TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 5 Tháng 4 24, 2025 11:46 pm

PHẦN 9.
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHUYỂN HÓA THỨC ĂN TỐT VÀ XẤU

https://youtu.be/8eiXPzYcQXU

I.ĐO ÁP HUYẾT BÊN TAY TRÁI THUỘC BAO TỬ CÓ NHIỆM VỤ CHUYỂN HÓA THỨC ĂN.
Thí dụ lấy tiêu chuẩn áp huyết tuổi lão niên. 130-140/80-90mmHg 70-80
1-Bao tủ chuyển hóa thức ăn 100%
a-Cách tính chuyển hóa giai đoạn 1 tổng quát trước ăn và sau ăn 30 phút
Khi đói, trước khi ăn, áp huyết tay trái đo được 130/80mmHg nhịp tim 70
Sau khi ăn 30 phút đo lại áp huyết tay trái tăng 10 số tâm thu là 140/90mmHg 80

b-Cách tính chuyển hóa giai đoạn 2, sau 2 tiếng.
Sau 2 tiếng đo lại áp huyết và đường huyết, để biết tốc độ chuyển hóa thức ăn loại nào, và đường huyết âm hay dương.
Vì theo bảng chuyển hóa nhanh hay chậm lệ thuộc vào từng loại thức ăn khác nhau để phân biệt, như ăn nhiều rau củ quả, thì tốc độ chuyển hóa nhanh trong 2 giờ tiêu hóa hết thì áp huyết tay trái xuống nhanh, và đường huyết sẽ là đường âm, không có tinh bột, nên không có chất bổ máu.
Các bệnh chứng xẩy ra trong thời gian 2 giờ chuyển hóa của bao tử và của gan, giống như 2 người đi ngược chiều từ điểm A sang B sau 2 giờ thì hau người gặp nhay cùng một điểm
Thí dụ khi no áp huyết tâm thu bên bao tử 140 mmHg ,thi tâm thu bên gan là 130, sau 4 tiếng thức ăn được chuyển hóa hết thì tâm thu bên bao tử trở về đói là 130, thì tâm thu bên gan lại cao 140, như vậy sau 2 giờ chuyển hóa thì mỗi bên bằng nhau là 135mmHg là chuyển hóa tốt, nếu không giống nhau là bệnh của bao tử hay của gan, như :
Trường hợp 1 :
Tâm thu bên bao tử đúng 135mmHg mà tâm thu bên gan vẫn cò cao hơn 135mmHg là chức năng bên gan không chuyển hóa, có nghĩa gan không hấp thụ thức ăn, có nghĩa tình trạng gan còn nằm trong tiêu chuẩn đói, chứng tỏ trong thức ăn không có protein, hay không có đủ đường chuyển hóa protein thành máu, thì đường cao là đường của trái cây rau củ quả, là hiện tượng chuyển hóa nghịch lên họng, làm áp huyết lúc nào bên gan cũng cao, chứng tỏ thiếu đường chuyển hóa thức ăn.
Trường hợp 2 :
Tâm thu bên bao tử thời gian chuyển hóa đúng áp huyết tâm thu xuống 135mmHg, nhưng bên gan thấp hơn gần trở về tiêu chuẩn no như 132mmHg, là gan đã hấp thụ xong, cũng do đường huyết thấp, hay đường âm cao, bên bao tử không chuyển hóa nữa trở thành bụng chướng thức ăn trong bao tử không được đường chuyển hóa, nên đầy bụng, ợ hơi.

c-Cách tính chuyển hóa giai đoạn 3 sau 4 tiếng
Chuyển hóa tốt thì áp huyết bao tử trở về tình trạng đói, tâm thu 130mmHg, áp huyết bên gan tâm thu cao. Nhưng trên thực tế nếu trong thức ăn có thịt đỏ, thì thời gian chuyển hóa của thịt đỏ lâu từ 3-5 tiếng đồng hồ mới ra khỏi bao tử, như vậy sau 4 tiếng mà áp huyết tâm thu bao tử còn cao, chứng tỏ bao tử không đủ đường cho bao tử co bóp chuyến hóa hết thịt trong bao tử, thì áp huyết tay trái lúc nào cũng cao
Dưới đây là bảng thời gian chuyển hóa của từng loại thức ăn :

Nước Tức thì
Nước trái cây và rau quả 15 - 20 phút
Rau củ ăn sống 30 - 40 phút
Rau củ nấu chín 40 phút
Cá 45 - 60 phút
Củ giàu tinh bột (như khoai lang, khoai tây) 1,5 - 2 giờ
Ngũ cốc và bánh mì 2 giờ
Phô mai mềm 2 giờ
Thịt gà và các loại thịt trắng 1,5 - 2 giờ
Thịt đỏ (như thịt bò, thịt cừu) 3 - 5 giờ

d-Cách tính chi tiết giai đoạn ba chuyển hóa thức ăn sau 4 tiếng áp huyết vẫn còn cao.
Tại sao chúng ta không thắc mắc sau 2 tiếng áp huyết tâm thu tay trái xuống thấp rồi 4 tiếng sau áp huyết lại cao không trở về giai đoạn đói. Có 2 trường hợp :
Trường hợp 1 :
Thiếu đường cho bao tử co bóp để chuyển hóa thức ăn sẽ có kết quả như sau : Tay trái 160/95mmHg nhịp tim 65, đường huyết 6mmol/l=100mg/dl.
Đúng với lý thuyết áp huyết cao do thiếu đường chuyển hóa thức ăn
a-Hậu quả gây bệnh : Trào ngược thực quản, thức ăn biến thành đám, bướu cổ, cường giáp
b-Cách giải quyết :
Uống thêm đường lên 200mg/dl, nằm úp bụng cho bao tử đè lên chai nước nóng 40 độ C cho thức ăn trong bụng chuyển hóa tiếp xuống ruột thì áp huyết tâm thu tay trái sẽ xuống thấp.
Trường hợp 2 :
Thiếu đường dương, thừa đường âm . Thí dụ áp huyết tâm thu tay trái 160/95mmHg, nhịp tim 60, đường huyết 200mg/dl, thấy đường huyết cao mà nhịp tim thấp là bao tử hàn, thì đường cao là đường của rau củ quả, không phải đường của tinh bột, ngoài ra kiểm chứng thêm bằng súng bắn nhiệt kế một trong 3 điểm trán, đầu ngón tay út trái, đầu ngón chân út trái có nhiệt độ dưới 36 độ C là nhiệt độ lạnh
a-Hậu quả gây bệnh :
Thức ăn không đủ đường dương, nhịp tim thấp, nhiệt độ thấp, thức ăn không biến thành máu mà biến thành đàm, gan không hấp thụ được thức ăn thì tâm trương bên gan tụt thấp sẽ bị mất máu, nhưng lại bị mỡ máu cao.
b-Cách giải quyết :
Vẫn cần phải uống thêm đường dương cho đường âm hạ thấp, cho nhịp tim tăng, rồi nằm úp bụng lên chai nước nóng 40 độ C cho ấm nóng bao tử và có đường cho bao tử co bóp chuyển hóa tiếp thức ăn và đường biến thành máu
Trường hợp 3 :
Giai đoạn 2 chuyển hóa sau 2 tiếng rất tốt, nhưng giai đoạn 3 sau 4 tiếng áp huyết lại tăng đường dương vẫn đủ 200mg/dl, nhịp tim vẫn trong tiêu chuẩn, nhiệt độ 3 nơi vẫn trên 36 độ, mà áp huyết tâm thu lại tăng, như áp huyết tâm thu tay trái 170/85mmHg nhịp tim 75.
a-Nguyên nhân :
Do ăn xong, đi nằm trong 2 tiếng, thức ăn vẫn đủ đường, đủ nhiệt lượng để bao tử co bóp thức ăn thành chất lỏng, sau đó theo lý thuyết thức ăn sẽ chuyển xuống ruột non nhận thêm các enzyme trong ruột non để biến thức ăn thành máu, nhưng vì nằm thì bao tử giống như chiếc thuyền chứa đầy nước không chảy ra ngoài , như vậy thức ăn trong bao tử không có lối thoát xuống ruột do vị thế của bao tử nằm ngửa, nên áp huyết vẫn cao, bụng vẫn đầy, nếu ngồi dậy ăn bữa kế tiếp thì cũng không chứa được nhiều thức ăn, vì thức ăn cũ trong bao tử vẫn chưa được ruột non hấp thụ và chuyển hóa hết xuống ruột già.
b-Hậu quả gây bệnh :
Thức ăn trào lên họng gọi là trào ngược do vị thế nằm, trường hợp này thường là các bệnh nhân đang nằm trong bệnh viện lâu ngày hay các bệnh nhân nằm ở Nhà Già, Viện Dưỡng Lão, các y tá hay bác sĩ không biết điều này, cứ truyền thức ăn vào bụng , khi bụng chưa đầy thì mấy ngày không có phân để đi cầu, khi truyền thức ăn các bữa kế tiếp thỉ bụng to chướng đầy bụng, làm tăng áp huyết, khó thở, lại được các y tá, bác sĩ săn sóc kiểm soát đường huyết giữ lúc nào cũng thấp thì thức ăn biến thành đàm chặn họng, khó thở chỉ vài tháng bệnh nhân tử vong do tiêu hóa không chuyển hóa.
Đối với những người già ở nhà mà nằm liệt một chỗ cũng bị trường hợp này
c-Cách giải quyết :
Nếu trong bệnh viện, cần phải cho nửa phần đầu giường nằm quay cho cao lên 30, hay 45 độ, cho vị thế của bao tử dốc xuống ruột, thì thức ăn trôi xuống ruột non mới biến thành máu và xuống ruột gìà. Mới đúng câu, ăn được, ỉa được, ngủ được, thì mau khỏe khỏi bệnh.
Còn những người già nằm trên giường ở nhà, vị thế của bao tử nằm ngửa càng ăn càng đầy bụng, to bụng, không đi cầu được, ăn vào ói ra, do vị thế nằm, nên cho nằm úp bụng lên chai nước nóng 40 độ C là đổ thức ăn lỏng chạy xuống ruột 30 phút cho thức ăn biến thành máu

II-TÂY Y CHIA 4 GIAI ĐOẠN CHUYỂN HÓA THỨC ĂN

1-Giai Đoạn Tiêu Hóa Trong Miệng
Sư chuyển hóa thức ăn nhanh hay chậm lệ thuộc vào giai đoạn này là phải nhai cho kỹ, mục đích nghiền thức ăn nhỏ nát hòa trộn với enzyme trong hạch nước miếng giúp tinh bột chuyển thành đường đơn, nên càng nhai thức ăn kỹ càng thấy ngọt, cứ mỗi miếng thức ăn được nhai kỹ nuốt vào bao tử trở thành viên tròn nhỏ
2. Giai Đoạn Dạ Dày, là giai đoạn sau khi ăn 30 phút
Thức ăn tiếp tục được phân giải nhờ enzyme pepsin và acid hydrochloric (HCl). Dạ dày không chỉ phân giải protein mà còn giúp tiêu diệt vi khuẩn, bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân gây bệnh. Thời gian lưu thức ăn trong dạ dày thường từ 2 tiếng đối với người ăn chay, ăm cơm, canh rau củ quả, nếu đủ đường trong thức ăn cho bao tử co bóp , nếu không đủ đường sẽ biết ngay khi đo áp huyết tay trái có nhịp tim thấp, đường thấp, hay nhịp tim thấp, đường cao là đường của rau củ quả không làm cho bao tử tăng nhiệt thì bao tử ngưng không co bóp, chúng ta không nằm trong 2 tiếng thì vị thế của bao tử ở thế đứng sẽ bị trôi xuống ruột non để được chuyển hóa thành máu
3. Hấp Thu Dinh Dưỡng Ở Ruột Non là giai đoạn 3
Ruột non là nơi hấp thu phần lớn các chất dinh dưỡng. Sau khi rời khỏi dạ dày, thức ăn được nhào trộn cùng các enzyme từ tuyến tụy và mật, giúp phân giải các chất phức tạp như lipid và protein. Các chất dinh dưỡng được hấp thu qua thành ruột vào máu để cung cấp năng lượng cho cơ thể
Ở giai đoạn này thức ăn trong bao tử rỗng thì áp huyết tâm thu tay trái xuống thấp dần. Nếu áp huyết không xuống thấp dần, thì tây y gọi là rối loạn áp huyết là đổ tội chung chung mà không biết nguyên do thức ăn và do giai đoạn nhai thức ăn không nhai kỹ thành miếng nhỏ vẫn còn những cục to, mà bao tử không đủ đường co bóp thức ăn thì ngưng không co bóp, bao tử lạnh dần thì thức ăn đóng cứng thành cục tròn còn to không lọt được xuống ruột, giống như cái phễu bị nghẹt khi đổ nước vào phễu, nước không chảy xuống mà tràn ra ngoài, như vậy khi ăn thêm thức ăn nước uống vào bị trào ngược, bị nôn ói, đã có hướng dẫn cách giải quyết uống thêm đường và nằm úp bao tử đè lên chai nước nóng 40 độ trong 30 phút cho bao tử co bóp tiếp và làm nóng ấm bao tử cho thức ăn đông đặc trong bao tử tan lỏng dễ chảy xuống ruột, chúng ta nghe được tiếng bụng sôi làm bụng mền, nghe được tiếng chất lỏng trong bao tử chảy xuống ruột, sẽ hết nôn ói.
Đối với những người ăn thịt đỏ, hay ăn thịt nhai không xé nhỏ thịt, còn miếng to, thì thịt trong bao tử thời gian chuyển hóa theo lý thuyết từ 3-5 tiếng, thì 2 tiếng sau hay 4 tiếng sau nó vẫn còn trong bao tử không chuyển hóa hết nên áp huyết khi đói trước khi ăn bữa kế tiết, áp huyết tâm thu bên bao tử không trở về tình trạng đói là 130, mà vẫn ở tình trạng 135 hay 140, hay cao hơn, có nghĩa trong bao tử bị cục bã thức ăn chặn lối xuống môn vị để lọt xuống ruột non, thì sau này bao tử vẫn đầy ăn gì thêm cũng bị nôn ói là dấu hiệu bệnh.
a-Hậu quả gây bệnh :
Trào ngược, nôn ói,đau tức cứng bụng, đau loét bao tử, đau hang vị, dẫn đến ung thư bao tử nếu có dấu hiệu, áp huyế tay trái tâm thu cao, nhịp tim cao, đường huyết thấp, nhiệt độ đo 3 nơi thấp, hay nhịp tim cao, đường huyết cao là đường âm, nhiệt độ 3 nơi thấp dưới 36 độ C, nhưng người không bị sụt cân.
Ngược lại áp huyết thấp, đường huyết cao, nhịp tim thấp, nhiệt độ thấp là đang bị ung thư mãn tính, do ăn kiêng tinh bột và kiêng đường, cơ thể thiếu đường cho tim phổi hoạt động nên gan phải rút hết đường dự trữ glycogen trong bắp thịt, trong mỡ, trong xương tủy ra cho tim hoạt động nên trong gan mất máu, hết đường, dần dần cơ thể gầy trơ xương tim ngưng đập tử vong, cò trường hợp cấp tính là nhịp tim cao trên 120, áp huyết tâm thu bằng hay thấp hơn nhịp tim , đường huyết cao giả vì bị sụt cân, thì gọi là áp huyết giả, đổi sang áp huyết thật của một người khỏe mạnh có nhịp tim 80 thì vì cơ thề thiếu máu nhịp tim mới cao 120 là nhịp tim đã chạy nhanh hơn 40 nhịp, lấy số tâm thu đầu là 120 trừ 40, thì áp huyết tâm thu thật là 80mmHg là đang ung thư giai đoạn 2, nếu áp huyết tâm thu chỉ có 110, mà nhịp tim 120, thì áp huyết thật 70 là sắp chết , vô tình bị tiêm insulin hạ đường huyết giả thì tim ngưng đập tử vong ngay
b-Cách giải quyết bao tử bị nghẹt.
Uống 1 thìa baking soda pha 5-10 thìa cà phê đường cát vàng uống sau khi ăn 2 tiếng. Rồi nằm úp bao tử lên chai nước nóng 40 độ trong 30 phút để baking soda là bột nở làm tan bã thức ăn đọng nơi hang vị vả môn vị cửa xuống ruột non, nằm nghe bụng sôi, sẽ có 2 phản ứng nôn ói hết thức ăn trong bao tử ra miệng, sẽ thấy nhiều cục bã thức ăn mầu xanh, đen nâu là thời gian cục bã thức ăn đọng trong hang vị khác nhau, sau đó cứ mỗi bữa sau ăn trưa 2 tiếng lại uống baking soda pha 5-10 thìa cà phê đường cát vàng, bao giờ đi cầu cũng ra chất nhầy đủ mầu trong phân cho đến vài ngày sau phân ra mầu vàng có thành khuôn và có nhịp tim trong tiêu chuẩn 70-80 , đo độ pH nước bọt từ acid có pH 5 lên pH 6.5-7 là khỏi bệnh ung thư, lúc đó bao tử nhẹ, cảm thấy thức ăn vào tiêu hóa tốt không đau bụng, áp huyết chuyển hóa thuận, áp huyết thật tăng dần và nhịp tim xuống
c-Trường hợp người ăn thức ăn có thịt đỏ :
Nếu thiếu đường chuyển hóa thức ăn thì bao tử ngưng không co bóp, thì thức ăn không chuyển hóa thành máu, mà tế bào ngày nào cũng cần đường và máu để duy trì sự sống, bã thức ăn thịt sau 3-5 tiếng không đủ đường chuyển hóa lại chặn lối môn vị không xuống được ruột non, gây bệnh như trên. Ngược lại thay vì ăn phở có tinh bột đường và gia vị trong phở đủ 5 vị mặn, ngọt, chua, cay, đắng, có chất bổ trong nước lèo, muốn cho tiêu thức ăn nhanh có hai cách sau khi ăn uống 1 lon coca cho tiêu thức ăn nhưng làm tăng áp huyết tâm thu, nếu sau khi ăn 2 tiếng áp huyết cao thì uống 1 lon Pepsi cũng làm tiêu hóa phở nhanh nhưng nó làm hạ áp huyết.
d-Có người ăn phở để bổ máu nhưng áp huyết tâm thu vẫn thấp dưới 100mmHg , cũng uống coca mà áp huyết không tăng mà áp huyết tâm thu vẫn thấp, uống coca đường huyết vẫn thấp; uống thêm đường nhiều bị nôn ói mà đường huyết vẫn thấp, số tâm trương bên bao tử và gan vẫn thấp.
Có ai biết tại sao không. Chúng ta đã biết đo áp huyết số nào thừa phải cho xuống, số nào thấp phải cho cao để quân bình. Nên phải thắc mắc tại sao ăn phở mà tâm trương không tăng, tâm thu không tăng, phải nhớ câu đường glucose cộng với tinh bột biến thành máu, vậy tại sao uống đường mà không biến thành máu vì không có tinh bột đường, hỏi bệnh nhân có ăn phở không, bệnh nhân trả lời có ăn phở nhưng uống nước phở bỏ không ăn bánh phở, đấy chính là nguyên nhân không có tinh bột thì đường chuyển hóa với nước phở làm loãng đường nên đường thấp, không có bánh phở thì không thành máu, chỉ có nước làm chướng bụng, có bã thức ăn cũ làm nghẹt lối xuống ruột nên ăn uống gì cũng nôn ói nên sợ càng bỏ bữa,
Cách giải quyết cũng phải dùng baking soda pha đường nằm úp bao tử đè lên chai nước nóng 40 độ trong 30 phút sau mỗi bữa ăn trưa 2 tiếng, cho một nửa thức ăn cũ trong bao tử nôn ói, một nửa đi theo phân, khi bụng hết căng cứng, có nghĩa bao tử bị chai, nếu thể tích nhỏ thì gọi lả teo, thể tích bao tử lớn gọi là chai và sưng, đó là lý do phải nằm úp bao tử lên chai nước nóng 30 phút cho tan bướu bã thức ăn
4. Giai Đoạn Tiêu Hóa Ở Ruột Già
Thức ăn còn lại di chuyển đến ruột già, nơi chủ yếu thực hiện nhiệm vụ hấp thu nước và một số chất dinh dưỡng cuối cùng. Thức ăn không tiêu hóa được sẽ được chuyển thàn chất thải và đào thải ra ngoài. Thời gian lưu trữ trong ruột già có thể kéo dài từ 12-48 giờ tùy theo cơ địa và chế độ ăn uống.
Nhìn chung, toàn bộ quá trình tiêu hóa có thể mất từ 24-72 giờ, tùy thuộc vào từng loại thực phẩm và sức khỏe hệ tiêu hóa của mỗi người. Quá trình này không chỉ đảm bảo cơ thể được cung cấp đủ năng lượng mà còn góp phần duy trì sức khỏe tổng thể.
III-Chức năng hấp thụ của gan
Sau khi điều chỉnh và biết cách tính chuyển hóa thức ăn được bao nhiêu phần trăm mà chức năng gan tốt hoạt động khi đói áp huyết tâm thu cao 140, khi no áp huyêt tâm thu thấp 130, là hấp thụ 100%,có nhiều trường hợp gan hấp thụ thức ăn thành máu khác nhau.
Trường hợp 1; Bao tử chuyển hóa thuận thức ăn được 100% thì gan hấp thụ được 100%
Trường hợp 2. Bao tử chuyển hóa thuận 50% thì gan cũng hấp thụ 100% của 50% thức ăn của bao tử
Trường hợp 3-Bao tử chuyển hóa nghịch, là không có phần trăm thức ăn nào được chuyển hóa cho gan thì gan không có hấp thụ được gì thì gan phải chuyển hóa đường, hay mỡ thành đường đi nuôi tế bào thì lượng máu trong gan là tâm trương thấp dần và tâm thu cũng thấp dần
Trường hợp 4- Bao tử chuyển hóa thức ăn thuận 100%, nhưng chức năng gan trước khi ăn thay vì cao 140, thì nó chỉ có 132, sau khi ăn cũng 132, thì chức năng gan ngưng không hoạt động không hấp thụ, thức ăn trong bao tử bị đẩy xuống ruột già thành phân
Trường hợp 5-Tâm thu bên gan trước khi ăn 140, sau khi ăn 135 là hấp thụ 50% mà bên bao tử chỉ chuyển hóa thuận được 20% thì gan hấp thụ 50% của 20% có nghĩa chỉ nhận được có 10% chất bổ máu

Kết luận
Sự chuyển hóa thức ăn thành máu thuận hay nghịch, tốt hay xấu đều do đường là thành phần quan trọng là tinh bột đường và đường phải phối hợp với chất đạm thực vật, rau củ quả là chất xơ thì thức ăn mói đủ chất biến thành máu.
Như vậy ăn kiêng, hay ăn chỉ rau củ quả, hay nhịn ăn nửa ngày đều không thuận theo giờ sinh học tự nhiên đều gây ra bệnh.

