thú:
Mẫu đơn (rễ) tán thành bột, mỗi lần uống 4g, ngày 3 lần (Ngoại Đài Bí Yếu).

Trị phụ nữ bị chứng máu xấu (ác huyết) công lên tụ ở mặt, hay giận dữ:
Mẫu Đơn Bì 20g, Can tất (đốt cho hết khói) 20g, sắc với 2 chén nước còn 1 chén, uống (Chư Chứng Biện Nghi).

Trị tổn thương ứ huyết:
Mẫu Đơn Bì 80g, Manh trùng 21 con, sao qua, rồi tán bột, mỗi buổi sáng uống 4g với rượu nóng thì huyết ứ sẽ hóa ra nước tiêu ra ngoài (Trinh Nguyên Quảng Lợi phương).

Trị thương hàn nhiệt độc gây nên mụn nhọt to bằng hột đậu:
Mẫu Đơn Bì, Sơn chi tử nhân, Hoàng cầm (bỏ lõi đen), Đại hoàng (sao), Mộc hương, Ma hoàng (bỏ rễ, đốt). Sắc uống (Mẫu Đơn Thang – Thánh Tế Tổng Lục).

Trị âm hư, hư nhiệt, bệnh nhiễm thời kỳ phục hồi hoặc bệnh nhiễm sốt kéo dài:
Đơn Bì 12 – 16g, Thanh hao 8g, Miết giáp 20g, Sinh địa 16g, Tri mẫu 8g, sắc uống (Thanh Hao Miết Giáp Thang – Ôn Bệnh Điều Biện).

Trị âm hư huyết nhiệt, phát sốt nửa đêm, nóng trong xương:
Đơn Bì, Phục linh, Thục địa, Hoài sơn, Trạch tả, Hoàng bá, Tri mẫu (Tri Bá Địa Hoàng Thang – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị kinh nguyệt đến sớm, sốt về chiều, có kinh huyết đen kèm có ứ huyết có cục máu, lượng nhiều:
Mẫu Đơn Bì 12g, Thanh hao 12g, Địa cốt bì 12g, Hoàng bá 8g, Thục địa 16g, Bạch thược 12g, Phục linh 12g, sắc uống (Thanh Kinh Thang – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị huyết ứ, kinh nguyệt bế:
Mẫu Đơn Bì 12g, Nhục quế 2g, Mộc thông 12g, Xích thược 12g, Miết giáp 12g, Đào nhân 12g, Thổ qua căn (Vương qua căn) 12g. Sắc uống (Mẫu Đơn Thang – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị chấn thương do té ngã, bị đập đánh, ứ huyết đau nhức:
Mẫu Đơn Bì 12g, Đương quy 12g, Cốt toái bổ 12g, Tục đoạn 12g, Nhũ hương 8g, Một dược 8g, Đào nhân 12g, Xuyên khung 6g, Xích thược 12g, Sinh địa 12g. Tán bột hoặc sắc uống (Mẫu Đơn Bì Tán – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị đinh nhọt:
Mẫu Đơn Bì 20g, Ý dĩ nhãn 40g, Qua lâu nhân 8g, Đào nhân 12 hạt. Sắc uống. (Mẫu Đơn Bì Tán – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị huyết áp cao, xơ cứng động mạch:
Đơn Bì 8 – 12g, Cúc hoa 12g, Kim ngân 20g, Kê huyết đằng 20g, Thạch quyết minh 20 – 40g, Bội lan 12g, sắc uống (Đơn Bì Cúc Hoa Thang – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Trị phụ nữ sau khi sinh bị chứng huyết nhiệt:
Đơn Bì 8g, Chi tử 8g, Đương qui 12g, Thục địa 16g, Bạch thược 12g, Xuyên khung 8g, sắc uống (Đơn Chi Tứ Vật thang – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Trị mũi viêm dị ứng:
Dùng nước sắc dung dịch Đơn Bì 10%, uống mỗi lần 50ml, 10 lần là 1 liệu trình, có kết quả tốt (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Mẫu Đơn Bì, Quế Chi đều có thể thông ứ trệ trong huyết mạch, Mẫu Đơn Bì có tính lạnh mà thông nhiệt ứ, Quế chi có tính ấm mà thông hàn ứ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Nhũng trường hợp té ngã chấn thương gây tụ máu dưới da hoặc trong nội tạng gây đau nhức, dùng thuốc lý huyết có thêm Đơn Bì để lương huyết, hóa ứ, có kết quả tốt (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Đơn Bì có thể dùng trong các bài thuốc trị ban xuất huyết do giảm tiểu cầu nguyên phát, trị lỵ có kết quả tốt (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trong nhiều bệnh phụ khoa loạị ứ huyết, dùng Đơn Bì kết hợp với Quế chi làm tăng thêm tác dụng hoạt huyết, khứ ứ như bài Quế Chi Phục Linh Hoàn, trị viêm phần phụ hoặc bài Ôn Kinh Thang trị kinh nguyệt không đều(Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Thuốc lương huyết đa số có vị đắng, tính hàn, thiên về cầm máu. Thuốc hoạt huyết đa số có vị cay tán, thiên về khử ứ. Mẫu Đơn Bì thì có tính vị vừa lạnh mát, cay, tán, kiêm đủ cả, vì vậy có thể làm cho mát huyết mà không gây ra ứ trệ, lại có thể hoạt huyết mà không làm cho huyết chạy bậy, vì vậy, Đơn Bì là vị thuốc chủ yếu của phần huyết (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Phân biệt với Xích thược, Dã mẫu đơn.

Khác với cây Đơn lá đỏ, còn gọi là Đơn tía, Liễu đỏ, Đơn mặt trời (Excolecaria cochinchinensis Lour., Excoecaria bicolor Hassk.). Là cây nhỏ, cao chừng 1m. Lá mọc đối. Mặt trên xanh bóng, mặt dưới màu đỏ tía. Mép lá khía răng. Hoa mọc thành bông ở kẽ lá hoặc ngọn cành. Hoa đực nhỏ, dài. Hoa cái to hơn. Quả ba mảnh vỏ, Hạt màu nâu nhạt. Cậy được trồng ở nhiều nơi, dùng lá để lam thuốc và trồng làm cảnh. Sắc uống để trị mẩn ngứa, mụn nhọt, kiết lỵ, tiêu ra máu, tiêu lỏng lâu ngày (Danh Từ Dược Học Đông y).

2-Công dụng của Phục Linh :

Còn gọi là Bạch linh, tên khoa học Poria cocos Wolf., họ Nấm lỗ (Polyporaceae)
Bộ phận dùng làm thuốc Quả thể của nấm Poria cocos Wolf., họ Nấm lỗ (Polyporaceae).
Nấm phục linh không mùi, vị nhạt, cắn dính răng
Phục linh bì: Là lớp ngoài Phục linh tách ra, lớn, nhỏ, không đồng nhất. Mặt ngoài từ nâu đến nâu đen, mặt trong màu trắng hoặc nâu nhạt. Chất tương đối xốp, hơi có tính đàn hồi
Phục linh khối: sau khi tách lớp ngoài, phần còn lại được thái, cắt thành phiến hay miếng, lớn nhỏ không đồng nhất, màu trắng, hồng nhạt hoặc nâu nhạt.
Xích phục linh: Là lớp thứ hai sau lớp ngoài, hơi hồng hoặc nâu nhạt.
Bạch phục linh: Là phần bên trong, màu trắng.
Phục thần: Là phần nấm Phục linh ôm đoạn rễ thông bên trong.

Tác dụng dược lý:
Thuốc có tác dụng lợi tiểu,
Thuốc có tác dụng tăng miễn dịch, tăng chỉ số thực bào của phagocyte ở chuột.
Thuốc có tác dụng kháng ung thư (do thành phần polysacharide của thuốc) do làm tăng miễn dịch cơ thể.
Thuốc có tác dụng an thần, có tác dụng hạ đường huyết, bảo vệ gan và chống loét Bao tử.
Nước sắc Phục linh có tác dụng ức chế đối với tụ cầu vàng, trực khuẩn đại tràng, trực khuẩn biến dạng. Cồn ngâm kiệt thuốc có tác dụng giết chết xoắn khuẩn.

Công dụng và liều dùng
Phục linh bì: Lợi tiểu, trị phù thũng.
Xích phục linh: Chữa thấp nhiệt (chướng bụng, viêm Bàng quang, tiểu vàng, đái rắt).
Bạch phục linh: Chữa ăn uống kém tiêu, đầy chướng, bí tiểu tiện, ho có đờm, ỉa chảy.
Phục thần: Trị yếu tim, hoảng sợ, hồi hộp, mất ngủ.
Ngày 6-12g. Dạng thuốc sắc, hoàn, tán. Phối hợp trong nhiều phương thuốc khác nhau.
Kiêng kỵ: âm hư mà không thấp nhiệt thì không nên dùng.

3-Công dụng của Đào Nhân :

Tên khoa học:
Prunus persica Stokes (Persica vulgaris Mill.).Họ : Thuộc họ Hoa Hồng (Rosaceae).
Vị thuốc đào nhân còn gọi Đào hạch nhân (bản Kinh), Thoát hạch nhân, Thoát hạch anh nhi (Hòa Hán Dược khảo), Đào nhân nô, Đào nhân hạch, Đơn đào nhân (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tính vị:
+ Vị đắng, tính bình (Bản Kinh).
+ Vị ngọt, không độc (Biệt Lục).
+ Vị đắng, ngọt, tính bình (Trung Dược Học).
+ Vị cay, ngọt, tính bình (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Quy Kinh:
+ Vào kinh thủ Quyết âm Tâm bào, túc quyết âm Can (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Vào kinh thủ Thái âm Phế, thủ Thiếu âm Tâm, túc Thái âm Tỳ (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Vào kinh Can, Đại trường (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
+ Vào kinh Tâm, Can, Tiểu trường (Trung Dược Học).
+ Vào 2 kinh Tâm và Can (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Tác dụng:
Khu huyết ứ, sát trùng, tiêu trưng (Bản Kinh).
Tả huyết nhiệt, nhuận trường táo, phá súc huyết, trục nguyệt thủy, thư kinh, hành huyết, hoạt huyết (Dược Phẩm Hóa nghĩa).
Phá huyết, hành ứ, nhuận táo, thông tiện (Trung Dược Học).
Phá huyết, hành ứ, nhuận táo, hoạt trường (Trung Dược Đại Từ Điển).
Hoạt huyết, khứ ứ, nhuận táo, hoạt trường (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Chủ trị:
Trị kinh bế, trưng hà, nhiệt bệnh, súc huyết, phong tý, sốt rét, té ngã tổn thương, ứ huyết sưng đau, huyết táo, táo bón (Trung Dược Đại Từ Điển).
Trị bế kinh, thống kinh, sau khi sinh sảøn dịch ra không dứt, bụng dưới căng đau, chấn thương do té ngã, bị đánh đập, đinh nhọt sưng tấy, táo bón nơi người lớn tuổi và sau khi sinh (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Cách dùng:
Dùng sống đề trị bế kinh, có hòn có cục trong bụng, bụng dưới đầy, đau do té ngã ứ huyết.
Dùng chín trong trường hợp hoạt huyết đại tiện khó do huyết táo.
Liều lượng: 4 – 16g.
Kiêng kỵ:
Chứng huyết táo, hư, dùng phải cẩn Thận (Y Học Nhập Môn).
Phụ nữ có thai, đàn bà không có ứ trệ: cấm dùng (Trung Dược Đại Từ Điển).
Hương phụ làm sứ càng tốt (Bản Thảo Cương Mục).
Các chứng kinh bế do huyết kết mà không do ứ trệ, Sinh xong bụng đau do huyết hư không phải do ngưng kết thành khối, táo bón do tân dịch bất túc chứ không phải do huyết táo gây nên bí kết: không dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).

Đơn thuốc kinh nghiệm:

Trị tim đau đột ngột:
Đào nhân 7 hạt bỏ vỏ và đầu nhọn, nghiền, sắc với 1 chén nước, uống (Trửu Hậu Phương).

Trị đàn bà ngứa âm hộ:
Đào nhân, giã nát bọc vải mỏng đắp vào nơi đau (Trửu Hậu Phương)

Trị hạ bộ lở ngứa, lưỡi trắng, thích ngủ, hốt hoảng, không biết nơi đau ngứa, hoặc hạ ly, đó là vì ở hạ bộ sinh trùng ăn hậu môn vậy:
Đào nhân 15 hạt, 2 chén giấm, 1 chén muối, sắc còn 1 chén uống (Trửu Hậu Phương).

Trị sản hậu cơ thể nóng như lửa, nổi da gà:
Đào nhân, nghiền nát như bùn, trộn với mỡ heo, bôi hàng ngày (Thiên Kim Phương).

Trị đới hạ, rong kinh không dứt:
Hạnh nhân đốt tồn tính, tán bột, uống với rượu, mỗi lần 8g, ngày 3 lần (Thiên Kim Phương).

Trị trẻ nhỏ thối tai:
Đào nhân sao, tán bột, quấn trong vài thưa, nhét vào trong tai hàng ngày (Thiên Kim Phương).

Trừ phong, làm cho da thịt quang nhuận:
Đào nhân 5 chén, bỏ vỏ, dùng nước cơm gạo nếp nghiền vắt lấy nước, chưng nóng, dùng để rửa mặt rất tốt (Thiên Kim Phương).

Trị người hoang tưởng, thích quỉ mị:
Đào nhân rang bỏ vỏ, đầu nhọn, 21 hạt, sắc uống với nước Đồng tiện (Thiên Kim Phương).

Trị liệt nửa người:
Đào nhân 2.700 hạt, bỏ vỏ và đầu nhọn, hạt nào nhân đôi thì không dùng, lấy một đấu ba thăng rượu ngon, ngâm 21 ngày rồi lấy ra phơi, quết nát làm viên bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 20 viên với rượu (Ngoại Đài Bí Yếu).

Trị nóng trong xương, cơ thể sốt:
Đào nhân 120 hạt, bỏ vỏ, bỏ đầu nhọn và hạt nhân đôi, nghiền nát, làm thành viên . Sáng sớm múc nước giếng gọi là Tinh hoa thủy để uống, uống thuốc với rượu cho say. Cứ cách một ngày uống một lần, cữ ăn thịt trong vòng 100 ngày (Ngoại Đài Bí Yếu).

Trị đàn ông vùng âm bộ sưng, ngứa:
Đào nhân sao thơm, tán bột, uống với rượu, mỗi lần 8g, ngày 2 lần, nhưng cũng nên gĩa nát xức vào đó. Cũng có thể trị trẻ nhỏ bìu đái sưng đau (Ngoại Đài Bí Yếu).

Trị phong lao, sưng độc; co rút, sưng đau hoặc đau lan tới bụng dưới hoặc thắt lưng:
Đào nhân 1 thăng bỏ vỏ và nhớt, rang cho ra khói đen, rồi nghiền nát như cao, lấy 3 thăng rượu trộn đều, uống nóng cho ra mồ hôi, dùng không quá 3 lần là khỏi bệnh (Thực Y Tâm Kính).

Trị sốt rét:
Đào nhân 100 hạt bỏ vỏ lẫn đầu nhọn, cho vào tô sữa nghiền nát thành cao, (không được cho nước lạnh vào) rồi cho 12g Hoàng đơn vào, làm thành viên to bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 3 viên với nước nóng, mặt hướng về phía bắc trước khi lên cơn (Bảøn Sự phương).

Trị tim đau do quỷ chú:
Đào nhân 1 chén, nghiền nát, sắc uống (Cấp Cứu phương).

Trị các loại bệnh sau khi sản hậu, ‘Thiên Kim Đào Nhân Tiên Phương’ trị các loại khí của tất cả các bệnh đàn bà sau khi sinh:
Đào nhân 1.200 hạt bỏ vỏ, đầu nhọn và hạt nhân đôi, rang, gĩa nát, thêm một đấu rưỡi rượu, nghiền như cháo gạo, bỏ vào trong bình sứ nhỏ, nấu cách thủy 1 giờ, mỗi lần uống 1 muỗng canh với rượu nóng (Bản Thảo Đồ Kinh).

Trị sản hậu huyết bế:
Đào nhân 20 hạt, bỏ vỏ và đầu nhọn, thêm vào một đoạn Ngó sen (Liên ngẫu), sắc uống (Đường Dao Kinh Nghiệm Phương).

Trị trẻ nhỏ mới bị lở loét, sưng bỏng như bỏng lửa:
Đào nhân nghiền nát, đắp vào (Tử Mẫu Bí Lục).

Trị răng nhức, răng sâu:
lấy kim châm vào hạt Đào nhân rồi đốt trên đèn cho ra khói, xong thổi tắt đi, nhét vào nơi răng đau, rồi ngậm lại, không quá 6 ngày là khỏi (Vệ Sinh Gia Bảo).

Trị môi khô, môi nứt, môi đau:
Đào nhân gĩa nát, trộn với mỡ heo xức vào (Hải Thượng Phương).

Trị táo bón:
Đào nhân 120g, bỏ vỏ, Ngô thù du 80g, muối ăn 40g, sao chín rồi bỏ muối và Thù du đi, mỗi lần nhai 5-7 hạt Đào nhân (Thánh Tế Tổng Lục).

Trị ho lao, bứt rứt:
Đào nhân 120g bỏ vỏ và đầu nhọn, gan heo l cái, 5 thăng nước Đồng tiện, tất cả nấu khô hết nước, bỏ vào cối gỗ gĩa nát, nấu bánh làm viên bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 30 viên với nước nóng (Thánh Huệ phương).

Trị ăn uống kém vì suy nhược do lạnh, (lãnh lao), dần dần ốm yếu, da đen xám:
Đào nhân 500 hạt, Ngô thù du 120g, tất cả cho vào trong chảo rang bằng than đỏ rồi đem Đào nhân bỏ vỏ thì nó đã hơi vàng, phải thêm lửa, đợi cho có hơl khói ra, thừa lúc còn nóng bỏ vào trong bình, lấy giấy dày bịt kín lại, đừng cho không khí lọt vào, hàng ngày uống lúc đói. Chọn Đào nhân 20 hạt bỏ vỏ, nhai nhỏ, với rượu nóng, uống hết 500 hạt là đỡ (Thánh Huệ phương).

Phòng ngừa sơn lam chướng khí, dịch khí:
Đào nhân 640g, Ngô thù du, Thanh diêm mỗi thứ 160g, đem sao cho chín, bỏ vào bình, đậy kín 7 ngày lấy ra, bỏ muối và Ngô thù du, đem Đào nhân bỏ vỏ và đầu nhọn đi, mỗi lần nhai 10 – 20 hạt. Những người đi rừng núi rất cần (Toàn Cư Sĩ Tuyển Kỳ phương).

Trị sản hậu huyết ứ, bụng đau:
Đương quy 12g, Xuyên khung 6g, Đào nhân 12g, Gừng lùi 6g, Cam thảo 4g. Sắc uống với nước tiểu trẻ nhỏ hoặc rượu nóng (Sinh Hóa Thang – Phó Thanh Chủ Nữ Khoa).

Trị ho nghịch lên, suyễn làm tức ngực:
Đào nhân 120g bỏ vỏ và đầu nhọn, dùng l tô nước lớn nghiền lấy nước, trộn với hai chén nước cơm, nấu cháo ăn (Thực Y Tâm Kính).

Trị ho đột ngột:
Đào nhân 3 thăng, bỏ vỏ, gĩa nát, bỏ trong nồi bịt, kín nấu chín rồỉ phơi khô, gói vào túi vải, ngâm trong 2 đấu rượu 7 ngày, mỗi ngày uống 4 – 5 chén nhỏ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Trị ho lao, khí huyết không thông, ngày càng ốm yếu:
Đào nhân 40g, bỏ vỏ và đầu nhọn, gĩa nát, sắc với 1 thăng nước rồi bỏ gạo vào nấu cháo ăn lúc bụng đói (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Trị sản hậu âm hộ sưng đau:
Đào nhân đốt, nghiền nát, bôi (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Trị sản hậu ứ huyết, kết khối sinh đau nhức, đàn bà khỏe mạnh mà kinh nguyệt bế tắc: dùng Đào nhân, Đương quy, Thược dược, Trạch lan, Diên hồ sách, Tô mộc, Ngũ linh chi, Hồng hoa, Ngưu tất, Sinh đia, Ích mẫu thảo (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Trị đại trường huyết táo gây nên táo bón:
Đào nhân, Đương quy, Ma nhân, Đia hoàng, Mạch môn đông, Thược dược, Hoàng cầm, Nhục thung dung, Cam thảo (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Trị nội thương ở vùng bụng trên làm ứ huyết sinh đau:
Đào nhân, Thiên giáng hương, Xuyên thông thảo, Sơn tra, Xuyên sơn giáp, Nhũ hương, Một dược, Hồng hoa, Tục đoạn, Đương quy (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Trị kinh bế do huyết ứ:
Đào nhân 12g, Hồng hoa 4-20g, Tam lăng 8g, Đương quy 12g. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị tổn thương do té ngã, bị đánh đập:
Đào nhân 12g, Giá trùng 6g, Kinh giới 12g, Đại hoàng 12g, Xuyên khung 6g, Đương quy 12g, Quế Tâm 6g, Cam thảo 4g, Bồ hoàng 8g. Sắc uống với Đồng tiện (Đào Nhân Thang – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị táo bón do tân dịch khô:
Hạnh nhân, Đào nhân, Hỏa ma nhân, Đương quy mỗi thứ 12g, Sinh địa 16g, Chỉ xác 12g. Tán bột, viên với mật ong, mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần (Nhuận Trường Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị động mạch viêm tắc:
Đào nhân, Hồng hoa, Đương quy, Đan sâm, Xuyên khung, Xích thược, Ngưu tất, Kim ngân hoa, Huyền sâm đều 10g, Địa miết trùng, Tam lăng, Nga truật đều 6g, Địa long 10g, Thủy điệt, Manh trùng, Cam thảo [sống] đều 3g. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

4-Công dụng của Quế Chi :

Tên khoa học: Ramulus cinnamoni. cinamomum cassia presl.
Tính vị: đắng, thơm, ngọt và ấm.
Qui kinh: Tâm, Phế và Bàng quang.
Công năng: Tăng tiết mồ hôi và giảm hội chứng ngoại sinh, hoạt huyết làm ấm kinh lạc và trừ hàn.

Chỉ định và phối hợp:
Các thể phong hàn của hội chứng ngoại cảnh: Dùng phối hợp quế chi với ma hoàng làm tăng tác dụng tăng tiết mồ hôi của quế.
Thể phong hàn của hội chứng hư biểu biểu hiện như ra mồ hôi, sợ phong (gió) sốt, mạch nông và chậm: Dùng quế chi phối hợp với bạch thược dưới dạng quế chi thang.
Ðau khớp do nhiễm phong, hàn và thấp ngoại sinh biểu hiện như đau các khớp, chân tay, vai và lưng: Dùng phối hợp quế chi với phụ tử.
Dương hư ở Tâm và Tỳ biểu hiện như trống ngực, phù và thở nông: Dùng phối hợp quế chi với phục linh và bạch truật.
Dương suy ở ngực (kể cả đau ngực trong Tây y) biểu hiện như đau ngực, trống ngực hoặc nhịp ngắt quãng: Dùng phối hợp quế chi với giới bạch (củ kiệu) và qua lâu; táo nhân, mẫu Đơn Bì và phục linh dưới dạng quế chi phục linh thang.
Liều dùng: 3-10g.
Kiêng kỵ :
Không dùng quế chi cho bệnh do sốt nóng cũng như các trường hợp thiếu âm kèm dấu hiệu nhiệt Thận trọng khi dùng quế chi cho thai phụ


5-Công dụng của Bạch Thược

Tên Khoa Học:
Paeonia lactiflora Pall.Thuộc họ Mao Lương (Ranuncuaceae).
Tính Vị:
Vị chua mà đắng, khí hơi hàn (Thang Dịch Bản Thảo).
Quy Kinh:
Dẫn thuốc vào kinh Can + Tỳ, nhập vào Can, Tỳ huyết phần (Bản Thảo Kinh Sơ).Vào kinh thủ, túc Thái âm [Phế + Tỳ] (Thang Dịch Bản Thảo).
Tác Dụng:
Trừ huyết tích, phá kiên tích.Tả Tỳ nhiệt, chỉ phúc thống, chỉ thủy tả, thu Can khí nghịch lên gây ra đau, điều dưỡng Tâm Can Tỳ kinh huyết, thư kinh, giáng khí (Trấn Nam Bản Thảo).
Dưỡng huyết, nhu Can, hoãn trung, chỉ thống, liễm âm, thu hãn (Trung Dược Đại Tự Điển).

Chủ Trị:
Trị trúng ác khí, bụng đau, lưng đau (Biệt Lục), cốt chưng (Dược Tính Luận).Trị Phế có tà khí, giữa bụng đau quặn, huyết khí tích tụ
Phế cấp trướng nghịch, hen suyễn, mắt dính, Can huyết bất túc, Dương duy mạch có hàn nhiệt, Đái mạch bệnh làm cho bụng đầy đau (Thang Dịch Bản Thảo).
-Liều Dùng: 6 – 12g.
-Kiêng Kỵ:
Sợ Thạch hộc, Mang tiêu. Ghét Tiêu thạch, Miết giáp, Tiểu kế. Phản Lê lô (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
Huyết hư hàn: không dùng (Bản Thảo Diễn Nghĩa).
Tỳ khí hàn, đầy trướng không tiêu: không dùng (Bản Thảo Chính).
Mụn đậu: không dùng Dược Phẩm Hóa Nghĩa).
Tỳ khí hư hàn, hạ lỵ ra toàn máu, sản hậu: không dùng (Đắc Phối Bản Thảo).
Ngực đầy, vị hàn (Bao tử lạnh): cấm dùng. Sách ‘Bản Thảo Kinh Sơ’ ghi: Bạch thược có tính chua vị lạnh, đau bụng do trúng hàn, trúng hàn làm tiêu chảy, bụng đau do lạnh, cảm giác lạnh trong bụng thì cấm dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Bụng đau, tiêu chảy do hàn tà gây ra và đau do trường vị hư lạnh: không nên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Đơn Thuốc Kinh Nghiệm:

Trị cơ co giật:
Bạch Thược + Cam Thảo mỗi thứ 16g, sắc uống (Thược Dược Cam Thảo Thang – Thương Hàn Luận).

Trị can khí bất hòa sinh ra đau xóc bụng sườn, tay chân co rút và các chứng tiêu chảy, bụng đau:
Bạch thược (tẩm rượu) 12g, Chích thảo 4g, sắc uống (Thược Dược Cam Thảo Thang – Thương Hàn Luận).

Trị lỵ tiêu ra máu mủ:
Thược Dược 40g, Đương Quy 20g, Hoàng Liên 20g, Binh Lang, Mộc Hương đều 8g, Chích Thảo 8g, Đại Hoàng 12g, Hoàng Cầm 40g, Quan Quế 6g. Tán bột. Mỗi lần dùng 20g, sắc với 2 chén nước, còn 1 chén, uống ấm (Thược Dược Thang – Tố Vấn Bệnh Cơ Khí Nghi Bảo Mệnh Tập).

Trị phụ nữ hông sườn đau:
Bạch Thược Dược + Diên Hồ sách + Nhục quế + Hương Phụ. Tán bột, mỗi lần uống 8g với nước sôi (Thược Dược Thang – Chu Thị Tập Nghiệm Y hương).

Trị Can âm bất túc gây ra đầu váng, hoa mắt, tai ù, cơ run giật, chân tay tê:
Bạch thược 20g, Đương Qui, Thục Địa mỗi thứ 16g, Toan táo nhân 20g, Mạch Môn 12g, Xuyên khung, Mộc qua mỗi thứ 8g, Cam thảo 4g, Sắc nước uống (Bổ Can Thang – Y Tông Kim Giám).

Trị bụng đau, tiêu chảy:
Bạch truật sao khử thổ 12g, Bạch thược sao 8g, Trần bì 6gi, Phòng phong 8g, sắc uống (Thống Tả Yếu Phương – Đan Khê Tâm Pháp).

Trị đầu đau, chóng mặt do can dương vượng thượng lên:
Bạch thược 12g, Câu đằng 12g, Phục thần 12g, Bối mẫu 12g, Cúc hoa 12g, Sinh địa 16g, Cam thảo 4g, Linh dương giác 4g, Tang diệp 12g, Trúc nhự 12g, sắc uống (Linh Dương Câu Đằng Thang – Thông Tục Thương Hàn Luận).

Trị bụng đau, kiết lỵ:
Bạch thược, Hoàng cầm mỗi thứ 12g, Cam thảo 6g, sắc uống (Thược Dược Hoàng Cầm Thang – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Trị có thai đau bụng lâm râm:
Đương qui, Xuyên khung mỗi thứ 6g, Bạch Thược 20g, Phục linh, Bạch truật mỗi thứ 8g, Trạch tả 10g, tán bột uống lần 8g ngày 3 lần với rượu hoặc sắc uống (Đương Qui Thược Dược Tán – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Trị băng lậu hạ huyết, rong kinh, ốm yếu gầy mòn:
Bạch thược, Thục địa, Can khương, Quế lâm, Long cốt, Mẫu lệ, Hoàng kỳ, Lộc giác giao, mỗi thứ 8g, tán bột, uống mỗi lần 8g ngày 3 lần với rượu nóng trước khi ăn, hoặc uống với nước sôi (Bạch Thược Dược Tán – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Trị bụng đau lúc hành kinh:
Bạch thược, Đương qui, Hương phụ, mỗi thứ 8g, Thanh bì, Sài hồ, Xuyên khung, Sinh địa mỗi thứ 3,2g, Cam thảo 2g. Sắc uống (Dưỡng Huyết Bình Can Tán – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Trị táo bón kinh niên :
Bạch Thược (sống) 24-40g + Cam Thảo (sống) 10-15g, sắc nước uống. Thường dùng 2-4 thang thì khỏi. Trường hợp táo bón kinh những,, mỗi tuần dùng 1 thang ( Vương Văn Sĩ, Nghiệm Chứng Dùng ‘Thược Dược Cam Thảo Thang’ Trị Táo Bón – Trung Y Tạp Chí 1983, 8: 79).

Trị dạ dầy loét:
Bạch Thược 15-20g + Chích Cam Thảo 12-15g. Đã trị 120 cas khỏi 83 cas, tiến bộ 33 cas, không kết quả 4 cas. Tỉ lệ kết quả 96,67%. Kết quả tốt đối với thể khí trệ, huyết ứ (Dư-Thụy-Tân, Trị 120 Trường Hợp Loét Dạ Dầy Bằng ‘Thược Dược Cam Thảo Thang Gia Giảm’ – Sơn Đông Trung Y Tạp Chí 1984, 2: 22).

Trị cơ co giật:
Thược Dược 30g + Quế Chi + Cam Thảo mỗi thứ 15g, Mộc qua 10g. Sắc uống ngày 1 thang. Đã trị 85 cas, sau khi uống 3-5 thang: hết co rút. Một số ít tái phát nhẹ hơn: uống bài này vẫn có kết quả (Triệu-Ngọc-Hải – ‘Thược Dược Cam Thảo Thang Gia Vị’ Trị 85 Trường Hợp Cơ Sinh Đôi Cẳng Chân Co Rút – Trung Y Tạp Chí 1985, 6: 50).

Trị xương tăng sinh:
Bạh Thược 30-60g + Mộc Qua 12g + Kê Huyết Đằng 15g + Uy Linh Tiên 15g + Cam Thảo 12g (tùy chứng gia giảm thêm). Ngày uống 1 thang. Trị 160 cas, khỏi 109 cas, kết quả tốt 42 cas, tiến bộ 1 cas, tỉ lệ khỏi: 96,7% (Vương-Chi-Truật, Nhận Xét Về Chứng Xương Tăng Sinh Trị Bằng ‘Thược Dược Mộc Qua Thang’ – Tân Trung Y Tạp Chí 1980, 1: 18).

Trị ho gà:
Bạch Thược 15g + Cam Thảo 3g (Tùy chứng gia vị thêm: ho nhiều thêm Bách Bộ, Bách Hợp; Khí suyễn, đờm khò khè: thêm Địa Long, Đình Lich, Ngô Công…). Sắc uống ngày 1 thang. Trị 33 cas đều khỏi (Trương Tường Phúc, ‘Điều Trị 33 Trường Hợp Ho Gà Bằng Thược Dược Cam Thảo Thang Gia Vị’ – Hồ Nam Trung Y Tạp Chí 1988, 1: 48).

Trị hen suyễn:
Bạch Thược 30g + Cam Thảo 15g. Tán bột. Mỗi lần dùng 30g, thêm nước sôi 100-150ml, nấu sôi 3-5 phút, để lắng cặn, uống nóng. Trị 35 cas, kết quả tốt 8 cas, có kết quả 23 cas, không kết qủa 4 cas, có kết quả trong 3-5 phút: 26 cas, trong 1-2 giờ: 4 cas. có kết quả nhanh nhất là sau 30 phút (Lý Phúc Sinh và cộng sự – ‘Thược Dược Cam Thảo Tán Trị Hen Suyễn’ – Trung Y Tạp Chí 1987, 9: 66).

Trị hội chứng rung đùi:
Bạch Thược + Cam Thảo mỗi thứ 15g, thêm 600ml (3 chén) nước sắc còn 200ml. Chia 2 lần: sáng uống 1 lần, 2 giờ sau uống 1 lần nữa. Trị 54 ca, khỏi 48 ca, có kết quả rõ nhưng tái diễn 6 ca. Tỉ lệ kết quả 100% (Đỗ Hạt Nhiên, ‘Thược Dược Cam Thảo Thang Trị 54 Trường Hợp Hội Chứng Rung Đùi’ – Hà Bắc Trung Y Tạp Chí 1984, 3: 29).

Trị tiểu đường:
Dùng Cam Thảo Giáng Đường Phiến, mỗi lần 4-8 viên (mỗi viên có Bạch Thược + Cam Thảo, chế thành cao khô 0,165g, tương đương thuốc sống 4g. Lượng dùng mỗi ngày tương đương Cam Thảo sống 8g, Bạch Thược sống 40g). Ngày uống 3 lần. Trị l08 ca, kết quả tốt 54 ca, có kết quả 67 ca, tiến bộ 12 ca, không kết quả 47 ca. Tỉ lệ kết quả 79,4% (Vương Tông Căn, ‘Kết Quả Điều Trị Tiểu Đường Bằng ‘Giáng Đường Phiến’- Trung Tây y Kết Hợp Tạp Chí 1986, 10:593).


P1.2. Một số bài thuốc điều trị ung thư sau phẫu thuật

Bài 1: Hồng sâm 3-9g, nấu lấy nước uống có thể uống cùng với nửa thìa canh sữa ong chúa hoặc 1 thìa canh sữa ong để ôn bổ khí huyết. Có thể ăn cả bã sâm, không cần bỏ.
Bài 2: Hoàng kì, đảng sâm, bạch truật, bạch thược, đương qui, hà thủ ô, hoàng tinh, ý dĩ nhân, mỗi thứ 12g; mộc hương, trần bì, mỗi thứ 6g; sa nhân, cam thảo, mỗi thứ 3g, sắc lấy nước uống, ngày 1 thang.
Bài 3: Táo tầu, cùi long nhãn, ý dĩ nhân, nấu thành cháo để ăn thường xuyên. Cũng có thể cho vào đó nhân sâm, cẩu khởi tử để làm thành món cháo bổ bảo vệ sức khoẻ người bệnh sau phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật trong vòng 2-3 tháng, cần uống dài ngày những bài thuốc bổ Đông y để bổ hư, chống ung thư trong 5-10 năm, mỗi năm uống trên 300 thang. Bổ hư cần kết hợp làm cho âm dương khí huyết đang hư suy thịnh vượng lên; nói chung, phần nhiều phải ích khí dưỡng âm, đồng thời kết hợp với làm mạnh khỏe các tạng khí, dưỡng Phế, kiện Tỳ, ích Can, bổ Thận.
Bài 4: Sơn tra, lục khúc, mỗi thứ 12g; mộc hương, trần bì, phật thủ, mỗi thứ 6g; kê nội kim (màng mề gà) nướng, cốc nha sao, mỗi thứ 9g, đậu khấu 3g (cho vào sau). Sắc lấy nước uống. Có công hiệu tỉnh tì khai vị, lí khí hóa thấp, chống ung thư.
Bài 5: Hoàng kì, đảng sâm, bạch truật, phục linh, bổ cốt chi, cẩu khỏi tử, mỗi thứ 12g, sinh mễ nhân 30g, sơn du nhục 6g, trần bì 6g, cam thảo 3g, táo tầu 5 quả, sắc lấy nước uống, ngày 1 thang. Có công hiệu ích khí kiện tì, bổ gan, ích Thận khôi phục lại thể lực, tăng cường công năng miễn dịch của cơ thể, chống ung thư.
Nguyễn Văn Đức (Theo "Những bài thuốc bổ dưỡng chống ung thư- TQ)
Theo Báo NNVN

P1.3. Bài thuốc Nam điều trị ung thư

Toa thuốc chỉ có 2 vị: Bán chi liên và Bạch hoa xà thiệt thảo.

+ Bán chi liên (hoàng cầm râu, thẩm râu) mọc hoang các tỉnh phía Bắc nước ta. Cây thích nghi nơi đất ẩm, mát như ven ruộng, bờ mương. Theo dược sĩ Đỗ Huy Bích thì dược liệu có vị hơi đắng, tính mát. Bộ phận dùng là rễ và cả cây. Tên khoa học của cây: Soutellaria Rivularis wall (Sbarbata D.don) thuộc họ bạc hà (Lamiaceae).
+ Bạch hoa xà thiệt thảo (cơ lưỡi rắn hoa trắng), mọc hoang nhiều nơi ở nước ta. Cỏ thích nghi với đất ẩm, mát, (người viết bài này từ năm 1992 đã tìm được cây mọc ở vườn cà phê, ruộng rẫy trồng màu tại Buôn Đôn, phường Tân Tiến, TP Buôn Ma Thuật, tỉnh ĐăkLăk). Còn vị bán chi liên tôi vẫn tìm mua ở hiệu thuốc Đông y. Theo dược sĩ Đỗ Huy Bích thì dược liệu có vị ngọt nhạt, tính mát. Tên khoa học là: Hedyotis diffusa Willd (Oadenlaria di ffusa roxb) thuộc họ cà phê Rusiaceae).

Cách dùng: Bán chi liên (BCL) 40gr. Bạch hoa xà thiệt thảo (BHXTT) 80gr. Phơi khô, thái nhỏ, rủa sạch, sắc với 600ml trong 2 giờ, nước thuốc dùng dần trong ngày. Uống lúc ấm hay nguội đều được. Dùng thuốc phải kiêng rượu, bia, nước ngọt có ga. Sau khi uống thuốc đi đái, ỉa nhiều. Các chất vôi, chất có mủ, chất độc đều tống ra ngoài. Uống thường xuyên sẽ đi tiểu thoải mái, sạch. Đây là lúc thuốc có hiệu nghiệm. Trong thực tế có người bệnh thấy mót đi đại tiểu tiện nhiều lần, phân có bọt thì rất sợ, dễ bỏ cuộc. Thuốc không có độc. Đặc biệt dùng để phòng và trị ung thư, nhất là ung thư gan, vú, dạ dày, dạ con. Ai có bệnh như kể trên đều dùng được, chỉ có điều là biết dùng lượng thuốc thích hợp cho từng lứa tuổi, tùng thể trạng người.

Tôi xin nêu trường hợp cụ thể. Cụ Trần Văn Hy, 77 tuổi, ở 188 Nguyễn Công Trứ, TP Buôn Ma Thuật, tỉnh ĐăkLăk. Cuối năm 2002 cụ bắt đầu ho, khó thở. Tháng 1/2004 cụ tới bệnh viện TP Hồ Chí Minh để khám và điều trị. Các chuyện gia đầu ngành hội chẩn, dùng nội soi dã phát hiện ung thư thực quản. Khối u như một con đỉa lớn bám dài và chẹn gần hết thực quản. Vì thế cụ uống từng giọt sữa cũng khó khăn. Bệnh viện cho cụ Hy biết: Phương pháp tối ưu và duy nhất là đặt ống tiếp nhận thực phẩm cho sức khỏe ổn định, sau sẽ xạ trị. Cụ dò hỏi thì được biết: Điều trị cách này tốn khoảng 150 triệu đồng và cũng nửa sống nửa chết! Cụ nghĩ: 13 đứa con đã thành đạt thì số tiền không đáng ngại. Ở tuổi cao mà còn phải ăn bằng ống, xạ trị độc hại thì chết sướng hơn! Cụ quyết định không điều trị Tây y nhưng cũng chưa tìm được thầy, được thuốc khác, trong khi sức khỏe đang suy sụp. Buồn tình cụ xem lại chồng sáng tác thơ ca cũ, bất ngờ gặp bài thuốc chép tay chữa ung thư của người bạn (nay đã từ trần) tặng đã 5 năm trước. Bài thuốc đơn giản có 2 vị: BCL và BHXTT. Cụ tự nhủ: Mình uống thử nghiệm xem sao? Đây là bài thuốc bí truyền (như đã kể trên). Ngày 15/5/2004 cụ sắc thuốc. Vì ung thư bít gần hết lòng thực quản, nên uống từng giọt thuốc cũng khó khăn. Nước thuốc thang thứ 6 mới nuốt nhanh được. Uống 40 thang, thấy khỏe, cụ vội mừng! Tháng 8/2004 cụ ngưng uống thuốc. Thấy lại khó chịu, ngày 17/5/2005 cụ xuống Bệnh viện Chợ Rẫy nội soi. Phiếu ghi: Cách cung răng từ 28-33cm có khối u sùi to, bở, dễ chảy máu, giữa khối u có 1 lỗ giống đường dò. Cụ thấy hạch to xuất hiện bên phải trên xương đòn gánh. Về ĐăkLăk cụ uống tiếp thuốc bí truyền. Cụ khỏe, da dẻ hồng hào dần, tóc, râu, lông lại mọc tuy có muối tiêu, chỗ trắng, chỗ đen. Tiếng nói sang sảng, lại làm thơ, sáng tác nhạc, uống bia, rượu. Mới đây tôi tới thăm cụ, cụ cho xem ảnh nội soi: Khối u để lại sẹo bám quanh thực quản như hình bong bóng cá. Hiện nay cụ cân được 53kg, tinh thần rất phấn khởi, lạc quan. Cụ tặng cho một số bệnh nhân bài thuốc, trao đổi kinh nghiệm chữa trị của bản thân.
Qua NNVN bạn đọc muốn hiểu thêm xin liên lạc địa chỉ: Phạm Duy, hộp thư lưu, BĐ Phan Bội Châu, Buôn Ma Thuột, ĐăkLăk.
Sau đây là kết quả của bài thuốc:

Cụ Trần Văn Hy 188 Nguyễn Công Trứ, Buôn Ma Thuật, ĐăkLăk Khỏi ung thư thực quản
Bà Nguyễn Thị Cúc Phường 9, đường Minh Khai, TX Phủ Lý, Hà Nam Hết ung thư vòm họng
Ông Nguyễn Văn Lợi 434/36F Nguyễn Đình Chiếu, F4.Q3, TP.HCM Khỏi ung thư gan, dạ dày
Chị Nguyễn Thị Gái Bán rau ở chợ Krông Buk, ĐăkLăk Khỏi ung thư vú
Bà Hoàng Thị Lý 127/14, F Đông Hưng, Q12, TPHCM Khỏi ung thư tử cung
Bà Nguyễn Thị Thư Quỳnh Hồng, Quỳnh Phụ, Thái Bình Khỏi ung thư tử cung
Chồng chị Lý 97 Trần Phú, Nha Trang, Khánh Hòa Khỏi ung thư vòm họng

Phạm Duy (Hội Đông y Buôn Đôn, ĐăkLăk)
Theo Báo NNVN

P1.4. Cách dùng cây Nha Đam chữa bệnh Ung Thư
Nguyễn Văn Hoà và Huỳnh Duy Thưởng Sưu Tầm

Thần dược là loại cây ALOE VERA, tiếng Việt Nam tùy địa phương gọi là cây Lô Hội, Long Tu hay Nha Đam. Cây Aloe Vera thuộc dương, tính hàn, vị hơi đắng, không độc. Dược năng của nó có tính sát trùng, thông tiểu tiện, thanh nhiệt, giúp mát gan và trị các chứng táo bón, nhức đầu và xung huyết nội tạng phủ.
Người ta thường dùng cây này để trị vết thương bị bỏng, các vết thương ngoài da và tàn nhang, và các căn bịnh ung thư, tiểu đường, huyết áp máu
Thật ra mọi dân tộc trên thế giới đều biết tới công hiệu chư bệnh của cây Aloe. Có tất cả trên 300 loại Aloe, nhưng các loại thường được dùng để chữa bệnh là: Aloe Vera, Aloe đảo Socotra, Aloe vùng Cape Nam Phi Châu, Aloe Saponara, Aloe Sinensis, Aloe Arborescens, Aloe vùng Natale và Aloe Forox. Loại thông thường nhất là aloe Vera. Cây Aloe Vera hay Aloe hay aloe Barbadenses là một loại dứa cảnh, lá thon, hai bên có gai nhọn dài trung bình từ 40cm - 50cm, cây có chiều cao từ 60cm - 90cm. Bên trong lớp vỏ xanh là chất thạch đắng. Theo bảng phân chất của linh mục bác sĩ Grandi trong dòng Franciscan làm việc tại Trung Tâm Nghiên Cứu La Torre tỉnh Torino , vùng bắc Italy, cây Aloe gồm các chất sau đây:

1. Mười ba chất khác nhau thuộc loại Lignine, Saponine, và Antrachinono, chứa các chất trụ sinh chống lại các vi khuẩn: Aloina: catartico ed emetico, Isobarbaloinia: analgesisco ed antibiotico - Antranolo -Antracene - Baraloina (glucoside barbaloico): antibiotico e catartico - Acido aloeitico - Emodine d'aloe: battericiad e lassativo - Acido cinnamico:mico: detergente, germida e unghicicida - Estere dell' acido cinnamico" calmante - Olio etero: analgesico ed anestetico - Acido criso-fanico:funghicida- Aloe ulcine: inibitore della-secrezione gastricaper reazione con L'istamina - Resestanolo.
2. Tám loại Vitamine cần thiết cho sức lớn mạnh của các tế bào dưỡng nuôi thân thể, tái tạo ra máu, điều hoà cơ thể và chữa lành các vết thương: Vitamine A (Carotene), Vitamine B1 (Tiamina: cần thiết cho sức mạnh của các tế bào và sản xuất năng lượng), Vitamine B2 Niacina e reibiflavina: tác động chung với vitamine B6 để tạo ra máu), Niacinamide (Niacine: giúp điều hoà hệ thống biến sinh thái của cơ thể), Vitamine C (Acido asorbico: cùng với vitamine E chống lại sự nhiễm trùng và giúp vết thương lành thẹo), Vitamine E Torocoferolo: công hiệu giống như vitamine C), Colline (Vitamine thuộc loại B: giúp hệ thống biến sinh thái của cơ thể) và sau cùng là Vitamine M (Acido foloco: trợ giúp việc sinh sản máu).
3. Cây Aloe Vera chứa hơn 20 thứ muối đạm cần thiết cho cơ thể. Sau đây là những loại chính: Calcio cùng với chất fosforo tạo thành xương) Fosforo, Potassio; Ferro chất sắc trong máu giúp giữ dưỡng khí) sodio; Cloro; Manganese (cùng với chất Magnessio giúp các bắp thịt và hệ thống thần kinh hoạt động) Cromo (giúp sinh hoạt của các chất mên và chất át-xít-béo) Zinco (kích thích sinh hoạt của chất proteine trong việc làm lành vết thương).
4. Saccaridi đơn và đa dạng: Cellulosa - glucosio - manosio - aldoso - acidouronico - lipasi - aninasi - L - ranoco; Carrisyn (là chất mới được khám phá ra có nhiệm vụ củng cố hệ thống kháng tố)
5. Aminoacid chính yếu: Isoleucina, Leucina, Lisina, metionina, fenilanina, tionina, vilina.
6. Aminoacidi phụ thuộc: Acido aspatico, acido glutamico, alamina, arginina, metiocistina, glicina, istidina, idrossiprolina, prolina, serina, tiroxina.
7. Các chất men (các chất men ốc-xít của cây Aloe hút các yếu tố nồng cốt: Fosfatasi acida; Amilasi, Bradichinasi hay Bradichi-ninasi (giảm đau, chống sưng (viêm) kích thích bảo vệ kháng tố); Catalasi (ngăn chặn không cho chất H202 đọng trong các tế bào); Cellulas (giúp chất Cellulosa tiêu hoá) lipasi (giúp tiêu hoá); Nucleotidasi alcalin; Proteolitiasi hay Protease (giúp các yếu tố tạo thành chất proteine tan trong nước); Acido salicilico; Acido crisofanico; oli volatili.
Người ta thường dùng cây này để trị vết thương bị bỏng, các vết thương ngoài da và tàn nhang. Dưới đây là một vài công thức pha chế trị bệnh:
- Bệnh ung thư: Một kg cây Aloe Vera (gọt bỏ phần có gai hai bên lá), 200 gram mật ong nguyên chất và 3 hay 4 muỗng canh rượu mạnh. Tất cả bỏ vào máy sinh tố xay đều lấy nước uống 1 ngày 3 lần, uống 15 phút trước bữa ăn, mỗi lần uống chừng 20 ml (1 muỗng canh). Uống liên tục trong nhiều tháng, đi khám bác sĩ sẽ thấy bệnh thuyên giảm, đặc biệt hoặc khỏi hẳn.

Chữa Ung Thư Gan.
Hai lá lớn, hoặc ba lá nhỏ cây Aloe Vera
Nửa ký mật ong
và ba bốn muỗng rượu mạnh.
Sau khi rửa sạch lá, gọt bỏ hai cạnh có gai. Bỏ chung tất cả vào máy xay sinh tố xay nhuyễn thành một loại xi-rô. Trước khi dùng thì lắc đều lên. Mỗi ngày uống ba lần, 15 phút trước khi ăn sáng, trưa và tối, mỗi lần một muỗng canh xi rô Aloe Vera.
Mật ong là loại thực phẩm mà cơ thể con người hấp thụ dễ dàng. Chất rượu mạnh khiến cho mạch máu nở lớn để cho mật ong pha lẫn Aloe Vera tới với mọi tế bào trong toàn cơ thể, vừa nuôi dưỡng vừa chữa lành mọi vết thương và lọc máu. Bình thường việc chữa trị kéo dài 10 ngày. Sau 10 ngày nên đi khám nghiệm để biết bệnh tình ra sao và so sánh kết quả trước và sau khi điều trị, để nếu cần thì uống tiếp 10, 20, hoặc 30 ngày nữa cho tới khi hoàn toàn khỏi bệnh. Cần phải đi bác sĩ khám nghiệm để biết bệnh tình tiến thoái ra sao. Cần phải kiên trì và nhẫn nại. Nhưng hiệu quả của cây Aloe Vera rất chắc chắn và mạnh mẽ, chống lại bất cứ lọai ung thư nào: từ ung thư da, cho tới ung thư cổ họng, ung thư vú, ung thư dạ dầy, ung thư ruột, v.v.... và cả ung thư máu nữa.

- Bệnh xơ gan cổ chướng: Lấy một nắm cây Aloe Vera gọt bỏ phần có gai hai bên lá, nửa lít mật ong nguyên chất. Tất cả bỏ vào máy sinh tố xay đều lấy nước uống 1 ngày 3 lần (15 phút trước bữa ăn), mỗi lần uống chừng 20 ml (1 muỗng canh). Uống liên tục nhiều tháng bệnh sẽ thuyên giảm khả quan hoặc khỏi hoàn toàn. Lưu ý không có thêm rượu cho người bị bệnh gan.

- Bệnh tiểu đường và cao huyết áp:
+ Cách thứ nhất: Lấy một nắm lá Aloe Vera gọt bỏ phần có gai hai bên lá, nấu sôi để nguội. Tất cả bỏ vào máy sinh tố xay đều lấy nước uống 1 ngày 3 lần (15 phút trước bữa ăn). Mỗi lần dùng khoảng 1 muỗng canh.
+ Cách thứ hai: Lấy một nắm lá Aloe Vera nấu sôi để nguội. Uống nước và ăn lá đã nấu chín, 1 ngày 3 lần (15 phút trước bữa ăn). Mỗi lần dùng khoảng 1 muỗng canh.
+ Cách thứ ba: Mỗi ngày lấy 1 hay 2 lá Aloe Vera gọt vỏ, ăn sống. Ăn mỗi ngày 3 lần trong nhiều tháng sẽ có kết quả khả quan. Những người bị huyết áp mà không bị tiểu đường thì có thể ăn với đường nguyên chất hoặc đường phèn. Người bị tiểu đường nhưng huyết áp cao thì ăn với muối.

Ghi chú cho người khỏe mạnh muốn ngừa Ung Thư:
Mỗi năm 1 lần
Mỗi lần 10 ngày, mỗi ngày 3 lần.
Mỗi lần 1 muỗng suop. Uống trước khi ăn nửa tiếng.