(tiêp theo PHẦN 10)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Chủ nhật Tháng 4 27, 2025 12:52 pm

PHẦN 10
MÂU THUẪN TRONG LÝ THUYẾT KHÁNG INSULIN CỦA TÂY Y

https://youtu.be/rQpHrdp5sTk

I-TÂY Y ĐỊNH NGHĨA KHÁNG INSULIN LÀ GÌ ?
Kháng insulin là một rối loạn lâm sàng hiện nay dẫn đến một số bệnh như là: Đái tháo đường type 2, tiền đái tháo đường ( rối loạn dung nạp glucose), béo phì, rối loạn lipid máu và tăng huyết áp. Tất cả nằm trong bệnh cảnh của của hội chứng chuyển hóa. Những khiếm khuyết trong hệ thống tín hiệu insulin là cơ chế quan trọng gây ra kháng insulin.
1. Kháng insulin là gì?
Insulin là một hormone đồng hóa chính của cơ thể đóng vai trò quan trọng giúp cho mô phát triển, tăng trưởng và duy trì cân bằng nội môi glucose trong và ngoài tế bào.
Insulin được bài tiết ra bởi các tế bào beta của tuyến tụy. Hormone này có vai trò quan trọng điều hòa cân bằng nồng độ glucose trong máu thông qua việc ức chế sản xuất glucose ở gan và tăng tốc độ hấp thu glucose chủ yếu vào cơ xương và mô mỡ. Ngoài ra insulin cũng có tác dụng ảnh hưởng đến chuyển hóa lipid, tăng tổng hợp lipid ở gan và các tế bào mỡ, giảm giải phóng axit béo từ mô mỡ.
Kháng insulin xảy ra khi các tế bào trong cơ, mỡ và gan của bạn không phản ứng với insulin như bình thường. Tình trạng này còn được gọi là tình trạng suy giảm độ nhạy insulin. Insulin rất cần thiết cho sự sống và điều chỉnh lượng đường trong máu.
Insulin giúp đưa glucose từ máu vào các tế bào để cơ thể bạn có thể sử dụng glucose làm năng lượng. Vì một số lý do, các tế bào của bạn có thể phản ứng không phù hợp với insulin. Điều này có nghĩa là chúng không thể sử dụng glucose một cách hiệu quả để tạo năng lượng hoặc để dự trữ. Do đó, glucose tiếp tục tích tụ trong máu của bạn. Tuyến tụy của bạn tạo ra nhiều insulin hơn để cố gắng khắc phục lượng đường trong máu đang tăng. Tình trạng này được gọi là tăng insulin máu.
Miễn là tuyến tụy của bạn có thể tạo ra đủ insulin để cân bằng lượng đường trong máu, thì lượng đường trong máu sẽ duy trì ở mức khỏe mạnh. Nếu các tế bào của bạn trở nên quá kháng insulin, thì lượng đường trong máu sẽ tăng cao (tăng đường huyết).
2-Hậu quả chính kháng insulin :
Béo phì, tim mạch, gan nhiễm mỡ, hội chứng chuyển hóa,
Những người có lượng đường trong máu cao liên tục có thể gặp các triệu chứng sau:Mệt mỏi
Khát nước nhiều hơn
Đi tiểu thường xuyên
Đói nhiều hơn
Mờ mắt
Nhiễm trùng nấm men
Theo thời gian, tình trạng tăng đường huyết có thể dẫn đến tiền tiểu đường và tiểu đường loại 2.

II-NGUYÊN NHÂN MÂU THUẪN CÁC LÝ THUYẾT CỦA TÂY Y.
Một bác sĩ tây y không thể liên kết chức năng của các tạng phủ trong cơ thể như thầy thuốc đông y.
Tại sao ? Vì thầy thuốc đông y học toàn khoa các chức năng tạng phủ chúng tự cân bằng sức khỏe của tổng thể theo lý thuyết quân bình âm-dương ngũ hành, nên đông y không có tên bệnh cao hay thấp áp huyết, không có tên bệnh tiểu đường, không có insulin.
Còn tây y mỗi bác sĩ đi chuyên sâu về một khoa, nên có ý thiên lệch về khoa của mình, đạo Phật gọi là chấp vào biên kiến, bảo vệ khoa của mình thì lại làm hại đến khoa chuyên môn của người khác, như vậy các khoa chuyên môn của mình đều là chấp vào biên kiến là đi vào chi tiết lý thuyết riêng của từng khoa là chỉ chú trọng chữa ngọn của 1 bệnh, chứ không quay lại nguyên nhân gốc bệnh, vì cho rằng không phải chuyên môn của khoa mình học .
Thật ra hậu quả chính của cái tên bệnh lạ lùng là kháng insulin gây ra những bệnh như kể trên, nhưng khi chữa thì bác sĩ nội tiết chuyên về tiểu đường, chì chú trọng cho thuốc chữa liên quan đến đường huyết và insulin, mà không có quyền cho thuốc chữa áp huyết, chữa tim mạch, chữa bệnh gan nhiễm mỡ, chữa bệnh tiểu đêm, bệnh mờ mắt, bệnh mệt mỏi…các biến chứng này lại liên quan đến các bá sĩ chuyên môn khác thì lý thuyết chuyên môn riêng của từng môn lại cho thuốc như áp huyết, tim mạch, bác sĩ chữa thận. rồi các bác sĩ chuyên khoa môn nào chữa môn ấy, đến cuối cùng thì bệnh kháng insulin có khỏi không , hay bệnh nhân phải than rằng các bác sĩ đa khoa đều nói các thuốc chữa hậu quả của bệnh kháng insulin phải uống thuốc suốt đời và chung sống với chúng đến suốt đời.

III-THẦY THUỐC ĐÔNG Y TOÀN KHOA CHỮA VÀO GỐC BỆNH
Tại sao thầy thuốc đông y gọi là thầy thuốc toàn khoa.
Vì chức năng hoạt động của tạng phủ nào trong cơ thể cũng biết rõ sự vận hành của chúng, khi nào âm-dương ngũ hành tạng phủ hòa hợp đồng bộ theo 3 tiêu chuẩn tinh-khí-thần, thì khỏe mạnh, khi chúng mất quân bình thì sinh ra bệnh tật, như trục trặc về tim mạch áp huyết, thì bắt mạch khám bệnh tìm nguyên nhân xem chức năng tim hư thiếu hay thừa khí lực thì theo nguyên tắc đông y chữa theo ngũ hành mẹ-con, như con hư thì bổ mẹ, mẹ thực thì tả con, nhưng làm sao chứng minh cho tây y biết thế nào là tinh-khí-thần, thế nào là hư thực khi bắt mạch bằng tay, thì ngày nay bất cứ ai muốn biết bằng con số cụ thể thì chỉ cần đo áp huyết 2 tay, đo đường huyết, dùng súng bắn nhiệt kế đo nhiệt độ trên trán, nhiệt độ đầu ngón tay út trái, đầu ngón chân út trái, so sánh với áp huyết tiêu chuẩn tuổi, nếu khí tâm thu cao hơn tiêu chuẩn tuổi là thực là cao áp huyết tâm thu, nếu tâm trương cao hơn tiêu chuẩn tuổi cũng là bệnh cao mỡ máu, nếu nhịp tim cao, nhiệt độ cao hơn tiêu chuẩn tuổi là đường huyết cao. Ngược lại nếu cả 3 số tinh-khí-thần là tâm thu, tâm trương, nhịp tim, đường huyết thấp thì suy tim, thiếu máu cơ tim cục bộ, mệt mỏi, tiểu đêm, mất ngủ, kém tiêu hóa… tất cả nguyên nhân bệnh đều do vấn đề tiêu hóa, chuyển hóa của bao tử và hấp thụ thức ăn thành máu của chức năng gan, đã giảng trong Phần 9.
Như vậy đông y chữa vào gốc bệnh điều chỉnh lại chức năng chuyển hóa xem ở giai đoạn nào trục trặc gây bệnh.
Tuy nhiên các thầy đông y học cho đến nơi đến chốn đều giỏi như nhau, nhưng lại tùy theo đạo đức nghề nghiệp nên khi thực hành chữa bệnh khác nhau, nên đông y chia thành 3 bậc thầy thuốc là thầy thuốc bậc hạ công, bậc trung công, bậc thượng công.
Bậc hạ công là chữa ngọn bệnh trước cho bệnh nhân thấy kết quả ngay để được tiếng khen thích nổi danh, chữa từng ngọn bệnh kéo dài thời gian kiếm được nhiều tiền hơn.
Bậc trung công thì chữa ngừa biến chứng cho bệnh không phát triển, tự nhiên ngọn bệnh khỏi, tuy bệnh nhân chưa thấy kết quả ngay, nhưng vài ngày sau ngọn bệnh tự khỏi.
Bậc thượng công chữa một lúc là vừa ngừa biến chứng không lây lan và chữa vào nguyên nhân gốc bệnh thời gian lâu hơn, nhưng không tái phát, bệnh nhân không thấy kết quả nhanh. Bệnh nhân khỏi bệnh, thường không cần đến gặp bậc thầy này, nên bậc thượng công thường nghèo, không cầu danh, cầu lợi, có đời sống an vui đạm bạc hơn hai bậc hạ công và trung công.

IV-ĐÔNG Y KHÍ CÔNG Y ĐẠO CHỮA BỆNH KHÁC VỚI TÂY Y ĐIỂM NÀO ?
Đông y khí công y đạo kết hợp kiến thức đông y và lý thuyết căn bản của tây y nói về nguồn gốc bệnh là tế bào cần 4 chất glucose, protein, lipid, oxy để nuôi hơn 30 ngàn tỷ tế bào gồm hơn 200 loại tế bào có những chức năng khác nhau như tế bào máu, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu… tế bào da, tế bào cơ, tế bào mỡ, tế bào thần kinh, tế bào não, tế bào tim, tế bào gan nói chung tế bào lục phủ ngũ tạng, tế bào râu tóc, xương cốt..còn rất nhiều chi tiết về tế bào lại phân làm hai loại, tế bào dinh dưỡng phát triển cơ thể, tế bào bảo vệ cơ thể chông lại bệnh tật. Cho nên về tổng quát 4 chất có nhiệm vụ trao đổi chất nhờ các enzymes trong cơ thể giúp cho glucose phối hợp với protein thành máu nuôi thịt, cũng đồng thời hai chất này giúp tụy tạng điều chế insulin để dẫn đường và máu đi nuôi các tế bào. Glucose phối hợp với lipid thành mỡ nuôi da, gân, xương, sụn, thần kinh và là vỏ bọc bảo vệ tế bào. Cả hai chất glycoprotein và glycolipid lại vừa giúp các tế bào làm nhiệm vụ dinh đưỡng, vừa giúp các tế bào làm nhiệm vụ bảo vệ cơ thể, tất cả các chất này đều được cung cấp từ thức ăn hàng ngày. Như vậy nguyên nhân giúp chúng ta khỏe mạnh hay bị bệnh đều do nguyên nhân gốc bệnh đến từ thức ăn đúng hay sai, và chức năng trong tế bào chuyển hóa thức ăn đúng hay sai.

1-Lý thuyết căn bản của tây y đã hướng dẫn những lý thuyết sau đây :
-Thành phần trong thức ăn phải có :
Tinh bột đường, chất đạm protein, chất béo, chất xơ rau củ quả và khoáng chất
Trong bài Phần 9 nói về giai đoạn chuyển hóa thức ăn khi vào miệng nhai kỹ, tất cả thức ăn đều được các enzyme trong hạch nước bọt chuyển hóa thành chất ngọt, và vào đến bao tử, được co bóp các chất đặc trở thành chất lỏng, sau 2 tiếng đi xuống ruột non vào máu lúc đó chúng ta đo lượng đường trong máu bằng máy đo đường hiện ra số lượng đường huyết, và đo áp huyết tay trái xem tinh-khí-thần có cân bằng không, khí là tâm thu, tinh là thức ăn tâm trương, thần là nhịp tim đi cùng với nhiệt độ và đường huyết xác nhận đủ đường để chuyển hóa thức ăn chưa.
Mặc dù đông y bắt mạch hay thì có hay, nhưng không bắt mạch 7 -8 lần theo mỗi giờ chuyển hóa, nên cũng không biết ở giai đoạn nào là nguyên nhân phát sinh ra bệnh, nên thay vì bắt mạch bằng tay, Y Học Bổ Sung đông tây y kết hợp bắt mạch bằng máy đo đường, đo áp huyết, đo nhiệt kế, để các bác sĩ tây y bắt chước cách khám bệnh tìm nguyên nhân và cách chữa dễ dàng không dùng thuốc theo bác sĩ chuyên khoa mà mọi người khỏe mạnh không bao giờ bị bệnh tim mạch, cao hay thấp áp huyết, không bao giờ bị tiểu đường.
Thí dụ những trường hợp đo áp huyết và đường huyết, nhiệt độ từng giai đoạn chuyển hóa sẽ có các kết quả số đo áp huyết , đường huyết, nhiệt độ khác nhau, là biết số nào thừa, số nào thiếu để điều chỉnh thiếu thì bổ sung cho dủ, thừa thì cắt giảm…
Thì dụ lấy tiêu chuẩn áp huyết ở tuổi trung niên 41-59 tuổi
Áp huyết tay trái 120-130/70-80mmHg nhịp tim 70-75
Khi đói bụng rỗng, thể tích bao tử nhỏ là 120 tâm thu, bao tử chưa chứa thức ăn thì tâm trương thấp 70, nhịp tim 70
Sau khi ăn đo sau 30 phút, bao tử đầy, thể tích tâm thu tăng 130, thức ăn đầy, thì tâm trương tăng 80, thức ăn đổi ra năng lượng đường làm ấm người thì nhịp tim tăng 75
Trường hợp mẫu : So sánh bụng đói và no sau ăn 30 phút.
Khi đói đúng tiêu chuẩn áp huyết 120/70mmHg nhịp tim 70. Đường huyết 140mg/dl, nhiệt độ trán 36 độ C là nhiệt độ của kinh Vị, đầu ngón tay út trái là nhiệt dộ của kinh Tâm, đầu ngón chân út trái là nhiệt độ của thần kinh não

Có 5 trường hợp xẩy ra trong giai đoạn chuyển hóa :
Giại doạn chuyển hóa lần 1,sau 30 phút đo áp huyết và đường huyết :

a-Nếu có kết quả 130/80mmHg nhịp tim 75, đường huyết 200mg/dl, nhiệt độ 3 nơi đều 36 độ C là tốt, không bị bệnh cao áp huyết, không bị mỡ máu,

b-Nếu có kết quả : 140/90mmHg nhịp tim 60, đường huyết 130mg/dl, nhiệt độ dưới 35 độ C cả 3 nơi. Đây là bệnh cao áp huyết cả tâm thu, tâm trương, nguyên nhân trong thức ăn thiếu đường làm cơ thể mất nhiệt người lạnh làm nhịp tim thấp 60. Khi thức ăn không đủ đường, do ăn thiếu tinh bột đường, đường huyết thấp giống như xe cần phải chạy 100km cần 10 lít xăng thì chỉ có 5 lít xăng thì xe chết máy giữa đường, cũng vậy, đường đang giúp bao tử co bóp chuyển hóa thưc ăn thành chất lỏng, nhưng nửa chừng hết đường bao tử ngưng co bóp, thức ăn còn đầy trong bao tử sẽ lên men tăng khí tâm thu, không đủ đường chuyển hóa protein thành máu thì sẽ biến thành mỡ là bệnh mỡ máu cao, nếu đường huyết ngày nào cũng thấp, nhịp tim ngày nào cũng thấp thì máu đông đặc, làm cho tốc độ bơm máu chậm lâu ngày xơ vữa động mạch vành làm thiếu máu cơ tim cục bộ, có dấu hiệu thỉnh thoảng nhói tim
Cách giải quyết :
Uống ngay 10 thìa cà phê đường cát vàng, rồi nằm úp bao tử đè lên chai nước nóng 40 độ C trong 30 phút để cho đường co bóp bao tử chuyển hóa hết thức ăn, xong đo lại đường huyết dù uống 10 thìa đường mà đường không tăng mà bị tụt thấp còn 120mg/dl, thì phải tự hỏi đường mất đi đâu, sau khi đo áp huyết mới biết đường dã làm giảm tâm thu là hạ áp huyết, giảm tâm trương là giảm mỡ máu, và làm tăng nhịp tim là tăng tốc độ bơm máu tăng nhiệt độ là thoát khỏi nguyên nhân cao áp huyết, cao mỡ máu, không bị tiểu đường. Như vậy thầy đông y không phải là bác sĩ chuyên khoa nội tiết, hay tim mạch, không dùng thuốc mà thoát khỏi bệnh cao mỡ máu, cao áp huyết, cao đường

c-Nếu có kết quả 100/65mmHg nhịp tim 70, đường huyết 140mg/dl
Giải thích :
Đường 140mg/dl là nhiệt độ cơ thể vẫn ấm nóng, giữ được nhịp tim tốt, nhưng lý thuyết tây y nói đường chuyển hóa tinh bột và protein thành máu, thì người náy có lượng thức ăn ít nên thể tích bao tử nhỏ là thấp tâm thu có 100 là cơ thể thiếu khí oxy, hơi thở ngắn, không ăn đủ lượng tinh bột và protein để cho đường chuyển hóa thành máu, nên trong thức ăn này không tạo máu làm cơ thê mất máu, sụt cân. Nên nhớ cứ mỗi giờ tim phổi hoạt động đều làm đường huyết tụt 10mg/dl, nếu không ăn thêm chất bổ máu bổ đường thì 4 tiếng sau đường huyết tụt mất 40mg/dl, thì chỉ còn 100mg/dl, thì tự nhiên đo đường huyệt lại tăng vọt lên 150mg/dl,chúng ta phải tìm hiểu đường ở đâu mà tự nhiên tăng lên làm tâm thu tăng 150, tâm trương giảm còn 60 là cơ thể mất máu có nghĩa cơ thể mất đường sụt cân, thức ăn trong bao tử không tiêu lên men tăng ga ợ hơi, tăng thể tích khí bao tử. Đúng với lý thuyết tây y, thiếu đường chuyển hóa thức ăn thì tăng áp huyết, ăn thiếu tinh bột đường thiếu protein thì có đường mà không có tinh bột đường và protein thì thức ăn không biến thành máu mà làm mất máu tâm trương tụt thấp.
Cách giải quyết :
Uống ngay 3 thìa canh sữa đặc Ông Thọ pha 6 thìa cà phê đường cát vàng, hay ăn 1 miếng bánh mì chấm vào sữa, rồi nằm úp bao tử lên chai nước nóng 40 độ C 30 phút, rồi đo lại áp huyết sẽ tăng tâm thu, máu sẽ tăng tâm trương, nhịp tim tăng là tăng nhiệt tay chân.