Sau đây là nguồn gốc của toa thuốc và những kinh nghiệm của người đã sử dụng toa thuốc cây Aloe Vera - Nha Đam.
Linh mục Romano Zago sinh năm 1932 tại Lajeado (Bresin) Nam Mỹ, thuộc Giáo phận Porto Alegve dòng Thánh Phanxico đã nghiên cứu và tìm ra một loại thần dược giúp chữa trị khỏi hẳn các bệnh nan y như ung thư, tiểu đường, xơ gan cổ chướng. Những bệnh thông thường khác đều được chữa lành trong một thời gian ngắn. Kỳ tích của vị linh mục này đã gây ngạc nhiên cho giới y khoa toàn thế giới.
Việc khỏi bệnh ung thư đầu tiên xảy ra hồi nam 1987. Hồi đó tại Bethlehem có một cụ già bị bệnh ung thư tuyến tiền liệt vào thời cuối. Các bác sĩ thất vọng không chữa được nên đã cho cụ rời nhà thương để cụ được chết tại nhà giữa những người thân. Cha Romano được gọi đến ban bí tích . Sau khi ban các bí tích cho cụ, cha đề nghị cụ thử chữa bệnh với phương thuốc của cha. Ông cụ khỏi bệnh và hiện nay còn sống với con cháu, rất là khỏe mạnh, dù đã 85 tuổi. Sau đó bình xi-ro Aloe Vera do cha Romano làm cho ông cụ, bị một nữ tu giúp việc trong dòng Franciscan bỏ quên trong một xó bếp, cho tới một hôm nữ tu Silvana, y tá của nhà dòng biết tin một bà bạn bịnh ung thư. Chị chợt nhớ tới bình xi-rô của cha Romano và đưa cho người bạn uống rồi làm thêm xi-rô với lá cây Aloe Vera. Chỉ trong vài tháng chị bạn khỏi bệnh ung thư và sống rất khỏe mạnh và yêu đời. Sau đó, một trong hai ông thư ký của trường Thánh địa Bethlehem bị ung thư cổ họng nói không ra tiếng. Linh mục Raffaelle Caputo giám đốc trường kêu cứu cha Romano Zago. Cha Romano tới thăm ông ta với một lọ xi-rô Aloe Vera lớn. Chỉ hai tháng sau ông thư ký khỏi bệnh, nói được và làm việc bình thường trở lại.
Tuy nhiên, việc chữa bệnh cảm động nhất mà cha Romano còn nhớ là vụ của chú bé Geraldito người Argentina, 5 tuổi. Geraldito bị ung thư máu. Sau khi tìm mọi cách chữa trị mà không có kết quả khả quan, các bác sĩ đề nghị với cha mẹ em phương thức cấy tủy vào xương sống của Geraldito. Đây là loại giải phẩu rất phức tạp và mắc mỏ, nhưng vì thương con hai ông bà cũng cố gắng. Người cho tủy không ai khác là chú bé người anh của Geraldito. Vụ giải phẩu cấy tủy được thực hiện tại nhà thương tối tân ở Barceloma, Tây Ban Nha, và coi như thành công mỹ mãn. Nhưng kết quả đã không kéo dài được lâu. Bệnh ung thư máu tái xuất hiện, lần này nặng hơn trước. Các bác sĩ hoàn toàn bất lực và thất vọng không cứu sống được Geraldito. Cha mẹ của em rất buồn. Nhưng là tín hữu có lòng tin sâu xa, hai ông bà quyết định đem đứa con lớn và Geraldito sang hành hương Thánh Địa, vừa để cho Geraldito khuây khoả, vừa là cho hai con viếng thăm vùng đất, nơi ngày xưa chúa Giesu sinh ra và lớn lên, rong ruổi đó đây rao giảng, làm phép lạ chữa bệnh tật cho biết bao nhiêu người, đã chết và đã sống lại. Biết đâu bệnh của con họ được chữa khỏi. Thế là hai người đưa các con sang Thánh Địa. Hôm đó cả gia đình tới viếng thăm Vương cung thánh đường tại Bethlehem và đang qùy cầu nguyện trước hang đá, nơi Chúa Giesu đã sinh hạ cách đây 2000 năm. Lúc đó cũng là giờ các cha Franciscan xếp hàng đi rước kiệu và hát kinh chiều, trong đó có cả cha Romano Zago. Nhìn thấy hai vợ chồng trẻ và hai đứa con thơ đang qùy cầu nguyện thành khẩn, cha chắc gia đình này đang có vấn đề. Cha đến chào thăm hỏi chuyện và biết được nỗi lo âu đau khổ của gia đình này. Cha đề nghị dùng thử phương thuốc chữa bệnh của cha trong vòng một tháng, mà không hứa hẹn gì cả. Geraldito đã ngoan ngoãn uống xi-rô Aloe Vera do cha Romano xay cho em. Sau một tháng, Geraldito đã vui vẻ theo cha mẹ và người anh đã hiến tủy cho em, theo các cha Franciscan đi rước kiệu và hát kinh chiều rất hân hoan. Cha Romano đề nghị cả gia đình ở lại thêm một tháng nữa để cho bé Geraldito tiếp tục phương thuốc điều trị đơn giản này. Nhưng truớc khi tháng thứ hai chấm dứt, các bác sĩ đã cho biết em đã hoàn toàn khỏi bệnh ung thư máu. Do đó, chưa tới cuối tháng thứ hai, cả gia đình đã có thể ra về trong niềm vui sướng khôn tả và trong tâm tình cảm mến tạ ơn chỉ qua mấy lọ xi rô lá cây Aloe Vera do cha Romano Zago làm.
Chính cha Romano Zago đã kể lại các vụ chữa bệnh công hiệu trên đây trên tờ Nguyệt San "Thánh Địa" số ra cho hai tháng Mười Một và Mười Hai, năm 1993, để cho mọi người biết rằng, có thể chữa lành bệnh ung thư với các chất liệu của cây Aloe Vera.
(Viết theo Vittorio Bosello, OFM, IL Miraclo dell' Alòe e del Miele, La Terra Santa, November - December 1993, Marzo Aprile 1995).

Dưới đây là lá thư của anh Huỳnh Duy Thưởng.
Tôi xin chia sẻ cùng những ai có bệnh tật ngặt nghèo một phương thuốc chữa trị mọi loại ung thư mà bản copy đính kèm có đề cập, cùng vài bệnh nan y khác dầu không được nói đến trong bản copy mà chính bản thân của tôi may mắn kinh nghiệm khi thử dùng thuốc này.
Phương thuốc này rất đơn giản, rẻ tiền, từ mình pha chế được mà công hiệu lại rất thần kỳ. Thần kỳ ở chỗ y khoa hiện đại phải sử dụng nhiều phương tiện tối tân để chữa trị có khi phải cắt xén bộ phận cơ thể; bài thuốc giản đơn rẻ tiền này khi được dùng giúp lành bệnh ngay, không phải mổ xẻ cắt xén gì. Một điều hay nữa là người không bệnh có thể uống để ngừa mà không bị biến ứng nào, vì thật ra uống thuốc này cũng chỉ là ăn lá rau, hay uống nước trái cây xay nhuyễn.
Giờ xin nói đến kinh nghiệm dùng thuốc và kết quả của gia đình tôi. Chị tôi ở tiểu bang Washington bị cao máu, tiểu đường, rồi lại thêm bệnh ung thư máu nữa. Chị thường cầu nguyện cho gặp đúng thuốc. Và may mắn chị được người quen cho bản copy đính kèm nói đến bài thuốc trị mọi loại ung thư. Như người sắp chết đuối được phao, không chần chờ chị làm và uống. Sáu ngày sau đến kỳ hẹn thử nghiệm tại bệnh viện. Kết quả đã gây ngạc nhiên cho bệnh viện. Họ hẹn thêm sáu ngày sau thử nghiệm lại, rồi sau sáu ngày thử lại nữa, rồi sau đó mỗi tháng thử một lần. Lần sau cùng bệnh viện cho chị biết kết quả: huyết áp tốt, tiểu đường tốt, không còn thấy triệu chứng ung thư máu nữa.
Chị có người em gái bạn dì trước cũng bị ung thư vú đã mổ cắt bỏ một bên, nay bên kia lại nổi bướu nữa. Khi nghe chi tôi kể lại sự hiệu nghiệm của bài thuốc này, cô em liền dùng. Tới ngày bệnh viện hẹn đến để mổ, họ xác nhận cục bướu đã xẹp mất, khỏi mổ.
Con trai chị có người bạn mà người cha bị ung thư gan, nghe nói bài thuốc linh nghiệm cũng dùng. Bệnh của ông hết và gia đình điện thoại cám ơn.
Nhờ sự may mắn sử dụng bài thuốc này mà bệnh ung thư máu và tiểu đường của chị tôi đã hết, con dâu của chị bị suyễn cũng uống thử, nay cô không còn phải dùng máy bơm nữa. Em trai tôi bị bệnh trĩ cũng uống thử, bệnh bớt. Mẹ chồng của chị bị bệnh gan phải thường đến bệnh viện rút nước ra cũng uống thử. Nay bà đã mạnh, không phải rút nước ra nữa. Lại có một cô em bạn dì thử uống để trị bệnh táo bón từ mấy chục năm nay của mình, bệnh táo bón hết.
Người lớn tuổi khi uống thuốc này thấy ăn ngon. Ngủ ngon. Không bị bón.
Nguồn: http://www.QuanTheAmBoTat.com

P1.5. Những cây thuốc ở Việt Nam có tác dụng chống ung thư

Gần đây Trung Quốc đã công bố rất nhiều nghiên cứu liên quan đến tác dụng điều trị ung thư của các thuốc Trung y, chủ yếu là cây thuốc. So sánh với các tài liệu dược liệu của nước ta tôi bước đầu thấy có các cây thuốc sau đây có mặt ở nước ta:

1. Cây Ngưu tất (Achyranthes bidentata) , còn gọi là cây Cỏ xước, Hoài ngưu tất, twotooth Achyranthes: Sử dụng cành lá và rễ
phơi khô

2. Cây Nam Sa sâm (Adenophora tetraphylla), còn gọi là cây Bào sa sâm, Fourleaf Ladybell: Sử dụng rễ khô.

3. Cây Thiên môn đông (Asparagus cochinchinensis), còn gọi là cây Thiên đông, Thiên môn, Dây tóc tiên: Sử dụng rễ khô

4. Cây Bạch truật (Atractylodes macrocephala), còn gọi là Đông truật, Ư truật, Triết truật, Largehead Atractylodes: Sử dụng rễ khô.

5. Cây Xạ can (Belamcanda sinensis), còn gọi là cây rẻ quạt , la cho, Iris tigré, Blackberrylily: Sử dụng căn hành (thân rễ) khô

6. Cây Rung rúc (Berchemia lineata), còn gọi là cây Rút dế, cứt chuột, Đồng bìa, Lineat Supplejack: Sử dụng rễ khô

7. Cây Đơn buốt (Bidens bipinnata), còn gọi là cây Đơn kim, Cỏ Quỷ trâm, Spanishneedles: Sử dụng phần trên mặt đất.

8. Cây Tâm giá (Capsella bursa-pastoris),còn gọi là cây Rau tề, Tề thái hoa, Shepherdspurse: Sử dụng bộ phận trên mặt đất phơi khô.

9. Cây Cúc hoa trắng (Chrysanthemum indicum),còn gọi là cam cúc hoa, Cúc điểm vàng, Hoàng cúc: Sử dụng hoa khô.

10. Cây Ý dĩ (Coix lachryma-jobi), còn gọi là cây Dĩ mễ, Dĩ nhân, Ý dĩ nhân, Bo bo: Sử dụng nhân hạt chín phơi khô

11. Cây Thài lài trắng (Commelina communis) còn gọi là Cỏ lài trắng, Cỏ chân vịt, Áp chích thảo,Common Dayflower: Sử dụng phần trên mặt đất phơi khô

12. Cây Mỏ quạ (Cudrania tricuspidata), còn gọi là cây Hoàn lồ, Vàng lồ, Xuyên phá thạch, Tricuspid Cudrania: Sử dụng thân cành phơi khô

13. Cây Nghệ (Curcuma longa), còn gọi là cây Uất kim, Khương hoàng, Safran des Indes, Tumeric: Sử dụng thân rễ (củ)

14. Cây Thỏ ty tử, Tơ hồng (Cuscuta sinensis), còn gọi là Đậu ký sinh, Miễn tử: Sử dụng hạt cây tơ hồng

15. Cây Thạch hộc (Dendrobium nobile), còn gọi là cây kim thạch hộc, hắc tiết thảo, hoàng thảo: Sử dụng thân cây tươi hoặc khô.

16. Cây Cúc áo (Eclipta prostrata), còn gọi là cây Hoa cúc áo, Ngổ áo, Nụ áo lớn, Hắc chấp thảo, Cresson de Para, Yerbadetajo: Sử dụng phần trên mặt đất phơi khô.

17. Cây Cỏ mần trầu (Eleusine indica), còn gọi là Cỏ ngưu cân, Sam tử, Tất suất, Cỏ vườn trầu, Cỏ dáng, Cỏ bắc, Chỉ tía, Thiên cân Sử dụng toàn cây phơi khô.

18. Cây Sung thằn lằn, Trâu cổ (Ficus pumila), còn gọi là cây Sung thằn lằn, Trâu cổ, Climbing Fig: Sử dụng đế hoa khô.

19. Nấm Linh chi (Ganoderma lucidum), còn gọi là Nấm mộc chi, nấm Lim,
nấm trường thọ, Lucid Ganoderma (đã nuôi trồng nhân tạo được): Sử dụng mũ nấm khô

20. Cây Bồ kết (Gleditschia sinensis), còn gọi là Cây tạo giác, Tạo giáp, Man khét, Thiên đinh, Tạo đinh, Chinese Honeylocust: Sử dụng gai khô

21. Cây Cam thảo bắc (Glycyrrhiza glabra), còn gọi là cây Cam thảo, Sinh cam thảo, Quốc lão, Quang quả cam thảo, Hồng cam, Liquorice: Sử dụng căn hành và rễ khô.

22. Cây Bông vải (Gossypium herbaceum) còn gọi là Miên hoa, Thảo miên, Thổ hoàng kỳ, Levant cotton: Sử dụng rễ khô.

23. Cây Phù dung (Hibiscus mutabilis) còn gọi là cây Mộc liên, Địa phù dung, Hoa cửu đầu, Hoa tam biến, Cottonrose Hibiscus : Sử dụng lá khô

24. Cây Ban Nhật ( Hypericum japonicum), còn gọi là cây Điền cơ hoàng, Cỏ Hoàng hoa, Cỏ Đối diệp, Japonese St. John’swort : Sử dụng toàn cây phơi khô.

25. Cây Bóng nước (Impatiens balsamina) còn gọi là cây Nắc nẻ, Móng tay lồi, Hoa Phượng tiên, Cấp tính tử, Bông móng tay, Garden balsam: Sử dụng toàn cây phơi khô và hạt khô.

26. Cây Ích mẫu (Leonurus heterophyllus), cây Sung úy, Chói đèn , Hồng y ngải, Khôn thảo, Motherwort: Sử dụng phần trên mạt đất.

27. Cây Đạm trúc diệp (Lophatherum gracile) còn gọi là cây Toái cốt tử, Trúc diệp mạch đông, Mễ thân thảo, Sơn kê mễ, Kim kê mễ : Sử dụng cành lá khô.

28. Cây Chua me đất hoa vàng (Oxalis corniculata) còn gọi là cây Tạc tương thảo, Tam diệp toan, Toan vị thảo, Chua me ba chìa, Creeping Woodsorrel : Sử dụng toàn cây phơi khô.

29. Cây Bảy lá một hoa (Paris polyphylla) còn gọi là cây Thất diệp nhất chi hoa, Độc cước liên, Thiết đăng đài, Chi hoa đầu, Tảo hưu, Thảo hà xa, Trọng lâu, Thất tử liên, Đăng đài thất, Paris: Sử dụng củ (thân hành) khô.

30. Cây Sơn từ cô (Pleione bulbocodioides) còn gọi là cây Mao từ cô, Băng cầu tử, Bulbocodioides Pleione: Sử dụng thân hành khô

31. Cây Rau đắng (Polygonum aviculare) còn gọi là cây Xương cá, Càng tôm, Biển súc, Đại biển súc,Trúc tiết thảo , Common knotgrass : Sử dụng phần trên mặt đất phơi khô.

32. Cây Củ cốt khí (Polygonum cuspidatum) còn gọi là cây Hoạt huyết đan, Tử kim long, Ban trượng căn, Hổ trượng căn, Điền thất, Hoa ban trúc, Đại diệp xà tổng quản, Toan đồng trúc, Giant Knotweed: Sử dụng rễ và phần trên mặt đât phơi khô.

33. Cây Má ngọ (Polygonum perfoliatum) còn gọi là cây Nghể xuyên lá, Hà bạch thảo, Lê đầu thích, Xà đảo thoái, Perfoliate Knotweed: Sử dụng phần trên mặt đất.

34. Cây Răm nước (Polygonum hydropiper) còn gọi là cây Nghể, Thủy liễu, Lạt liễu, Red-kness: Sử dụng toàn cây phơi khô.

35. Cây Hạ khô thảo (Prunella vulgaris) còn gọi là cây Thiết sắc thảo, Common Selfheal: Sử dụng chùm quả khô.

36. Cây Phá cố chỉ (Psoralea corylifolia) còn gọi là cây Phá cố tử, Bổ cốt chỉ, Hồ cửu tử, Hà lan hiện, Malaytea Scurfpea: Sử dụng quả chín phơi khô.

37. Cây Seo gà (Pteris multifida) còn gọi là cây Phượng vĩ thảo, Kim kê vĩ, Tỉnh khẩu biên thảo, Chinese Brake: Sử dụng toàn cây phơi khô.

38. Cây Sắn dây (Pueraria thompsoni) còn gọi là cây Cát căn, Cam cát căn, Phấn cát, Can cát, Cát đằng, Kudzuvine: Sử dụng rễ khô.

39. Cây Thạch vĩ ( Pyrrhosia lingua) còn gọi là cây Thạch bì, Kim tinh thảo, Kiếm thảp, Kim thang chủy, Shearer’s Pyrrosia: Sử dụng lá khô.

40. Cây Sinh địa (Rehmannia glutinosa) còn gọi là Địa hoàng, Thục địa: Sử dụng rễ khô.

41. Cây Đại hoàng (Rheum officinale) còn gọi là cây Xuyên đại hoàng, tướng quân, Sinh quân, Hương đại hoàng, Mã đế hoàng, Rhubarb: Sử dụng rễ và căn hành khô.

42. Ngũ bội tử (Galla sinensis) còn gọi là Bách trùng thương, Bách dược tiễn, Chinese Gall- là tổ của sâu Melaphis sinensis, Schlechtenladia sinensis, thường ký sinh trên các cây Muối (Rhus sinensis) còn gọi là cây Diêm phu mộc. Lấy về vào tháng 9, hấp chết sâu rồi phơi khô để sử dụng.

43. Cây Kim anh (Rosa laevigata) còn gọi là cây Thích lê tử, Đường quân tử, Thích đầu, Kim anh tử, Hoàng trà bình, Cherokee Rose: Sử dụng rễ khô

44. Rong Mơ (Sargasum fusiforme) còn gọi là Dương thê thái, Hải đới hoa, lạc thủ, Seaweed: Sử dụng rong phơi khô

45. Cây Hồng đằng (Sargentodoxa cuneata) còn gọi là cây Thuyết đằng, Đại hoạt huyết, Huyết thông, Đại huyết thông, Sargengloryvine: Sử dụng thân cành phơi khô.

46. Cây Hàm ếch (Saururus sinensis) còn gọi là cây Tam bạch thảo, Đường biên ngẫu, Bạch diện cô, Bạch thiệt cốt. Chinese Lizardtail: Sử dụng rễ (căn hành) hay toàn cây phơi khô.

47. Cây Hoàng cầm (Scutellaria baicalensis) còn gọi là cây Sơn trà, Thổ kim trà, Hoàng linh trà, baical Skullcap: sử dụng rễ khô.

48. Cây Thổ phục linh (Smilax glabra) còn gọi là Hồng thổ linh, Sơn trư phấn, Sơn kỳ lương, Linh phạn đoàn , Glabrous Greenbrier: Sử dụng rễ (căn hành) khô.

49. Cây Dây toàn (Solanum lyratum) còn gọi là cây Già căn, Thục dương tuyền, Bạch mao đằng, Bittersweet : Sử dụng phần trên mặt đất phơi khô.

50. Cây Lu lu đực (Solanum nigrum) còn gọi là cây Thù lù đực . Long quỳ, Thiên gia tử, Khổ quỳ, Black Nightshade: Sử dụng phần trên mặt đất phơi khô.

51. Cây Khổ sâm cho rễ (Sophora flavescens) còn gọi là cây Dã hòe, Khổ cốt, Dã hòe, Sơn hòe tử, Lightyellow Sophora: Sử dụng rễ khô.

52. Cây Qua lâu (Trichosanthes kirilowii) còn gọi là cây Qua lâu, Thảo ca, Snakegourd: sử dụng vỏ quả và hạt.

53. Cây Mã tiên thảo (Verbena officinalis) còn gọi là cây Cỏ roi ngựa, Hồng đằng thảo, Thiết mã tiên, Phong cảnh thảo, European Verbena: Sử dụng phần trên mặt đất phơi khô.

54. Cây Niệt gió (Wikstroemia indica) còn gọi là cây Gió cánh, Liễu ca vương, Địa miên căn, Sơn ma bì, Indian Stringbush: Sử dụng thân ,lá và rễ.

55. Cây Hạt sẻn (Zanthoxylum nitidum) còn gọi là cây Lưỡng diện châm, Hoa tiêu, Hoa tiêu thích, Sơn hồ tiêu thích, Ba tiêu, Sưng, Hoàng lực, Dã hoa tiêu, Xuyên tiêu, Nhập địa kim ngưu, Lưỡng diện thích, Shinileaf Pricklyash.

GS.Nguyễn Lân Dũng
Hội các ngành Sinh học Việt Nam.
Nguồn : Vietsciences


Phụ lục 2. MỘT HY VỌNG MỚI CHO NHỮNG NGƯỜI BỊ BỆNH UNG THƯ:


ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BẰNG SINH TỐ D.
Trong tuyển tập nghiên cứu về bệnh Ung Thư (Critical Reviews in Oncology Hematology) được ấn hành bởi Elsevier, nhà xuất bản lớn nhất thế giới về khoa học và y khoa, có một chương nói về cách điều trị và phòng ngừa ung thư của hai Giáo Sư Y Khoa người Việt Nam: Bác Sĩ Lương Vinh Quốc Khanh và Bác Sĩ Nguyễn Thị Hoàng Lan.
Bác sĩ Lương Vinh Quốc Khanh là Hội Viên (Fellow) của 6 trường Đại Học về Chuyên Khoa Y Khoa và 1 trường Đại Học Y Khoa Anh Quốc. Ông là Giáo Sư Thỉnh Giảng của Đại Học Y Khoa UCLA, Giáo Sư của trường USC, Keck School of Medicine, Los Angeles.
Bác sĩ Nguyễn Thị Hoàng Lan là Hội Viên của 3 trường Đại Học Chuyên Khoa Y Khoa và là Giáo Sư trường USC, Keck School of Medicine, Los Angeles.
Nhân một cơ hội được đọc chương về Cách Dùng Sinh Tố D để trị Bệnh Ung Thư nói trên, người viết đã làm một cuộc phỏng vấn ngắn ngủi với Giáo Sư Bác Sĩ Lương Vinh Quốc Khanh.
-H: Xin bác sĩ cho biết nguyên nhân nào dẫn tới việc nghiên cứu về Sinh Tố D để trị và ngăn ngừa bệnh ung thư.
-Đ: Tôi đã nghiên cứu về sự liên hệ của sinh tố D và bệnh ung thư từ 20 năm nay. Tôi đã từng hợp tác nghiên cứu với một giáo sư nổi tiếng về Sinh tố D của Mỹ. Lý do dẫn tôi tới việc nghiên cứu này là một khám phá tình cờ. Trong lúc điều trị cho những người Việt Nam bị bệnh ung thư, tôi nhận thấy những bệnh nhân này có một đặc điểm chung là cùng thiếu Sinh tố D. Trước đó, tôi đã chia xẻ điều khám phá này với các vị thầy cũng như đồng nghiệp của tôi nhưng rất ít người đồng ý với ý kiến của tôi, có khi còn cho ý kiến ngược lại. Tôi nhớ khi tôi còn ở Đại Học UCLA và bắt đầu nghiên cứu về sự liên hệ giữa sinh tố D và căn bệnh quái ác này, ông thầy tôi gọi điện thoại cho tôi, chê trách là tôi không hiểu gì về sinh tố
D cả. Ông thầy cho rằng người dân ở California không bao giờ thiếu Sinh tố D. Nhưng kêt quả thực tế do tôi khám phá là các người bệnh ung thư ở California đều thiêu sinh tố D. Mãi sau này, ông thầy tôi mới xin lỗi vì không bao giò ông nghĩ là các bệnh nhân ung thư đều thiếu sinh tố D.
-H: Điều đáng mừng là sinh tố D có thể mua tại bất cứ dược phòng nào, phải không?
-Đ: Thật ra không phải cứ là sinh tố D thì có thể mua tự do tại các dược phòng. Có nhiều loại sinh tố D. Loại sinh tố D dùng để chữa bệnh ung thư phải có toa bác sĩ mới mua được. Loại cần toa bác sĩ này tốt gấp 10 lần các loại thông thường. Mấy loại mua ngoài chợ không có giá trị. Bản thân tôi khi chữa trị cho người mắc bệnh ung thư, đều dùng loại cần toa bác sĩ. Yếu tố này, thoạt đầu, cũng không được các đồng nghiệp khác đồng ý. Ngay chính ông thầy tôi cũng phản ứng khi được biết tôi chuyên dùng loại sinh tố D cần toa bác sĩ. Ông Thầy tôi cũng thắc mắc hỏi tại sao tôi chỉ cho toa mua loại này, sao không cho họ xài loại bán ngoài chợ. Các khảo cứu sau này cho thấy chỉ có loại sinh tố D cần toa bác sĩ, vì chỉ có loại ấy mới bám
vào tế bào và tác dụng trên tế bào ung thư.
-H: Khi tôi còn đi học, tôi được nghe nói là các yếu tố tiền sinh tố D nằm dưới da, có đúng không?
-Đ: Đúng thế, các yếu tố tiền sinh tố D3 nằm dưới da. Nhờ tia ultra violet của mặt trời, các yếu tố này biến thành 25-sinh tố D3. Các chất 25-sinh tố D3 này vào tới Thận biến thành 1,25-sinh tố D3. Chính 1,25-sinh tố D3 này mới có tác dụng trên cơ thể. Chất tiền 24,25-sinh tố D3, nếu không tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thì không thể biến thành 1,25-sinh tố D3. Nhưng cũng có trường hợp luôn ở dưới ánh nắng mặt trời nhưng vẫn thiếu sinh tố D3. khỏang 1/3 đến phân nửa dân số sinh sống ở Sub-Sahara Phi Châu và Trung Đông được xem là thiếu sinh tố D. Như những người da đen, họ thường thiếu sinh tố D vì da họ đen quá làm cản tác dụng biến tiền sinh tố D thành sinh tố D3. Mũ che nắng, Sunblock cũng cản tia tử ngoại (UV) nữa. Da của người lớn
tuổi cũng cản tia tử ngoại. Tế bào da của người lớn tuổi cũng không phát triển, thì người lớn tuổi cũng sẻ thiếu sinh tố D.
-H: Còn yếu tố nào làm thiếu sinh tố D không?
-Đ: Người Việt Nam thường bị viêm gan, các tế bào gan giảm đi, thì việc thay đổi từ 25-sinh tố D sang 1,25-sinh tố D3 cũng giảm đi. Đau Thận cũng làm giảm thiểu sự biến hóa 1,25-sinh tố D3. Một điều cần lưu ý là có nhiều người phơi nắng rất nhiều cũng thắc mắc tại sao tôi thiếu sinh tố D. Phơi nắng nhiều quá, thì lại làm một lớp da ngoài bị cháy đi, biến thành lớp cản không tiếp nhận tia hồng ngọai tuyến (UV)nữa. Do đó việc đem người bệnh ung thư đi phơi nắng cũng gặp môt trở ngại là không biết độ nắng là bao nhiêu thì tốt.
-H: Bác sĩ có thể nói thêm về quan hệ giữa sinh tố D và bệnh ung thư như thế nào được không?
-Đ: Sinh tố D liên quan đến ánh nắng mặt trời. Vùng nào nhiều ánh nắng mặt trời thì ít ung thư. Vì thế những vùng càng xa xích đạo bao nhiêu thì càng thiếu sinh tố D, như vùng cực bắc âu thì thiếu sinh tố D rất nhiều, Người ta thấy có một liên hệ mật thiết giữa sinh tố D và bệnh ung thư, những người thiếu sinh tố D thì có tỷ lệ bị ung thư cao hơn người có nhiều sinh tố D. Như ở Norway, có nhiều county, những county ở cực Bắc thì tỷ lệ ung thư cao hơn vùng county phía nam, nơi mà người ta giầu sinh tố D hơn người cực bắc. Ngoài ra, còn có ảnh hưởng của thời tiết: Mùa đông ít ánh nắng mặt trời, nên số người bị ung thư tăng lên rất nhiều, Mùa hè thì giảm đi. Điều quan trọng là nếu dùng sinh tố D trong việc điều trị thì hy vọng khỏi bệnh càng cao.
H: Cám ơn bác sĩ. Mong rằng đây là một khám phá mới đem lại nhiều hy vọng cho những người mắc phải cơn bệnh của Thần Chết này.
Chu Tất Tiến
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 6 26, 2013 11:13 am

(TỆP 7)

--------------------------


Phụ lục 3. CÁCH PHÒNG CHỐNG UNG THƯ

Có thể nói rằng mỗi người trong chúng ta đều có mang trong mình những di tích thật bé nhỏ của một loại ung thư nào đó, nhưng nhờ vào sức đề kháng tốt của cơ thể nên chúng chưa có cơ hội bộc phát ra thành bệnh cancer được mà thôi. Những bệnh tích cancer thật bé nhỏ nầy (microtumeurs), thường là những tế bào trong giai đoạn tiền cancer. Chúng được nhìn thấy bằng kính hiển vi qua việc xét nghiệm tổ chức bệnh lý học (histopathologie) về những bộ phận của những người đã chết vì những nguyên nhân nào khác ngoài ung thư.
Các tế bào có mang dấu tích tiền cancer nhưng chưa bộc phát thành bệnh thường thấy là: 98% ở vú, 40% ở tuyến giáp trạng (thyroide) và 30% ở tiền liệt tuyến (prostate). Trong thực tế, tỉ lệ thật sự bệnh cancer của ba cơ quan nói trên đều rất thấp trong dân chúng.
Từ lâu, người ta được biết có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến cancer chẳng hạn như hóa chất độc, một số chất phụ gia, khói thuốc lá, tia phóng xạ, tia tử ngoại mặt trời, virus, v.v… Đây mới chỉ là một vài ví dụ mà thôi.

Ngoài ra cũng còn phải kể đến những yếu tố nội tại bên trong cơ thể nữa.
Mỗi ngày có hằng tỉ tế bào được phân cắt để tái tạo thành tế bào mới nhằm thay thế những tế bào cũ đã chết. Trong tiến trình phân chia tế bào rất phức tạp nầy, nếu có sự lệch lạc nào đó từ một nhiễm sắc thể không hoàn chỉnh, thì rất có thể sẽ có một số tế bào nào đó sẽ đi lệch programme. Chúng sẽ sinh sản hỗn độn, vô trật tự và biến thành những tế bào tiền cancer (précancéreuses) và cuối cùng chúng tìm cách định vị tại một nơi nào đó trong cơ thể! Để có thể tiếp tục phát triển ra thành khối ung thư, các tế bào tiền cancer nầy cần được nuôi dưỡng bởi một hệ thống mạch máu li ti bao phủ (angiogénèse). Thời gian tiềm ẩn rất lâu dài trước khi các tế bào tiền cancer ban đầu có thể trở thành thật sự một khối u gây bệnh cancer. Đây là giai đoạn rất thuận lợi để các phương pháp trị liệu có thể ngăn chặn và phá vỡ sự bành trướng của hệ thống mạch máu li ti dẫn đến nuôi tế bào tiền cancer.
Khối u có thể thuộc loại hiền (bénin) hoặc thuộc loại dữ (malin).
Loại hiền thì định vị tại một chỗ, còn loại dữ có ác tính thì rất nguy hiểm vì nó phát triển rất nhanh và còn gây ra di căn (métastase) nghĩa là chạy lung tung để định vị ở những cơ quan khác nữa!

Thay đổi nếp sống và dinh dưỡng lành mạnh thí dụ như dùng nhiều rau quả tươi là điều cần thiết để mong có thể ngăn chặn được sự xuất hiện của vài loại cancer.
Chính một số các hóa chất sinh học thực vật (phytochimiques) hiện diện trong rau quả sẽ tác động như những vũ khí bén nhọn để ngăn chặn, và phá vỡ hệ thống mạch máu nuôi tế bào tiền cancer khi chúng còn ở trong giai đoạn sơ khởi chưa hoàn chỉnh.

Những nguyên nhân dẫn đến cancer

- Dinh dưỡng và thực phẩm (nhiều dầu mỡ, thịt đỏ, chất phụ gia, thịt nguội có chứa nitrite, thịt nướng khét): 30%
- Thuốc lá: 30%
- Di truyền:15%
- Bối cảnh, liên hệ đến việc làm, nghề nghiệp (hít thở hóa chất độc): 5%
- Béo phì, thiếu vận động: 5%
- Tia tử ngoại (UV) mặt trời: 2%
- Một số dược phẩm: 2%
- Ô nhiễm môi sinh: 2%
- Các yếu tố khác: 2%

Rau quả tươi có thật sự giúp chúng ta ngừa cancer hay không?

Các dân tộc Á Đông nhờ vào tập quán ăn uống đặc biệt gồm nhiều rau đậu nên ít bị một vài loại cancer nào đó so với các dân tộc Phương Tây thường hay ăn nhiều thịt, nhiều dầu mỡ nhưng lại ít dùng rau quả tươi.
Một vài loại thực vật đã được khoa học xác nhận là có tính năng giúp chúng ta ngừa một số cancer. Thí dụ như nhóm cải bắp (crucifère) có khả năng ngăn chặn việc tạo ra hormones œstrogènes, nhờ đó có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện cancer vú ở phụ nữ. Cà Tomate có chất chống oxy hóa lycopène giúp ngừa cancer tiền liệt tuyến ở đàn ông lớn tuổi... Ngoài ra, củ nghệ và chocolat đen cũng có chứa những chất chống oxy hóa giúp ngừa sự xuất hiện của vài loại cancer…

Dân Nhật Bản sống trên đảo Okinawa có tuổi thọ cao nhất thế giới có lẽ nhờ họ sống trong một môi trường trong lành, đồng thời họ cũng áp dụng lối dinh dưỡng tốt gồm có nhiều rau cải tươi, rong biển và cá.
Một số rau quả điển hình có chứa chất kháng cancer (Surh,Y-J ‘2003’ Nature Review on cancer 3,768 -780)

- Nghệ (Curcuma): Chất kháng cancer Curcumine. Cancer ruột già, Bao tử, gan, da…
- Bleuets (blueberries): Delphinidine
- Fraises (strawberries): Acide ellagique
- Trà xanh (green tea): Epigallocatéchine-3-gallate. Trà xanh chứa nhiều chất catéchines hơn trà đen...
- Đậu nành (soja, soybean): Génistéine. Tốt để ngừa cancer vú ở đàn bà và cancer tiền liệt tuyến ở đàn ông. Thực phẩm làm từ hạt đậu nành (đậu nành rang, tàu hũ, miso, sữa đậu nành tự làm lấy ở nhà …) tốt hơn các viên suppléments soja và sữa đậu nành bán trong siêu thị.
- Tomates: Lycopène, ngừa cancer tiền liệt tuyến. Pâte de tomate chứa nhiều lycopène nhất(nhiều hơn tomate sống)
- Nho (grapes): Resvératrol. Rượu chát đỏ làm từ nho cũng rất tốt, nhưng chỉ nên uống ít và điều độ mà thôi vì dù sao nó cũng vẫn là rượu.
- Bưởi (grapefruits): Limonène
- Tỏi (garlic): Diallyl-sulfide
- Cải bắp (cabbages): Indole-3-Carbinol
- Broccoli: Sulphorahane
- Chocolats đen: có chứa 70% cacao, cung cấp một số lượng polyphénols đáng kể, nên được xem rất có ích để ngừa các bệnh mãn tính như cancer và các bệnh thuộc về tim mạch.

Rau quả giúp ta giảm cancer đến mức độ nào? (World Cancer Research Fund/American Inst.for Cancer Research, 1997)

Tên Số mẫu nghiên cứu Số lần giảm nguy cơ Tỉ lệ
Rau cải nói chung 59 80%
Trái cây 74 36 64
Rau cải tươi 56 40 87
Cải bắp, Broccoli 46 38 69
Hành, tỏi, poireau 55 27 77
Rau cải xanh 35 68 77
Carottes 88 59 81
Tomates 73 36 71
Bưởi 41 27 66


Các thức ăn cần nên tránh dùng thường xuyên

- Các loại thịt ngâm muối
(mariné) và các loại rau quả ngâm giấm (có thể gây cancer dạ dầy);
- Thịt, cá hong khói (fumé);
- Thức ăn chiên, nướng khét ở nhiệt độ cao;
- Thức ăn biến chế theo lối công nghiệp, đồ conserve, thịt nguội charcuterie, jambon, saucisse, lạp xưởng, v.v.
- Rượu: hạn chế.

Ngừa cancer bằng cách nào?

- Bỏ thuốc lá (gây cancer Phổi, miệng, thanh quản…)
- Giảm bớt năng lượng calories ăn vào. Giảm bớt các loại fast food và các loại nước ngọt có gaz!
- Giảm bớt các loại thịt đỏ như thịt bò, thịt heo và thịt dê cừu (cancer ruột già)
Nên ăn thịt nạc, thịt gà và cá (cá có chứa nhiều chất acid béo Oméga-3 rất tốt cho sức khỏe)…Thay nguồn protéine từ thịt bằng các loại đậu và tàu hũ. Không cần phải nhất thiết ăn thịt mỗi ngày!
- Giảm bớt việc ăn những loại sản phẩm có chứa những hóa chất bảo quản có tiềm năng gây cancer chẳng hạn như thịt bacon, saucisse, jambon, hot dog, lạp xưởng, thịt hong khói (smoked meat), v.v…Các sản phẩm nầy đều chứa nhiều nitrites và lúc chiên hay nướng chúng sẽ chuyển ra chất nitrosamines là chất có thể gây ra cancer!
- Tránh dùng những món ăn đã bị khét. Khi nướng thịt trên lửa ngọn, mỡ chảy ra và bốc cháy thành những chất hydrocarbures aromatiques bám vào miếng thịt. Đây là chất gây cancer. Khi nấu thịt ở nhiệt độ cao cũng sẽ tạo ra chất amines hétérocycliques là chất gây cancer!
- Tránh ăn thức ăn quá nóng!
- Tránh ăn những sản phẩm có quá nhiều muối!
- Ăn nhiều rau quả tươi (đủ màu sắc) để có nhiều chất chống oxy hóa và vitamins. Nên ăn một thức ăn đa dạng!
- Nên vận động, tập thể dục đều đặn!

Những tin đồn bất lợi về rau quả:

- Rau quả nhiễm hóa chất, nông dược (pesticides) có thể gây cancer?
Sai - Các xét nghiệm tại Canada cho biết rau quả nếu có bị nhiễm hóa chất thì cũng chỉ nhiễm ở mức độ rất thấp. Trước khi ăn nên rửa sạch, gọt bỏ vỏ hay gỡ bỏ các lớp bên ngoài như trường hợp cải bắp. Lợi ích của việc dùng rau cải vẫn trội hơn là vấn đề sợ rau cải bị nhiễm hóa chất mà không ăn!

- Rau quả xuất phát từ kỹ thuật làm thay đổi gène (GMO) nên ăn không tốt?
Sai - Đa số rau quả mà chúng ta dùng mỗi ngày đều là sản phẩm standard, và được trồng một cách bình thường mà thôi. GMO thật ra là một vấn đề thuộc về sinh thái (biodiversité)!

- Chỉ có rau quả Bio, Organic, Hữu cơ mới tốt cho sức khỏe?
Sai - Tất cả các khảo cứu từ trước tới nay đều được thực hiện với các loại rau cải bình thường và đã nói lên lợi ích của chúng đối với sức khỏe. Nhãn hiệu Bio không phải là điều tối cần thiết để chúng ta tận dụng những lợi ích của rau quả! (Bio hay Organic là rau quả trồng theo lối thiên nhiên không sử dụng hóa chất)
Theo MeMaria.org

-----------------------
Lưu ý :

Khí Công Y Đạo dè dặt hơn trong cách dùng thuốc đông-tây-nam y dược, hay đông y cổ truyền hoặc gia truyền hay những thức ăn uống kể trên, vì tất co các bệnh đều có những nguyên nhân khác nhau từ sự mất quân bình khí hóa làm thay đổi khí và huyết của mỗi phủ tạng khác nhau, nên tình trạng bệnh hư-thực, hàn-nhiệt khác nhau, nên bổ sung một loại thuốc nào đó cần phải biết Tính-Khí-Vị của vị thuốc đó có phù hợp với bệnh mà bệnh nhân đang cần hay không.

Những dẫn chứng trên có một số bệnh nhân đã dùng được khỏi bệnh rất ít, trên thực tế, như Lá Đu Đủ, Cây Nha Đam, Hạ Khô Thảo, Bán Liên Chi Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo…đã có nhiều ngưòi dùng mà bệnh không khỏi, chết một cách âm thần do cơ thể suy nhược, không đủ khí và huyết để dẫn thuốc đến nơi bệnh, mà thuốc không được chuyển hóa đọng lại tại bao tử và ruột, làm thận phải thải lọc những chất dư thừa không hấp thụ, khiến nguyên khí của thận suy nhược, sưng phù, ứ nuớc, khó thở, mệt tim…..

Để tránh tình trạng này, và để biết mình dùng loại thuốc có đúng hợp với bệnh của mình hay không, chỉ có 1 cách duy nhất là trước khi dùng thuốc hãy đo áp huyết ở hai cánh tay, rồi sau khi dùng thuốc được 30 phút thì đo lại áp huyết ở hai cánh tay, so sánh hai kết qủa để biết sự hấp thụ và chuyển hóa thuốc có làm cho áp huyết lọt vào tiêu chuẩn hay không.

Thí dụ áp huyết tiêu chuẩn tuổi trung niên và lão niên là :
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)

Khi bị bệnh ung thư là cơ thể thiếu máu và thiếu khí lực đẩy máu đi nuôi các tế bào. Theo kinh nghiệm của KCYĐ tình trạng dẫn đến ung thư khi cơ thể thiếu máu do kiêng ăn, ăn nhiều chất chua phá mất hồng cầu, ăn gạo lức muối mè để ngừa bệnh làm áp huyết và đường tụt thấp xuống đến 80mmHg là có dấu hiệu ung thư, khi đang chữa bất cứ theo tây y, đông y, dùng thuốc đặc trị tây y, đông y, nam dược, gia truyền, mà kiểm chứng lại bằng máy đo áp huyết nếu mỗi ngày áp huyết tăng dần từ 80 lên 85, 90, 95, 100, 105, 110, 115, 120, 125, 130 và cố giũ ở mức này thường xuyên là cơ thể đủ khí và máu, các tế bào suy nhược trở nên mạnh, các tế bào chết được loại bỏ, các tế bào ung thư do thiếu máu được phục hồi, ngược lại nếu đo áp huyết mỗi ngày tụt thấp dần là thuốc đó sẽ làm chết người phải ngưng ngay, và khi áp huyết xuống đến 70 thì tim không còn đủ máu để co bóp bơm máu, toàn thể các tế bào bệnh cũng như tế bào lành đều phải ngưng hoạt động, bệnh nhân lịm dần trong giấc ngủ ngàn thu.

Còn khi tây y chữa ung thư mà tuyên bố khỏi bệnh không còn tìm thấy tế bào ung thư, nhưng áp huyết vẫn còn ở mức thấp 100-105 theo KCYĐ là cơ thể vẫn chưa đủ khí và máu theo tiêu chuẩn tuổi, thì vẫn có nguy cơ tái phát, tây y gọi là di căn.
Thực ra ung thư không có di căn. Thí dụ có 5 gia đình tên là tâm, can, tỳ, phế, thận ở vùng sâu vùng xa, bị nạn đói, thiếu thực phẩm, nếu có cứu đói cho họ mà họ khỏi đói thì mình tuyên bố họ khỏi bệnh, còn không thì gia đình nào bị bỏ đói nhiều thì chết trước, gia đình nào bị bỏ đói nữa thì chết sau vì không có thực phẩm để ăn chứ không phải cái chết của gia đình này di căn lây truyền sang gia đình kia, vì cơ thể có còn khí lực và máu nữa đâu mà truyền từ nơi này sang nơi kia, vì tất cả đều ngưng hoạt động tại chỗ rồi chết dần..

Theo kinh nghiệm của KCYĐ, chữa bệnh ung thư cần phải tiếp máu, chích B12, uống thuốc bổ máu, giúp máu nuôi tế bào, tuy nhiên trong B12 có chất sắt Fe2 nhưng muốn thành 1 đơn vị máu cần phải có Oxy kết hợp mới thành máu, như Fe2O2 là máu đen, Fe2O3 là máu đỏ. Cách chữa của tây y không có môn Khí Công dạy hít thở để làm tăng oxy duy trì công thức máu, nên khi tiếp máu, cơ thể không luyện thở thì công thức máu Fe2O3 mới được truyền xong sẽ bị phá vỡ, chỉ còn lại chất sắt, vì thế, có nhiều trường hợp tây y thử máu thấy dư chất sắt mà thiếu máu nên không thể cho uống hay chích thuốc bổ máu nữa. Thuốc bổ máu tây y có nhiều loại như Multivitamines, B-Complex, Hepatol, B12.….

Những thắc mắc về B12 chữa bệnh ung thư :

by bienman » Tue Mar 26, 2013 5:20 am

Bổ huyết cho trường hợp huyết hư, trong khí công y đạo có đề cập đến việc sử dụng B12 để chích, đặc biệt với bệnh nhân ung thư thì càng cần thiết để đủ máu nuôi cơ thể và giảm đau. Tuy nhiên tình cờ đọc được trên trang web biệt dược (http://www.thuocbietduoc.com.vn/tin-tuc ... i-nao.aspx) thấy có viết như sau: "B12 đặc biệt có tác dụng tốt với nhiều người bệnh, vì nó giúp cho sự phân chia và tái tạo của tổ chức, giúp tổng hợp mạnh protein và chuyển hoá lipid do đó giúp cho sự trưởng thành của cơ thể. B12 tham gia phản ứng tổng hợp thymidylate - một thành phần trong phân tử ADN, cung cấp nguyên liệu để tổng hợp ADN, góp phần vào quá trình phân chia tế bào và trưởng thành tế bào trong cơ thể. Nhưng với bệnh nhân ung thư thì ngược lại. Bởi người ta nhận thấy: khối u ác tính có những biểu hiện sinh hóa của một tổ chức đang phát triển mạnh, tăng những chất protein có trọng lượng phân tử nhỏ, tăng loại acid amin đồng phân D (bình thường phần lớn là đồng phân L), tăng AND và ARN do tăng phân bào và tăng tổng hợp protein. Ngoài ra, còn tăng các acid béo không bão hoà, tăng phospho lipid, lecithine và cholesterol, tăng giáng hóa glucid theo con đường yếm khí...

Với những lý do nói trên của khối u ác tính, người ta không muốn "đổ thêm dầu vào lửa", mà khuyên không nên dùng B12 cho người bệnh ung thư, vì nó có thể làm tăng tốc độ phát triển của tế bào ung thư làm cho ung thư phát triển nhanh. Ngoài ra, B12 còn không được dùng cho người bệnh trứng cá, người có tiền sử dị ứng thuốc, người bệnh thiếu máu chưa rõ nguyên nhân."

Như vậy việc sử dụng B12 như thế nào cho đúng, mong các thầy hướng dẫn giúp.
------------

by Vương Văn Liêu » Tue Mar 26, 2013 6:38 am

Tôi cũng nghiên cứu vấn đề bạn nêu, trong một bài báo chỉ khuyên đối với bệnh nhân ung thư dạ dày, không nên dùng vitamin B12 vì làm cho khối u phát triển nhanh.

Suy nghĩ mãi, tôi thấy quan điểm của Tây y nói chung là không nên tẩm bổ nhiều với người bị ung thư vì sợ như vậy sẽ làm cho khối u phát triển nhanh. Cũng chính vì lý do đó nên nhiều người khi mắc bệnh nan y chỉ ăn gạo lứt muối mè và uống nước sôi, người suy kiệt dần và tử vong.

Nghiên cứu bài viết của Thầy Ngọc "So sánh cách chữa bệnh ung thư hiện nay với 3 phương pháp nuôi dạy con"( lược trích), tôi thấy sáng tỏ nhiều vấn đề:

1-Cách điều trị bệnh ung thư theo cách nuôi dạy con thứ nhất : trừng phạt và bỏ đói .
Áp dụng trong cách chữa ung thư :
So sánh với cách chữa ung thư theo tây y ngày nay cũng không khác, chỉ lo trừng phạt, xem những tế bào ung thư là kẻ thù truyền kiếp cần phải tiêu diệt các tế bào bệnh cũng như tế bào lành, bỏ đói không cho ăn những chất bổ máu giúp cơ thể hồi phục khí huyết và thể lực trước khi chữa những đợt kế tiếp, khiến cơ thể mất sức mất máu, mất khí, tinh thần suy nhược rồi lại tiếp tục bị trừng phạt bỏ đói, cuối cùng đi đến tử vong. Chữa cách này theo luật nhân qủa, những chủng tử oan gia kết trái không được hóa giải lại tái sanh theo người bệnh sang kiếp khác để lại rơi vào bệnh ung thư đời đời kiếp kiếp.

2-Cách điều trị bệnh ung thư theo cách nuôi dạy con thứ hai : ăn uống đúng đủ, thưởng phạt phân minh .
Áp dụng trong cách chữa ung thư :

Nếu cách này được áp dụng vào cách chữa bệnh ung thư, tùy theo số đo áp huyết còn đủ khí huyết thì nên tả, dùng thuốc tiêu diệt tế bào ung thư, khi áp huyết tụt thấp khí huyết thiếu thì lại tạm thời cho ăn uống tẩm bổ phục hồi lại khí huyết đầy đủ mới tiếp tục điều trị những đợt kết tiếp. Vì đa số tế bào bệnh ít hơn tế bào lành. Nếu diệt cả tế bào bệnh và tế bào lành mà không phục hồi lại tế bào lành, tăng cường oxy để kềm chế tế bào ung thư phát triển và làm tăng khả năng chống bệnh của tế bào lành thì cơ thể không thể hồi phục nhanh. Đông y có câu, ăn được, ngủ được là tiên, không còn bệnh hoạn. Do đó cách chữa nào mà phục hồi lại được chức năng ăn, ngủ, đái, ỉa, tiêu hóa tốt, cơ thể khỏe mạnh không đau đớn, khí huyết lưu thông thì bệnh mau khỏi. Cho nên chỉ xem bệnh ung thư như một bệnh thông thường, chỉ cần điều chỉnh khí huyết cho đủ tiêu chuẩn theo áp huyết đúng với tuổi thì bệnh gì cũng tự qua khỏi.
Tiếc rằng Tây y hiện nay không có chủ trương theo quan điểm này.

3-Cách điều trị bệnh ung thư theo cách nuôi dạy con thứ ba : ăn uống đúng đủ, dùng tình thương khuyến khích an ủi các con trong mọi hoàn cảnh vật chất và tinh thần để hóa giải bệnh tật.
Áp dụng trong cách chữa ung thư :

Nhớ rằng tế bào là những chủng tử tốt xấu lẫn lộn có linh hồn nằm trong cơ thể, có sự hiểu biết. Do đó khi người mẹ mang thai, có thể dạy con khi bào thai còn nằm trong bụng, nó được học hỏi những điều mà mẹ nó dạy bảo dặn dò, khi ra đời những chủng tử tốt lành ấy sẽ được phát triển theo đúng như ý muốn của người mẹ. Tính khí của bào thai sẽ bị ảnh hưởng tinh-khí-thần của người mẹ và hoà khí giao tiếp của cha mẹ nói lời thương yêu hay ghen ghét, ích kỷ, giận hờn đều làm ảnh hưởng đến tâm tính của trẻ ra đòi sau này.

Cũng như thế, bệnh ung thư là cơ thể có những tế bào oan gia mà mình đã kết nên thù oán, chúng càng giận dữ quậy phá khi mình dùng phương pháp tây y tiêu diệt trả thù nó.

Ngược lại về Tinh : Nếu chúng ta thấy cơ thể thiếu máu cần phải bổ máu để nuôi dưỡng bao bọc các tế bào không bị hủy hoại, lấy tình thương chiến thắng hận thù.

.......