d-Nếu có kết quả 122/80mmHg nhịp tim 120, đường huyết 300mg/dl, nhiêt độ chỉ low thấp chân tay lạnh
Giải thích :
Nhịp tim cao là trong người nóng nhiệt khô môi họng lở lưỡi, mà nhiệt độ ngoài da chân tay lạnh, đông y gọi là âm hư nội nhiệt là mất máu, đường huyết cao 300mg/dl nếu là đường dương phải làm chân tay nóng ấm, thì ngược lại chân tay lạnh thì đường này không do thức ăn, cũng không uống thêm đường , đường cao mà sụt cân, là đường trong cơ bắp, trong thịt mất đi, thì đây là áp huyết giả, tây y thấy nhịp tim cao 120 chân tay lạnh thì không phải sốt.
Nếu một người khỏe mạnh trung niên thì nhịp tim chỉ cao 75, nhưng vì thiếu máu nhịp tim phải làm việc nhanh nên nhịp tim cao 120 là cao hơn tiêu chuẩn tuổi 120-75=45 nhịp, lấy số áp huyết tâm thu 122 trừ cho 45 thì áp huyết tâm thu thật sẽ là 77mmHg là ung thư giai đoạn cuối.
Tại sao, vì kiêng không ăn đường , sợ bệnh tiểu đường, thì tim phổi vẫn phải lấy đường dự trữ và đường trong cơ bắp, cơ bụng ra để có đường duy trì cho tim phổi hoạt động, bao tử teo do ăn kiêng không thể chứa nhiều lượng thức ăn, mà đường huyết cao là cơ thể bị mất đường mà các bác sĩ nếu hiểu nguyên nhân thiếu đường thì phải tiêm đường glucoza thay vì tiêm insulin để cân bằng đường, vì tiêm insulin là làm đường huyết tụt mà nó lại không tụt, ngược lại cơ thể chống lại để duy trì sự sống tiếp tục hoạt động, nếu không tim phổi không hoạt động, nên thay vì ngừng đập ngưng thở mà trong cơ thể còn da thịt xương thì phải rút tàn lực ra hết cho tim phổi tiếp tục duy trì cuộc sống, như vậy không phải là kháng insulin.
Cách giải quyết :
Muốn tạo máu để máu nuôi thịt tăng cân thì cần phải bổ sung nhiều protein, và cần nhiều đường chuyển hóa protein thành máu
Chúng ta hãy thừ nhiều cách :
Ăn uống nhiều sữa đặc Ông Thọ giống như em bé mới sinh không đủ sữa mẹ, chỉ pha sữa đặc Ông Thọ mà cơ thể vẫn phát triển tăng cân, khỏe mạnh, thì mỗi ngày từ sáng đến tối dùng hết hộp sữa Ông Thọ ăn với bánh mì, ngay sau khi ăn nằm úp bao tử đè lên chai nước nóng 40 độ trong 30 phút cho chuyển hóa thức ăn thành máu. Sau 30 phút đo lại áp huyết, sẽ biết sữa đi đâu, nó làm nhịp tim giảm xuống còn 100, còn tâm thu như cũ, khi đổi sang áp huyết thật thì nhịp tim 100 là đã đập nhanh hơn 25 nhịp so với tiêu chuẩn khỏe 75 nhịp
Lấy số tâm thu 122 trừ cho 25 thì tâm thu thật là 97 là thoát khỏi ung thư, những tế bào đã bị ung thư không muốn cho chúng dành ăn máu và đường thì uống 1 thìa baking soda pha 5 thìa đường, để thay đổi môi trương máu có pH acid như pH 5 là môi trường thuận tiên cho tế bào ung thư phát triển toàn thân, mỗi ngày sau khi ăn làm tăng máu, tăng khí giảm nhịp tim để nuôi tế bào lành, xong 2 tiếng thì lại uống 1 thìa baking soda phạ 5-10 thìa cà phê đường cho tế bào ung thư ăn chất kiềm tự nhiên chết khi pH nước bọt của cơ thể ngày nào cũng trong tiêu chuẩn pH 6.5-7.0, và cơ thể mỗi ngày mỗi tăng cân da thịt hồng hào, thì khỏi bệnh ung thư

e-Nếu áp huyết 110/60mmHg nhịp tim 70 đường huyết 90mg/dl, nhiệt độ 3 nơi 36 độ C. và uống thật nhiều đường bị nôn ói.
Giải thích
Do kiêng sợ đường, sợ bị tiểu đường, lại ăn ít tinh bột, do tây y xúi dại, nên không đủ đường chuyển hóa thức ăn, không ăn tinh bột, kiêng chất béo, ăn rau củ quả, bị sụt cân, thức ăn không tiêu hóa hết do thiếu đường, lâu ngày thức ăn kết thành cục tròn thành bã thức ăn, hay ăn thịt nhai không kỹ không xé nhỏ, thiếu đường thì thức ăn không tiêu, mỗi khí ăn hay uống gì cũng ói nôn ra là trào ngược do bã thức ăn chặn môn vị thông xuống ruột non, nên dù uống bao nhiêu đường với nước chỉ làm bụng đầy căng tức rồi nôn ói ra
Cách giải quyết :
Uống 1 thìa cà phê baking soda pha 10 thìa đường, nằm úp bao tử đè lên chai nước nóng 40 độ C 30 phút rồi tập bài Thụt Dầu 10-20 lần cho 2 đầu gối chụm lại khi ngồi xuống cho 2 đầu gối chạm vào cằm. là đang ép thức ăn trong bao tử co bóp thức ăn, sẽ có 2 kết quả, một nửa thức ăn trong bao tử nôn ọc ra khỏi miệng toàn là bà thức ăn cũ đóng cục có chất nhầy và đủ mầu nâu, đen, thối, một nửa đi theo đường phân,
Sau đó ăn bánh mì chấm sữa đặc Ông Thọ, sau 2 tiếng lại xúc bao tử và ruột bằng baking soda, nằm úp bao tử lên chai nước nóng sau 30 phút tập bài Thụt Dầu, khi hết nôn ói là thức ăn trong bao tử đã thông , đo lại áp huyết và đường huyết đã tăng, nhịp tim tăng trở về áp huyết tiêu chuẩn tuổi là khỏi bệnh

Kết luận
Như vậy tiêu chuẩn đường huyết của tây y thấp khiến nhiều người bị nhiều bệnh oan về tiêu hóa mới gây ra bệnh tim mạch, áp huyết, đường huyết, sụt cân, mệt mỏi, mất tri nhớ, yếu sức, suy nhược, ung thư
Không có bệnh tiểu đường hay đổ thừa cơ thể không có đủ insulin mà xếp vào bệnh tiểu đường loại 1, loại 2.
Nếu chúng ta nghe giảng kỹ về lý thuyết đường huyết và insulin thì khị thức ăn được nhai kỹ trước khi nuốt là cơ thể đã biết đường trong thức ăn là bao nhiêu rồi , nó báo cho tuyến tụy sản xuất ra lượng insulin tương đương, cũng lấy từ thức ăn sản xuất ra, để nó có nhiệm vụ tiếp theo là dẫn máu dẫn đường đi nuôi tế bào, và cân bằng đường huyết đủ cho tim phổi não hoạt động, nên không ai bị bệnh tiểu đường cả.
Cứ theo giáo sư bác sĩ Phạm Hiếu Liêm đường cao 200mg/dl cũng chưa phải bệnh tiểu đường. Còn theo Y Học Bổ Sung Khí Công Y Đạo đường cao, thừa đường thỉ béo phì thì tập khí công cho tiêu bớt đường thì hết béo phì, nhưng nếu tập nhiều quá bị sụt cân làm cơ thể mất đường, mất thịt sụt cân làm tăng đường huyết âm thì lại uống đường dương cho tăng cân trở lại, thì không cần quan tâm đến insulin trong người làm gì, vì chính tập thể dục hay lao động chân tay nặng cũng làm hạ đường huyết, thì việc gì mà phải uống thuốc hạ đường để dẵn đến tình trạng đối đầu kháng insulin.

(tiếp theo PHẦN 11)
Vì khi đường cao chỉ tập khí công đường huyết xuống không cần insulin, nhưng nếu tập nhiều thì mất calo là mất thịt tăng đường âm, tiêm insulin mà đường không xuống lại đổ thừa kháng insulin là sai, cơ thể phải chống lại thuốc tiêm insulin là kẻ thù khiến bệnh nhân càng mất đường từ da thịt sụt cân nhiều là phản ứng tự nhiên. Đó là cơ thể bị tiêm insulin đến mức sụt cân thì nó kháng lại không muốn cho tiêm nữa thì tây y lại đổ thừa kháng insulin. Bây giờ ngoài cơ thể kháng tiêm insulin, đã đến lúc con người cũng phải kháng lại cách chữa tiểu đường sai của tây y vì đây là trò lừa gạt bệnh tiểu đường để kiếm tiền
Các bộ lạc xa đời sống văn minh có bao giờ phải nghĩ đến tiểu đường và thuốc insulin là gì đâu mà họ vẫn khỏe mạnh sống thọ chính là ăn nhiều làm nhiều, tiêu hóa nhiều chuyển hóa nhiều thì làm gì mà có bệnh tiểu đường và kháng insulin.
Riêng cá nhân tôi đường huyết của tôi mỗi ngày giao động 140-300mg/dl từ năm 1979, không bị áp huyết cao, không bị béo phì, không bị tim mạch, không bị tiểu đường, không bị mỡ máu cao, không bị tiểu đêm, không bị bệnh thận vì không theo tây y không bị lừa gạt bằng bảng tiêu chuẩn đường huyết thấp của tây y.
Giả sử tôi nghiên cứu được những bệnh do túi mật gây ra hậu quà nhiều bệnh, vàng da, ung thư gan, tiêu hóa kém… tôi tìm ra thuốc chữa bệnh túi mật, rồi hù dọa mọi người về những bệnh nguy hiểm của túi mật để bắt mọi người sơ phải uống thuốc chữa bệnh túi mật suốt đời, bỗng nhiên có người bảo không ai bệnh túi mật cả, cứ cắt bỏ túi mật là xong , không có túi mật đã không chết mà khỏi phải uống thuốc chữa bệnh túi mật làm gì, thì bệnh tiểu đường thật ra cũng vậy, cả ngàn năm trước trong đông y không có bệnh tiểu đường và bệnh áp huyết thế mà chúng ta cũng đã bị hù dọa gần 100 năm rồi mà vẫn chua tỉnh ngộ sao đợi đến bao giờ..

(tiếp theo PHẦN 11)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 4 30, 2025 10:21 am

PHẦN 11.
NHÌN SỐ NÀO CỦA ÁP HUYẾT BIẾT CƠ THỂ CÓ THIẾU ĐƯỜNG HAY KHÔNG
https://youtu.be/1UVuwVirGi0

I-Theo lý thuyết tây y :
1-Các tế bào trong cơ thể phải được nuôi bằng 4 chất từ thức ăn mỗi ngày vào bao tử được chuyển hóa gồm glucose, protein, lipid, oxy, và theo tây y giải thích sự phối hợp 4 chất này tạo ra năng lượng hay chất bổ giúp duy trì sức khỏe cho cơ thể phát triển và bảo vệ cơ thể chống lại bệnh tật.
Trong cơ thể chúng ta có khoảng 30-40 ngàn tỷ tế bào, tế bào nào cũng có glucose là 1 trong 4 chất không thể thiếu.
2-Tất cả các loại thức ăn vào cơ thể đi qua miệng phải được nhai kỹ xé nhỏ cho thành từng viên tròn nhỏ được tuyến nước bọt thuộc tuyến tụy hòa trộn làm cho chúng ta cảm nhận được vị ngọt của thức ăn, thì tuyến tụy cũng đã biết tổng số lượng thức ăn nuốt vào có bao nhiêu đường để nó sản xuất ra insulin tương đương để khi thức ăn biến thành máu, insulin sẽ cân bằng lượng đường trong máu thích hợp rồi dẫn đường và máu đi nuôi khắp các tế bào trong cơ thể.
3-Tất cả các thực phẩm, tinh bột, trái cây rau củ quả và các loại chất ngọt của các loại đường khi vào cơ thể đều được các enzymes chuyển đổi thành glucose.
4-Nếu trong gan nhờ các bữa ăn nào thừa đường, thì được gan chuyển đổi đường glucose dư thừa thành 100g mỡ, còn thừa nữa thì đổi thành đường dự trữ mang tên glycogen. Đó là lý do tây y nói cơ thể thừa đường thì béo phì, vừa dư mỡ vừa dư thịt nở cơ bắp, mỡ bụng
5-Trong trường hợp lượng thức ăn nhiều mà thiếu glucose để kết hợp với protein thành máu, thì nó báo cho gan cung cấp đường cho đủ để dẫn đường dẫn máu đi nuôi tế bào. Lúc đó gan lại chuyển đổi glycogen thành glucose cho insulin làm nhiệm vụ dẫn máu và đường đi nuoi tế bào. Lúc đó có 3 trường hợp xẩy ra cho gan :
a-Gan thừa glycogen thì chuyển thành glucose cho insulin dẫn máu và đường đi nuôi tế bào.
b-Gan hết đường dự trữ glycogen thì chuyển mỡ thành đường glucose cho insulin cân bằng.
c-Nếu cơ thể hết mỡ, thỉ chuyển đường trong các cơ bắp, trong xương, thịt thành đường cho insulin dẫn máu và đường đi nuôi tế bào, lúc đó cơ thể không phải thừa đường béo phì mà cơ thể giảm mất mỡ, rồi giảm mất thịt, teo cơ, bị sụt cân. Khi cơ thịt mất đi thì chất creatin trong cơ bắp bị loại bỏ theo nước tiểu chuyển thành creatinine cao sẽ bị suy thận.

II-Theo lý thuyết đông y.
Thầy thuốc đông y không biết gì về insulin dẫn máu dẫn đường đi nuôi các tế bào trong cơ thể. Chỉ biết sức khỏe con người đều lệ thuộc vào 3 yếu tố tinh-khí-thần, được giải thích bằng con số cụ thể qua máy đo áp huyết của tây y như sau :
KHÍ là tổng số oxy là lực bơm máu tuần hòan của cơ thể mạnh hay yếu so với tiêu chuẩn tuổi, mạnh hơn thì gọi là khí tâm thu thực, sinh ra bệnh cao áp huyết, giống như lốp xe, khí trong lốp xe bơm thừa khí căng quá sẽ nổ lốp, bơm non hơi thì thiếu khí, lốp xe bị xẹp không đi được sẽ bị rách thủng lốp.
Thí dụ lấy số đo áp huyết tiêu chuẩn của người tuổi trung niên 41-59 tuổi
Tâm thu 120-130/tâm trương 70-80mmHg nhịp tim 70-75
a-Nếu tâm thu cao hơn như 140mmHg gọi là khí thực (khí thừa)
b-Nếu tâm thu thấp hơn như 110mmHg gọi là khí hư (khí thiếu)
TINH chỉ lượng thức ăn vào trong bao tử, đo áp huyết tâm trương tay trái có thể thấy được bằng con số áp huyết tâm trương :
a-Nếu tâm trương cao như 90mmHg là lượng thức ăn nhiều
b-Nếu tâm trương thấp như 60mmHg là lượng thức ăn ít không đủ biến thành máu
TINH chỉ lượng máu chứa trong gan sau khi ăn :
Thức ăn có chất bổ tạo máu hay không thì thấy được qua con số tâm trương đo bên tay phải :
a-Nếu tâm trương đo bên tay phải cao 90mmHg là thừa máu và mỡ
b-Nếu tâm trương đo bên tay phải trong tiêu chuẩn 70-80mmHg là đủ máu mỡ không thừa không thiếu
c-Nếu tâm trương đo bên tay phải thấp 65mmHg là gan thiếu máu
SO SÁNH TÂM THU 2 TAY biết cơ thể tăng cân hay mất máu sụt cân.
a-Nếu tâm trương tay phải trước khi ăn 70mmHg, sau khi ăn tăng 75mmHg là trong thức ăn có chất bổ máu.
b-Nếu tâm trương tay phải trước khi ăn 70mmHg, sau khi ăn giảm còn 65mmHg là trong gan mất máu, thì tâm trương bên trái cao là lượng thức ăn nhiều như ăn bún nhiều mà không có chất bổ máu.
c-Nếu tâm trương tay phải trước khi ăn 80mmHg, sau khi ăn, hay nhịn ăn, tâm trương giảm còn 70mmHg là mất máu và mỡ, giảm cân.
d-Sau khi nhịn ăn, tâm trương tay phải giảm dần còn 60mmHg, làm sụt cân, giảm dần xuống 55, hay 50mmHg là người gầy, thiếu máu trầm trọng, gây ra nhiều bệnh nan y và ung thư.
e-Sau khi nhịn ăn, đường huyết thấp, thức ăn vào không đủ đường chuyển hóa thành máu thì biến thành mỡ trong gan trong bụng, thí dụ như
áp huyết tay trái 110/75/63, tay phải 111/68/63, đường huyết 5,4 mmol/l, nhiệt độ tay chân thấp 35 độ C
Áp huyết 2 tay gần bằng nhau là không chuyển hóa, đường thấp và nhịp tim thấp thì bao tử lạnh và không co bóp, tốc độ bơm máu chậm, máu đặc, thức ăn không biến thành máu mà thành mỡ, sẽ bị thiếu máu cơ tim cục bộ và bị mỡ máu cao, xơ vữa động mạch
THẦN là nhịp tim.
Theo đông y, cơ thể có đủ máu gọi là âm, nhìn vào tâm trương tay phải, có âm mới làm tăng khí gọi là dương,nhìn vào số tâm thu trong tiêu chuẩn, đông y gọi là âm dương hòa hợp thì con người khỏe mạnh da thịt tươi nhuận sắc mặt hồng hào, cơ thể ấm áp không nóng không lạnh thì có nhịp tim trong tiêu chuẩn ở tuổi trung niên là 70-75, ở tuổi lão niên trên 60 tuổi có nhịp tin 70-80
Như vậy ai ở tuổi trung niên có áp huyết tiêu chuẩn Tâm thu 120-130/tâm trương 70-80mmHg nhịp tim 70-75 là người có đủ tinh-khí-thần hòa hợp.