Theo đạo nào cũng vậy : Vạn pháp do tâm sanh, vạn pháp do tâm diệt. Tâm bình thế giới bình. Khi tâm bất an lo sợ là duyên xấu tiếp tay cho tế bào bệnh phát triển làm Tinh-Khí-Thần rối loạn khiến bệnh năng thêm. Do đó muốn bình tâm, muốn tăng thêm khí lực tăng cường oxy, muốn hóa giải hận thù thì ăn năn sám hối bằng cách đọc kinh cầu nguyện mỗi ngày, khi đói mệt thì ăn thức ăn bổ máu, đọc kinh cầu nguyện để luyện khí, nhưng đọc kinh niệm Phật lại có giá trị về tinh thần làm cho bản thân người bệnh bình tâm, thản nhiên với sự sống chết, chấp nhận sẵn sàng trả nghiệp, nhưng nó có phản ứng ngược lại, các tế bào chủng từ khi nghe người bệnh niệm Phật, đọc kinh, trì chú, chúng cũng biết hồi tâm chuyển ý ăn năn tha thứ bỏ hận thù, mà cùng được thính pháp nghe kinh để cùng được mau giải thoát.
Dưới đây là video : Tập Cúi Lạy chữa bệnh vừa được sám hối giải nghiệp :
Mở Internet, click vào youtube, đánh chữ vào khung search : Lễ Phật Trì Danh và Ngồi thiền Phản Văn Trì Danh

.............
Do chưa theo dõi được nhiều ca bệnh ung thư dùng vitamin B12 và phản ứng với thuốc như thế nào, nên tôi cũng chưa dám khẳng định như kết luận của 1 số bài báo. Nhưng tôi tin là phương pháp chữa ung thư như Thầy ngọc chỉ ra theo phương pháp thứ 3 là hợp lý và có lẽ dùng vitamin B12 cũng không sao. Mong Thầy Ngọc và các thầy Khí công khác chỉ giáo.

Vương văn Liêu

------------

bsnambvll Tue Mar 26, 2013 9:03 am
Xin chào bienman, vấn đề này vượt ngoài tầm hiểu biết của tôi ( về B12 ).

Tuy nhiên theo quan điểm của tôi thì không có gì là mâu thuẫn, tại sao vậy ? Theo tây y, trên một cơ thể bị ung thư nếu ta cung cấp thêm nguyên liệu cho tế bào ung thư sử dụng thì điều gì sẽ xảy ra, đương nhiên là khối u sẽ phát triển mạnh hơn, (các tế bào ung thư chuyển hóa trong môi trường yếm khí) !!! Từ đó họ khuyên không nên dùng.

Còn theo KCYĐ, hầu như các loại ung thư đều là hậu quả của cơ thể thiếu khí huyết lâu ngày, huyết áp thấp, các tế bào thiếu oxy dần biến thành tế bào ung thư. KCYĐ khuyên nên bồi bổ để nâng huyết áp song song đó là những bài tập cụ thể nâng cao khí lực, tác động trực tiếp vào vùng có khối u vd: kéo gối ép bụng...

Từ hai nhận xét trên ta thấy tây y bổ sung chất bổ vào một cơ thể bệnh và cơ thể đó được tiếp nhận một cách thụ động, ngược lại KCYĐ bổ sung các chất bổ kèm theo tập luyện nâng cao khí lực, oxy đến các tế bào nhiều hơn, quá trình chuyển hóa Hiếu khí xảy ra (tế bào ung thư bị ức chế trong môi trường giàu oxy !)nên sẽ không có chuyện ' Đổ thêm dầu vào lửa'.

--------------
Trả lời :


Nhưng với bệnh nhân ung thư thì ngược lại. Bởi người ta nhận thấy: khối u ác tính có những biểu hiện sinh hóa của một tổ chức đang phát triển mạnh, tăng những chất protein có trọng lượng phân tử nhỏ, tăng loại acid amin đồng phân D (bình thường phần lớn là đồng phân L), tăng AND và ARN do tăng phân bào và tăng tổng hợp protein. Ngoài ra, còn tăng các acid béo không bão hoà, tăng phospho lipid, lecithine và cholesterol, tăng giáng hóa glucid theo con đường yếm khí...

Theo tây y phân tích như trên là đúng, vì tây y không có phương pháp nào làm giảm những nguy cơ phản ứng phụ như tăng trọng lượng protein, chất béo không bão hoà, phosphate lipid, cholesterol làm yếm khí..

Nhưng chỉ có phương pháp KCYĐ, phải tập thở khí công làm tăng khí oxy duy trì công thức máu Fe2O3, vì vậy nếu không có thuốc bổ máu chất sắt, dưới dạng viên, nước, hay loại chích, thì cơ thể không đủ máu nuôi tế bào lành, và không tập khí công làm tăng áp lực khí cho tim bơm máu đi nuối tế bào lành, chúng ta cần cứu tế bào lành 80% và cần dư thừa khí oxy để giúp 20% tế bào ung thư hiếm khí oxy được phục hồi, lại làm tăng tính hấp thụ và chuyển hóa protid, lipid, glucid thì mới không sợ những phàn ứng phụ này. Nhờ dùng thuốc B12 làm tăng áp huyết, ăn ngon, giảm đau, phục hồi mọi chức năng tạng phủ làm tăng cường hệ miễn nhiễm phòng chống bệnh thì tất co các tế bào trở thành khỏe mạnh hết bệnh tật, như vậy B12 không phải là thuốc đặc trị chữa ung thư mà bệnh ung thư được hóa giải.

Chữa bằng mổ, hóa trị xạ trị vào khối u, nhưng nguyên nhân gốc là cơ thể suy nhược không đủ máu nuôi dưỡng tế bào lành, tế bào nào thiếu máu nuôi dưỡng lại trở thành tế bào ung thư, nên diệt khối u này còn những khối u khác phát sinh do không nâng thể lực bệnh nhân như tăng khí tăng huyết. Tăng huyết thì tây y tiếp máu, nhưng tây y không nghĩ là cơ thể cần máu, chỉ tiêu diệt tế bào ung thư, giết tế bào là chính giết chủ nhân của nó là con người không chịu nổi trong tiến trình trị liệu thì sẽ chết. Còn tây y cũng biết tiêu diệt tế bào ung thư cần oxy liệu pháp mới có kết qủa thì chưa tìm ra phương pháp, nên vẫn thất bại. Khi tái phát gọi là di căn là áp huyết chưa lên đủ 130, vẫn còn ở mức thiếu khí huyết 100, điều này tây y không để ý.

Vì khi so sánh lúc bệnh áp huyết 70-80mmHg , khi lên hơn 100mmHg là có chiều hướng khỏi bệnh, còn dứt bệnh hoàn toàn như người khỏe mạnh không tái phát phải duy trì áp huyết ở mức 125-135 mmHg thưỡng trực. Còn khi đang chữa, áp huyết xuống thấp dần thì sự sống ngắn dần đến 70 mmHg thì thoi thóp tắt thở vì cơ thể không còn khí để tuần hoàn máu, cơ thể lạnh dần, lịm vào trong giấc ngủ sâu.

Xem thêm video dưới đây : Chữa khỏi ung thư bằng B12.
Mở internet, click you tube, đánh vào khung search : Cu Chanh Tri Giac chua Ba Vang

Nhưng một điều quan trọng là khả năng con người dù khoa học có giỏi đến đâu cũng không thể chữa được bệnh nghiệp, mà chỉ có đức tin tôn giáo mới có thể thuyết phục được những tế bào kẻ thù oan gia trái chủ từ nhiều đời nhiều kiếp họ đã ẩn sẵn trong cơ thể dưới dạng tế bào có linh hồn, chi khi mình đủ ác duyên nó mới có cơ hội trả thù, nếu biết ăn năn sám hối bỏ ác làm lành, ăn chay, phóng sanh, cầu nguyện, thuyết phục chúng hoan hỷ tha lỗi cho mình, đừng làm mình đau đớn, cùng nhau cầu nguyện để cùng tiến hóa thì các tế bào oan gia trái chủ ấy nghe theo sẽ trở thành tế bào lành, khỏe mạnh, để giúp thân xác bệnh nhân khỏe mạnh tu học để được cùng hưởng phước, lúc đó thân sẽ hết bệnh, tâm an lạc, linh hồn tiến hóa.

Cho nên nếu một người bị bệnh ung thư bị tây y chê, mà quay về đời sống tâm linh, điều chỉnh tinh-khí-thần hòa hợp mà khỏi bệnh, người ta cho là một phép lạ, thật ra không có gì là phép lạ, chỉ là cách cứu linh hồn, chữa bệnh trên thể hồn mà khoa học chưa biết khai thác.

Tuy nhiên trên thực tế vẫn cần đến máy đo áp huyết, tiểu đường, nhiệt kế, oxymeter để theo dõi việc điều chỉnh tinh-khí-thần có đúng và đủ lọt vào tiêu chuẩn không.

Dù chữa theo cách nào hay đến mấy, ngay cả thuốc thần kỳ Fucoidin mà cơ thể chưa tăng khí huyết chưa đủ máu để cung cấp năng lượng cho việc phục hồi tế bào, mà chỉ tấn công, không hổ trợ phòng thủ, để áp huyết tụt thấp đến 70mmHg thì các tế bào toàn thân ngưng hoạt động thì thân xác này phải chết.

Những bài tập khí công chữa bệnh đề cập trong sách này download ở đây :
Search : khicongydaovietnam.wordpress.com rồi click vào chữ : Thông Báo 20 sẽ hiện ra những bài khí công cần tập.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 6 26, 2013 11:25 am

(TỆP 8)

-------------------


Phụ lục 4. CÁCH ĐỀ PHÒNG BỆNH UNG THƯ MÁU VÀ CÁCH CHỮA PHỐI HỢP GIỮA TÂY Y VÀ ĐÔNG Y- KHÍ CÔNG

A-Tổng quát về bệnh ung thư máu

Hệ thống cấu tạo máu

Trong con người ai cũng có tế bào máu sinh ra bởi tế bào gốc (stem cell). Từ tế bào gốc sinh ra hai dòng tế bào âm và dương là tế bào cơ sở và tế bào chức năng.
Tế bào cơ sở để nuôi dưỡng phát triển và duy trì các cơ quan vật chất như các tạng phủ, xương cốt, da thịt… thuộc vinh khí, Tây y gọi là tế bào não tủy (myeloid stem cell) và tế bào chức năng nằm ở các tuyến hạch có chức năng bảo vệ cơ thể phòng chống bệnh tật gọi là vệ khí, Tây y gọi là hệ miễn nhiễm ( là những tế bào lympho stem cell).
Từ 2 loại tế bào gốc não tủy và tế bào gốc hạch lympho, mỗi tế bào sinh ra một loại tế bào trung gian gọi là tế bào trung tính.
Tế bào gốc hạch lympho sinh ra tế bào trung tính đơn nhân (1 nhân) sẽ sản sinh ra tế bào bạch cầu đơn nhân có 2 loại B và T.
Tế bào gốc não tủy sinh ra tế bào trung tính đa nhân, có nhiều nhân, chia làm 3 loại, những nhân ấy sản sinh ra tế bào hồng cầu, tế bào tiểu cầu và tế bào bạch cầu thuộc dòng đa nhân.
Chức năng của tế bào hồng cầu đem oxy đến mô trên toàn cơ thể, tiểu cầu giúp kiểm soát ngừa chảy mất máu, và bạch cầu giúp chống nhiễm trùng.

Ngày nay Tây y đã chứng minh được lý thuyết Đông y là đúng(Thái cực sinh lưỡng nghi). Có 2 nguồn cung cấp tế bào máu trắng từ một tế bào mầm (stem cell). Từ tế bào mầm sản sinh ra 2 loại tế bào là tế bào mầm lympho, theo Đông y là tế bào mầm thuộc dương và tế bào mầm tủy xương là tế bào mầm thuộc âm
Những tế bào hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu được thay cũ đổi mới luôn luôn tùy theo nhu cầu của cơ thể. Nhưng quan trọng nhất, hầu hết các tế bào phát triển lệ thuộc vào các tế bào gốc trong tủy xương là một chất mềm nhão nằm ở não và trung tâm các ống xương.

Hệ thống cấu tạo máu trắng

Khi cơ thể bị bệnh, số lượng hồng cầu, bạch cầu tăng hay giảm bất thường. Theo Đông y khi tăng gọi là bệnh thực chứng, khi giảm Đông y gọi là bệnh hư chứng. .

Nguyên nhân làm cho bạch cầu chức năng giảm: dưới 4000 bạch cầu/cc máu

Tây y đã tìm ra nhiều nguyên nhân như :
Do sốt rét, do siêu vi cảm cúm, sốt xuất huyết, viêm gan siêu vi, ban đỏ.
Do lao hệ lưới ở gan tỳ bị sưng (spléno-hépatique) như xơ gan cổ trướng, lao lách.
Thương hàn nhiễm khuẩn Gram âm, viêm đa khớp dạng thấp, bệnh huyết học.
Do bệnh viêm đa khớp dạng thấp, lách to giảm bạch cầu đơn nhân trung tính.
Giảm bạch cầu đơn nhân kèm theo giảm bạch cầu trung tính riêng lẻ. Mất bạch cầu hạt đa nhân do thiếu máu bất sản.
Giảm bạch cầu trung tính nhưng bạch cầu không giảm.
Giảm bạch cầu đơn nhân và mất bạch cầu đa nhân do thuốc trị sốt, trị đau nhức và thuốc trị ung thư.
Do thiếu máu trầm trọng. Khi đo huyết áp ở cả hai tay thấp dưới 100/60mmHg mà mạch tim đập qúa nhanh trên 100. Ngược lại, chỉ có một bên thấp dưới 100/60mmHg, mà bên kia bình thường từ 120-130/70mmHg, Đông y xếp vào loại thiếu máu nửa bên đầu do tắc mạch cổ gây ra bệnh thiên đầu thống (migraine), bệnh này để lâu không chữa khỏi sẽ trở thành bệnh ung thư sọ não.

Nguyên nhân làm cho bạch cầu đa nhân, bạch cầu đa nhân trung tính tăng, trên 12000 bạch cầu/cc máu.
Trong đó bạch cầu đa nhân chiếm 80-95%, số lượng tuyệt đối trên 7000 bạch cầu đa nhân/cc máu.

Tây y tìm ra nhiều nguyên nhân như :

Do những bệnh nhiễm khuẩn sinh mủ như viêm ruột thừa, viêm họng, viêm túi mật, viêm phổi, viêm khuẩn huyết, viêm tĩnh mạch huyết khối, tinh hồng nhiệt.
Do bệnh thấp khớp cấp, viêm động mạch thái dương.
Do hoại tử mô như nhồi máu cơ tim, viêm tụy xuất huyết, suy thận cấp, suy hô hấp, ngộ độc nặng, chấn thương chảy máu…
Do thuốc lá, corticoid, lithium, iode, ACTH…
Bạch cầu đơn nhân tăng, nhưng giảm bạch cầu đơn nhân trung tính
Do nhiễm khuẩn như viêm họng trắng, có hạch bạch huyết, lách to, nhất là sau khi dùng ampicillin.
Do sau khi truyền máu, ghép nội tạng, phẫu thuật ở tim ngực làm sốt cao, sốt chậm nhưng kéo dài vài tuần sau phẫu thuật 15-30 ngày…
Hội chứng bạch cầu đơn nhân có thể gặp trong bệnh trái rạ, giang mai và do phản ứng một vài loại thuốc.

Bạch cầu hạt mất
Mất bạch cầu hạt do số bạch cầu đa nhân lưu hành tuột xuống rất thấp trong những bệnh rất nặng kèm với bệnh thiếu máu rất nặng làm mất tiểu cầu, do nguyên nhân suy tủy bởi ngộ độc hóa chất như benzen, tia X–quang, hóa trị liệu hoặc do ung thư mà tế bào bạch cầu xâm nhập tủy, hay di căn của ung thư biểu mô.
Nếu mất bạch cầu hạt riêng lẻ nguyên nhân đa số do thuốc, trên tủy đồ những dòng hồng cầu và tiểu cầu vẫn còn nguyên vẹn. Những thuốc làm mất bạch cầu hạt như các loại có chất amidopyrin, pyramidon, sulfamid, thuốc trị tuyến giáp trạng, thuốc trị động kinh, thuốc kháng histamin, thuốc kháng sinh, thuốc an thần kinh
Bạch cầu trung tính giảm (giảm số lượng bạch cầu đa nhân lưu hành)
Do siêu vi như cúm, viêm gan siêu vi, thương hàn, sốt rét lao, lách to, ban đỏ, lupus, làm tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn.
Giảm bạch cầu trung tính là dấu hiệu báo động bắt đầu mất bạch cầu hạt do thuốc gây ra.

B- Nguyên nhân ung thư máu

Những biến đổi bất thường trong cơ thể :
Theo thống kê hồ sơ bệnh của những người bị bệnh ung thư máu, không có sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ giữa nam giới và nữ gìới.
Trong cơ thể chúng ta ai cũng có đủ các loại tế bào hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu đơn nhân, bạch cầu đa nhân, những tế bào này hoạt động không ngừng như một đội quân lưu thông tuần hoàn khắp cơ thể để duy trì sự sinh hóa, chuyển hóa của lục phủ, ngũ tạng giữ cho cơ thể phát triển và duy trì mạng sống.
Khi xét nghiệm máu, Tây y đếm được số lượng hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu đơn nhân, bạch cầu đa nhân, tế bào đơn nhân trung tính, tế bào đa nhân trung tính có bao nhiêu đơn vị trong một milimét khối máu. Lấy những con số thống kê trung bình của những người khỏe mạnh không bệnh tật làm tiêu chuẩn so với những người bị bệnh. Nếu thấp hay cao hơn tiêu chuẩn là đã bị bệnh, nhưng Tây y không phân biệt bệnh thuộc hư chứng (thấp hơn tiêu chuẩn) và bệnh thuộc thực chứng (cao hơn tiêu chuẩn), trái lại Đông y cần phải biết hư, thực khác nhau mới có cách chữa đúng, nếu thấp sẽ bổ làm cho đủ, nếu cao sẽ tả cắt bớt giảm xuống cho đủ, cả hai phương pháp bổ hay tả cũng chỉ là phương pháp quân bình âm dương..
Nếu xét theo số lượng các loại tế bào đếm được trong 1mm khối máu, thì bình thường ai cũng có đủ. Nhưng thật ra ai cũng có mầm bệnh tiềm ẩn, nhất là bệnh ung thư máu mãn tính vì cơ thể không có triệu chứng gì, chỉ khi nào bác sĩ thường xuyên khám các bệnh khác qua xét nghiệm máu mới tìm thấy, bởi vì tế bào bạch cầu phát triển bất bình thường chưa đủ nhiều vượt qúa tiêu chuẩn, nhưng đến khi vượt qúa tiêu chuẩn là đã qúa muộn để chữa trị.
Giống như tất cả các tế bào máu, các tế bào bạch cầu đi du lịch thông qua cơ thể. Các triệu chứng của bệnh ung thư máu phụ thuộc vào số lượng các tế bào bạch cầu phát triển nhiều bất bình thường ở một nơi, nếu khu trú rõ ràng ở tạng phủ thì gọi là ung thư nội tạng như phổi, gan, lá mía, bao tử, thận, nếu không khu trú ở nội tạng mà ở ổ bụng, Tây y gọi là ung thư ổ bụng, riêng ung thư máu, bạch cầu sẽ phát triển ở những tuyến hạch lympho và dưới da có bướu không đau.
Nếu cơ thể được tìm thấy có một số tế bào di truyền bất bình thường (như loại trisomy 21) hay một số bệnh như còi xương (rickets), một số bệnh nhiễm trùng và các bệnh ung thư của tủy xương cũng có nguy cơ trở thành ung thư máu.

Những ảnh hưởng từ môi trường :
Người ta đã biết, một số yếu tố khác có nguy cơ được đa số công nhận là tác nhân gây bệnh ung thư máu :
Do hậu qủa hóa chất hay phóng xạ trị liệu trong điều trị của một bệnh ung thư khác.
Do tình cờ tiếp xúc với bức xạ, với X-quang, với hóa chất như benzene, hydrocarbons hay phân bón, thuốc trừ sâu. Nhất là các bà mẹ đang mang thai tiếp xúc với những loại này ở nơi làm việc thì những đứa trẻ sinh ra có nhiều nguy cơ bị bệnh ung thư máu hay những người nhiễm nhiều từ tính (magnetic) dương do sống gần đường dây điện cao thế, hay bệnh tăng sinh tủy xương (myeloproliferative), bệnh tăng hồng cầu vô căn (polycythemia vera), u xơ tủy (myelofibro) tăng sinh nguyên bào sợi (proliferating fibroblasts), hay bệnh thiếu máu bất sản (aplastic)..

C- Dấu hiệu của bệnh ung thư máu

Những người có ung thư máu cấp tính thường không biết là mình bị bệnh ung thư máu, nhưng họ cảm thấy bị bệnh. Nếu não bộ bị ảnh hưởng, họ có thể có nhức đầu, ói mửa, rắc rối tiêu hóa, mất kiểm soát của cơ bắp, hoặc động kinh co giật.
Những triệu chứng của bệnh ung thư máu cấp tính hoặc mãn tính có thể bao gồm:
Sốt, giảm lượng tế bào máu trắng, dẫn đến nhiễm trùng lặp đi lặp lại nghiêm trọng, chẳng hạn như bệnh viêm họng nặng, viêm phổi, huyết nhiễm khuẩn.
Giảm tiểu cầu gây chảy máu ở nướu răng, màng nhầy và mô dưới da .
Giảm số lượng tế bào hồng cầu, gây thiếu máu, kèm theo nước da xanh xao và hồi hộp
Các tế bào máu trắng xâm nhập vào một số cơ quan như hạch bạch huyết (lympho nodes)
Sưng hạch lympho thường không đau, đặc biệt nhất là ở cổ hoặc ở nách. Bệnh nhân bị sốt, Đông y gọi là sốt âm, hoặc sốt đổ mồ hôi ban đêm. Bệnh nhân cảm thấy yếu mệt mỏi, mất sức. Bệnh nhân tự nhiên bị giảm cân không biết lý do gì, cảm thấy bụng sưng cứng ở bên trái là lá lách hay ở bên phải là gan. Thỉnh thoảng bệnh nhân hay bị chảy máu dễ dàng ở mũi, chân răng, nướu răng, có đốm tụ máu đỏ tím hay tím xanh dưới da không do va chạm và thường đau trong xương hoặc khớp, cơ thể thường xuyên bị nhiễm trùng.
Bất cứ ai có những triệu chứng này nên nói cho bác sĩ đề có thể được chẩn đoán và điều trị càng sớm càng tốt.
Bệnh ung thư máu cũng có thể ảnh hưởng đến các bộ phận khác của cơ thể như làm co thắt trở ngại tiêu hóa, hại đến thận, phổi, tim, hoặc tinh hoàn.
Thường xuyên nhất, những triệu chứng này chưa chắc đã phải là do các bệnh ung thư. Một sự nhiễm trùng hay các vấn đề khác về sức khỏe cũng có thể gây ra những triệu chứng này. Chỉ có bác sĩ sau khi đã xét nghiệm kỹ càng mới có thể xác nhận có phải là ung thư máu hay không.

Tuy nhiên theo kinh nghiệm của Đông y Khí công, tất cả các bệnh ung thư đều do vinh khí và vệ khí suy kém, các chức năng của tạng phủ không còn đủ máu để tuần hoàn làm nhiệm vụ khí hóa ngũ hành, hay nói rõ hơn cơ thể thiếu máu trầm trọng, và huyết áp qúa thấp dưới 90/60mmHg trong thời gian kéo dài khiến tế bào gốc não tủy bất sản. Vì thế khi chữa bệnh ung thư máu muốn có được kết qủa nhanh phải nhờ vào ghép tủy phù hợp để phục hồi lại chức năng sinh sản ra tế bào gốc mới cung cấp đủ hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu hoạt động trở lại bình thường.

D- Xét nghiệm các loại ung thư máu

Phân tích mẫu máu thấy các tế bào máu trắng bình thường, nhưng bạch cầu đa nhân trung tính (neutropenia) giảm, do một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng nào đó và giảm lượng tiểu cầu (thrombocytopenia), là nguyên nhân bị chảy máu tự phát (spontaneous).
Các các tế bào bạch cầu cũng có thể xâm lấn vào cơ quan khác như hạch bạch huyết (lymph nodes), vào tỳ (lá lách) , gan, tinh hoàn, hoặc vào hệ thần kinh trung ương.

Theo Tây y, bệnh nhân có thể có một hoặc nhiều loại xét nghiệm sau đây:

Sinh thiết tủy xương hoặc rút tủy ở xương sống lưng.:

Bác sĩ sử dụng một cái kim rất dài, để lấy một mẩu xương nhỏ và tủy xương đi khám nghiệm. Sinh thiết là cách để biết chắc rằng cơ thể đang có các tế bào ung thư tủy xương. Trước khi được lấy mẫu ở vùng nào, nơi ấy được chích thuốc tê để làm giảm cơn đau. Bác sĩ sẽ lấy một số tủy xương từ xương hông hoặc một xương lớn của bệnh nhân, rồi sử dụng kính hiển vi để kiểm tra xem các tế bào bạch cầu.

Thiết chẩn :
Bác sĩ khám tìm chỗ hạch lympho bị sưng to ấn không đau ở cổ và nách, và ấn đè tìm nơi sưng đau ở lá lách và gan.

Thử máu:
Các phòng thí nghiệm tiên tiến đủ phương tiện máy móc để kiểm tra đếm số lượng tế bào máu trắng, tế bào hồng cầu, tiểu cầu và huyết sắc tố.
Tìm tế bào di truyền học (cytogenetics):
Các phòng thí nghiệm xem xét các nhiễm sắc thể (chromosomes) từ mẫu của các tế bào máu, tủy xương, hoặc những hạch bạch huyết lympho. Nếu tìm thấy nhiễm sắc thể bất bình thường, có thể biết bệnh ung thư máu của bệnh nhân thuộc loại nào, thí dụ, những bệnh nhân thuộc loại bệnh bạch cầu tủy mãn tính (CML) có một nhiễm sắc thể bất thường gọi là Philadelphia

E- Phân loại bệnh ung thư máu

Trong 1847, Rudolf Virchow, một bác sĩ histologist người Đức, là một trong những người đầu tiên mô tả bệnh bạch cầu, là một bệnh ung thư máu của tế bào tủy xương (các tế bào trong tủy xương sản xuất các tế bào máu. Các tế bào bạch cầu đột biến bất thường làm chuyển đổi các tế bào trong bộ gien tích lũy ở DNA của bệnh nhân
Ở thế kỷ 19, nói đến bệnh ung thư máu người ta cho rằng nó là bệnh nan y chết người. Các mẫu máu của bệnh nhân bị bệnh ung thư máu biến thành máu trắng, do sự phát triển tăng số lượng tế bào máu trắng mà từ đó có tên là bệnh bạch cầu (leucosis).
Bệnh bạch cấu được phân biệt là hạch bạch huyết phát triển từ hạch bạch huyết thành những bướu, trong chẩn đoán chia thành 2 loại : nguyên bào lympho bạch huyết cấp tính và tạo nguyên bào bạch huyết (lympho bymphoblastic) thâm nhiễm vào tủy xương, nhưng chữa cùng một cách.

Ngày nay khoa học phân biệt được nhiều loại bệnh bạch cầu và có những cách điều trị cụ thể từng loại.
Chức năng các tế bào gốc từ tủy xương sản xuất hàng ngày hàng tỷ tế bào hồng cầu, tế bào trắng và những tiểu cầu.
Khi bạch cầu sinh sản bất thường và gia tăng quá mức báo trước của các tế bào máu trắng đã bị tắc ở một nơi nào đó, cuối cùng nó xâm nhập vào đến tủy xương và máu làm cho tủy sống không còn sản xuất đủ tế bào hồng cầu nên gây ra bệnh thiếu máu.

1.Bệnh ung thư máu cấp tính do nguyên bào lympho (Acute lymphoblastic leukemia =ALL)
Là đặc trưng của các tế bào non (immature) từ tủy xương gia tăng nhanh chóng, cấu tạo tế bào không bình thường và không hoạt động. Bệnh thường gặp nhất ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi, nhưng rất hiếm với người lớn.
2. Bệnh bạch cầu tủy bào cấp tính (Acute myeloblastic leukemia =AML) Bệnh bạch cầu tủy cấp tính rất hiếm xảy ra với trẻ em, chỉ phổ biến đối với người lớn.
3. Bệnh ung thư bạch cầu mãn tính do nguyên bào lympho:
Bệnh bạch huyết bào mãn tính (Chronic lymphocytic leukemia =CLL): Bệnh bạch cầu lympho mãn tính chỉ thường xảy ra ở trẻ em từ 3.-4 tuổi hoặc trên 50 tuổi..
4.Bệnh bạch cầu tủy bào mãn tính (Chronic myeloblastic leukemia =CML) thường xảy ra ở người lớn và hiếm khi ở trẻ em. Sự tiến triển của bệnh này âm thầm theo thời gian. Các khối u được tạo ra trong các tế bào lớn hơn bình thường. Việc điều trị các loại bệnh này được bắt đầu chỉ sau một khoảng thời gian dài quan sát qua thử nghiệm máu..
Việc phân loại này dựa theo tốc độ phát triển khi xét nghiệm tế bào học (cytological) liên kết với dòng tế bào của bệnh bạch cầu nguyên bào lympho hoặc bệnh bạch cầu lympho ở nguyên tủy bào hay ở tủy sống.
Các tế bào máu trắng xâm nhập vào một số cơ quan như hạch bạch huyết lympho
Các hình thức phổ biến nhất ở người lớn là những loại bạch cầu tủy bào cấp tính (AML), bạch cầu lympho mãn tính (CLL) và bạch cầu tủy bào mãn tính (CLM)

Đầu năm 1970, một nhóm quốc tế bao gồm các nhà nghiên cứu Pháp, Mỹ và Anh đã thảo luận đề tài này và phân loại các bệnh bạch cầu cấp tính của hàng trăm hồ sơ của bệnh nhân ung thư máu thành tiêu chuẩn FAB mà ngày nay vẫn còn được sử dụng để phân loại ung thư máu cấp tính, sau đó được cơ quan y tế quốc tế phân loại theo tiêu chuẩn WHO .

Có 3 loại ung thư bạch cầu lympho cấp tính (ALL) là L1, L2, L3
9 loai ung thư tủy bào cấp tính (AML) là M1, M2, M3, M4, M4Eo, M5, M6, MO, M7.
Cách điều trị L1, L2 được điều trị giống nhau, loại L3 được gọi là bệnh bạch cầu Berkitt có cách điều trị khác
Loại bạch cầu Berkitt rất hiếm, có quá nhiều các tế bào máu trắng phát triển nhanh chóng được gọi là mẫu B lymphocytes trong máu và tủy xương. Nó có thể bắt đầu trong hạch lympho và sau đó lây lan vào máu và tủy xương, hoặc nó có thể bắt đầu trong máu và tủy xương mà không có sự tham gia của các hạch lympho. Cả hai Burkitt leukemia và Burkitt lymphoma ( u bạch huyết) đã được liên kết với nhiễm với vi-rút Epstein-Barr.
Đối với AML, loại M3 là bệnh bạch cầu tủy bào cấp tính (promyelocytic leukemia) sử dụng tất cả các vitamine A (axit-trans retinoic hay tretinoin) và muối arsenic được điều trị theo cách riêng, còn các loại khác được điều tri tương tự.
Xét nghiệm DNA và các mẫu bản sao (RNA) sẽ bổ sung các kiểu nhân (karyotype) để tìm ra được huyết sắc tố bất binh thường hoặc đột biến nhiễm sắc thể. Trong tương lai gần cũng sẽ được phân tích tất cả các RNA trong tế bào của bạch cầu để có thể tiên đoán trước được bệnh.
Thí dụ sự đột biến nhiễm sắc thể được xác định bởi các nghiên cứu kiểu nhân tế bào bạch cầu chuyển đoạn nhiễm sắc thể (chromosomal translocation) từ kiểu giữa 9 và 22 làm gia tăng loại bệnh bạch cầu tủy mãn tính (CML), theo FAB xếp vào loại loạn sản tủy (myelodysplasia) rất hiếm, chỉ xảy ra ở trẻ vị thành niên.
Loại tăng sản nhanh tế bào bạch huyết lympho mãn tính (CLL, lymphoid proliferations) thường gia tăng tế bào B, có loại tăng tế bào bạch huyết lympho T Galton, loại nấm…

Phân loại các bệnh bạch cầu tủy bào cấp tính khác nhau như :

AML 1: bệnh bạch cầu nguyên tủy bào (myeloblastic) không có khác biệt
AML 2: myeloblastic có khác biệt
AML 3: promyelocytairy
AM L4: myelomonocytic
AML 4Eo: myelomonocytic với giảm bạch cầu ưa eosin (eosinophilia)
AML 5: monoblastic (không có khác biệt với M5A, nhưng khác biệt với M5B)
AM L6: erythroblastic hoặc bệnh tăng sinh nguyên tủy bào hồng cầu (erythroleukemia)
AML 7: megakaryoblastic

Phân loại các bệnh bạch cầu lympho cấp tính khác nhau như :

Loại L3 hoặc Burkitt’s leukemia là luôn luôn tăng sản tế bào B. Các loại L1 và L2 có thể tăng sản sẵn B, với các mức độ khác biệt khác nhau, hoặc gia tăng của tế bàoT.
Loại ALL 3 khác với các loại bạch cầu khác, nó có tế bào bạch cầu lympho khổng lồ.(LGL)
Bệnh bạch cầu có tế bào lông (hairy cell leukemia) chỉ thấy được dưới kính hiển vi là một loại bệnh bạch cầu mãn tính rất hiếm xảy ra.

F- Điều trị theo Tây Y

Phương pháp điều trị tùy thuộc vào từng loại của bệnh bạch cầu:
Bệnh bạch cầu cấp tính được chữa trị với các trị liệu bằng hóa chất, mà thường đòi hỏi phải nằm trong bệnh viện một thời gian khá dài. Mục đích là để tiêu diệt tế bào bất thường trên nguyên bào (blast). Sau khi điều trị, không chỉ làm mới các tế bào máu và hệ thống miễn dịch, bệnh nhân rất cần nhiều nhu cầu chăm sóc sức khỏe và đặc biệt cần truyền thêm máu. Các giai đoạn đầu tiên điều trị được gọi là bước đầu và cuối cùng của việc điều trị là củng cố, và bảo trì điều trị.

Phóng xạ trị liệu não bộ là cần thiết trong một số trường hợp.

Ghép tủy xương có thể được chỉ định trong một số loại bệnh nghiêm trọng nhất trong các trường hợp bị tái nhiễm
Các cơ hội thành công của điều trị khoảng 80% đối với trẻ em, nó còn thay đổi theo độ tuổi và loại bệnh bạch cầu .
-Các AML3 (bệnh bạch cầu tủy cấp tính) được điều trị kết hợp bằng hóa chất và các axit-trans retinoic salts và arsenic. Cơ hội phục hồi được lớn hơn 70%.
-CML (Bệnh bạch cầu tủy mãn tính) được chữa trị hiện nay (2006) là loại thuốc mới dùng để ức chế một loại enzyme trong gan là ITK, cụ thể trên tế bào bạch cầu có bệnh.Các tùy chọn khác cũng là những loại thuốc trị (hydroxyurea, Interferon, aracytine …) và ghép tủy xương.
-Các CLL (Bệnh bạch cầu lympho mãn tính) phát triển thường rất chậm, có một sự đột biến cao, tùy thuộc vào giai đoạn tiến triển theo độ tuổi của bệnh nhân.

Theo một hội nghị của giáo sư Laurent Degos, khoa Hematology, Bệnh viện Saint-Louis ở Paris, sự phát triển của bệnh bạch cầu nhanh hơn đối với các loại bệnh ung thư khác.
Những người có bệnh bạch cầu hiện nay có nhiều lựa chọn. như trị liệu bằng hóa chất, trị liệu sinh học, bức xạ trị liệu, và ghép tế bào gốc. Nếu lá lách bị viêm sưng, bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật để loại bỏ nó. Đôi khi cách trị liệu được sử dụng phối hợp.
Sự lựa chọn cách điều trị phụ thuộc vào các loại bệnh ung thư máu cấp tính hoặc mãn tính và độ tuổi.

Hóa trị liệu :

Nhiều bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất để tiêu diệt các tế bào bạch cầu bằng một vài cách khác nhau:

Bởi miệng: Một số loại thuốc cho bệnh nhân dùng để nuốt vào miệng.
Tiêm vào tĩnh mạch (IV=:Into a vein) Các loại thuốc thông qua một ống kim hoặc đưa vào một tĩnh mạch thông qua một ống được đặt trong một tĩnh mạch lớn, thường ở trên ngực, rất hữu ích cho các bệnh nhân cần rất nhiều phương pháp trị liệu IV. Phương pháp này tránh được sự cần thiết phải tiêm rất nhiều lần có thể gây ra bất tiện làm tổn thương các tĩnh mạch và da.
Tiêm chất lỏng vào cột sống: Bác sĩ có thể tiêm các loại thuốc vào cột sống .
Đưa thuốc vào não tủy: Trị liệu bằng hóa chất được đưa vào não tủy. Bệnh nhân được trị liệu bằng hóa chất đặc biệt thông qua một ống gọi là Ommaya reservoir. Các bác sĩ đặt ống thông dưới sọ não. Bác sĩ tiêm các loại thuốc vào trong ống. Phương pháp này tránh sự đau đớn như tiêm vào cột sống.

Hóa trị diệt các tế bào bạch cầu nhanh chóng, nhưng thuốc cũng có thể gây tổn hại cho tế bào khỏe mạnh bình thường cũng nhanh chóng nên có nhiều khả năng bị nhiễm trùng, da nổi vết bầm tím hoặc chảy máu một cách dễ dàng, và cảm thấy rất yếu và mệt mỏi. Bệnh nhân sẽ nhận được thử máu để kiểm tra mức độ thấp của các tế bào máu. Nếu cơ thể qúa yếu có thể dừng việc trị liệu bằng hóa chất trong một thời gian, hoặc giảm liều thuốc, hoặc cần phải truyền thêm máu.
Hóa trị có thể gây rụng tóc, trục trặc tiêu hóa, kém ăn, buồn nôn và ói mửa, tiêu chảy, hoặc đau môi miệng.
Hóa trị có thể gây tổn hại tế bào tinh trùng và noãn sào nên cần phải lưu trữ tinh trùng hay noãn sào trong ngân hàng đông lạnh trước khi trị liệu, nếu sau này muốn sinh con.
Phản ứng phụ khi trị liệu làm cơ thể bị sưng phù, và đột ngột tăng cân, thiếu máu, nôn mửa, tiêu chảy, vọp bẻ, hoặc ban sốt.

Trị liệu sinh học

Trị liệu sinh học cho rằng điều trị là cải thiện cơ thể một cách tự nhiên để bảo vệ chống lại bệnh.
Đối với một số người bị bệnh bạch cầu tủy mãn tính, một trong những loại trị liệu sinh học là một chất gọi là kháng thể đơn dòng, kháng thể nhân tạo sinh sản từ một dòng tế bào vì vậy chỉ gồm một kìểu globulin miễn dịch(monoclonal) truyền vào ven dưới da hay vào bắp thịt đưa chất này vào các tế bào bạch cầu. Một trong những loại kháng thể monoclonal mang độc chất sẽ giết chết các tế bào gây bệnh hay làm chậm sự phát triển của nó. Đó là một loại thuốc giúp hệ miễn dịch tiêu diệt các tế bào bạch cầu.
Các loại thuốc khác có thể được đưa ra cùng một thời gian để ngăn chặn các phản ứng phụ.
Những phản ứng phụ của trị liệu sinh học khác, thường gây ra sưng ở nơi da bị tiêm. có thể gây ra nhức đầu, đau bắp thịt, sốt, hoặc cơ thể suy nhược.

Bức xạ trị liệu

Bức xạ trị liệu (còn gọi là phóng xạ trị liệu radiotherapy) sử dụng năng lượng cao-quang để diệt các tế bào bạch cầu. Một số bệnh nhân được bức xạ từ một máy tính lớn nhằm vào lá lách, não bộ, hoặc các bộ phận khác của cơ thể, nơi tụ nhiều các tế bào bạch cầu. Loại trị liệu này kéo dài 5 ngày một tuần trong một vài tuần, mỗi ngày từ 1-2 lần, tùy theo loại bệnh..
Các tác dụng phụ của bức xạ trị liệu phụ thuộc vào liều bức xạ và sức chịu đựng của cơ thể được điều trị. Ví dụ, bức xạ vào bụng có thể gây ra, nôn mửa và tiêu chảy. Ngoài ra, làn da nơi khu vực đang được điều trị có thể trở nên đỏ, khô, đau, có thể bị rụng tóc và rất mệt mỏi trong thời gian bức xạ trị liệu, đặc biệt là sau một vài tuần điều trị. Nghỉ ngơi rất quan trọng, nhưng bác sĩ thường khuyên bệnh nhân cố gắng duy trì hoạt động bình thường sẽ tốt hơn nếu có thể được.

Ghép tế bào gốc Stem Cell

Ghép tế bào gốc cho phép bệnh nhân được điều trị bằng các loại thuốc liều cao, bức xạ, hoặc cả hai. Những liều cao, tiêu diệt cả hai loại tế bào bạch cầu và tế bào bình thường và các tế bào máu trong tủy xương. Sau khi trị liệu bằng hóa chất liều cao, bức xạ trị liệu, hoặc cả hai, bệnh nhân nhận được các tế bào khỏe mạnh mới thông qua việc truyền máu.để thay thế những tế bào đã bị tiêu huỷ trong lúc điều trị.
Nguồn cung cấp tế bào gốc :
Của chính bệnh nhân :
Trước khi được trị liệu bằng hóa chất liều cao hoặc bức xạ trị liệu, các tế bào gốc của bệnh nhân được được lưu trữ đông lạnh. Sau khi trị liệu, các tế bào gốc lưu trữ được ghép trả lại cho bệnh nhân.
Từ anh chị em, cha mẹ, anh chị em sinh đôi, hoặc có thể là từ những người hiến tủy phù hợp không liên quan huyết thống gia đình :
Các bác sĩ sử dụng cách thử máu để tìm hiểu một cách chặt chẽ với những người hiến tủy để tìm các tế bào gốc phù hợp với các tế bào của bệnh nhân.
Một nguồn khác từ các tế bào gốc ở cuống rốn.được lấy từ một trẻ sơ sinh được lưu giữ trong một tủ đông lạnh.
Sau khi được ghép tế bào gốc, bệnh nhân phải ở lại bệnh viện từ vài tuần đến 1 tháng. vì sẽ có nguy cơ nhiễm trùng và chảy máu do liều bức xạ trị liệu hay hóa chất trị liệu.. Trong thời gian nằm viện, những tế bào đã được ghép sẽ bắt đầu sản xuất các tế bào máu khỏe mạnh.
Đôi khi có vấn đề phản ứng nhẹ hay nặng của cơ thể chống lại những tế bào gốc được ghép làm tăng các tế bào máu trắng tạo phản ứng chống lại ở các mô bình thường ở gan, da, hoặc bị ảnh hưởng tiêu hóa. Nó có thể xảy ra bất kỳ thời điểm nào sau khi ghép, thậm chí cả năm sau đó.

Chăm sóc và hỗ trợ :

Điều trị bệnh ung thư máu và có thể dẫn đến các vấn đề về sức khỏe. Bệnh nhân có thể được hỗ trợ chăm sóc trước, trong, hoặc sau khi điều trị bệnh ung thư để ngăn chặn hoặc chống lại nhiễm trùng, để kiểm soát đau đớn và các triệu chứng khác, để giảm các phản ứng phụ của việc trị liệu, và để cải thiện tiện nghi và chất lượng cuộc sống trong thời gian điều trị.
Nhiễm trùng:
Những người bị bệnh ung thư máu rất dễ dàng bị nhiễm trùng, có thể nhận được các loại thuốc kháng sinh nh ư vắc xin chống bệnh cúm và viêm phổi. Cần tránh xa đám đông và từ những người có cảm lạnh và các người có bệnh hay lây khác. Nếu bệnh nhân bị lây bệnh nhiễm trùng, nó có thể nghiêm trọng và cần phải được vào bệnh viện nằm điều trị ngay.

Thiếu máu và chảy máu:
Thiếu máu và chảy máu cũng là những vấn đề thường xuyên yêu cầu phải được hỗ trợ chăm sóc ngay. Bệnh nhân có thể cần phải được truyền thêm máu, tế bào hồng cầu hoặc tiểu cầu, giúp chữa trị thiếu máu và giảm nguy cơ chảy máu nghiêm trọng.

Các vấn đề về răng miệng:
Khi trị liệu bằng hóa chất có thể làm miệng nhạy cảm, dễ mắc bệnh, và có thể chảy máu. Các bác sĩ thường khuyên bệnh nhân phải thường xuyên khám nha khoa, và nếu có thể, các chăm sóc nha khoa cần thiết trước khi bắt đầu trị liệu bằng hóa chất. Nha sĩ chỉ dẫn cho bệnh nhân như thế nào để giữ miệng sạch sẽ và khỏe mạnh trong thời gian điều trị.

Hoạt động dinh dưỡng và vật lý:
Điều quan trọng là để bệnh nhân có thể chăm sóc cho mình bằng cách ăn uống tốt và duy trì hoạt động như bình thường nếu có thể.
Họ cần phải có số lượng calo để duy trì một trọng lượng tốt, cần đủ protein để giữ sức mạnh. Ăn uống cũng có thể giúp bệnh nhân cảm thấy tốt hơn và có thêm nhiều năng lượng.
Đôi khi, bệnh nhân có thể bị khó chịu hoặc mệt mỏi cảm thấy rằng thức ăn không mùi vị nhạt nhẽo chán ăn. Bác sĩ chăm sóc sức khỏe có thể đề nghị phương pháp để đối phó với những vấn đề này.

Nghiên cứu cho thấy rằng những người có bệnh ung thư cảm thấy tốt hơn khi họ đang hoạt động. Đi bộ, yoga, và các hoạt động khác có thể giữ cho cơ thể mạnh, và tăng năng lực. Tập thể dục có thể làm giảm đau, hay buồn nôn, giúp giảm căng thẳng và giúp cho việc điều trị được thực hiện dễ dàng hơn.
Bác sĩ sẽ kiểm tra lại các bệnh ung thư máu, như thử máu, tế bào di truyền học, chụp quang tuyến, tủy xương, hay cột sống…, ngay cả khi các bệnh ung thư đã tiêu huỷ hoàn toàn, nhưng bệnh đôi khi tái phát, vì những tế bào bạch cầu chưa bị tiêu diệt còn sót ở một nơi nào đó trong cơ thể sau khi điều trị. Ngoài ra, kiểm tra giúp phát hiện các vấn đề sức khỏe, có thể từ kết quả điều trị bệnh ung .

Tiếp tục nghiên cứu cách chữa bệnh ung thư máu
Những nghiên cứu về bệnh ung thư máu đã thực sự tiến bộ trong điều trị. Bởi vì các nghiên cứu, người lớn và trẻ em bị ung thư máu có thể mong muốn có được một chất lượng cuộc sống tốt hơn và ít bị chết hơn vì bệnh này. Tiếp tục nghiên cứu đem lại hy vọng trong tương lai, cách điều trị bệnh này được thành công hơn.
Bác sĩ trên tất cả các quốc gia đang tiến hành nhiều loại thử nghiệm lâm sàng (nghiên cứu, trong đó mọi người tình nguyện tham gia). Thử nghiệm lâm sàng được thiết kế để trả lời câu hỏi quan trọng và để tìm hiểu xem phương pháp tiếp cận mới là an toàn và hiệu quả.

Các bác sĩ đang theo học các phương pháp mới và tốt hơn cách thức để điều trị bệnh ung thư máu, và cách để cải thiện chất lượng cuộc sống. Họ đang thử nghiệm mới nhắm mục tiêu trị liệu, sinh học trị liệu, và trị liệu bằng hóa chất. Họ cũng đang làm việc với các kết hợp của phương pháp trị liệu.
Thậm chí nếu mọi người trong một thử nghiệm dù không lợi ích trực tiếp, họ vẫn đang làm cho một đóng góp quan trọng của ngành y giúp đỡ tìm hiểu thêm về bệnh ung thư máu và làm thế nào để có thể chữa trị được, mặc dù thử nghiệm lâm sàng có thể có sự rủi ro, nhưng các bác sĩ có thể làm tất cả để bảo vệ các bệnh nhân.
Số người bị bệnh ung thư máu đang tăng đáng kể do nguy cơ phát triển các bệnh nhiễm trùng, thiếu máu, và chảy máu.

G- Điều trị theo Đông Y – Khí công

Phòng ngừa bệnh ung thư máu theo Tinh- Khí- Thần

Theo quan niệm của Đông y, các bệnh sở dĩ có đều do xáo trộn 3 yếu tố Tinh- Khí-Thần làm ảnh hưởng đến sự tuấn hoàn của khí và huyết, thừa hay thiếu gọi là bệnh chứng hư hay bệnh chứng thực, và chứng hư hay thực nó làm cơ thể biến thành hàn hay nhiệt….
Nhưng hai yếu tố chính gây ra bệnh ung thư máu mà cả Tây y lẫn Đông y đều thấy được là cơ thể thiếu máu trầm trọng gây ra bệnh ung thư máu cấp tính, và thiếu máu do tủy bất sản là ung thư máu mãn tính.
Tất cả các dấu hiệu bệnh ung thư máu đã báo trước nhiều năm nhưng Tây y xét nghiệm chưa phát hiện, vì chưa có khái niệm liên kết chúng để thấy được sự bất thường của sự khí hóa tạng phủ, vì Tây y chữa ngọn, Đông y chữa gốc.

Thí dụ, nhìn một cây có lá sâu giai đoạn một, Tây y phân chất lá tìm xem sâu gì, virus gì làm ra sâu. Còn Đông y tìm trong gốc, cây có đủ nước, gốc có đủ nhựa đem lên nuôi cành lá không.
Tây y chữa bằng cách diệt sâu, bơm thuốc vào những cành lá khác. Đông y chữa bằng cách tưới nước, bón phân thêm cho mọc thêm cành lá tươi tốt….
Khi giai đoạn hai, lá rụng nhiều, cành cây khô dòn, lỗ rỗ loang lổ, thân cây tróc vỏ, đó là biến chứng theo Tây y là đã dùng thuốc diệt sâu không đúng bệnh, lại đổi thử nghiệm loại thuốc khác. Đối với Đông y, gốc cây đã khô gần hết nước, mà không tưới thêm nước, bón thêm phân, cây sẽ hết nhựa.
Đến giai đoạn ba, cây gần chết, thuốc diệt sâu không hết mà sâu càng nhiều, lá càng rụng, cành càng khô, hết cách chữa. Đối với Đông y như vậy rễ khô sẽ không hút được nước và phân bón, không tạo ra nhựa để nuôi cành lá, giống như thuộc giai đoạn tủy bất sản, ngược lại cách chữa của Đông y vẫn chữa vào gốc là tưới nước bón phân, cành khô lá úa sẽ rụng, nhưng cành mới mọc lên, đâm trồi nẩy lộc mới, ra lá mới, cây được phục hồi.

Đó là cách so sánh giữ gốc bỏ ngọn. Trong cả 3 giai đoạn Đông y không cần biết là loại sâu gì, bệnh của cây là bệnh gì theo phân loại Tây y.
Sở dĩ dùng thí dụ đơn giản như thế để suy luận ra cách ngăn ngừa ung thư máu đã có dấu hiệu tiềm ẩn trong nhiều bệnh hợp lại :
Huyết áp thấp, chóng mặt, người lạnh, kém ăn, bụng đầy cứng, tự nhiên chảy máu chân răng hay chảy máu mũi không cầm, không do chạy nhẩy, không do làm việc qúa sức, không do thời tiết nóng, hay bị đau nhức bắp thịt như kìến cắn, đau nhức trong xương, lo sợ, da ưa nổi vết bầm không do va chạm.

Khám theo Tây y không tìm ra gốc bệnh để chữa đúng, nếu bệnh tiếp diễn thời gian dài sức khỏe không khá hơn khi chữa Tây y, cuối cùng Tây y mới khám phá ra được bệnh ung thư máu thì qúa trễ. Nhưng Đông y xếp bệnh này vào loại bệnh thiếu máu, thiếu hồng cầu nên bị vỡ tiểu cầu là nguyên nhân đưa đến các loại bệnh ung thư, nặng hơn và khó chữa hơn là trường hợp tủy bất sản (tế bào gốc cũng chết không sinh sản ra hồng cầu, bạch cầu được, nên lúc đó mới cần phải ghép tủy).
Nếu ung thư có khu trú tập trung bạch cầu phát triển nhiều ở tạng nào thì gọi là bệnh ung thư thuộc tạng đó, như ung thư gan, ung thư lá mía, bao tử, phổi, ruột….Nếu không khu trú ở tạng mà phát triển ra ở các tuyến hạch cổ, nách và các hạch bạch huyết thì gọi là ung thư máu.
Do đó, đề phòng bệnh ung thư xảy ra, cơ thể lúc nào cũng phải đầy đủ khí huyết, huyết áp đủ, ăn ngon, tiêu hóa tốt, ngủ ngon, kinh mạch thông, không đau nhức, khỏe mạnh hồng hào, cho nên cổ nhân mới có câu :

Ăn được ngủ được là tiên,
Không ăn không ngủ mất tiền thêm lo.

Muốn được như vậy, lúc nào cũng phải kiểm soát Tinh- Khí-Thần hòa hợp .