Kết luận :
Những ai dù bất cứ hạn tuổi nào, đều có áp huyết trong tiêu chuẩn tuổi gọi là tinh-khí-thần hòa hợp thì, không cần ăn thêm đường, dù đường huyết bao nhiêu cũng không có bệnh tiểu đường.
Tiêu chuẩn áp huyết.JPG
Tiêu chuẩn áp huyết.JPG (160.86 KiB) Đã xem 17783 lần


III-NGUYÊN NHÂN TẠI SAO BỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
Như lý thuyết của tây y, trong thức ăn khi vào cơ thể đều được chuyển hóa thành đường glucose, tạo ra năng lượng ATP, tạo ra máu, ra mỡ, tạo ra sức khỏe, ngày ăn 3 bữa thực phẩm, nuôi tế bào mỗi ngày 3 lần, sau 4 tiếng, thức ăn được tiêu hóa hết, thì tế bào lại thiếu glucose, protein. lipid, oxy, thì làm gì còn dư thừa glucose trong thức ăn. Do đó trước kia mọi người không hề biết đến bệnh tiểu đường.
Từ khi khoa học phát minh ra máy thử đường, thì đo đường trong cơm gao, canh rau củ quả, chất đạm, chất béo bình thường như mọi ngày, không cần biết đường cao bao nhiêu, vẫn thấy khỏe.
Từ khi có lý thuyết insulin cân bằng đường, thì tây y mới tìm ra tiêu chuẩn đường khi đói, khi no khác nhau mà con người vẫn khỏe mạnh không bênh tật thì đếu có đường huyết khi đói 140mg/dl hay 8mmol/l, khi no sau khi ăn 30 phút đường huyết phải cao 200mg/dl hay 11mmol/l, đây là thời kỳ khoa học đang phát triển, mới chứng minh được lý thuyết tế bào tại sao cần phải nhiều đường để làm rõ lý thuyết tế bào cần 4 chất quan trọng là glucose, protein, lipid, oxy, cần nhiều đường mới đủ nuôi hơn 30 ngàn tỷ tế bào.
Nhưng khi đạo đức ngành y xuống dốc do lòng tham lợi nhuận, họ có kế hoạch tinh vi để lừa gạt chúng ta lọt bẫy tiểu đường từng giai đoạn :
a-Họ áp đặt tiêu chuẩn đường huyết xuống thấp từ 3.9-5.9mmol/l hay 70-100mg/dl, thay vì tiêu chuẩn cũ của Y Tế Thế Giới năn 1979, khi đói 140mg/dl, khi no 200mg/dl, và xét nghiệm máu 3 tháng HbA1C 8%
b-Họ hù dọa cho rằng ăn nhiều cơm gạo tinh bột thì đường mới cao, người sẽ béo phì, đạo đức giả sợ những người béo phì sẽ có nhiều bệnh, nên khuyên ăn ít tinh bột, trong khi chính tinh bột đường mới là quan trọng khi ăn nhiều cơm gạo làm chắc da chắc thịt khỏe mạnh, khác với ăn nhiều bánh kẹo làm tăng đường mà không sinh ra da thịt khí huyết mới bị bệnh, và cứ ăn nhiều cơm là cho rằng bệnh đường huyết cao, chính vì kiêng ăn tinh bột, cơm gạo người gầy ốm dần sức khỏe yếu kém sinh ra nhiều bệnh tật, họ lại tuyên truyền do ăn nhiều đường phải uống thuốc hạ đường.
c-Họ đặt ra cách thử xét nghiệm 3 tháng về đường huyết HbA1C cho tiêu chuẩn xuống thấp còn 5%, thay vì 8% như cũ.
Họ hại chúng ta lần thứ nhất kiêng ăn tinh bột, khiến sức khỏe chúng ta giảm dần, lần thứ hai, áp đặt tiêu chuẩn đường huyết thấp tạo ra bệnh tiểu đường.
d-Họ hại chúng ta lần thứ ba bắt dùng thuốc hạ đường huyết.
e-Lần thứ tư hù dọa cơ thể kháng insulin.
g-Lần thứ năm lại lấy tiêu chuẩn thử HbA1C, và kết quả thử đường trên ngón tay, thấy đường cao, do kháng insulin là đường trong cơ thể bị mất đi làm cơ thể mất thịt sụt cân là thiếu đường trầm trọng, chữa bằng cách càng tiêm insulin thì đường huyết tăng cao HI mà bệnh nhân còn da còn thịt thì chưa chết, cho đến khi gầy trơ xương cơ thể không còn đường đối kháng tim ngừng đập, phổi ngưng thở, thì họ chối bỏ trách nhiệm bằng cách kết luận bệnh nhân chết vì đường huyết cao, chứ không phải chết vì chữa sai, thay vì phải tiêm đường glucoza, họ lại tiêm insulin mà đường huyết không xuống, lại là cách hù ai có đường cao trước sau cũng bị chết về bệnh tiểu đường kháng insulin, nên mọi người sọ bị bệnh tiểu đường, càng tìm cách ăn ít tinh bột, kiêng ăn ngọt bánh kẹo trái cây, rủ nhau ăn rau củ quả, thiếu đường cho tim phổi hoạt động chết âm thầm trong lúc ngủ đêm tại nhà nhiều hơn những người đang chữa bệnh tiểu đường.
Qua gần 100 năm ngành tây y phát triển về kinh doanh thu lợi nhuận nhiều hơn là bảo vệ sức khỏe cho con người, nếu thống kê nhân số, thì trước năm 1979 nói về số người chết ít hơn, kể cả các người bệnh về sức khỏe, nhưng ngày nay mỗi năm ngành y thống kế số người chết về bệnh cao áp huyết, người chết về bệnh tiểu đường, về ung thư càng ngày càng tăng, mặc dù đã dùng thuốc hạ đường hạ áp huyết…mà sao kết quả vẫn nghịch lý. Như vậy chúng ta đã biết nguyên nhân tại sao rồi.
1-Nguyên nhân thứ nhất : vì kiêng ăn tinh bột đường
Không đủ đường trong tinh bột đường kết hợp với protein để biến thành máu
2-Khuyến khích ăn nhiều rau của quả là đường không có calo
Nghe có vẻ hợp lý, nhưng trong rau củ quả không có protein làm sao kết hợp glucose với protein thành máu
3-Cơ thể thiếu đường, sẽ bị mở máu cao
Do kiêng tinh bột đường, kiêng protein, thì thức ăn không biến thành máu mà biến thành mỡ, nên khi thử máu, những ai có đường huyết nằm trong tiêu chuẩn thấp, như 4-5.0mmol/l thì dều có kết quả mỡ máu cao hơn tiêu chuẩn, ngược lại xét nghiệm máu không bị mỡ máu cao, thì có kết quả đường huyết cao hơn tiêu chuẩn xét nghiệm là tốt
4-Khuyến khích dùng thuốc hạ đường metformin, chỉ hạ đường thì mỡ máu vẫn cao, nhưng thiếu máu thiếu hồng cầu
Hậu quả :
4 chất quan trọng không đủ tiêu chuẩn để nuôi tế bào, nên gây ra bệnh thiếu máu, thiếu đường là thiếu nhiệt lượng, đường trong rau củ quả là đường làm giảm nhịp tim, người lạnh, một là tăng cân thừa mỡ béo phì, nhưng thiếu máu, hai là kháng insulin người gầy, suy tim gan nhiễm mỡ, suy thận, suy hô hấp, khi gan nhiễm toan thì pH acid gây ung thư do cơ thể suy nhược, suy dinh dưỡng thiếu đường, thiếu máu, thiếu khí, thiếu nhiệt lượng, bệnh tim mạch áp huyết cao hay thấp, mất trí nhớ, mờ mắt hay mù mắt, hoại tử.. là những tên bệnh do hậu quả thiếu đường.

IV-TRƯỜNG HỢP NÀO CẦN UỐNG ĐƯỜNG VÀ KHÔNG UỐNG ĐƯỜNG
1-Không cần uống đường, và không cần uống thuốc hạ đường
Ăn uống đầy đủ chất, theo dõi áp huyết trước khi ăn, sau khi ăn, đo áp huyết 2 tay, đều nằm trong tiêu chuẩn tuổi đói, no, nhịp tim trong tiêu chuẩn 70-80, nhiệt độ đo trên trán, đầu ngón tay út trái, đầu ngón chân út trái trong tiêu chuẩn 36-36.5 độ C, cân nặng trong tiêu chuẩn tuổi như chiều cao 1.60m thì cân nặng 60kg gia giảm nặng hơn hay nhẹ hơn 1kg, thì dù đường do bao nhiêu cũng bình thường vì sau 4 tiếng đường xuồng thấp, không cần uống thêm đường hay không cần lo bệnh tiểu đường.
2-Phân biệt đường đang thấp tự nhiên cao, có 2 trường hợp khác nhau :
a-Sau khi ăn 4 tiếng, bụng rỗng, đường huyết thấp, tự nhiên tăng vọt là cơ thể thiếu đường dương nuôi tim phổi, nên cơ thể phải tạm rút đường dự trữ, mình phải ăn thêm bánh mì chấm sữa đặc Ông Thọ để bù lại đường cơ thể bị mất, gọi nôm na là đường trả nợ để khỏi bị sụt cân.
b-Sau khi ăn đo đường thấp là đường trong thức ăn chưa chuyển hóa xuống ruột, vì thức ăn có nhiều chất rắn, chuyển hóa chậm, sau khi thức ăn chuyển hóa hết trong bao tử xuống ruột thì đường huyết mới tăng là tự nhiên, miễn sao áp huyết, nhịp tim, nhiệt độ trong tiêu chuẩn thì đường cao hay thấp không quan tâm
3-Cần uống đường trong các trường hợp sau :
a-Áp huyết thấp cả 3 số, so với tiêu chuẩn tuổi.
Nguyên nhân kiêng ăn, ăn ít, kiêng đường là thiếu glucose và thiếu tinh bột đường, thiếu chất béo, có nhịp tim thấp , nhiệt độ tay chân thấp
b-Áp huyết tâm thu, tâm trương cao mà nhịp tim thấp, có nghĩa không đủ đường cho bao tử co bóp thức ăn thì thức ăn trong bao tử lên men tăng ga ợ hơi là tăng áp huyết, nguyên nhân nhịp tim thấp, nhiệt độ chân tay thấp
c-Áp huyết tâm thu thấp, tâm trương tay trái cao, nhịp tim thấp, đường huyết thấp. Uống thêm đường rồi tập bài Thụt Dầu tối đa 20 lần để cơ thể hấp thụ đường chuyển hóa hết thức ăn trong bao tử sẽ làm tăng tâm thu, giảm tâm trương và tăng nhịp tim, không được tập nhiều lại làm tụt mất đường làm rối loạn áp huyết lọt ra ngoài tiêu chuẩn.
d-Áp huyết tâm thu cao, tâm trương cao, đường huyết cao 300-400mg/dl, nhiệt độ đầu ngón chân út thấp dưới 36 độ hay máy đo chỉ low, là đường âm, không chuyển hóa được thức ăn trong bao tử, cần uống 20 thìa đường cát vàng, nằm úp bao tử lên chai nước nóng 40 độ C trong 30 phút, thì áp huyết xuống nhịp tim tăng.
e-Lấy bàn tay sờ trán tay lạnh hơn trán, hay chân tay lạnh, uống 10 thìa đường, nằm úp bao tử lên chai nước nóng 30 phút rồi tập bài Thụt Dầu, nếu áp huyết thấp, hay bài Đi Con Vịt, nếu áp huyết cao, nhưng chân tay sẽ tăng nhiệt, ấm người.
g-Đêm ngủ không ngon trước khi đi ngủ uống 10 thìa đường, hay uống 3 thìa canh sữa đặc Ông Thọ pha 6 thìa cà phê đường cát vàng, bao tử sẽ chuyển hóa sữa protein và đường thành máu làm tăng số tâm trương tay phải và ngủ ngon.
h-Nếu hay đi tiểu đêm, trước khi đi ngủ uống 10 thìa đường thì hết đi tiểu đêm
i-Đêm đổ mồ hôi lạnh cũng uống 10 thìa đường làm tăng dương khóa lỗ chân lông người ấm nóng hết ra mồ hôi. Đường thấp, người lạnh làm phổi ho do lạnh
k-Những ai bị chảy mồ hôi tay, do thiếu đường uống 10 thìa cà phê đường cát vàng và nhúng bàn tay vào thau nước pha 5 thìa đường trong 15-30 phút rồi lau khô bàn tay, sẽ không thấy mồ hôi tay .
l-Khi đứng lên ngồi xuống bị chóng mặt do thiếu đường, uống 10 thìa cà phê đường tập lại bài đứng lên ngồi xuống hết chóng mặt.
m-Ai hay ngáp là bao tử hàn lạnh do thiếu đường, hay buồn ngủ gục ban ngày hay lái xe bị buồn ngủ do thiếu đường uống ngay 10 thìa đường sẽ tỉnh ngủ.
n-Ai say tầu xe, hay buồn nôn, chóng mặt uống 10 thìa đường
o-Ai nằm rồi ngồi dậy bị chóng mặt do thiếu máu, ăn sữa đặc Ông Thọ 4 thìa canh pha 8 thìa cà phê đường cát vàng sẽ bổ máu tăng tâm trương tay phải
p-Thí dụ : Áp huyết 2 tay gần bằng nhau là không chuyển hóa, đường thấp và nhịp tim thấp thì bao tử lạnh và không co bóp, tốc độ bơm máu chậm, máu đặc, thức ăn không biến thành máu mà thành mỡ, sẽ bị thiếu máu cơ tim cục bộ và bị mỡ máu cao, xơ vữa động mạch
Như người này phải uống nhiều đường rồi tập bài Thụt Dầu cho tăng áp huyết , tiêu mỡ, tăng máu, tăng tốc độ bơm máu sẽ tan mỡ bụng, không bị xơ vữa động mạch, không bị thiếu máu cơ tim cục bộ
q-Mọi người thắc mắc chưa phân biệt được đường dương, đường âm.
Đường âm làm hạ nhiệt độ, làm hạ nhịp tim, đường huyết cao -300mg/dl mà nhiệt độ người lạnh thấp dưới 36 độ C, làm hạ nhịp tim, là cơ thể đang thiếu đường dương mà thừa đường âm, bị tây y chữa làm tiêm insulin thì bị kháng insulin, thay vì phải tiêm đường glucoza
Đường dương làm tăng nhịp tim, tăng nhiệt độ và làm giảm đường âm. Thí dụ uống 10 thìa đường cát vàng làm tăng đường dương lên +100mg/dl, thì sau khi uống đường từ -300mg/dl xuống còn -200mg/dl mà nhịp tim vẫn thấp, nhiệt độ vẫn chưa lên 36 độ C, nếu thiếu máu nhịp tim cao 100, thì đường dương chuyển hóa thức ăn thành máu thì nhịp tim xuống thấp còn 90, nhưng kết quả cơ thể vẫn còn là đường huyết âm. Nếu là ung thư thì pH nước bọt là acid, và đường cát trắng là âm, có pH acid, nên tây y cho rằng đường gây ra ung thư là đường cát trắng và đường của rau củ quả không có calo..

(tiếp theo PHẦN 12)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 5 06, 2025 4:58 pm

PHẦN 12
GLUCOSE VÀ PHOSPHORE CÙNGTẠO NĂNG LƯỢNG CHO SỨC KHỎE CON NGƯỜI

https://youtu.be/y41RxyHEntk

I-Các loại năng lượng trong cơ thể.
Theo tây y, tế bào gồm 4 chất là Glucose, protein, lipid, oxy có trong thức ăn, chúng kết hợp thành glycoprotein thành máu, glycolipid, thành mỡ đi nuôi các tế bào, còn thừa tinh bột là glucid, glucogen, protein, lipid là năng lượng dự trữ để phòng bệnh và cho cơ thể hoạt động thể lực hay cho công việc lao động hàng ngày.
Năng lượng còn dư thừa sẽ được hai trái thận lọc lấy rồi chuyển sang thành năng lượng dự trữ gồm 4 năng lượng chính :

1- Năng lượng đạm (protein) dự trữ dưới dạng "sợi cơ, mỡ", những sợi cơ này kết thành từng bó cơ, nếu protein dự trữ nhiều thì cơ bắp trương nở mập lên (nhiều quá gọi là béo phì) còn ngược lại, thiếu năng lượng dự trữ sẽ ốm xuống, người có protein ổn định sẽ có số cân ổn định, Chất đạm đạm nuôi sống 50% tế bao và sau một ngày lao động nếu còn dư thừa sẽ chuyển đang dự trữ dưới dạng sợi cơ mỡ = 50%

2- Năng lượng Tinh bột (Glucid) dự trữ dạng "sợi cơ đường xen kẻ với cơ mỡ hình thành hệ thống cơ bắp, năng lượng Glucid. nuôi sống 50% tế bao và sau một ngày lao động nếu còn dư thừa thì chuyển vào dự trữ sẽ làm trương nở cơ bắp lớn lên, ngược lai, năng lượng Glucid thiếu thì ốm. Những người kiêng ăn cơm nhiều là thiếu đường tinh bột, đường trong tinh bột giữ đường huyết ổn định lâu bền không bị tụt đường huyết nhanh



Trọng lượng cơ thể duy trì số cân (số kg) ổn định là 2 năng lượng tinh bột và năng lượng đạm 50/50% rất ít xảy ra đau bệnh nếu có chỉ là bệnh nhẹ thông thường dễ chữa trị mỗi khi thời tiết thay đổi.
Nếu cơ thể tăng hoặc giảm cân nhanh cho biết hệ thống năng lượng dự trữ này biến động là do nguồn thức ăn không đáp ứng đủ số lượng cần thiết, là hai biên độ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.

3- Năng lượng chất béo (Lipid) dự trữ dạng mỡ chứa trong vùng bụng, dưới da và một ít lưu thông máu, chất béo là nguồn "chất đốt" tạo ra nhiệt lượng cung cấp cho cơ thể, nếu ăn thiếu chất béo buộc cơ thể phải xử dụng năng lượng đạm làm thay chất đốt và đây là nguyên nhân con người ăn nhiều thịt vô tình gây biến động đến cơ bắp, thiếu béo, thiếu đạm là nguyên nhân gây ra chuỗi bệnh mãn tính kể cả tiểu đường do thiếu chất béo gây ra ngược lại, thừa chất béo sẽ kích thích tế bào tủy tiến hóa và như vậy sẽ làm tăng đường huyết lên cao để giải nhiệt cho bộ não, lộ trình tiến hóa là một bí mật của tủy và não nhưng y học "đóng cửa" này rồi phán đường huyết cao, bệnh tiểu đường?