Nguyên nhân do yếu tố Tinh :

Tinh là những chất bổ dưỡng nuôi cơ thể do sự hấp thụ thức ăn đem lại, nên cần phải ăn những thức ăn bổ khí và huyết đầy đủ, không được ăn những thức ăn làm phá máu, mất hồng cầu, mất nhiệt lượng.
Kkhông nên ăn nhiều chất chua như chanh cam, sữa chua, các loại trái cây có vị chua sẽ làm mất hồng cầu và làm loãng máu; không được ăn những chất hàn lạnh như khổ qua, dưa leo, củ cải trắng, đậu xanh, khoai mì làm cơ thể lạnh, mất năng lượng và nhiệt lượng để sinh hóa, chuyển hóa thức ăn.
Cơ thể muốn đủ máu, cần phải ăn những chất tạo máu như con hào, sò huyết, gan, lá lách, thịt bò, cà rốt, rau muống có nhiều chất sắt, ăn loại thịt đỏ, củ dền, rau dền là chất tạo máu, chất tăng năng lượng và nhiệt lượng như nhãn, xoài, sầu riêng, chất đường, chất cay nóng ấm như gừng, tiêu ớt, hành, tỏi….
Uống thuốc bổ kích thích ăn ngon, Đông y có thuốc Sirop Đương Quy Tửu, thuốc Lý Trung Hoàn để làm tăng máu, tăng hồng cầu….
Có người hỏi, sirop Đương Quy Tửu là thuốc chuyên chữa ung thư ?. Đối với Đông y, không có loại thuốc nào ghi rõ chuyên trị một bệnh nào cụ thể như Tây y, nó chỉ là điều chỉnh sự khí hóa, sinh hóa, chuyển hóa, điều hòa khí huyết theo Âm Dương, Ngũ Hành căn cứ vào đối chứng lâm sàng của căn bệnh cần bổ hay tả, cho khí hay cho huyết, cho tạng hay phủ, cho Hành nào trong Ngũ hành….
Ngay cả những thầy Đông y bán thuốc thời nay, chỉ học tên thuốc để hốt thuốc và bán thuốc theo toa mà không giỏi y lý để lý luận bệnh theo bổ tả, vẫn bị lầm lẫn, do đó bệnh nhân đi mua thuốc do họ bán đem về uống vẫn không khỏi bệnh.
Có trường hợp, tôi khám một bệnh nhân bị ho khan kinh niên, tiếng ho nhỏ, húng hắng thiếu hơi, đã từng uống nhiều thang thuốc Bắc tại một tiệm thuốc X mà không khỏi. Tôi nói, bệnh này do chức năng thận suy kém, cần phải bổ phế-thận, chỉ có thuốc Bách Hợp Cố Kim Hoàn là trị được bệnh này. Bà ta lại tiệm thuốc X mua thuốc, và hỏi ông thầy bán thuốc là thuốc này trị bệnh gì, thầy bán thuốc trả lời, là thuốc bổ phổi. Bà hỏi lại : Chứ không phải là thuốc bổ thận hả. Thầy bán thuốc trả lời không phải bổ thận. Bà cầm chai thuốc đó trở lại phòng mạch hỏi lại tôi cho chắc ăn. Tôi trả lời bổ phế, theo nguyên tắc con hư bổ mẹ, thận hư phải bổ phế. Bà uống 5 chai là khỏi bệnh, và thắc mắc sao thầy bán thuốc không bán cho tôi loại này mà bắt mạch hốt thuốc tôi uống đến ba bốn mươi thang mà không khỏi.

Đối với Tây y, khi khám tìm ra bệnh chức năng thận hư, không tổn thương thực thể nên chưa có thể chữa được thì Đông y cho dùng Bách Hợp Cố Kim Hoàn, Tây y sẽ cho rằng thầy chữa không đúng thuốc, đúng bệnh, sẽ bị lấy mất bằng hành nghề, vì trong toa thuốc không nói gì đến bệnh thận cả. Cũng như trường hợp bệnh thận qúa nặng, chức năng thận không lọc mới cần phải lọc thận. Theo Đông y, dùng thuốc Phụ Tử Lý Trung Hoàn sẽ khỏi phải lọc thận, Tây y xem toa Phụ Tử Lý Trung Hoàn không thấy có chữ nào nói về thuốc chữa bệnh thận, cho rằng tiệm thuốc hay thầy thuốc bán lầm thuốc, chắc phải gỡ bảng, tịch thu bằng và dẹp tiệm, vì không hiểu nguyên tắc của Đông y : Con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con theo Ngũ hành…..

Nếu đo huyết áp thấp dưới 100/60mmHg mạch dưới 60 là thiếu máu bẩm sinh, nếu mạch trên 90 là thiếu máu do bệnh, cần phải dùng thuốc Đông y bào chế sẵn thành sirop tên Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin). Cả hai trường hợp thiếu máu do bệnh hay do thiếu máu bẩm sinh đều dễ bị bệnh ung thư.
Nếu không đủ máu lên đầu sẽ bị bệnh đau đầu một bên, thiên đầu thống, đo huyết áp hai tay khác nhau nhiều, một bên bình thường, một bên qúa thấp dưới 100/60mmHg, nếu bệnh kéo dài do không bổ thêm máu cho huyết áp tăng đều, mà chỉ dùng thuốc giảm đau, thì bệnh vẫn chưa được chữa tận gốc, sau này sẽ bị bệnh như ung thư não, còn truòng hợp tủy bất sản, có nghĩa trong các ống xương bị khô, không đủ máu biến thành tinh hóa tủy, xương hết tủy sẽ không thể tạo máu từ tế bào gốc để sinh ra hồng cầu, bạch cầu, và tiểu cầu nuôi da thịt xương cốt, nên mới bị đau nhức toàn thân, vì thiếu máu và những chất bổ nuôi dưỡng tế bào.

Nguyên nhân do yếu tố Khí :

Máu trong cơ thể phải đủ lượng máu cần thiết, để giữ cho huyết áp đừng tụt thấp dưới 105/65mmHg, mạch 65-75 và đủ lượng oxy để chuyển hóa, từ chất sắt Fe2 cần thêm 2 oxy để trở thành máu đen, (Fe2O2) và cần thêm 1 oxy nữa để trở thành máu đỏ (Fe2O3).
Khi cơ thể thiếu khí là thiếu oxy do hơi thở kém, đó cũng là lý do mất máu, vì trong máu đỏ mất oxy, trở thành máu đen, máu đen cũng mất oxy, chỉ còn lại sắt nên da nổi vết bầm xanh, mặt mày xanh xao. Ngoài ra, trong thức ăn, nếu có những chất tạo máu, hay uống thuốc bổ máu, nhưng hơi thở yếu không đủ khí làm nhiệm vụ sinh hóa-chuyển hóa, số máu thiếu oxy (dưỡng khí) sẽ không giữ được số lượng máu, nên máu đỏ lại biến thành máu đen, máu đen mất oxy lại biến thành Fe2, cơ thể lại thiếu hụt máu thường xuyên. Do đó muốn duy trì hồng cầu, giữ vững số lượng máu, cần phải tập thở Khí công.

Đó là chưa kể, những khí bên ngoài cơ thể cũng ảnh hưởng làm bệnh tăng hay giảm. Cơ thể người bệnh ung thư máu lúc nào cũng lạnh run, chân tay lạnh, nên không được để cơ thể gặp gió lạnh, cần phải ở nơi thoáng ấm nắng, tránh nơi có khí ô nhiễm nhiều khí độc, hơi ga và hóa chất, không để cơ thể thiếu oxy mới có thể bảo vệ hồng cầu, để giữ vững huyết áp.
Cần phải tập thở theo Khí công, tập các bài tập thể dục động công, tĩnh công, nhất là bài Tập Thở Thông Tinh- Khí-Thần.

Nguyên nhân do yếu tố Thần :

Yếu tố tinh thần quan trọng nhất, tinh thần vui vẻ, cởi mở, điềm đạm, không lo sống chết, không sợ hãi, chấp nhận nghiệp đến, tình nguyện trả nghiệp. Giáo lý nhà Phật nói dù nghiệp có nặng nhưng biết buông xả, tạo phước để giải nghiệp cũng có thể hóa giải nghiệp nặng thành nhẹ. Bệnh sẽ nặng thêm khi con người vẫn giữ tính ích kỷ, cố chấp, không cởi mở và nhất là thành kiến, cho rằng chỉ có phương pháp này là đúng, phương pháp kia là sai, thà chết chứ không chịu phá bỏ thành kiến cố chấp cao ngạo.

Truyện kể rằng, có một vị đại giáo sư đào tạo ra nhiều giáo sư nổi tiếng là những học trò của ông, cho nên khi ông cần gọi đến phụ giúp ông, họ đến ngay. Nhưng những vị học trò này đã hết học kiến thức ngoài đời, họ học tiếp kiến thức thuộc tâm linh với một vị thiền sư, cho nên dần dần họ thoái thác để đi học đạo. Vị đại giáo sư bực tức nghĩ rằng, vị thiền sư kia học vị cao bao nhiêu, đâu có gì giỏi hơn ông, mà học trò ông lại theo thiền sư hết, ông có ý muốn lại thử thách so tài với thiền sư.

Một hôm ông đến đòi gặp thiền sư. Thiền sư mời ông ngồi. Ông nóng lòng đặt câu hỏi. Thiền sư chậm rãi mời ông hãy thong thả chờ ngài nấu nước pha trà mới tiếp chuyện. Khi ngài rót trà vào ly của ông, ngài vừa rót trà vừa hỏi thăm sức khỏe của ông, khiến nước ngài rót tràn ra khỏi ly chảy xuống bàn. Ông vội cản tay ngài lại và nói:
- Thưa ngài, ly nước đã tràn rồi.
Ngài mới chậm rãi trả lời :
Đúng rồi. Kiến thức của con người đã đầy như nước đã đầy ly, không thể nào chứa đựng học hỏi gì thêm được nữa.

Cũng như thế, vì có thành kiến cố chấp như một thói quen mà mình không hay biết, cho nên ngay cả khi bệnh, thực tình mình muốn chữa cho khỏi bệnh, nhưng hay nghi ngờ vào những cách chữa đơn giản, chỉ tin vào những cách chữa khó khăn cầu kỳ có vẻ khoa học, đã bỏ qua nhiều cơ hội khỏi bệnh. Nên một vị thiền sư đã nói câu :“ Chúng sinh không muốn hết bệnh “.

Tôi thắc mắc hỏi ngài tại sao lại như thế. Ngài giảng:
Bệnh nhân sẽ hỏi: ông cho tôi uống thuốc Tây hay Tầu hay Ta.
Nếu cho uống thuốc Tây, bệnh nhân sẽ hỏi, ông là bác sĩ đã có bao nhiêu năm kinh nghiệm về bệnh này, ông cho tôi uống thuốc gì ….Tôi đã từng chữa qua những bác sĩ bậc thầy, từng uống cả năm trời, đủ loại thuốc thật đắt tiền, loại thuốc mới phát minh công hiệu mạnh nhất mà không khỏi, ông có tài gì hay hơn mà đòi chữa bằng Tây y….
Nếu cho uống thuốc Tầu, bệnh nhân cũng nói tôi đã từng uống thuốc của lão danh y sư hàng mấy trăm thang cũng không khỏi….
Chỉ có nói đến thuốc gia truyền là loại thuốc bí truyền không cho biết thành phần thuốc được thì bệnh nhân hết so sánh thuốc Tây với Tầu. Nhưng lại còn thắc mắc, ông cho tôi uống thuốc sắc, thuốc tễ, thuốc tán hay thuốc viên?
Thầy thuốc chiều bệnh nhân, nên cho bệnh nhân lựa chọn.
Bệnh nhân nói, thuốc sắc, tôi ngại phải nấu. Thuốc tễ lớn qúa uống mắc nghẹn, thuốc tán bột tôi sợ uống bị sặc, thuốc viên nhỏ thì còn tạm được.
Thầy trả lời:
Được, tôi sẽ làm cho ông thuốc viên nhỏ để uống cho dễ.
Tưởng vậy là xong, nhưng bệnh nhân còn hỏi lại câu chót :
Thuốc viên thầy cho tôi uống là thuốc ngọt hay đắng. Nếu thuốc ngọt thì tôi uống thử chơi, thuốc đắng thì tôi chịu thua….
Ngài kết luận : Đó là cách mà chúng sinh không muốn hết bệnh.
Tôi hỏi Thầy, thực tâm bệnh nhân muốn hết bệnh phải nói làm sao ?
Ngài trả lời : Nếu qủa thật đã là bệnh nan y chữa Đông Tây không khỏi, đằng nào cũng chết, cứ phó mặc giao trách nhiệm cho thầy thuốc, và bệnh nhân phải nói rằng :

Tôi hoàn toàn tin ở thầy, miễn làm sao thầy chữa hết bệnh cho tôi, làm thầy thuốc phải có y đức, thầy chữa khỏi là cái phước cho tôi, chữa không khỏi cũng là cái cộng nghiệp tôi với thầy phải gánh chịu hậu qủa. Thầy bảo tôi làm gì tôi cũng làm theo….
Nhưng nói vậy vẫn chưa phải vậy. Nếu thầy thuốc là tôi, tôi sẽ nói: Bệnh này rất dễ chữa, chỉ cần uống thuốc và tập Khí công một thời gian là khỏi bệnh.

Bệnh nhân nghe thấy đơn giản lại không tin nên từ chối không chịu chữa, do đó câu nói của vị thiền sư nói qủa không sai: Bệnh nhân không muốn hết bệnh.
Đã có nhiều học viên của tôi phải thuyết phục bệnh nhân bằng lời khuyên chân thành : Sao không thử tập Khí công tự chữa bệnh có tốn tiền bạc gì đâu, bao nhiêu người tập đã khỏi bệnh nan y, không cần phải qua Trung Quốc tốn kém tiền bạc, họ cũng chưa dám bảo đảm là khỏi bệnh.

Ngay cả những người đang phải uống thuốc chữa cao huyết áp, mà huyết áp vẫn tăng cao không kiểm soát được sẽ dẫn đến tai biến mạch máu não, nhưng vẫn không chịu thử tập thở Khí công làm hạ huyết áp song song với dùng thuốc Tây y để tự cứu mình trong trường hợp huyết áp tăng cao đột ngột.
Vì họ cố chấp, tin rằng trên thế giới, ngành Tây y đã tốn hàng tỷ tỷ đô la để nghiên cứu thuốc chữa bệnh cao huyết áp còn chưa chữa được dứt hẳn bệnh cao huyết áp, thì Khí công làm sao mà chữa được.
Ai cũng cho rằng một phương pháp qúa đơn giản làm sao có thể tin được. Do đó, tùy duyên. Những bệnh nhân may mắn có duyên với Khí công bệnh sẽ khỏi. Người chưa có duyên, nên nghiệp bệnh vẫn chưa lành.

Cách chữa ung thư máu bằng Khí công

Cả hai phương pháp Tây y và Đông y đều có ưu khuyết điểm.
Chữa theo phương pháp thuần túy Tây y gây nhiều biến chứng khiến cơ thể đau đớn, suy nhược, vì làm tổn thương thực thể những mô lành và cơ quan lân cận, sinh ra một loại bệnh khác gọi là di căn..
Chữa theo phương pháp Đông y dùng thuốc như các bệnh viện Trung Quốc, kết qủa chậm, kéo dài nhiều năm, nhưng cũng không kéo dài được tuổi thọ, vì sau khi khỏi bệnh, không có phương pháp nào để tăng cường duy trì sức khỏe cho bệnh nhân..
Để bổ sung cho những khuyết điểm của 2 phương pháp Đông Tây y, vừa giúp giảm đau, ngừa biến chứng, vừa phục hồi sức khỏe nhanh giữa những đợt trị liệu, vừa khỏi bệnh nhanh, duy trì sức khỏe được lâu dài, các bệnh nhân bị các loại bệnh ung thư có thể tự tập Khí công chữa bệnh bằng theo phương pháp Khí công Y Đạo song song với một trong hai phương pháp chữa bệnh của Đông hoặc Tây y sẽ mau có kết qủa hơn.

Hiện nay trên thế giới mọi người chỉ biết đến Khí công phòng bệnh như Khí công dưỡng sinh, Khí công tài chi, hoặc Khí công võ thuật, Khí công yoga, cũng múa tay múa chân cũng hít thở, chỉ khác nhau ở mạnh hay nhẹ, nhưng khi cơ thể đã bị bệnh rồi, thì những loại Khí công này không thể chữa được bệnh như loại Đông y-Khí công chữa bệnh của phương pháp Khí công Y Đạo.

Có nhiều người thắc mắc hỏi Khí công chữa bệnh có gì khác với loại Khí công dưỡng sinh tài chi..
Dĩ nhiên hoàn toàn khác nhau, muốn dùng Khí công để chữa một bệnh nào đó, cần phải biết chẩn bệnh theo quy luật Âm Dương, Ngũ hành, Tạng Phủ và Khí công chữa bệnh cũng phải đối chứng lâm sàng, để điều chỉnh lại Âm Dương, Ngũ hành, Tạng Phủ, để chữa vào thẳng căn bệnh mà mình đang bị.
Thí dụ một bệnh nhân đặt câu hỏi cao huyết áp chữa làm sao, tiểu đường chữa làm sao, ho chữa làm sao, mất ngủ chữa làm sao, đau đầu chữa làm sao, ăn không tiêu chữa làm sao, ung thư phổi, gan, lá mía, thận, tiểu đêm, sạn thận, đau mắt, ù tai, đau tay chân, cảm cúm, viêm nhiễm… chữa làm sao?….Khí công chữa bệnh có những bài tập riêng để chữa cho mỗi bệnh khác nhau kể trên. Nhưng Khí công dưỡng sinh, Khí công phòng bệnh, Khí công võ thuật chỉ tập tổng quát đủ các thế trong một bài múa từ đầu đến cuối, không có bài nào riêng để chữa vào một bệnh nào cụ thể như Khí công y đạo.

Riêng về cách chữa bệnh Ung thư máu, Khí công Y Đạo thường hướng dẫn bệnh nhân tập Khí công song song với cách trị liệu của Tây y, với mục đích chính là : Làm giảm đau, phục hồi nhanh thể lực để không bị suy nhược, tăng cường sự tuần hoàn khí huyết, tăng cường hệ miễn nhiễm, giúp ăn ngủ ngon, tăng hồng cầu, đặc biệt theo dõi những kết qủa thử máu mỗi tuần của bệnh nhân, để kịp thời điều chỉnh lại những số liệu bạch cầu, hồng cầu, tiểu cầu, huyết bản, giúp tăng sinh tế bào gốc trở lại đúng tiêu chuẩn khi chúng tăng qúa cao, hay xuống qúa thấp, mà Tây y ghi chú là H (high) hay L (low).

Đã có bệnh nhân bị 30 loại thử nghiệm máu lọt ra ngoài tiêu chuẩn, nhờ tập Khí công trong 1 tháng, sau khi thử lại máu, 25 loại lọt vào tiêu chuẩn bình thường, còn 5 loại sắp vào sát tiêu chuẩn, khiến các bác sĩ điều trị ngạc nhiên, tưởng rằng cách trị sáng tạo của họ có kết qủa, bệnh nhân dấu không cho các bác sĩ biết là mình đang tập thêm Khí công, vì có nói ra cũng không ai tin.
Do đó, chữa ung thư máu phải có sự phối hợp theo bảng kết qủa thử nghiệm máu của Tây y, sự tập luyện của bệnh nhân và sự theo dõi giúp đỡ của người thân để điều chỉnh cách tập, cách vuốt huyệt, cách ăn uống kịp thời kịp lúc theo mỗi đợt thử nghiệm máu, mới có kết qủa nhanh chóng được.

Những bài tập căn bản để điều chỉnh khí huyết cho bệnh Ung thư máu

Nạp Khí Trung Tiêu :
Nằm ngửa, hai tay đặt ở Đan Điền Thần, bàn tay trái đặt ở mỏm xương ức, bàn tay phải đặt chồng lên tay trái, cho nam bệnh nhân, nữ bệnh nhân đặt tay ngược lại, cuốn lưỡi ngậm miệng, thở tự nhiên bằng mũi, đưa hai chân thẳng lên cao một góc 45 độ, giữ lâu chừng 90 giây đồng hồ. Khi đủ 90 tiếng đếm thầm từ 1 đến 90 rồi hạ chân xuống vẫn cuốn lưỡi ngậm miệng thở bằng mũi và cơ thể thư giãn, nhắm mắt theo dõi hơi thở ở bụng đang nhồi ở bụng phồng-xẹp một cách tự nhiên.
Công dụng của bài này khiến bụng bị nhồi bóp đẩy khí huyết lưu thông trong bụng, kích thích gan mật, lá mía, bao tử làm việc, bổ trung tiêu, thông thượng tiêu, hạ tiêu, điều chỉnh tiêu hóa, tăng hồng cầu, tăng tính hấp thụ thẩm thấu dưỡng trấp, tăng huyết áp.

Bơm máu não, chỉnh thần kinh tủy sống :
Nằm úp người, nhờ người khác ép gối cho gót chân chạm mông 18-36 lần mỗi bên chân. Khi ép gối vào thì thở ra bằng mũi, khi buông duỗi chân ra thì hít vào cũng bằng mũi.
Công dụng của bài này chỉnh thần kinh cột sống để nuôi tủy, mạnh thận khí, chống mệt mỏi thiếu hụt hơi, bơm máu lên não tủy, mạnh hệ miễn nhiễm.

c) Tập thở Thông Tinh- Khí-Thần :

Mục đích thông khí huyết tạng phủ, tăng cường oxy, tăng hồng cầu, kích thích thải độc tố, kích thích chức năng hoạt động của tạng phủ mau phục hồi trở lại bình thường để tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành chất bổ dưỡng nuôi cơ thể, bổ sung thay tế bào mới loại bỏ tế bào cũ, bơm máu não, chỉnh thần kinh cột sống, thần kinh não tủy, kích thích thần kinh trung ương, thần kinh giao cảm và vận động.

Cách thở trong lúc tập :
Khi huyết áp thấp, người lạnh, tất cả các động tác khi kéo chân, đều thở ra bằng mũi để giữ thân nhiệt, để giữ huyết áp không tụt thấp.
Trường hợp huyết áp cao, người nóng nhiệt mới thở bằng cách thổi hơi ra bằng miệng, vẫn có hiệu qủa thông khí huyết, nhưng làm hạ huyết áp và thân nhiệt.
Nên cách thở tùy lúc, gọi là bài thuốc gia giảm, khi tập thấy mặt tái môi tím, xuất mồ hôi, cần phải thở bằng mũi. Phải đo huyết áp trước và sau khi tập.
Lưu ý : Nếu huyết áp qúa thấpdưới 100/60mmHg, phải tập chậm, thở ra bằng mũi từ đầu đến cuối khi tập, thời gian tập thay vì kéo chân 200 lần, chia làm 4 lần, mỗi lần 50 cái, rồi nghỉ ngơi thiền 5 phút, rồi kéo tiếp.

Công dụng của thông Tinh: giúp mau đói, thèm ăn, tiêu hóa dễ, chuyển hóa dưỡng trấp thành chất bổ, thanh lọc cặn bã, độc tố trong gan và ruột theo phân ra ngoài, làm mềm bao tử và ruột, tăng tính co bóp đàn hồi, làm mền gan không bị chai cứng để lưu chuyển máu trong gan thu nhận oxy tránh khỏi bị mất hồng cầu và mất máu.

Công dụng của thông Khí: giúp thận chuyển hóa biến tinh chất của thức ăn thành khí, chuyển tinh hóa huyết, huyết hóa tinh, tinh hóa tủy, nuôi xương, bổ não tủy, tăng sản tế bào gốc.

Công dụng của thông Thần: giúp điều chỉnh lại hệ thần kinh trung ương, gia tăng hệ thần kinh giao cảm, vận động, để làm tăng chức năng miễn nhiễm, làm hưng phấn hay ức chế những chức năng tạng phủ khi cần thiết để lúc nào cơ thể cũng giữ được quân bình âm dương ngũ hành tạng phủ.
Dĩ nhiên trong mọi cách thở Khí công cũng đều làm cho phế khí mạnh, có nhiều oxy để giữ lượng máu không bị hao hụt, hồng cầu không bị giảm.

Bài Vỗ Tay 4 Nhịp, tăng oxy cho tim, phổi, gan, thận.

Đứng Hạc Tấn nhắm mắt :
Có người đỡ hay đứng một chân, một tay vịn nhẹ vào tường cho khỏi ngã, mục đích của Hạc Tấn nhắm mắt để đưa máu lên nuôi não.
Tập toàn bài Khí công động công tĩnh công theo DVD
Khi cơ thể khỏe mạnh, để tiếp tục duy trì sức khỏe phòng chống bệnh không bị tái phát, nên tập theo toàn bài để thông Kỳ Kinh Bát Mạch thuộc đại chu thiên, là ngưồn khí để tăng cường nguyên khí cho cơ thể

Tập thở thiền :
Các bài tập trên thuộc động công là sinh hoá, tập thở thiền thuộc tĩnh công là để chuyển hóa, cũng cần thiết như động công.
Nằm ngửa hai tay vẫn đặt ở Đan Điền Thần, cơ thể thả lỏng tự nhiên, không cần hít thở, cuốn lưỡi ngậm miệng, để tự cơ thể thở tự nhiên bằng mũi, chỉ để tâm ý theo dõi bụng phồng-xẹp gọi là quán tức (quan sát hơi thở), khi đã theo dõi được phồng-xẹp thì bắt đầu kiểm soát từng hơi thở từ 1 đến 10 lần là một chu kỳ, gọi là sổ tức (đếm hơi thở), cứ đếm từ 1 đến 10 nhiều lần lâu chừng 30 phút, để dưỡng tâm, an thần, có công dụng làm giảm đau, hạ tần số sóng não xuống thấp từ 11 hertz xuống 3hertz sẽ rơi vào trạng thái hoàn toàn tĩnh, nếu còn tỉnh thức thì đang trong thời kỳ nhập thiền định, lúc đó mặc dù không ngủ nhưng 1 giờ thiền vẫn có giá trị tương đương với 2 giờ ngủ, còn nếu bị hôn trầm là người tập ngồi thiền mà bị ngủ gục, nhưng ở thế nằm bị hôn trầm sẽ rơi vào trạng thái ngủ ngon giấc không bị trằn trọc, không mộng mị mệt mỏi, ở trạng thái này cơ thể sẽ phục hồi nguyên khí để chuyển hóa làm thay đổi tế bào, sinh tế bào mới loại tế bào bệnh.

Muốn biết thiền đúng hay sai, dùng một nhiệt kế đặt dưới lòng bàn tay Đan Điền Thần, khi bắt đầu tập, nhìệt kế chỉ 31-32 độ, sau khi tập đúng, lòng bàn tay phải nóng ấm, nhiệt tăng lên 36-37 độ mới đúng, tập lâu mà chưa lên được số đó là chưa đủ năng lượng trong cơ thể để chuyển hóa. Trong khi đang tập nhiệt độ lên 36 độ chẳng hạn, tự nhiên nhiệt độ lại xuống từ từ, là ý đã không còn tập trung ở Đan Điền Thần, ý đã chạy ra ngoài cơ thể, đang nghĩ đến chuyện khác. Vì theo Khí công : Ý ở đâu khí ở đó, khí ở đâu huyết ở đó. Chỗ nào có máu chạy, chỗ đó da thịt ấm, chỗ nào máu không đến, chỗ đó lạnh, do đó ý chạy ra chỗ khác nên nhiệt độ xuống.
Khi tập quen và đúng, cơ thể lúc nào cũng ấm nóng, không sơ lạnh nữa.

Bổ tủy:
Ăn tủy xương ống chân bò, xí quách, bổ sung thêm tủy cho cơ thể đang bị phá hủy hay thiếu hụt, để tăng cường phần tinh và tập thở thiền để nhờ khí giúp chuyển hóa tinh tủy biến thành máu, và cũng nhờ tập thở thiền là chất xúc tác giúp cơ thể giữ quân bình số lượng hồng cầu, bạch cầu cần thiết cho cơ thể chống bệnh tật.
Tôi mong mỏi qúy vị bệnh nhân theo dõi những hướng dẫn trong bằng DVD và tự tập luyện theo để cứu mình thoát khỏi được những bệnh nan y, tích lũy được những lợi lạc cho bản thân hầu có thể xả tâm giúp đỡ cho những người bệnh khác được, đó cũng chính là mục đích của môn học Khí công y đạo mà chúng tôi đang cho phổ biến rộng rãi trên mạng hiện nay.

---------------
Xem hoặc download các video bài tập khí công chữa bệnh ở đây :

Mở Internet, click youtube, đánh vào khung search : khicongydaovietnam.wordpress.com rồi click vào Thông Báo 20 sẽ hiện ra tất cả các video tập động công, tĩnh công, thở thiền.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 6 26, 2013 11:26 am

(TỆP 9)

----------------


Phụ lục 5. CHỮA UNG THƯ BẰNG ĐIỀU CHỈNH ĂN UỐNG

1. Một số những món ăn thuốc tiêu biểu:

Trong các dạng bào chế của Đông y có những món ăn thuốc được chế biến từ những thực phẩm có chứa các chất chống ôxy hóa, nhờ vậy mà khi sử dụng thường xuyên sẽ có tác dụng hữu hiệu trong việc phòng chống các chứng ung thư rất có thể xảy ra cho con người.

Món thịt gà vị sữa:
Tác dụng bổ trung ích khí, cho ra mủ, phòng chống ung thư.
Nguyên liệu: Hoàng kỳ 10g, thịt lườn gà 200g, khoai tây 50g, nấm hương 5 cái, măng 50g, cà chua một quả, bột mì trắng 10g, lòng đỏ trứng 2 cái, lòng trắng trứng một ít. Gia vị, dầu thơm, muối đường, mì chính, hành, Gừng, tinh bột, nước vừa đủ.
Cách chế biến: Hoàng kỳ sắc kỹ lấy nước để sẵn. Khoai tây gọt bỏ vỏ, rửa sạch, cà chua, măng thái mỏng, nấm hương bỏ chân, rửa sạch thái miếng để sẵn. Bột mì rang vàng cho thơm bỏ ra bát to, sau đó lấy nước vừa phải cho vào nồi, tra muối, đường, mì chính, rồi đun sôi và đổ bát bột đã rang vào, cho lòng đỏ trứng đánh đều, khi thấy mùi thơm thì cho dầu thơm và khuấy tiếp cho đến khi hỗn hợp này bóng nhẫy thì múc ra cho vào một bên đĩa.
Còn thịt lườn gà thái phay, rửa sạch để ráo nước, tra nước hành, Gừng, rồi khuấy đều với muối, đường, lòng trắng trứng và khuấy tiếp, lại cho tinh bột đã hòa với nước vào đảo đều, cho vào chảo mỡ nóng, đổ khoai tây, cà chua, nấm hương, nước thuốc hoàng kỳ, muối, mì chính và múc ra một bên đĩa còn lại. Như vậy ta có món ăn thật độc đáo, nhiều hương vị, kết hợp cả Đông Tây. Ngày ăn một lần, cần ăn trong một thời gian.

Món dạ dày nấm hương:

Tác dụng bổ Thận, trấn Tâm, chữa khô khát, tan ứ, chống ung thư.
Nguyên liệu: Củ ấu già bỏ vỏ, ngó sen tươi đều 50g, nấm hương 20g, dạ dày lợn chín 100g, nước luộc thịt 150ml, rượu trắng, muối, đường, mì chính, dầu thơm.
Cách chế biến: Củ ấu, ngó sen thái nhỏ dài, nấm hương rửa sạch ngâm nước nóng, cắt bỏ chân, để ráo thái sợi (nhớ giữ nước trong ngâm nấm hương), dạ dày lợn chín thái dài nhỏ. Cho nước luộc thịt, rượu, muối, đường vào đun sôi, thả mì chính vào, múc ra bát. Ngày ăn một lần, cần ăn liền một thời gian. Nghỉ ít ngày lại ăn tiếp.
Món đậu phụ nấm hương: Tác dụng điều hòa chức năng dạ dày, bổ Thận, tan ứ, giảm độc, chống ung thư.
Nguyên liệu: Củ ấu già bỏ vỏ, ngó sen đều 75g, nấm hương 20g, đậu phụ một bìa, nước luộc thịt 150ml, muối, đường, mì chính, hồ tiêu bột, tinh bột, dầu thơm vừa đủ.
Cách chế biến: Củ ấu thái mỏng, ngó sen thái lát, nấm hương rửa sạch ngâm nước nóng cho nở rồi cắt bỏ chân để ráo nước. Đậu phụ thái vuông, nhúng qua nước sôi, vớt ra rửa sạch bằng nước nguội, sau đó cùng cho vào nồi nước luộc thịt, cả củ ấu, ngó sen, tra đủ muối, đường, đun sôi cho tiếp đậu phụ vào, cả mì chính, tinh bột (đã hòa nước trộn đều sẵn), múc ra bát, rắc hạt tiêu. Ngày ăn một lần, cần ăn trong một thời gian.

Món mì giò nấm hương:

Tác dụng hòa vị, bổ Thận, tan ứ, giải độc, chống ung thư.
Nguyên liệu: Củ ấu sạch vỏ 50g, ngó sen 50g. Mì ống 12 chiếc, thịt nạc 150g, nấm hương 20g, nước hành, Gừng, mì chính, tinh bột, dầu thơm vừa đủ.
Cách chế biến: Thái lát củ ấu và ngó sen, mì ống ngâm qua nước muối, rửa sạch để ráo nước, nấm hương, thịt nạc rửa sạch giã nhuyễn, tra nước hành, Gừng, mì chính, bột tinh trộn đều, lấy thìa múc cho vào trong ống mì, cho vào nồi, đổ nước canh cùng nấu với củ ấu, ngó sen, khi chín thì tra muối, mì chính, múc ra bát.
Thành phẩm: Trong, thơm, ăn ngon. Cần ăn ngày một lần trong một thời gian.

Món mào gà hầm:

Tác dụng hòa vị, bổ Thận, tan ứ, giải độc, chống ung thư.
Nguyên liệu: Củ ấu sạch vỏ, ngó sen đều 50g, đầu gà 5 - 8 cái, nấm hương 25g, mộc nhĩ 15g, rượu, muối, mì chính, hành, dầu thơm.
Cách chế biến: Củ ấu và ngó sen thái miếng, làm sạch lông đầu gà, cắt lấy mào gà, cho cùng nấm hương, mộc nhĩ, ngâm nước rửa sạch. Riêng đầu gà cho nước hầm trước, khi nhừ vớt ra và hớt bỏ bọt váng trong nước hầm, sau đó cho tất cả vào đun, tra rượu, muối, mì chính, hành, đậy kín vung hạ nhỏ lửa hầm tiếp 10 phút nữa, mở vung bỏ hành ra. Ăn ngày một lần, ăn một thời gian mới hiệu nghiệm.
Theo Sức khỏe & Đời sống


2. Một nữ khoa học đã tự chữa lành bệnh ung thư bằng ăn uống

Lời Giới Thiệu:
Nữ Giáo sư Jane Plant là một khoa học gia nổi tiếng của Anh Quốc. Bà bị bịnh ung thư nhũ hoa từ năm 1987. Thông thường thì một bịnh nhân ung thư khó mà sống sót được khi bịnh đã tái phát đến lần thứ hai. Tuy nhiên nhờ kiến thức khoa học sẵn có cũng như với sự điều trị và chăm sóc nhiệt tình của các bác sĩ chuyên khoa thượng thặng, bà đã kéo dài được mạng sống. Dầu vậy bịnh của bà đã tái phát đến năm lần, rồi cuối cùng đã lan đến hệ thống bạch huyết trong cơ thể. Trước tình trạng nguy ngập đó, bà vẫn không chịu bó tay chờ chết mà cương quyết tự chữa bằng cách ăn uống có phương pháp. Cuối cùng bà đã lành bịnh. Bà đã cho xuất bản quyển sách Your Life in Your Hands (Mạng sống trong tay của bạn) dể kể lại những kinh nghiệm cá nhân mà bà đã trải qua để quảng bá cho tất cả mọi người. Nhận thấy đây là một tài liệu rất hữu ích nên chúng tôi xin trích dẫn một đoạn trong quyển sách ấy để cống hiến quý vị độc giả tham khảo.
" Sau khi bịnh ung thư nhũ hoa của tôi tái phát đến lần thứ năm, tôi nghĩ tôi sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là phải chết hoặc cố gắng tìm một phương pháp khác để tự chữa cho mình. Tôi là một khoa học gia, dĩ nhiên tôi đã biết chứng bịnh quái ác này hiện nay đã cướp mất mạng sống của một trong số 12 người phụ nữ tại Anh Quốc và Úc Đại Lợi. Tôi đã cam lòng chịu giải phẫu mất đi hết một cái vú và đã được chữa trị bằng quang tuyến liệu pháp. Tôi cũng đang được trị liệu bằng chemotherapy và được chăm sóc bởi những y sĩ chuyên khoa tài giỏi. Nhưng cuối cùng tôi cũng chắc chắn sẽ phải chết mà thôi.
Tôi đã có chồng, sở hữu một ngôi nhà xinh đẹp và có hai đứa con ngoan ngoản dễ thương mà tôi rất yêu quý. Tôi mong muốn được sống còn. May thay niềm khao khát mãnh liệt đó đã giúp tôi có thêm nghị lực khám phá được rất nhiều sự kiện mới mẻ mà hiện thời một số khoa học gia khác cũng đã có cùng chung một số hiểu biết như tôi.
Những người có liên hệ đến bịnh ung thư nhũ hoa hẳn đều biết những trường hợp nguy hiểm khác cũng sẽ xảy ra cho chính bản thân người bịnh. Đó là sự già nua đến sớm; sắc đẹp chóng tàn; tuổi tắt kinh đến muộn vân vân, tất cả đều ở ngoài tầm kiểm soát. Tuy nhiên, theo tôi, những trường hợp nguy hiểm vừa kể có thể khống chế dễ dàng. Đó là chúng ta phải có nghị lực cương quyết thay đổi hoàn toàn một vài nếp sống mà nhất là thói quen ăn uống hàng ngày. Điều mà tôi muốn khẳng định cùng quý vị là bịnh ung thư nhũ hoa có thể chữa được vì chính tôi là một bịnh nhân đã sống còn qua cơn nguy hiểm và sẽ kể cho quý vị biết nhũng kinh nghiệm hữu ích đó.
Khi tôi bắt đầu bị bịnh và đang điều trị bằng chemotherapy thì chồng tôi là Peter, cũng là một khoa học gia, làm việc tại Trung Quốc đã trở về. Anh có mang về một số tài liệu và một số thuốc nhét (suppositories) bằng thảo dược, nghe nói là hay lắm. Chồng tôi mô tả đây là loại thuốc trị bịnh ung thư nhũ hoa đại tài tại Trung Quốc. Mặc dầu bịnh tình của tôi lúc bấy giờ thật là đáng ngại, nhưng cả hai chúng tôi không khỏi phì cười. Tôi bảo nếu quả thật đây là một loại thuốc công hiệu thì chắc tại Trung Hoa rất hiếm thấy phụ nữ bị bịnh ung thư nhũ hoa lắm. Mà thật vậy! Theo thống kê của các nhà khoa học thì tại khắp lãnh thổ Trung Quốc hiếm thấy phụ nữ mắc bịnh ung thư nhũ hoa. Trung bình thì cứ mười ngàn phụ nữ mới có một người mắc phải chứng bịnh quái ác này.
Trong khi ở Hoa Kỳ và các nước Phương Tây thì trung bình cứ 12 phụ nữ lại có một người mắc bịnh ung thư nhũ hoa. Sự kiện không phải vì dân chúng Trung Hoa sinh sống trong vùng nông thôn nhiều hơn nên không bị nạn ô nhiễm môi trường các loại như dân chúng trong thành phố. Bằng chứng tại Hồng Kông, một đô thị có mật độ dân cư đông đảo và cũng học đòi theo nếp sống Phương Tây, nhưng cứ mười ngàn phụ nữ mới có 34 người chết vì bịnh ung thư nhũ hoa. Tỷ số này vẫn còn thắng xa Hoa Kỳ và các nước Phương Tây nhiều lắm.
Dân chúng Nhật Bản tại hai thành phố Hiroshima và Nagazaki cũng có tử suất tương tự, vì hai thành phố này bị nhiễm phóng xạ nguyên tử do Hoa Kỳ ném xuống từ thời Đệ Nhị Thế Chiến. Liên quan đến dân cư trong thành phố mắc bịnh ung thư cao, người ta cũng quan tâm đến sự quan hệ giữa phóng xạ tuyến nguyên tử và mầm móng gây ra bịnh ung thư như thế nào.
Song, thống kê cho thấy nếu phụ nữ Phương Tây mà di cư đến hai thành phố nhiễm nhiều phóng xạ nguyên tử ở Nhật Bản nói trên thì sác suất bị bịnh ung thư nhũ hoa lại càng cao hơn dân chúng dịa phương đến một nữa.
Thật rõ ràng, không phải chỉ có môi trường chung quanh ảnh hưởng đến nguyên nhân gây ra bịnh ung thư các loại, mà chính yếu là nếp sống cá nhân và thói quen ăn uống. Tôi cũng còn khám phá biết thêm sự cách biệt quá xa về tỷ số mắc bịnh ung thư nhũ hoa giữa dân chúng Phương Tây và Đông Phương không phải do nguyên nhân của sự di truyền huyết thống. Các chuyên gia nghiên cứu khoa học đã chứng minh cho thấy dân Trung Hoa và Nhật Bản di cư sang các nước Phương Tây, chỉ một hoặc hai thế hệ sau là sẽ có tỷ số mắc bịnh ung thư ngang hàng với dân chúng bản địa.
Sự kiện này cũng đã xảy ra tại Hồng Kông là người Trung Hoa nào bắt chước theo nếp sống y hệt như người Phương Tây thì cũng sẽ có nguy cơ bị các chứng bịnh nguy hiểm tương tự. Vì vậy người Tàu có một câu ngạn ngữ dí dõm gọi bịnh ung thư nhũ hoa là "chứng bịnh của những phụ nữ giàu có". Lý do vì ở Trung Quốc chỉ có những người giàu có mới bắt chước theo lối ăn uống của người Phương Tây mà thôi. Phần đông người Trung Hoa gọi các thức ăn có nhiều chất béo động vật như sữa và các sản phẩm của sữa như bơ, phó mát, sô cô la v.v. là "đồ ăn Hồng Kông". Vì đó là các thức ăn uống du nhập từ Anh quốc vào lãnh địa này từ thuở xa xưa mà trong quá khứ rất hiếm và quý tại lục địa Trung Quốc.
Do những dẫn chứng trên đây, tôi nghĩ và cũng để ý thấy bịnh ung thư nhũ hoa xảy ra cho chính cá nhân tôi cũng thường thấy xảy ra trong giới phụ nữ trung lưu và giàu có tại các xứ Phương Tây. Qua nghiên cứu, tôi cũng đã biết được đa số những người đàn ông bị bịnh ung thư tuyến tiền liệt cũng ở trong trường hợp tương tự như vậy. Theo thống kê của Tổ Chức Y Tế Quốc Tế (WHO), tỷ số những người đàn ông tại Trung Quốc mắc bịnh ung thư tuyến tiền liệt không đáng kể. Trung bình trong một triệu người chỉ có 5 người mắc phải bịnh này mà thôi. Tại các nước Phương Tây, tỷ số này cao gấp 70 lần nhiều hơn ở Trung Quốc và cũng phần đông xảy ra trong giới đàn ông trung lưu và giàu có. Tôi cũng nhớ tôi đã từng hỏi chồng tôi, một khoa học gia đã trở về từ Trung Quốc, rằng tại sao người Trung Hoa sinh sống như thế nào mà phụ nữ ít bị bịnh ung thư nhũ hoa vậy?
Chúng tôi đã lợi dụng cơ hội này để tra cứu các thống kê cập nhật của các khoa học gia và cuối cùng đã tìm ra được giải đáp là người Phương Tây đã ăn rất nhiều chất béo. Các nghiên cứu cho thấy trong thập niên 1980, trung bình người Trung Hoa tiêu thụ 14 phần trăm calories lấy từ chất béo, so với 36% của người Phương Tây. Tuy nhiên trước khi tôi bị bịnh ung thư nhũ hoa, tôi cũng đã ăn rất ít chất béo nhưng nhiều chất xơ. Vả lại tôi được biết đối với cơ thể của người lớn, hấp thụ nhiều chất béo chưa hẳn đã gia tăng nguy cơ bị bịnh ung thư nhũ hoa của phụ nữ, dựa theo các báo cáo trong quá trình nghiên cứu 12 năm qua.
Một hôm khi cùng làm việc với chồng tôi, tôi sực nhớ không biết một trong hai chúng tôi trước đây ai đã có lần bảo là người Trung Hoa không có dùng sữa và các sản phẩm của sữa. Thật là khó giải thích vì đây không phải là một sự kiện được nghiên cứu bằng khoa học. Tuy nhiên trên thực tế người Trung Hoa ít uống sữa và cơ thể của họ cũng khó chấp nhận tiêu hóa sữa. Tôi nhớ có một thời gian đã cùng làm việc nghiên cứu với một khoa học gia là người Trung Quốc. Vị này bảo rằng sữa chỉ dành cho trẻ con dùng, cho nên cô rất nhã nhặn từ chối các bữa ăn trưa nào có thực phẩm bơ sữa do tôi mời mọc. Theo thói quen của người Trung Hoa, trẻ con cũng không được nuôi lớn bằng sữa bò mà chỉ cho bú bằng sữa mẹ. Nếu vì sự bất tiện nào đó mà người mẹ không cho con bú được, có thể thuê mướn một bà vú để phụ trách công việc này.
Theo truyền thống văn hóa, người Trung Hoa có thành kiến xem việc người Phương Tây tiêu thụ sữa và các phó sản của sữa rất kỳ lạ. Tôi còn nhớ trong một buổi khoản đãi phái đoàn khoa học gia Trung Quốc sau thời điểm cuộc Cách mạng Văn Hóa không lâu vào thập niên 1980. Theo sắp xếp của phòng ngoại vụ, sau bữa ăn, chúng tôi đã mời họ dùng tráng miệng bằng kem . Họ hỏi thức ăn này được chế biến bằng gì và cuối cùng đã lịch sự từ chối vì nó được làm bằng sữa. Trong khi chúng tôi rất thích món khoái khẩu này.
Sữa (thông thường là sữa bò), theo tôi nghiên cứu là loại thực phẩm có nguyên nhân gây ra các loại dị ứng nhiều nhất. Hơn 70 phần trăm dân số trên thế giới không tiêu thụ được sữa vì tạng phủ của họ không tiêu hóa được đường lactose. Các chuyên gia dinh dưỡng cho rằng đây là trạng thái bình thường của những người lớn chớ không phải là sự yếu kém nào đó của cơ thể. Phải chăng loài người đã dùng sai loại thực phẩm không phù hợp với bản chất thiên nhiên.
Trước khi tôi bị bịnh ung thư nhũ hoa, tôi đã dùng rất nhiều sữa ít chất béo (skim milk), phó mát và sữa chua (yogurt). Tôi đã coi những thứ đó như là nguồn cung cấp chất đạm dồi dào. Tôi cũng đã ăn thịt bò nạc để bồi dưỡng. Sau khi bịnh tái phát lần thứ năm và trong thời kỳ điều trị bằng chemotherapy, tôi lại ăn sữa chua được biến chế bằng nguyên liệu hữu cơ để giúp cho bộ máy tiêu hóa được khỏe mạnh bằng cách tăng thêm những vi khuẩn hữu ích cần thiết.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu hồi năm 1989, Bác sĩ Daniel Cramer thuộc trường Đại học Harvard ở Hoa Kỳ đã theo dõi và ghi chú hồ sơ của rất nhiều phụ nữ liên hệ đầy đủ từ chi tiết ăn uống của họ. Kết quả cho thấy sữa chua cũng có ảnh hưởng đến nguyên nhân gây ra các chứng bịnh ung thư noãn sào của nữ giới. Sau đó, chồng tôi và tôi, đã dựa theo thói quen ăn uống của người Trung Hoa, đã từ bỏ sữa bò và tất cả những sản phẩm nào có liên quan đến sữa, kể cả bánh ngọt và súp có thành phần chế biến bằng sữa ở trong đó. Mỗi lần đến siêu thị mua đồ ăn, tôi là người đọc rất cẩn thận công thức. Sau khi bịnh tái phát lần này, tôi cương quyết theo dõi kết quả một cách chặt chẽ.
Các bác sĩ và y tá khuyên tôi nên ăn uống bình thường gồm thịt, cá, trứng và sữa trở lại như xưa để bồi bổ. Nhưng tôi khước từ và tự mình chủ động theo dõi kết quả của sự chữa trị có hữu hiệu hay không? Thế rồi sau một loạt trị liệu bằng chemotherapy lần nữa, tôi hoàn toàn chả thấy có tiến bộ gì. Cục bướu vẫn còn y nguyên hình dáng và kích thước như cũ. Sau khi tôi từ bỏ sữa và các loại sản phẩm có sữa độ vài hôm thì cục u bắt đầu teo dần. Một tuần lễ sau, cục bướu ở cổ bắt đầu ngứa, sau đó nó mềm dần và thu nhỏ hình dạng lại. Trên đồ thị theo dõi, lằn ghi chú có chiều hướng đi xuống và cuối cùng nó xuống sát lằn ngang ở phía dưới (tức 0 độ).
Một buổi chiều thứ Bảy, sáu tuần lễ sau khi tôi bỏ luôn tất cả thành phần của sữa trong thực đơn của tôi nghĩa là không còn dính dáng gì tới thức ăn có nguồn gốc động vật, tôi ngồi thiền một tiếng đồng hồ và sau đó kiểm tra lại cục bướu thì nó đã hoàn toàn biến mất. Tôi là người đã tự theo dõi sự diễn tiến bịnh trạng của mình từ đầu tới cuối. Giờ phút này không có sự vui mừng nào bằng. Tôi vội xuống lầu và nhờ chồng tôi kiểm tra cẩn thận lần nữa. Kết quả anh cũng chẳng tìm thấy gì.
Thứ Năm tuần lễ sau đó, tôi trở lại phòng mạch của vị bác sĩ chuyên khoa để tái khám. Ông đã vô cùng sửng sốt và vui mừng bảo rằng: "Tôi không còn tìm thấy dấu vết nào của bịnh ung thư trong cơ thể của bà nữa cả !"
TRẦN ANH KIỆT
http://www.QuanTheAmBoTat.com


Phụ lục 6. BẢNG HUYẾT ÁP TIÊU CHUẨN THEO TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI WHO


Tuổi Nam Nữ
Tâm thu Tâm trương Tâm thu Tâm trương
15 – 19 120 70 111 67
20-29 124 75 114 69
30-39 126 79 118 73
40-49 130 83 126 78
50-59 137 85 134 81
60-69 143 84 139 81
70-79 145 82 146 79
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Các Thầy góp ý về nội dung Sách KCYĐ sẽ xuất bản

Gửi bàigửi bởi tutamtichduc » Thứ 6 Tháng 7 12, 2013 3:12 am

Do kiến thức còn hạn hẹp , con chỉ. có 1 số ý kiến sau:

Phần đầu ta nên thống nhất viết theo quan điểm KCYD hay Đông y khí công.
Bởi con thấy ngày nay ko chỉ tây y mà cả các thầy thuốc đông y cũng rất mù tịt về huyết áp.

Về câu chữ: bởi kcyd là môn chữa bệnh dựa trên thực hành trực tiếp và trao đổi với người bệnh nên khó tránh khỏi clb ta dùng văn nói khi viết, để tăng tính cảm quan con xin lưu ý sửa chữa về câu từ theo hướng đó. Vd: chữ "loại người" ở dưới đây nên thay bằng " trường hợp" , hoặc chữ "lòi ra bệnh " có lẽ nên có thay đổi.

Những người có huyết áp 125/80mmHg mạch lúc nào cũng cao trên 110, Tây y cho rằng huyết áp tốt, chỉ có mạch hơi cao. Thực ra bệnh này do thiếu lượng máu trong cơ thể trầm trọng, huyết áp giả đã gạt bác sĩ. Huyết áp thật sự của loại người này là 95/65mmHg mạch 80. Nếu mạch 80 không đủ lực bơm máu tuần hoàn cho đủ một chu kỳ toàn thân, nên tim phải đập nhanh thêm 30 lần nữa trong một phút, làm huyết áp tăng giả lên thêm 30 mới được 125.

Về phần huyết áp cao và bệnh tim mạch:
Con thấy ta nên bổ sung thêm trường hợp những bệnh nhân do dùng thuốc hạ háp của tây y khiến háp 2 tay quá chênh lệch , dẫn đến chủ quan hoặc các biến chứng xấu ( làm nhờn cơ tim ...) Ngoài ra con được biết thuốc hạ háp có rất nhiều chủng loại khác nhau.
Vậy cụ thể những loại thuốc hạ háp nào sẽ gây ra chứng này?

Về phần các bệnh ung thư:

Như con được biết ung thư còn có thể do tế bào biến đổi gene sinh ra vì bị nhiễm độc hoặc do virus nữa. Có lẽ ta nên nói thêm về trường hợp này rồi quy về cách chữa theo KCYD.

Cuốn sách thực sự chứa rất nhiều kinh nghiệm và quan điểm chữa bệnh quý báu.
Xin cảm ơn Thầy, xin cảm ơn chú Liêu.
Hy vọng sớm được thấy cuốn sách ra đời và con còn ngóng chờ cuốn sách lý luận về huyết áp Tổng hợp Tiền đề định bệnh bằng máy đo háp và huyết áp giải luận tam tiêu nữa !!!
tutamtichduc
 
Bài viết: 135
Ngày tham gia: Thứ 5 Tháng 12 15, 2011 10:05 am

Trang kế tiếp

Quay về Tài liệu Tự Học Chữa Bệnh

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến5 khách