4/ Năng lượng đường (Glucoza) hay đường dự trữ glycogen trong Gan, thiếu đường thì gan sẽ bị đau nếu cạn đường thì Gan bị chết, dường dư thừa sẽ xảy ra 1 trong 2 nguyên nhân sau:
a- Tiểu đường đối với người không sử dụng bộ não tư duy, làm việc bằng trí óc.
b- Đường là năng lượng thực vật là năng lượng chính cua bộ não vận động, theo lý thuyết tây y, cơ thể mỗi ngày cần 180g glucose, trong đó có 36g cho tim hoạt động, còn 144g cho não hoạt động, đường cho não hoạt động là năng lượng cho bạch cầu chống nhiễm trùng do đó, người làm việc trí não rất cần ăn ngọt, cho nên người ăn nhiều đường sẽ nhanh thiếu nhiều và con người không thể nào ăn đủ đường cho não, do đó, mỗi khi não tư duy sâu sẽ cắt hủy cơ đường gây đau và bệnh ung thư giải đoạn cuối chửa trị không được là do mất quân bình giữa cơ đường với kiêng đường, dẫn đến kết cuộc bi thảm của chứng bệnh gọi là ung thư. Như vậy, đường như con dao hai lưỡi, phải biết cách ăn và kiểm soát nếu không sẽ hại hơn lợi!
5-Năng lượng ATP và ADP
Nhưng mặt khác, trong mỗi tế bào đều có sự tồn tại một chất gọi là Adenosine là một nucleoside cũng là một loại năng lượng khác từ sự kết hợp giữa một base purine là adenine và một phân tử đường D-ribose gọi là đường 5 carbone cũng từ glucose thủy phân thông qua liên kết N-glycosidic với chất phosphore trong thực phẩm.
Adenosine tồn tại trong cơ thể có nhiều nhóm, nhóm chứa 1 phosphate gọi năng lượng AMP gọi là adenosine monophosphate, năng lượng ADP chứa 2 phophate gọi là adenosine diphosphate, năng lượng ATP chứa 3 phosphate gọi là adenosine triphosphate, hoặc ở trạng tự do không mang phosphate, không trực tiếp tham gia vào quá trình tổng hợp acid nucleic nhưng lại giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động tế bào và truyền tín hiệu nội bào và ngoại bào. .
Như vậy vai trò tạo ATP cũng cần những thức ăn có nhiều chất phosphore như :
Các loại thực phẩm thông dụng giàu phosphore
Các thực phẩm thông dụng có chứa phosphore Nguồn: Bộ Y tế

image.jpeg
image.jpeg (54.77 KiB) Đã xem 15633 lần


Nhu cầu của cơ thể cần phosphore mỗi ngày :
Từ 10-19 tuổi 1250mg/ngày
Từ 20 đến già 700mg/ngày, chỉ cần mỗi ngày ăn 100g sữa bột đã có 790-980mg, hay canh lá lốt 100g đã có 980mg.
a-Công dụng chữa bệnh của phosphore
-Phốt pho rất cần thiết cho cấu trúc và chức năng của tế bào. Phốt pho là một phần của phospholipid, là thành phần chính của màng tế bào, cung cấp sự ổn định và điều chỉnh dòng chất vào và ra khỏi tế bào.
-Phốt pho là một phần không thể thiếu của ATP và ADP, các phân tử lưu trữ và truyền năng lượng trong tế bào.
-Phốt pho đóng vai trò trung tâm trong các con đường trao đổi chất, đặc biệt là trong quá trình truyền và lưu trữ năng lượng.
-Phốt pho tham gia vào quá trình phân hủy carbohydrate, chất béo và protein để tạo ra năng lượng.
-Phốt pho còn kích hoạt nhiều loại enzyme, tạo điều kiện cho các phản ứng sinh hóa cần thiết cho hoạt động sinh lý bình thường.
-Cân bằng axit-bazơ
Các ion phosphate trong phốt pho hoạt động như chất đệm, giúp duy trì độ pH của cơ thể trong phạm vi hẹp từ 7,35 đến 7,45. Sự cân bằng này rất cần thiết cho hoạt động bình thường của các enzym, quá trình vận chuyển oxy và trao đổi chất, do đó đảm bảo sự ổn định của máu và mô. Sự mất cân bằng này có thể làm thay đổi chức năng của tế bào và dẫn đến các tình trạng như nhiễm toan hoặc nhiễm kiềm.
-Phốt pho là thành phần chính của nucleotide – khối xây dựng nên DNA và RNA. Các phân tử này rất quan trọng cho quá trình sao chép, sửa chữa và tổng hợp protein vật liệu di truyền. Nếu không có phốt pho, sự phát triển và phân chia tế bào sẽ không thể diễn ra.
b-Nếu thiếu hụt (hạ phosphat máu)
Suy dinh dưỡng làm giảm lượng chất dinh dưỡng hấp thụ, đặc biệt là phốt pho. Nghiện rượu có thể cản trở quá trình hấp thụ phốt pho ở ruột và làm tăng bài tiết phốt pho qua nước tiểu. Các triệu chứng của tình trạng thiếu phốt pho bao gồm:
Yếu cơ và mệt mỏi
Đau xương và giòn xương
Trẻ em chậm phát triển
Các vấn đề về hô hấp và thần kinh trong những trường hợp nghiêm trọng
Thiếu phốt pho trong thời gian dài có thể dẫn đến các tình trạng như còi xương ở trẻ em và nhuyễn xương ở người lớn, cả hai đều làm xương yếu đi.

c-Nếu thừa (tăng phosphat máu)
Nồng độ phốt pho quá cao, hay còn gọi là tăng phosphat máu, thường gặp hơn và thường liên quan đến bệnh thận. Trong bệnh thận, suy thận làm giảm khả năng lọc và bài tiết phốt pho của cơ thể qua nước tiểu. Phốt pho tích tụ trong máu có thể liên kết với canxi, tạo thành các cặn không hòa tan vôi hóa trong các mô mềm, bao gồm mạch máu và các cơ quan. Sự canxi hóa này góp phần gây ra bệnh tim mạch và rối loạn xương, chẳng hạn như cường cận giáp thứ phát và loạn dưỡng xương do thận.
Các triệu chứng và biến chứng của tình trạng thừa phốt pho bao gồm:
Vôi hóa mô mềm
Bệnh tim mạch
Chuột rút cơ và đau khớp


Việc kiểm soát tình trạng tăng phosphate huyết bao gồm hạn chế chế độ ăn, thuốc gắn phosphate và vấn đề sức khỏe tiềm ẩn.
Vôi hóa mạch máu
Nồng độ phốt pho cao có thể dẫn đến vôi hóa mạch máu, một tình trạng trong đó các chất lắng đọng canxi và phốt pho hình thành trong thành mạch máu. Quá trình này làm cứng các mạch máu, giảm độ đàn hồi và làm suy yếu quá trình lưu thông máu. Vôi hóa mạch máu làm tăng nguy cơ tăng huyết áp, xơ vữa động mạch và các bệnh tim mạch khác. Bệnh thận mãn tính làm trầm trọng thêm nguy cơ này bằng cách góp phần gây tích tụ phốt pho và mất cân bằng canxi-phốt pho.

Các nghiên cứu đang tìm hiểu vai trò của phốt pho trong các rối loạn chuyển hóa, lão hóa và thậm chí cả chức năng nhận thức. Những phát hiện ban đầu cho thấy mức phốt pho cân bằng có thể ảnh hưởng tích cực đến tuổi thọ và sức khỏe trao đổi chất, mặc dù cần nghiên cứu thêm để xác nhận những mối liên hệ này.

6-Quá trình thủy phân
Sau khi thức ăn được tiêu hóa, nó được tổng hợp thành glucose. Glucose là nguồn nhiên liệu chính mà ty thể của tế bào sử dụng để chuyển đổi năng lượng calo từ thức ăn thành ATP, đây là dạng năng lượng mà tế bào có thể sử dụng trao đổi chất giữa nội ngoại bào, năng lượng ATP giống như điện thoại thông minh sạc đầy năng lượng, cho đến khi mất 1 phosphore còn ADP là hết năng lượng, chúng lại tái tạo liên tục nhận 1 phosphore trở thành ATP lại đầy năng lượng.
Một phân tử glucose còn gọi là loại đường 6 carbone C6H12O6 là 180g/mol chuyển đổi được 36-38 đơn vị năng lượng ATP

7-Quá trình hô hấp tế bào.
ATP được tạo ra thông qua một quá trình gọi là hô hấp tế bào diễn ra trong ty thể của tế bào. Ty thể là những tiểu đơn vị nhỏ bên trong tế bào chuyên chiết xuất năng lượng từ thức ăn mà chúng ta ăn và chuyển hóa thành ATP.
Ty thể có thể chuyển đổi glucose thành ATP thông qua hai loại hô hấp tế bào khác nhau:
Hô hấp hiếu khí (có oxy) và hô hấp kỵ khí (không có oxy)
Giai đoạn : Hô hấp tế bào hiếu khí chuyển đổi glucose thành ATP theo một quá trình gồm ba bước như sau:
Bước 1: Đường phân
Bước 2: Chu trình Krebs (còn gọi là chu trình acid citric)
Bước 3: Chuỗi vận chuyển điện tử
Trong quá trình đường phân, glucose là đường từ nguồn thức ăn được phân hủy thành các phân tử pyruvate. Tiếp theo là chu trình Krebs, đây là một quá trình hiếu khí sử dụng oxy để hoàn thành quá trình phân hủy đường và khai thác năng lượng vào các chất mang điện tử cung cấp năng lượng cho quá trình tổng hợp ATP. Cuối cùng, chuỗi vận chuyển điện tử (ETC) bơm các proton tích điện dương thúc đẩy quá trình sản xuất ATP trên khắp màng trong của ty thể.
8-Giai đoạn : Hô hấp kỵ khí
ATP cũng có thể được sản xuất mà không cần oxy (tức là kỵ khí), đây là quá trình mà thực vật, tảo và một số vi khuẩn thực hiện bằng cách chuyển đổi năng lượng được giữ trong ánh sáng mặt trời thành năng lượng mà tế bào có thể sử dụng thông qua quá trình quang hợp.
Giai đoạn kỵ khí có nghĩa là cơ thể bạn đang tập luyện "mà không có oxy". Phân giải kỵ khí xảy ra trong tế bào người khi không có đủ oxy trong quá trình trao đổi kỵ khí. Nếu không có oxy trong quá trình hô hấp tế bào, pyruvate không thể đi vào chu trình Krebs và bị oxy hóa thành acid lactic. Khi không có oxy, quá trình lên men acid lactic tạo ra ATP theo cách kỵ khí.
Pyruvate nằm tại giao điểm của các con đường chính của quá trình chuyển hóa năng lượng. Đây là sản phẩm cuối cùng của quá trình đường phân và là điểm khởi đầu cho quá trình tân tạo glucose, và có thể được tạo ra bằng cách chuyển amin của alanine.
Trong quá trình tân tạo glucose, khoa học nghiên cứu quá trình trao đổi từ thức ăn vào cơ thể được chuyển đổi ra năng lượng đường rồi qúa trình hô hấp tế bào chuyển ra năng lượng ATP qua những phản ứng hóa học, người ta cũng điều chế ra thuốc năng lượng ATP nhân tạo.
9-Mỗi ngày, một tế bào có thể sản xuất bao nhiêu ATP ?
Một tế bào trung bình trong cơ thể con người sử dụng khoảng 10 triệu phân tử ATP mỗi giây và có thể tái chế toàn bộ ATP của mình trong vòng chưa đầy một phút. Trong vòng 24 giờ, cơ thể con người chuyển hóa trọng lượng của mình thành ATP.
II-Năng lượng làm tăng cân và năng lượng làm giảm cân
Hơn 40 ngàn tỷ tế bào trong cơ thể hoạt động trao đổi chất giữa nội ngoại bào liên tục 24/24 tái tạo ATP-ADP để duy trì hoạt động các chức năng của tạng phủ, cũng đều lệ thuộc vào lượng thức ăn có nhiều tinh bột đường, lượng glucose nhiều thì tế bào sản xuất ra nhiều ATP thì cơ thể tăng cân, khi cơ thể ít năng lượng ATP thì bị giảm cân, vì năng lượng đường cho tế bào vẫn phải đủ cho nhu cầu tái tạo năng lượng ATP và ADP liên tục, đó là vì sao khi đo đường huyết vẫn tăng cao mà người bị sụt cân, mà tây y hiểu lầm là tăng đường huyết nên tiêm insulin làm hạ đường mới chính là sai lầm tiêu diệt mất năng lượng ATP là mất hết mọi chức năng hoạt động của ATP
1-Chức năng của ATP
ATP là một chất dẫn truyền thần kinh. Nó truyền thông điệp từ tế bào thần kinh này (nơ-ron) đến tế bào thần kinh khác. ATP có thể được giải phóng bởi các tế bào thần kinh trong cơ thể (nơ-ron ngoại biên) cũng như các tế bào thần kinh trong hệ thần kinh trung ương (não và tủy sống). Vai trò của nó như một chất dẫn truyền thần kinh là duy trì cân bằng nội môi trong toàn bộ cơ thể.
2-Cơ thể chúng ta cần ATP để tạo ra DNA và RNA. Nó cần triphosphate trong ATP để tạo ra RNA. Đối với DNA, cơ thể trước tiên chuyển đổi ATP thành deoxyribonucleotide (dATP) bằng cách loại bỏ một nguyên tử oxy.
Có nghĩa đường trong thức ăn là nguyên liệu tạo ra DNA và RNA
3-Việc gửi thông điệp trong tế bào đòi hỏi ATP. Vai trò của ATP trong tín hiệu nội bào là giải phóng các chất truyền tin, chẳng hạn như hormone, enzyme, chất trung gian lipid, chất dẫn truyền thần kinh, oxit nitric, các yếu tố tăng trưởng và các loài oxy phản ứng. Các chất truyền tin này điều chỉnh hoạt động bên trong của tế bào.
Có nghĩa là đường trong thức ăn dẫn truyền thần kinh.
4-ATP cũng tham gia vào quá trình co cơ. Cơ bắp của bạn có thể lưu trữ một lượng nhỏ ATP. ATP này được sử dụng khá nhanh khi bạn sử dụng cơ bắp, chẳng hạn như khi bạn tập thể dục. Sau đó, cơ thể bạn tạo ra nhiều ATP hơn và gửi đến các cơ để duy trì mức độ tập thể dục.
Có nghĩa đường tham gia trong qúa trình co cơ.

5-Hạ đường huyết khác với mất đường huyết.
a-Hạ đường huyết là đường huyết đang cao sẽ bị tụt thấp, theo thời gian sau khi ăn, trong thức ăn có tinh bột đường, các chất đạm, chất béo, chất ngọt của trái cây rau củ quả chuyển đổi thành đường glucose, từ glucose thủy phân lại chuyển đổi ra năng lượng calo là bổ sung năng lượng cho cơ thể hoạt động trong một thời gian nhất định 4-5 tiếng, sau khi thức ăn tiêu hóa hết trong bụng, bao tử rỗng thì đường huyết tụt thấp, tính trung bình cứ mỗi giờ qua đi là đường huyết giảm 10mg/dl, do đó cơ quan Y Tế Thế Giới có tiêu chuẩn đường huyết sau khi ăn từ 140-200mg/dl, khi bụng rỗng là lúc năng lượng giảm thì đường huyết khi đói từ 100-140mg/dl.
b-Nhưng đường huyết cao là cơ thể mất đường huyết ít ai biết.
Khi bụng rỗng không bổ sung thức ăn thành năng lượng cho tim phổi hoạt động là mặt nổi chúng ta có thể nhận biết được, nhưng còn tế bào đang hoạt động sạc năng lượng, mà tự nhiên đo đường huyết cao là đường dự trữ trong cơ thể mất đi để cung cấp năng lượng cho tế bào đang tái tạo năng lượng ATP, nếu chúng ta không bổ sung lượng đường mất đi bằng các bữa ăn, thì tế bào vẫn phải tái tạo ADT và ATP liên tục thì phải rút đường và phosphore trong xương, trong các mô làm chúng ta bị sụt cân là mất cơ bắp, giảm lượng máu. Trường hợp mất đường huyết thấy rõ nhất là đo đường huyết càng cao, người càng gầy, sụt cân, mất cân bằng pH, suy dinh dưỡng, mệt mỏi, hư thận, chỉ do nguyên nhân ăn kiêng, không dám ăn thực phẩm tinh bột đường và protein để tăng cân bù vào năng lượng cơ thể mất năng lượng.
c-Tây y sai lầm khi chữa bệnh đường huyết cao, mà không phân biệt được đường huyết cao của người béo phì là thừa đường mới cần chữa bệnh tiểu đường cần tiêm insulin, còn người có đường cao mà gầy ốm là đường trong cơ thể bị mất đi mà càng tiêm insulin thì đường huyết càng tăng lại cho rằng cơ thể kháng insulin, nên nhiều bệnh nhân chết oan. Khi dùng từ kháng insulin là không hiểu quá trình sạc năng lượng để tái tạo năng lượng ADP và ATP liên tục của tế bào, chúng vẫn lấy đường và phosphore trong xương, dù cơ thể có bổ sung thức ăn hay không.
d-Mất đường do chính bệnh nhân tự hai mình bị chết trong cả hai trường hợp, đường huyết thấp mà ham tập thể dục để làm hạ đường huyết, mất đường cho tim phổi hoạt động, thì tim ngừng đập, thường xẩy ra cho những người đường huyết thấp tham dự chạy marathon.
Như vậy ai cũng biết tập thể dục, chạy bộ… đều làm hạ đường, mà không ngộ ra sự sai lầm của tây y chia bệnh tiểu đường thành 2 loại, nói cơ thể thiếu insulin hay không có insulin trong bệnh tiểu đường loại 1 loại 2.
Trước năm 1979, những người nghèo lao động bằng chân tay không ai có bệnh thừa đường để bị kết tội có bệnh tiểu đường cả, bệnh tiểu đường chỉ xẩy ra cho những người nhà giầu, lười tập.

III-Phục hồi sức khỏe bằng năng lượng ATP nhân tạo
ATP hay đường có tác dụng gì ?
ATP hay đường, có hai loại.
Đường trong thức ăn tạo ra ATP, hay thuốc ATP nhân tạo bổ sung năng lượng cho cơ thể, đều là năng lượng trong con người giống như xăng cho một chiếc xe hoạt động, rất cần thiết cho sự sống và giúp chúng ta có thể làm những việc mình làm. Nếu không có ATP, các tế bào sẽ không thể sử dụng năng lượng có trong thức ăn để cung cấp năng lượng cho các quá trình của tế bào nữa thì cơ thể không thể tồn tại.
Một ví dụ thực tế, khi một chiếc ô tô hết xăng và đỗ bên lề đường, cách duy nhất giúp xe có thể chạy lại được là đổ xăng vào bình. Đối với tất cả các tế bào sống, ATP giống như xăng trong bình xăng của ô tô. Nếu không có ATP, các tế bào sẽ không có nguồn năng lượng hữu ích và sinh vật sẽ chết.

d-Ứng dụng lâm sàng của ATP
Ứng dụng lâm sàng của ATP bao gồm kiểm soát cơn đau, gây mê, tim mạch và phẫu thuật.
Có nghĩa đường làm giảm đau, đường giúp tim mạch hoạt động tốt.
ATP được truyền qua tĩnh mạch (tiêm tĩnh mạch) có thể giúp kiểm soát cơn đau bằng cách tác động lên thụ thể adenosine A1. Điều này khởi tạo một quá trình truyền tín hiệu, có thể hỗ trợ giảm đau do viêm. Trong một số trường hợp, tác dụng có thể kéo dài trong nhiều tuần.
Có nghĩa đường chống viêm.

ATP có thể được sử dụng để hỗ trợ gây mê. Khi dùng liều thấp, ATP có thể làm giảm đau thần kinh (đau thần kinh), đau do thiếu lưu lượng máu (đau do thiếu máu cục bộ) và tăng độ nhạy cảm với cơn đau (tăng đau) theo cách tương tự như morphin. Điều này có thể làm giảm việc sử dụng opioid sau phẫu thuật.

ATP an toàn để sử dụng cho những người bị huyết áp cao ở động mạch phổi (tăng huyết áp phổi). Tăng huyết áp phổi có thể dẫn đến khó thở và giảm khả năng thực hiện các công việc hàng ngày. Nếu không được điều trị, tình trạng này có thể gây suy tim và tử vong sớm.
Có nghĩa đường chữa bệnh áp huyết, giúp phổi dễ thở
Điều này giúp giảm chảy máu và cung cấp tầm nhìn tốt hơn về vị trí phẫu thuật.
Có nghĩa đường cầm máu
Mặc dù adenosine là một phần cơ bản của ATP, khi nói đến việc cung cấp năng lượng cho tế bào và thúc đẩy các quá trình của tế bào, các phân tử phosphate mới thực sự quan trọng. Thành phần chứa nhiều năng lượng nhất của adenosine là ATP, có ba phosphate.

Sản xuất ATP trong quá trình tập luyện
Cảm giác nóng rát mà bạn cảm thấy ở cơ khi bạn thở hổn hển trong quá trình tập luyện ngắt quãng cường độ cao kỵ khí (HIIT) để tối đa hóa khả năng hiếu khí của bạn hoặc trong quá trình tập tạ vất vả là acid lactic, được sử dụng để tạo ra ATP thông qua quá trình phân giải kỵ khí.

Trong quá trình tập luyện hiếu khí, ty thể có đủ oxy để tạo ra ATP theo cách hiếu khí. Tuy nhiên, khi bạn hết hơi và các tế bào không có đủ oxy để thực hiện hô hấp tế bào hiếu khí, quá trình này vẫn có thể diễn ra kỵ khí, nhưng nó tạo ra cảm giác nóng rát tạm thời ở các cơ xương của bạn.
Ăn một chế độ ăn uống cân bằng và giữ đủ nước sẽ cung cấp cho cơ thể bạn tất cả các nguồn lực cần thiết để sản xuất nhiều ATP. Mặc dù một số vận động viên có thể cải thiện đôi chút hiệu suất của mình bằng cách dùng các chất bổ sung để tăng sản xuất ATP, nhưng vẫn còn tranh cãi rằng việc bổ sung adenosine triphosphate loại thuồc uống có thực sự làm tăng năng lượng không, cần phải kiểm chứng bằng cách xét nghiệm máu.

Kết luận :
Khi chúng ta tập thể dục là kích thích sự hoạt động của tế bào trao đổi chất nội ngoại bào tái tạo năng lượng ADP và ATP, khi tập thì các tế bào phải lấy đường và phosphre trong xương, trong cơ đễ dẫn máu đi toàn thân, như vậy trước khi tập cần phải bổ sung đường và phosphore, 2 chất này có trong sữa bột, thì cơ thể sẽ không bị tụt đường huyết thấp, hai là không bị đường huyết tăng cao khiến cơ thể bị sụt cân, ba là không bị thừa đường làm tăng cân.
Do đó khi tập thể dục thể thao cơ thể vẫn cần bổ sung đường và phosphore, nên những vận động viên dùng ATP nhân tạo để tập luyện tăng cơ bắp, tăng cường sức khỏe, tăng tuổi thọ mà vẫn không bị bệnh đường huyết cao, trái với những người ham tập thể dục mà không bổ sung đường, đường huyết cao là mất đường sụt cân. khiến sức khỏe càng suy nhược, vì không biết đến quy trình hoạt động tái tạo năng lượng tự động của tế bào đang cần duy trì sự sống.

(tiẾp theo PHẦN 13)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Chủ nhật Tháng 5 25, 2025 12:49 pm

PHẦN 13
NGHIÊN CỨU TẦM QUAN TRỌNG CỦA NHỊP TIM KHÁC NHAU THEO ĐÔNG TÂY Y.

https://youtu.be/1n1JIijb_yY

I-Ý NGHĨA NHỊP TIM THEO TÂY Y.
1-Tốc độ bơm máu của nhịp tim bình thường
Một trái tim khỏe mạnh không đập theo nhịp đều đặn của đồng hồ. Nó tăng tốc bơm máu nhanh hay tốc độ bơm máu chậm lại để đáp ứng nhu cầu oxy thay đổi khi các hoạt động thay đổi trong ngày. Nhịp tim "bình thường" khi nghỉ ngơi nằm trong tiêu chuẩn tốc độ chậm là 70, tốc độ nhanh là 80 nhịp /phút là người khỏe mạnh.
2- Tốc độ bơm máu của nhịp tim nhanh hay chậm
Nếu nhịp tim cao bất thường như tốc độ bơm máu trên 90 hoặc nhịp tim tối đa thấp bất thường như dưới 60 có thể báo hiệu nguy cơ mắc bệnh tim
Tuy nhiên, các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến nhịp tim khi nghỉ ngơi, chẳng hạn như do : căng thẳng, lo lắng, hormone, thuốc, mức độ hoạt động thể chất.
a-Nguyên nhân nhịp tim nhanh theo tây y :
Nếu nhịp tim khi nghỉ ngơi liên tục trên 90 nhịp mỗi phút mặc dù về mặt hình thức vẫn bình thường, nhưng nó có thể là dấu hiệu của điều gì đó không ổn.
Nếu cao hơn như 120 là tốc dộ bơm máu nhanh làm nóng trong người
Nguyên nhân :
Tim điều chỉnh nhịp tim để phản ứng với các tình huống khác nhau nhằm cung cấp đủ lưu lượng máu cho cơ thể. Một số yếu tố có thể góp phần làm tăng nhịp tim, bao gồm:
Vận động nặng hay tập thể dục.
Về tinh thần : Căng thẳng về mặt cảm xúc, Kích hoạt hệ thần kinh giao cảm (phản ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy).
Trong tình trạng nghỉ ngơi : Mất nước, Lượng đường trong máu thấp, Rượu hoặc caffeine, Thiếu máu, Mức tuyến giáp tăng cao, Sốt nhiễm trùng.
b-Nguyên nhân nhịp tim chậm theo tây y :
Nếu nhịp tim thấp khi nghỉ ngơi liên tục thấp 60 nhịp mỗi phút, mặc dù về mặt hình thức vẫn bình thường, nhưng nó có thể là dấu hiệu của bệnh tim khi có dấu hiệu : Thiếu năng lượng, Sức bền kém, Chóng mặt, Yếu, Đau ngực, Lú lẫn/Các vấn đề về trí nhớ, Đánh trống ngực hoặc rung nhĩ,
Nguyên nhân gây ra nhịp tim thấp
Nhiều thứ có thể gây ra nhịp tim thấp. Nguyên nhân gây nhịp tim thấp bao gồm:
Trục trặc ở máy tạo nhịp tim tự nhiên của tim, nút xoang. Nút này kiểm soát tốc độ bơm máu của buồng tim trên và dưới qua cơ thể.
c-Chặn nhĩ thất AV(buồng tim trên)
Một nguyên nhân khác gây ra nhịp tim thấp là chặn nhĩ thất (chặn AV), trong đó buồng tim trên và dưới không giao tiếp tốt làm nhịp tim giảm xuống.
Bác sĩ Baez-Escudero cho biết: "Giống như có dây cáp điện ảo bên trong tim vậy". "Những thứ này sẽ xấu đi khi chúng ta già đi. Các loại thuốc trị áp huyết thông thường được sử dụng ở người cao tuổi cũng thường có thể
khiến nhịp tim chậm trở nên nghiêm trọng hơn".
Tuổi là yếu tố nguy cơ phổ biến nhất gây ra nhịp tim chậm. Tình trạng này phổ biến nhất ở nam giới và phụ nữ trên 65 tuổi.
Nếu nhịp tim giảm xuống mức 30, sẽ không nhận đủ oxy lên não, khiến bị ngất xỉu, choáng váng và khó thở. Máu cũng có thể ứ đọng trong các buồng tim, gây ra suy tim sung huyết do đông máu.
Bệnh tật hoặc các tình trạng khác cũng có thể gây ra nhịp tim chậm. Bao gồm:
Viêm cơ tim, Chức năng tuyến giáp thấp, Mất cân bằng điện giải, Quá nhiều kali trong máu, Một số loại thuốc, bao gồm thuốc chẹn beta và thuốc chống loạn nhịp tim.Bác sĩ Baez-Escudero cho biết các khuyết tật tim bẩm sinh, bệnh tiểu đường hoặc huyết áp cao lâu năm cũng có thể khiến nhịp tim chậm có khả năng xảy ra nhiều hơn
Một số nghiên cứu quan sát lớn đã chỉ ra rằng khả năng hiếu khí cao có liên quan đến nguy cơ đau tim và tử vong thấp hơn. Và một thử nghiệm có kiểm soát nhỏ đã chứng minh rằng những người đàn ông và phụ nữ bị suy giảm nhận thức nhẹ khi tăng khả năng hiếu khí cũng cải thiện hiệu suất của họ trong các bài kiểm tra trí nhớ và lý luận.
d-Nhịp tim nhanh khi tập thể dục tối đa của người già càng giảm
Một công thức của tây y về tim mạch thường được sử dụng để xác định nhịp tim tối đa khi tập thể dục của người già là 220 trừ đi số tuổi, mà không có dấu hiệu bệnh như : Đánh trống ngực, hoặc cảm giác tim đập nhanh hoặc đập mạnh Chóng mặt, Đau ngực, Khó thở, Mất ý thức, Ngừng tim, hoặc mất ý thức mà không có mạch, là bình thường .
Thí dụ 60 tuổi, có nhịp tim cao tối đa 220 trừ 60 = 160
70 tuổi nhịp tim cao tối đa 220-70 = 150
80 tuổi, nhịp tim cao tối đa 220-80 = 140
90 tuổi, nhịp tim cao tối đa 220- 90 = 130
e-Nguyên nhân gây loạn nhịp tim là gì?
Một số người có thể không có bất kỳ triệu chứng nào hoặc thậm chí không biết rằng họ đã bị rung nhĩ. Những người khác có thể gặp phải các triệu chứng rất khó chịu như:
Đánh trống ngực, Chóng mặt, Ngất xỉu
Bệnh nhân có thể được hưởng lợi từ thuốc chống loạn nhịp tim hoặc cắt đốt tim. Đây là một thủ thuật mà bác sĩ tim mạch sử dụng ống thông để đốt hoặc đông lạnh một phần bên trong tim.
f-Rung nhĩ và Đột quỵ
Rung nhĩ là tình trạng nghiêm trọng vì nó làm tăng nguy cơ đột quỵ. Nếu ai đã từng bị rung nhĩ, có thể giảm nguy cơ đột quỵ bằng cách dùng thuốc chống đông máu (làm loãng máu). Thuốc này có thể được khuyến nghị ngay cả khi nhịp tim đã trở lại bình thường vì nguy cơ đột quỵ vẫn còn.
Tuy nhiên, trong khi rung nhĩ không đều, rung nhĩ là một nhịp đều đặn. Điều này là do kích thích điện di chuyển theo vòng tròn trong buồng tim trên và kích thích tim co bóp với tốc độ cụ thể. Nhiều người bị rung nhĩ có nhịp tim khoảng 150 nhịp/phút.
Rung nhĩ thường được điều trị dứt điểm bằng phương pháp cắt đốt tim.
g-Nhịp tim nhanh trên thất
Nhịp tim nhanh trên thất (SVT) là bất kỳ nhịp tim nào bắt nguồn từ phía trên tâm thất.
SVT là một thuật ngữ bao gồm nhịp tim nhanh xoang, và rung nhĩ. Tuy nhiên, hầu hết thời gian khi mọi người nhắc đến nhịp tim nhanh trên thất SVT, họ đang nói về một trong những chứng loạn nhịp sau:
Nhịp tim nhanh tái nhập nút nhĩ thất (AVNRT)
Nhịp tim nhanh tái nhập nhĩ thất AV (AVRT)
Những chứng loạn nhịp này liên quan đến những bất thường trong hệ thống dẫn truyền của tim, chẳng hạn như "đường dẫn phụ" cho phép dẫn truyền điện bỏ qua một số khu vực nhất định. Những chứng loạn nhịp này có thể được điều trị bằng thuốc hoặc cắt đốt tim trong một số trường hợp.
h-Nhịp tim nhanh thất (buồng dưới tim)
Nhịp tim nhanh thất (VT hoặc "V-tach") là một chứng loạn nhịp nghiêm trọng. Trong V-tach, kích thích điện cho nhịp tim đến từ tâm thất (buồng dưới của tim) chứ không phải từ tâm nhĩ trên.
Nhịp tim nhanh kéo dài đe dọa tính mạng và có thể dẫn đến ngừng tim. Nhịp tim này có thể nhanh đến mức tim không bơm đủ máu đến não và các cơ quan khác.
Khi ai đó bị nhanh nhĩ thất VT, họ có thể không có mạch và do đó sẽ cần hồi sức tim phổi (CPR). Họ cũng có thể cần phải chuyển nhịp tim hoặc khử rung tim để đưa nhịp tim trở lại bình thường.
i-Rung thất
Rung thất (VF hoặc "VFib") là nhịp tim nhanh nghiêm trọng nhất.
Trong rung thất VF, hệ thống điện của tim phát ra các tín hiệu không có tổ chức nhanh đến mức không thể đập hiệu quả và không bơm máu đến các bộ phận còn lại của cơ thể. Người bị ảnh hưởng sẽ mất ý thức và không có mạch. Những người có nhịp rung thất VF cần phải hồi sức tim phổi và khử rung tim.
3-Cách Đo Nhịp Tim theo tây y.
Đo nhịp tim bằng cách đo mạch tại nhiều điểm khác nhau trên cơ thể.
Mạch được cảm nhận tốt nhất qua động mạch cảnh bằng cách đặt hai ngón tay bên dưới góc hàm ở hai bên khí quản (ống dẫn khí), nhưng không bao giờ ở cả hai bên cùng một lúc. Ngoài ra, mạch có thể được cảm nhận ở động mạch quay. Nhìn vào lòng bàn tay và đặt hai ngón tay vào bên cổ tay gần ngón cái nhất để cảm nhận động mạch quay.
Để đo nhịp tim, hãy đếm mạch trong 15 giây và nhân với bốn để có nhịp mỗi phút. Ví dụ, nếu bạn đếm 20 nhịp trong 15 giây, nhịp tim của bạn là 80 nhịp/phút.
Để có phép đo chính xác hơn, hãy đếm mạch trong 30 giây và nhân với hai. Để có phép đo chính xác nhất, hãy đếm mạch trong toàn bộ phút.
4-Bài tập ảnh hưởng đến nhịp tim như thế nào
Bài tập mạnh là cách tốt nhất để giảm nhịp tim khi nghỉ ngơi và tăng nhịp tim tối đa cũng như khả năng hiếu khí. Vì không thể duy trì nhịp tim tối đa trong hơn vài phút, các nhà sinh lý học khuyên nên đặt mục tiêu theo tỷ lệ phần trăm nhịp tim tối đa của mình trong khi tập thể dục.
II-Ý NGHĨA NHỊP TIM THEO ĐÔNG Y
1-Nhịp tim chỉ sự hòa hợp khí và huyết của tạng phủ tốt hay xấu.
Tây y đo đếm mạch đập ở động mạch quay nơi cổ tay thí dụ trong 1 phút đếm được 80, thì cho rằng đó là nhịp tim. Và ngay cả đo bằng máy đo áp huyết cơ học bơm bằng tay cho ra áp huyết tâm thu, và tâm trương, rồi dùng ống nghe mạch đập ở giữa khuỷu tay trong và đếm mạch đập, cho ra một nhịp tim cố định là sai, vì khi khoa học phát minh ra máy đo áp huyết điện tử cho ra 3 số, tâm thu, tâm trương, nhịp tim, thì đo ở tay trái, tay phải, chân trái, chân phải đều ra 4 kết qủa khác nhau, nhịp tim khác nhau, thì tây y không giải thích được tại sao có 1 quả tim mà có 4 nhịp mạch khác nhau.
Tây y cho rằng máy đo áp huyết là máy đo tim mạch, nhưng theo đông y chỉ có điện tâm đồ mới đo tim mạch, còn theo đông y, đo áp huyết bên tay trái là đo chức năng của bao tử, kết quả khi đói sẽ khác, khi no khác, đều làm thay đổi áp huyết của tim, và đo áp huyết bên tay phải theo đông y cũng là đo chức năng hoạt động của gan khi đói khác, khi no khác, cũng làm ảnh hưởng đến tim mạch.
Nếu đo 2 tay, 2 chân, 4 nơi đều có nhịp mạch nằm trong tiêu chuẩn 70-80 thì sự hòa hợp của khí và huyết tốt, không bị bệnh, nếu nơi nào cao hơn hay thấp hơn, là khí và huyết không hòa hợp ở nơi tạng phủ ấy.
2-Nhịp tim chỉ nhiệt độ lạnh-nóng (hàn-nhiệt) của tạng-phủ
Khi chưa có máy đo áp huyết để thay cho bắt mạch bằng ngón tay đếm mạch đập nơi cổ tay, căn cứ theo 1 hơi thở đều của một người khỏe mạnh sẽ có 18-20 hơi thở trong 1 phút, và mỗi hơi thở đếm được 4 lần mạch đập, thì 1 phút đếm được 72–80 nhịp, thì gọi là mạch hòa hoãn, tốc độ bơm máu không nhanh, không chậm thì trong người ấm áp, không nóng không lạnh.
Nếu mỗi hơi thở đếm được 5 lần có 90-108 nhịp, hay đếm được 6 lần thì có nhịp 100-120 nhịp thì gọi là mạch nhiệt, mạch nóng..
Nếu mỗi hơi thở đếm được 3 lần thì có 54-60 nhịp là mạch hàn, mạch lạnh là tốc độ máu chạy chậm, nguyên nhân lạnh làm máu đặc nên chạy chậm gây ra hiện tượng đông máu làm máu không lưu thông thì cơ thể đau nhức, nên đông y có câu : Thông thì không đau nhức, đau nhức thì máu không thông.
3-Nhịp tim chỉ vị khí hòa hoãn là khí của bao tử
Theo đông y về ngũ hành tạng phủ là tâm, tỳ, phế, thận, gan, thì mỗi tạng đều có mạch đặc trưng riêng của mỗi tạng, như tạng tâm là mạch Hồng, tạng Tỳ, phủ Vị là mạch Hòa Hoãn, tạng Phế là mạch Sáp hay Sắc, tạng thận là mạch Trầm, tạng gan là mạch Huyền.
Ngũ hành tạng phủ mặc dù có mạch riêng, nhưng chúng phải được tiếp tế chất bổ từ thức ăn mỗi ngày thì chức năng hoạt động của bao tử phải có đủ 5 chất riêng cho 5 tạng như tim cần chất đắng, gan cần chất chua, thận cần chất mặn, phổi cần chất cay, và tỳ vị cần chất ngọt.
Khi đo áp huyết bên tay trái thuộc bao tử có nhịp tim thấp như 60 nhịp, đông y gọi là bao tử hàn, do bao tử thiếu vị ngọt là đường huyết thấp do lượng thức ăn không đủ tinh bột đường, nếu tăng lượng thức ăn tinh bột đường thì nhịp mạch của bao tử tức là nhịp tim của máy đo áp huyết bên tay trái sẽ tăng lên 70-80 thì bao tử đủ ấm nóng để làm chín thức ăn từ dạng thô đặc trở thành lỏng chuyển xuống ruột non để chuyển hóa thành máu, như vậy là bao tử có đủ vị khí, có nghĩa là đủ đường.
4-Chức năng 5 tạng hoạt động tốt đều phải có vị khì hòa hoãn của bao tử.
Thí dụ theo ngũ hành mẹ nuôi con, vị khí hòa hoãn của mẹ truyền sang con là phổi, từ phổi truyền sang con là thận, là đo áp huyết nơi cổ chân trong bên chân trái cũng phải có nhịp mạch 70-80 là thận trái có vị khí, nếu truyền sang chân phải có nhịp mạch thấp như 65 là thận phải không có vị khí là chân phải thiếu đường, từ thận phải truyền cho con là gan cũng sẽ có nhịp mạch thấp như 65 là gan cũng không có vị khí là gan thiếu đường trong thức ăn, để chuyển hóa thức ăn thành máu, thì sau khi ăn thức ăn không biến thành máu, thì tâm trương bên gan bị tụt thấp là mất máu, gan là mẹ của tim sẽ không cung cấp đủ máu lên tim dẫn đến tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ..
Theo đông y cơ thể khỏe mạnh, các chức năng của tạng phủ hoạt động tốt thì phải hòa hợp để nhận chất bổ của thức ăn từ bao tử, nên đông y nói tạng nào cũng phải có vị khí tức là có chất ngọt của tạng tỳ vị, còn theo mạch riêng của mỗi mạch cũng đều phải có thêm mạch hòa hoãn, là mạch đi trơn tru đều, nên sau khi ăn bắt mạch phế phải có mạch sáp+hoãn, mạch thận phải có mạch Trầm+hoãn, mạch gan phải có mạch Huyền+hoãn, mạch tim phải có mạch Hồng+hoãn.
Thí dụ sau khi ăn, áp huyết tay trái có nhịp tim 75, có đường huyết 140mg/dl, đo áp huyết chân trái có nhịp mạch 70, nhưng đo áp huyết chân phải có mạch 68 là đường trong máu không đủ đến chân phải, nên mạch thận không có mạch hòa hoãn, đo áp huyết tay phải là gan, chỉ có mạch huyền của gan mà không bắt được mạch hòa hoãn của tỳ vị, nên nhịp tim gan thấp 65 là cơ thể không đủ đường dẫn đến gan, đông y gọi là gan hàn, thì máu mỡ trong gan đặc, gọi là gan nhiễm mỡ, và túi mật đặc tạo ra sạn túi mật, thì 2 giờ sau khi ăn, đo lại áp huyết bên gan không có mạch hòa hoãn, nhưng đường huyết lại cao 140mg/dl, mọi người lầm tưởng là đường huyết đủ, nhưng thật ra cơ thể thiếu đường chuyển hóa thức ăn thành máu, gan phải rút đường dự trữ glycogen trong gan để điều chỉnh lượng đường trong máu, nên lượng máu trong gan giảm làm nhịp tim tăng cao, nên đông y có câu âm hư nội nhiệt ( âm là máu, hư là thiếu, trong người nóng cũng làm cơ thể mất nước. đi tiểu ra ít, nước tiểu sẽ vàng đậm)

III-Y HỌC BỔ SUNG ÁP DỤNG MÁY ĐO ÁP HUYẾT VÀ MÁY ĐO ĐƯỜNG ĐỂ TÌM NGUYÊN NHÂN BỆNH THEO TINH-KHÍ-THẦN.
Ngày nay tây y nhờ vào các máy móc và kinh nghiêm đã tìm ra được nhiều những chứng bệnh nan y do nhịp tim bất bình thường, hay nhịp tim thấp, hay nhịp tim cao, gây ra nhiều bệnh về tim mạch, nhưng khi cách chữa lại gặp nhiều khó khăn, thất bại do chữa vào ngọn bệnh chỉ là hậu quả, mà không hệ thống hóa tìm nguyên nhân gốc bệnh, đâu là nguyên phát, đâu là thứ phát.
Thí dụ trong những hậu quả của bệnh tim mạch do nhịp tim cao, hay nhịp tim thấp đều nói đến nguyên nhân đường huyết, nên dẫn đến nhiều cách chữa sai lầm, vì tây y không biết phân tích bệnh theo máy đo áp huyết và máy đo đường như môn học Y Học Bổ Sung, dùng máy đo khí huyết hư thực, hàn nhiệt của ngũ hành tạng phủ theo tinh-khí-thần là theo 3 số đo áp huyết, nguyên nhân do khí, hay do tinh, hay do thần.
Máy đo áp huyết thay cho bắt mạch về tình trạng khí/ huyết/hàn-nhiệt cho biết tình trạng sức khỏe tốt hay gọi là bình thường so với áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi, nên phân biệt được nguyên nhân gốc bệnh dễ dàng từ đó mới chữa khỏi bệnh một cách đơn giản có kết quả nhanh chóng, để bổ sung cho cách chữa cầu kỳ phức tạp của tây y :
Tiêu chuẩn áp huyết.JPG
Tiêu chuẩn áp huyết.JPG (160.86 KiB) Đã xem 13899 lần

Chúng ta chọn tuổi trung niên 41-50 tuổi làm mẫu có áp huyết tiêu chuẩn khỏe, không bị bệnh là 120-130/70-80mmHg nhịp tim 70-75 để phân tích những trường hợp bệnh khác nhau bằng các con số cụ thể, chúng ta sẽ biết chữa đúng vào nguyên nhân gốc bệnh.
Chúng ta phân tích tìm nguyên nhân từng bệnh của tây y bằng các con số cụ thể :
1-Theo tây y những bệnh tim mạch do nhịp tim cao gồm có :
Mất nước, Lượng đường trong máu thấp, Rượu hoặc caffeine, Thiếu máu, Mức tuyến giáp tăng cao, Sốt nhiễm trùng.
2-Phân tích theo YHBS :
Trường hợp 1 : Nhịp tim cao, mất nước, thiếu máu, phình tuyến giáp, nhiễm trùng, hạ đường huyết.
Theo tây y phải chữa 5 loại bệnh, 5 loại thuốc khác nhau rất phức tạp khác với môn Y Học Bổ Sung.
Nhịp tim cao 120 là trong cơ thể quá nhiệt, do thiếu nước giải nhiệt gọi là mất nước, thiếu máu là lượng máu tâm trương bên gan thấp dưới tiêu chuẩn, đông y gọi máu là âm bị hư thiếu sinh ra nội nhiệt là nhịp tim cao, đo đường huyết thấp dưới 6mmol/l là cơ thể thiếu đường chuyển hóa thức ăn thành máu, thiếu đường tiêu hóa thức ăn, nên áp huyết trước và sau khi ăn chuyển hoa nghịch, thức ăn không trôi xuống ruột mà trào ngược lên họng làm phình tuyến giáp, thức ăn hư thối trong môi trường acid tạo ra vi khuẩn, vi trùng gây sốt nhiễm trùng và do rượu làm hạ đường huyết sẽ có áp huyết trước khi ăn đo bên tay trái có tâm thu cao, tâm trương cao, nhịp tim cao hơn tiêu chuẩn tuổi như 145/90mmHg 100, đường huyết 5.5mmol/l, sau khi ăn 30 phút có số đo áp huyết tay trái 140/80mmHg 120, đưởng huyết 6mmol/l, áp huyết tay phải, tâm trương chỉ lượng máu chứa máu có áp huyết tâm thu trước khi ăn 130/70mmHg 100, sau khi ăn 30 phút áp huyết tâm thu 140/60mmHg nhịp tim 115. Cũng chuyển hóa nghịch, tâm trương tụt thấp còn 60 là lượng máu trong gan thấp không đủ cung cấp máu cho tim bơm lên não.
Nhìn vào áp huyết hai tay trước và sau khi ăn đều có nhịp tim cao, cơ thể nhiệt làm da khô, mất nước, đều chuyển hóa nghịch làm sưng tuyến giáp, thức ăn không đủ đường chuyển hóa thức ăn thành máu, nên tâm trương tay phải thấp là thiếu lượng máu.
Kết luận : Nhìn vào số đo áp huyết và đường biết được 6 bệnh cùng môt lúc : Nhịp tim cao, mất nước, thiếu máu, phình tuyến giáp, nhiễm trùng, hạ đường huyết
Trường hợp 2 : Nhồi máu cơ tim có áp huyết tâm trương cao
a-Nguyên nhân nhồi máu cơ tim :
Theo định nghĩa, đau tim là tình trạng hoại tử, tức là tổn thương dẫn đến chết mô hoặc cơ quan bị ảnh hưởng.
Cơ tim là tên gọi của mô cơ của tim, tức là phần vách thành của qủa tim có khả năng co bóp để đảm bảo lưu thông máu.
Nhồi máu cơ tim là tổn thương hoại tử ảnh hưởng đến một phần cơ tim, khiến cơ tim không còn khả năng co bóp hiệu quả. Điều này gây ra chứng loạn nhịp tim, suy tim, có thể dẫn đến tử vong đột ngột nếu tim ngừng đập và bệnh nhân không được khử rung tim trong vòng vài phút.
Một trong bốn trường hợp nhồi máu cơ tim không được chẩn đoán vì không có triệu chứng và chỉ được tây y chẩn đoán muộn hơn nhiều, tình cờ là khi bác sĩ phát hiện ra các tổn thương trong quá trình khám vì bệnh nhân phàn nàn hoặc bị di chứng.
Đau tim xảy ra khi động mạch vành bị tắc nghẽn, ngăn cản lưu lượng máu bình thường. Các tế bào trong khu vực đó bị thiếu oxy và máu sẽ bị hoại tử (tức là chết).
Tắc nghẽn động mạch vành là do mảng xơ vữa động mạch, một cục cholesterol nhỏ tích tụ và kết tụ trên thành động mạch rồi vỡ ra, gọi là xơ vữa động mạch. Tình trạng này gây ra cục máu đông di chuyển theo mạch máu đến tim – dẫn đến nhồi máu cơ tim. Mảng xơ vữa này cũng có thể di chuyển đến não (gây ra đột quỵ do thiếu máu cục bộ), đến phổi (gây ra thuyên tắc phổi) hoặc đến chi (gây viêm động mạch).
b-Một số yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ đau tim:
Tăng cholesterol máu, thúc đẩy sự hình thành mảng xơ vữa động mạch.
Bệnh tiểu đường do đường huyết thấp làm nhịp tim thấp, máu và mỡ sẽ đặc gây tổn thương thành động mạch.
Thừa cân và béo phì, mỡ thừa làm gan nhiễm mỡ và mỡ bao tim tăng nguy cơ đau tim.
Huyết áp cao, do thiếu đường chuyển hóa thức ăn nên thức ăn trong bao tử không chuyển hóa hết xuống ruột còn đọng lại trong bao tử sẽ lên men tăng khí làm áp huyết cao, máu mỡ đặc làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông làm xơ vữa động mạch..
Lối sống ít vận động và thiếu hoạt động thể chất.
Các triệu chứng đau tim khác nhau ở mỗi giới tính.

Ở nam giới, nhồi máu cơ tim biểu hiện bằng:
Cơn đau đột ngột, dữ dội và dai dẳng bắt đầu ở ngực và lan ra cánh tay trái, lưng và đôi khi đến hàm.
Buồn nôn. Chóng mặt, thậm chí ngất xỉu kèm theo mất ý thức.

Ở phụ nữ, các dấu hiệu lâm sàng của cơn đau tim là:
Đau ngực hoặc cảm giác tức ngực, lan từ ngực đến cánh tay trái, lưng và hàm, như ở nam giới.
Mệt mỏi đáng kể mà không có lý do.
Một điểm yếu chung.
Các vấn đề về hô hấp.
Ợ nóng.
Sự lo lắng.
Một làn da rất nhợt nhạt.
Đổ mồ hôi không rõ nguyên nhân. Đông y gọi là dương hư tự hãn do lỗ chân lông mở ra, nguyên nhân thiếu đường dương để làm tăng nhịp tim thấp về tiêu chuẩn tuổi thì lỗ chân lông đóng lại để cầm mồ hôi.
Những ai bị suy tim thường bị chảy mồ hôi bàn tay, khi uống đường cát vàng và ngâm bàn tay vào chậu nước ấm pha 1 thìa canh đường cát vàng trong 30 phút, thì bàn tay khô sẽ không chảy mồ hôi tay nữa.

c-3 mức độ báo trước nhồi máu cơ tim.
1-Nếu có dấu hiệu khi đang đo áp huyết bằng máy điện tử bị máy nhồi 1 lần cho ra kết qủa tâm trương cao trên 95mmHg có dấu hiệu nhói tim nhẹ như mũi kim đâm, do mỡ máu cao, do xơ vữa động mạch, không chữa ngay sẽ phải bị đặt stent.
2-Nếu máy đo áp huyết đang bơm bị nhồi 2 lần cho ra kết quả tâm thu cao trên 100mmHg, có dấu hiệu bị nhói đau tim ngực như mũi dao đâm.
3-Nếu những ai khi do máy nhồi 3 lần, tưởng máy hư khi ra kết quả 3 số tâm thu cao như 160mm/Hg, tâm trương cao như 125mmHg, nhịp tim cao như 110, có dấu hiệu đau tức ngực như có ai đấm mạnh vào ngực, là tình trạng nhồi máu cơ tim nặng sẽ vỡ tim đột qụy tử vong cứu không kịp
d- Một số cách để hạ nhịp tim và điều hòa huyết áp
Một chế độ ăn lành mạnh có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tim mạch. Hãy tập trung vào việc ăn nhiều rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, các loại hạt và đậu, và các nguồn chất đạm không béo như thịt gà, cá, và đậu hủ. Hạn chế tiêu thụ các loại thực phẩm giàu chất béo bão hòa và chất béo trans (=dầu thực vật). Khi áp huyết cao nhịp tim cao đã hạ xuống tiêu chuẩn tuổi thì ngưng, nếu tiếp tục ăn làm áp huyết hạ thấp lại trở thành áp huyết ung thư.
Chống chỉ định :
Cafein và cồn có thể ảnh hưởng đến nhịp tim và gây ra những biến động không mong muốn. Hạn chế tiêu thụ cafein và cồn làm hạ đường huyết, là một phần quan trọng trong việc duy trì nhịp tim ổn định. Thay thế nước và các loại đồ uống không chứa cafein để giữ cho tim mạch khỏe mạnh.
e-Cách làm hạ áp huyết ngừa tai biến hay đột quỵ.
-Nếu có ai đo áp huyết và đo đường cả 3 số đều cao, tâm thu, tâm trương, nhịp tim, đau nhức đầu, nên mua sẵn Muối đắng Epsom loại uống, uống ngay 2 thìa cà phê với nước ấm, nằm nghỉ 2 tiếng sau sẽ đi cầu tống hết thức ăn trong bao tử và ruột làm hạ áp huyết, sau đó cơ thể mất nước mất đường phải bù lại cho cơ thể 1 ly nước ấm pha 5 thìa cà phê đường cát vàng, cách này giúp thoát khỏi tai biến khi tâm thu cao, hay đột qụy khi tâm trương cao.
g-Glucose-Mỡ máu, tương phản mất quân bình.
Khi xét nghiệm máu ghi glucose bình thường, hay đường huyết trong tiêu chuẩn thấp 3.9-6.2mmol/l thì không bị bệnh tiểu đường thì ngược lại sẽ có kết quả tương phản là mỡ máu cao cholesterol, triglyceride cao, do hậu quả thiếu đường, chứ không phải đủ đường.
Cần nấu 4 củ sả dài chừng gang tay đập dập với 3 bát nước lửa vừa cho tan sả, rồi tắt bếp, lấy 1 quả chanh xanh rửa sạch, còn vỏ thái khoanh mỏng bỏ tiếp vào nồi khuấy dều khi nước sả còn nóng, đậy vung lại chứ không cần mở lửa cho chin chanh thì nước sẽ đắng, chờ hơi nguội rót ra được 2 ly, uống ngay 1 ly nóng ấm sau bữa ăn 2 tiếng và 1 ly còn lại uống ấm vào lúc tối, áp dụng 3-5 ngày, đi xét nghiệm lại mỡ máu sẽ không còn bệnh mỡ máu cao. Ngừa bệnh ngay khi có trường hợp a, thì không bị nặng như trường hợp b, và c.
Trường hợp 3 : Nếu chữa sai làm hạ tâm thu mà nhịp tim còn cao trở thành ung thư
Thí dụ áp huyết trước khi ăn
tay trái 140/80mmHg 120, đưởng huyết 6mmol/l,
Sau khi ăn, hay sau khi chữa theo tây y có áp huyết thay đổi như :
Tay trái 120/80mmHg nhịp tim 120, đường huyết 6mmol/l, theo YHBS đây là áp huyết giả.
Tại sao lại gọi là áp huyết giả :
a-Nhịp tim cao là âm hư nội nhiệt trong người nóng môi lưỡi khô nứt, ngoài da chân tay lạnh phải mặc áo lạnh, đo nhiệt độ tay chân bằng súng bắn nhiệt kế thấp hay chỉ low không bắt được độ
.b-Nghịch lý là chỉ đường huyết cao thì nhịp tim mới cao làm ấm chân tay, đo nhiệt độ tay chân 36-37 độ C, trường hợp này nhịp tim cao nhưng đường huyết thấp 6mmol/l, chân tay lạnh.
Vậy áp huyết thật là bao nhiêu ?
Nếu người khỏe, không bị bệnh thì nhịp tim hòa hoãn trong tiêu chuẩn 70-80, vì thiếu máu nên nhịp tim mới cao 120, là nhịp tim đã đâp nhanh hơn 120 trừ 80 = 40 nhịp
Lấy số tâm thu 120 trừ 40 ra áp huyết thật tâm thu 80mmHg, áp huyết thật tâm trương 80mmHg trừ ½ của 40 nhịp thì còn 60mmHg là lượng máu
Như vậy áp huyết giả 140/80mmHg nhịp tim 120 đổi sang áp huyết thật là 80/60mmHg 80, đây là ung thư gia đoạn 3 theo YHBS
Ai có áp huyết thật tâm thu 90mmHg là ung thư giai đoạn 1
Ai có áp huyết thật tâm thu 85mmHg là ung thư giai đoạn 2
Ai có áp huyết thật tâm thu 80mmHg là ung thư giai đoạn 3
Ai có áp huyết thật tâm thu 75mmHg là ung thư giai đoạn 4
Ai có áp huyết thật tâm thu 70mmHg là giai đoạn chết

Do đó ai đang chữa ung thư theo tây y, hãy đo áp huyết giả chuyển đổi thành áp huyết thật sẽ biết tây y chữa đúng là từ giai đoạn 4 lên 3, lên 2, lên 1, lên 95mmHg thì hết tế bào ung thư, nhưng ăn uống kiêng khem lại thiếu khí oxy tâm thu, thiếu máu tâm trương, thiếu đường, nhịp tim thấp như có áp huyết thật là 90/60mmHg nhịp tim 60 cũng là ung thư giai đoạn 1 mà tây y chưa phát hiện vì thử giấy qùy pH nước bọt còn kiềm tính, nếu pH nước bọt là acid như pH 5.5 trở xuống là sang giai đoạn ung thư 2,3,4 rồi.
Tại sao nhịp tim cao là thiếu lượng máu, chứ không phải thiếu tỷ lệ hồng cầu, bạch cầu .
Thí dụ trẻ em cân nặng 30kg thì lượng máu trong người là 3 lít máu, như 40kg là 4 lít máu, 50kg là 5 lít máu, 60kg là 6 lít máu…thì nhịp tim đều hòa hoãn trong tiêu chuẩn tuổi.
Cho nên tuổi lão niên, thí dụ nặng 60 kg có 6 lít máu thì nhịp tim 70-80, giống như 1 công việc giao cho 10 người làm thong thả trong 1 giờ xong thì nhịp tim hòa hoãn, nhưng bớt đi 5 người cũng phải làm xong việc đó trong 1 giờ thì họ phải làm nhanh hơn, mệt hơn, thì nhịp tim đập nhanh hơn, là tại sao, tại thiếu lượng người, ví như thiếu lượng máu. Nên vừa nhìn vào áp huyết ai có nhịp tim cao là biết ngay người đó thiếu máu trầm trọng, sẽ bị ung thư, nguyên nhân do thiếu đường.
Theo lý thuyết tây y, đường glucose kết hợp với chất đạm protein biến thành máu, nếu ăn đạm mà thiếu đường thì thức ăn không biến thành máu, thì thừa đạm biến thành đàm, nên xét nghiệm máu đường thấp 3.9-6.2mmol/l thì kết quả thử máu cho biết mỡ máu cao, cholesterol, triglyceride cao
Chúng ta có thể thử nghiệm lý thuyết này, ăn đạm protein mà đường huyết 5.0mmol/l, thì xét nghiệm máu ghi kết quả đường glucose bình thường thì mỡ máu cao, ngược lại cũng lượng đạm giống nhau nhưng tăng lượng đường huyết lên 10mmol/l, đi xét nghiệm máu không bị mỡ máu cao, thì đường cao mới chuyển protein thành máu là tốt không phải bị bệnh tiểu đường, sẽ thấy cái sai của tây y về tiêu chuẩn đường huyết.
Thử nghiệm thứ hai, khi nhịp tim cao là thiếu máu, tâm trương tay phải trước khi ăn là 75mmHg, thiếu đường cơ thể mất máu sau khi ăn tâm trương tay phải bị tụt thấp còn 65mmHg là gan mất lượng máu, trong khi tâm trương tay trái cao hơn, nhịp tim cao, mà đường thấp 6.0mmol/l . Chúng ta uống ngay 10 thìa cà phê đường cát vàng, thử lại áp huyết, thì nhịp tim xuống thay vì 120 xuống còn 100, đo lại đường vẫn thấp, thì hỏi đường vừa uống nó đi đâu, chính nhờ nó đã làm hạ nhịp tim, tăng lượng máu tâm trương gan, tiếp tục uống 10 thìa cà phê đường cát vàng nữa, thử lại đường chỉ lên 7mmol/l, thì đường mất đi đâu, đo áp huyết sẽ thấy đường đã làm nhịp tim xuống thấp tiếp còn 90, như vậy áp huyết giả đổi sang áp huyết thật sẽ thấy ung thư giai đoạn 4 chuyển lên 3, rồi lên 2, rồi pH đang acid pH 5, lên pH 5,5 lên pH 6, lên kiềm pH 6,5, lên pH 7 là các tế bào ung thư trong cơ thể tự chết không sống nổi trong môi trường máu kiềm, còn ăn thức ăn bổ máu vừa tăng đường vừa tăng lượng máu, giảm
nhịp tim và khỏi ung thư nhanh nhất là ngoài ăn phở, uống đường, ăn bánh mì chấm sữa đặc Ông Thọ mỗi ngày trong 1 tháng tăng cân, khỏe mạnh.
Tại sao chúng ta lại tin vào cách thử đường huyết HbA1C, nghĩa của nó là đếm hạt đường thừa bám vào bề mặt hồng cầu. Nhưng chúng ta kiêng sợ không ăn đường, người gầy sụt cân mà thử HbA1C vẫn cao, thì hạt đường thừa ở đâu mà bám vào bề mặt hồng cầu, vì gan phải lấy mỡ chuyển thành đường như vậy chúng ta bị lừa có vẻ khoa học.
Thí dụ trước kia đường cao 11mmol/l=200mg/dl là bình thường khi thử ở tay, so sánh với cách thử HbA1C là 8% mỗi 3 tháng, tính ra tương đương 200mg/dl. Bây giờ hạ tiêu chuẩn đường thử ở tay xuống dưới 6mmol/l thì HbA1C cũng phải hạ xuống 6% cho tương xứng, nghe ra có vẻ khoa học, thực chất giống như đổi độ C ra độ F, như trước kia chúng ta giữ tiêu chuẩn độ 11 dộ C, thì độ F cũng phải tương đương, nay ha độ C xuống 6 độ thì độ F cũng phải xuống tương đương, nhưng những tế bào nào có dính hạt đường 3 tháng tế bào ấy chết thay vào tế bào mới mà mình vẫn kiêng đường thì làm gì lại có tế bào mới nào dính hạt đường, thế mà thực tế lúc nào thử HbA1C cũng cao, quả là cú lừa tinh vi.
Giáo sư Mona Nahmias nói :
Liệu giáo điều chống đường có đi quá xa khi một số người hiện nay tránh ăn trái cây vì sợ đường?
Những người này nhầm lẫn giữa: đường: sucrose và đường từ trái cây: fructose. Mật ong được xếp vào loại đường fructose.
Đường fructose tốt cho cơ thể, không gây vấn đề gì cho người bị tiểu đường.
Bệnh tiểu đường không phải do đường gây ra. Thay vào đó, chính sự thiếu hụt insulin trong cơ thể mới gây ra bệnh tiểu đường.

Theo Y Học Bổ Sung, có nghĩa thiếu hụt insulin do lười vận động, vì tập thể dục đều làm hạ đường huyết, tuy nhiên kiêng ăn đường mà tập thể dục quá sức lại làm cơ thể tiêu hao năng lượng là cơ thể bị mất đường.
Theo kinh nghiệm của môn Y Học Bổ Sung, phân biệt 2 loại đường huyết thiếu mà nhịp tim cao, và đường huyết thiếu mà nhịp tim thấp sau khi nghỉ ngơi, đều dẫn đến hậu quả bệnh tim mạch khác nhau :
Trường hợp 4 : Thiếu đường nhịp tim cao, áp huyết thấp sau khi ăn.
Thí dụ 1 : Bệnh nhân tuổi trung niên
Áp huyết tay trái 100/71mmHg 106, tay phải 99/67/107, đường 103mg/dl
Ngoài dấu hiệu bệnh về tim mạch như kể trên, nhưng bệnh nhân sẽ chết về bệnh ung thư, vì đây là áp huyết giả so với tiêu chuẩn áp huyết tuổi trung niên sau khi ăn là 130/80mmHg 75.
Nhịp tim 107 cao hơn tiêu chuẩn 75 của tuổi trung niên là 32 nhịp, lấy số áp huyết tâm thu 99 trừ 32 thì áp huyết tâm thu thật sẽ là 67mmHg, tâm trương thật 67 trừ ½ của 32 là lượng máu còn 51, áp huyết thật sẽ là
67/51mmHg 75, đây là áp huyết chết, nên người mệt, suy tim, nguyên nhân do đường huyết thấp, cần bổ sung đường và máu, không gì nhanh hơn là pha 4 thìa canh sữa đặc Ông Thọ pha thêm 8 thìa cà phê đường cát vàng, dùng bánh mì mềm chấm vào sữa này ăn, sau 15 phút đo lại áp huyết
Tay trái 107/75mmHg 94, tay phải 111/79mmHg 94, đường 125mg/dl.
Chúng ta thắc mắc ăn nhiều sữa và đường như thế tại sao đường huyết không tăng cao mà chỉ có 125mg/dl, vậy đường nó mất đi đâu, nó đã làm số nào thay đổi. Nó đã làm nhịp tim hạ xuống thấp, làm tăng tâm thu, tâm trương. Đổi sang áp huyết thật bây giờ sẽ lả :
Nhịp tim 94 so với tiêu chuẩn 75, thì nhanh hơn 19 nhịp, áp huyết tâm thu bên gan 111 trừ 19, áp huyết tâm thu thật là 92mmHg, như vậy nhờ sữa Ông Thọ và đường đã làm tăng máu, hạ nhịp tim, tăng tâm thu thật lả 92mmHg so với tiêu chuẩn áp huyết tâm thu 90mmHg là đã thoát khỏi ung thư giai đoạn 1.
Đường huyết 125mg/dl còn thấp, nếu để đường huyết tụt thấp mỗi giờ mất 10mg/dl thì áp huyết lại trở thành áp huyết ung thư, nên phải tiếp tục ăn bánh mì chấm sữa Ông Thọ pha thêm đường, sau 15 phút đo lại áp huyết bên tay phải tăng lên 120/82mmHg 93, đường huyết 10mmol/l, đổi sang áp huyết thật : 93-75=18, nhịp tim nhanh hơn 18 nhịp, áp huyết tâm thu thật sẽ là 120-18= 102mmHg là thoát khỏi ung thư.
Ung thư có 2 loại, gọi là bướu lành với điều kiện thử pH nước bọt kiềm tính là bướu lành chứ không phải ung thư, nếu pH acid 5.5 là bướu độc mới là tế bào ung thư.
Do đó tùy theo thức ăn mỗi ngày chúng ta ăn sai, thiếu khí, thiếu máu, thiếu đường thì máu mỡ đông đặc thành bướu, thức ăn trong bao tử không tiêu lên men thừa acid thì các tế bào bị đói do thiếu máu, thiếu khí oxy, thiếu đường sống trong môi trường máu acid thì trở thành tế bào ung thư. Chúng ta phải đo áp huyết theo dõi mỗi bữa ăn để kịp thời điều chỉnh tinh-khí-thần hòa hợp, đủ khí, đủ máu, đủ đường thì không bị bệnh tim mạch và không bị ung thư.
Trường hợp 5 : Thiếu đường nhịp tim cao, áp huyết cao sau khi ăn.
Có hai trường hợp như :
a-Sau khi ăn tay trái 150/90mmHg 120, tay phải 160/110mmHg 123, đường 6mmol/l.
Tay phải tâm thu cao 160mmHg chưa đến nỗi bị tai biến, nhưng tâm trương cao 110mmHg có nguy cơ đột quy, nguyên nhân thức ăn trong bao tử không tiêu do thiếu đường chuyển hóa thức ăn. Nhịp tim cao là âm hư nội nhiệt trong người nóng, đường thấp thì ngoài da chân tay lạnh phải mặc áo lạnh là dấu hiệu ung thư, sẽ bị đột qụy về bệnh tim mạch bất cứ lúc nào.
Cách cấp cứu : Uống ngay 1 lon Pepsi cho ợ hơi tiêu thức ăn trong bao tử và làm tăng đường hạ áp huyết, hạ nhịp tim thì thoát khỏi đột quỵ, nhịp tim cao, sau khi uống Pepsi, đo đường không tăng chỉ có 7mmol/l trong trường hợp này đổi ra áp huyết thật sẽ là :
123 trừ nhịp tim tiêu chuẩn 75 = nhanh hơn 45 nhịp
Áp huyết tâm thu tay phải 160 trừ 45 = Áp huyết tâm thu thật là 115mmHg nên không phải bị ung thư
Áp huyết thật bây giờ là 115/87mmHg 75 đường huyết 7mmol/l.
Cứ mỗi 2 giờ đường huyết tụt 1mmol/l cho tim phổi hoạt động, khi đói đường thấp thì áp huyết tâm thu, tâm trương tụt thấp, nếu bụng trống, đường huyết trước khi di ngủ thấp 7mmol/l. sau khi ngủ 6 tiếng đường sẽ tụt thấp 3mmol/l thì chỉ còn 4mmol/l áp huyết tụt thấp, máu đông không chạy vào tim khiến tim đập nhanh để thu hút máu về tim tuần hoàn làm nhịp tim đập nhanh mạnh lại trở thành thiếu máu cơ tim, tim ngừng đập đột tử trong đêm, đó là lý do, áp huyết, đường huyết thay đổi đều do lượng đường huyết thấp.
Vừa ngừa ung thư do tế bào máu sống trong môi trường acid, đo pH nước bọt 5.5, cần uống 1 thìa baking soda, và vì là loại muối mặn khó uống phải pha thêm 5 thìa cà phê đường cát vàng cho dễ uống và làm tăng đường huyết cao cho máu khỏi bị đóng đông, luôn giữ cho pH nước bọt trên 6.5 thuộc kiềm, thì máu mỡ đóng đông kết cục thành bướu cũng chỉ là bướu lành, không phải ung thư, đường cao trong nhiệt độ trên 36 độ C và nhịp tim trong tiêu chuẩn tuổi thì tốc độ bơm máu hòa hoãn, thân thể ấm áp, thì máu mỡ đặc lại hóa lỏng theo máu tuần hoàn thì bướu lành sẽ nhỏ và biến mất từ từ.
b-Sau khi ăn áp huyết tay trái 95/67mmHg 85, đường 5.2mmol/l.
Người này đang bị ung thư, bệnh nhân cho biết đang bị ung thư phổi, và hỏi tôi, tại sao thầy biết.
Khi đường huyết thấp thì máu đặc và đường thấp nhiệt độ chân tay lạnh, nhịp tim cao là thiếu máu, là áp huyết giả đổi sang áp huyết thật, lấy 85 trừ 75 theo tuổi trung niên, thì nhịp tim nhanh hơn 10 nhịp, tâm thu giả là 95 trừ 10 thành tâm thu thật là 85 mmHg là ung thư giai đoạn 2.
Tôi nói, nếu không biết điều chỉnh lại tinh-khí-thần là ăn uống thì sẽ trở thành ung thư giai đoạn 3, 4. Hãy theo dõi áp huyết khi chữa theo tây y mà giai đoạn ung thư càng tăng thì tây y chữa sai làm cơ thể suy nhược, suy dinh dưỡng.
Cách chữa :
Cần bổ máu là ăn thức ăn bổ máu, bổ đường, bổ khí nhanh, theo lý thuyết tây y glucose kết hợp protein thành máu, thì phải cần đường với đạm, rõ ràng đường huyết thấp chỉ có 5.2mmol/l. Như vậy hãy thử pha 5 thìa sữa đặc Ông Thọ loại sữa các bé không bú sữa mẹ mà uống sữa Ôn Thọ cơ thể vẫn phát triển khỏe mạnh, trong 1 hộp sửa Ông Thọ có 300ml = 20 thìa canh, chứa 12g đường cát vàng, đối với trẻ em là đủ, nhưng với người lớn thì pha 5 thìa canh mỗi thìa 15ml chỉ chứa 3g đường thì không đủ, nên phải pha thêm 10 thìa cà phê đường cát vàng để làm tăng đường huyết, dùng mẩu nhỏ bánh mì mềm chấm sữa ăn, không pha nước sẽ nặng bụng và làm loãng đường thì đường huyết không tăng cao.
Sau khi ăn 15 phút đo lại áp huyết và đường huyết, tay trái 118/75mmHg 80, tay phải 115/72mmHg 78, đường huyết 10mmol/l.
Đổi ra áp huyết thật, thì nhịp tin nhanh 3 nhịp, như vậy áp huyết thật sẽ là
112/70mmHg 75 đường huyết 10mmol/l, trước khi đi ngủ là an toàn, sáng ngủ dậy đo trước khi ăn sáng tay trái 100/68mmHg 74, tay phải 110/66mmHg 70, đường huyết 7mmol/l, chứng tỏ bệnh nhân ngủ 6 tiếng đường huyết tụt 3mmol/l, còn lại 7mmol/l khi đói là an toàn.
Nếu bệnh nhân giữ nguyên áp huyết tay trái 95/67mmHg 85, đường 5.2mmol/l.trước khi đi ngủ mà không bổ sung sữa Ông Thọ, thì bệnh nhân sẽ mất ngủ do thiếu đường, nếu ngủ được thì khi đường xuổng 3mmol/l thì tim ngưng đập bệnh nhân sẽ chết trong đêm sau khi ngủ được 3 tiếng là rơi vào hôn mê sâu, có dấu hiệu báo trước bằng tiếng kêu ú ớ hay như tự nhiên ngáy to, la to như ác mộng thật ra là tiếng kêu cầu cứu rồi ngủ luôn giấc ngủ ngàn thu. Nếu có người nhà nằm bên cạnh lay gọi bệnh nhân dậy, cho uống đường cho tỉnh lại thì thoát chết, như vậy những ai thiếu đường trước khi đi ngủ dễ bị chết trong đêm, nên Y Học Bổ Sung khuyến nghị trước khi đi ngủ phải đo đủ đường huyết lên 10mmol/l hay 180mg/dl sẽ ngủ ngon, an toàn cho tim mạch, sáng ngủ dậy còn 7-8mmol/l hay 130-140mg/dl sẽ không bị suy tim.
Đó là cách Y Học Bổ Sung luôn điều chỉnh Tinh-Khí-Thần từng mỗi bữa ăn để khí-máu-đường lọt vào tiêu chuẩn, và muốn thức ăn chuyển hóa tốt và nhanh, tùy theo áp huyết sau khi ăn mà cao hơn tiêu chuẩn thì uống ngay 1 lon Pepsi có đường, không phải Pepsi diet, sau 30 phút làm tiêu hóa hết thức ăn xuống ruột thì áp huyết xuống thấp, và bớt ăn mặn, thức ăn bớt muối sẽ không làm tăng áp huyết.
Ngược lại sau khi ăn áp huyết thấp, 30 phút sau uống 1 lon Coca có đường, không phải Coca diet, làm tiêu hết thức ăn khỏi bị mệt tim, và làm tăng áp huyết là tăng khí lực cho tim bơm máu tuần hoàn hòa hoãn, thức ăn thêm muối để làm tăng áp huyết.

(tiếp thoe PHẦN 14)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Chủ nhật Tháng 5 25, 2025 5:06 pm

PHẦN 14
CÁCH CHỮA BỆNH NHỊP TIM HÀN-NHIỆT BẰNG THỰC PHẨM THUỘC TINH.

https://youtu.be/2ybcIppUovo
Theo nghiên cứu của Cơ quan y tế quốc gia tại Vương quốc Anh, dưới đây là tiêu chuẩn nhịp tim lý tưởng bình thường khi nghỉ ngơi của người lớn trên 18 tuổi từ 60-100 nhịp, không có liên quan đến nhịp tim hàn hay nhịp tim nhiệt, khác với đông y, cho nên tây y không tìm ra được nguyên nhân gốc bệnh là hàn hay nhiệt, nên tất cả mọi bệnh đều chữa vào ngọn bệnh mà không biết chữa vào nguyên nhân gốc bệnh.
Do đó, tây y cũng chỉ chọn những thức ăn theo thành phần hóa học phù hợp với những chất mà cơ thể thiếu, nên hoàn toàn không phân biệt thức ăn nào có tính hàn tính nhiệt để quân bình âm-dương, khác hẳn với đông y chú trọng đến nguyên nhân gốc bệnh là mất quân bình âm-dương, âm là hàn, dương là nhiệt, giống như nhiệt độ âm thực là lạnh quá gây ra bệnh, nhiệt độ dương thực là nóng quá cũng làm cho cơ thể bị bệnh..
Cho nên Y Học Bổ Sung còn có cách chữa bệnh nhịp tim hàn-nhiệt bằng thức ăn thuộc TINH để giúp tăng lượng máu, hạ nhịp tim cao ngừa bệnh nhồi máu cơ tim, hoặc nhịp tim thấp thiếu máu cơ tim cục bộ gây ra đột quỵ.
A-Cách chữa bằng các loại nước uống
1-Hạ sốt bằng lượng nước và cơ thể cần đường mà không làm tăng nhịp tim thì uống nước mía vắt chanh, vừa hạ sốt, hạ nhịp tim, là tăng đường huyết chuyển hóa thức ăn thành máu, uống nước mía vắt chanh nhiều giải nhiệt, bằng cách đi tiểu nhiều sau đó lại bù nước và đường bị mất uống tiếp tục nước mía vắt chanh tăng sức đề kháng chống nhiễm trùng.
Cách này có hiệu quả chữa sốt xuất huyết vỡ tiểu cầu ở trẻ em. Khi trẻ em bị sốt uống các loại trụ sinh kháng sinh không giảm sốt mà nặng hơn, chúng ta thử dùng garo cột chặt vào cánh tay trên của bé 1-2 phút rồi mở garo ra sẽ thấy máu chạy xuống cánh tay dưới nổi nhiều hạt chấm mầu tím bầm giống như cánh tay bị vẩy mực tím, là hiện tượng vỡ tiểu cầu. Chỉ cần uống mỗi ngày 2-3 lít nước mía vắt chanh, hay nước chanh đường liên tiếp 3-5 ngày là khỏi bệnh, kết quả chữa khỏi nhanh hơn vào bệnh viện chữa lâu cả tháng.
Một nhịp tim không ổn định có thể gây ra rất nhiều vấn đề sức khỏe và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tim mạch là cơ quan quan trọng trong hệ thống cơ thể con người. Chức năng chính của tim là bơm máu và cung cấp oxy và dưỡng chất cho các bộ phận khác của cơ thể. Nhịp tim không ổn định có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim, đau tức nhói ngực khó thở, nguy cơ tai biến hay đột quỵ.
2-Uống nước lọc để hạ nhịp tim và cân bằng điện giải, khi không có nước mía
Điều đầu tiên và quan trọng nhất trong việc hạ nhịp tim là duy trì cơ thể trong trạng thái cân bằng nước. Việc uống đủ nước hàng ngày giúp duy trì độ ẩm cần thiết cho cơ thể và hỗ trợ quá trình chức năng của tim mạch, hạ nhịp tim. Uống ít nhất 8 ly nước mỗi ngày và thêm nước khi vận động mạnh hoặc trong thời tiết nóng.
Khi cơ thể con người thiếu nước sẽ dẫn đến tình trạng mất cân bằng điện giải. Chính nguyên nhân này làm cho nhịp tim bị rối loạn. Nếu nhìn thấy dấu hiệu mất nước như khô miệng, chóng mặt, nước tiểu sẫm màu hay cảm thấy nhịp tim dần tăng cao là tăng nóng sốt nhiệt, cần uống ngay một ly nước chanh đường, hay nước mía vắt chanh.
Có những người dùng thuốc loãng máu aspirin 80mg vẫn bị, có nghĩa nó không làm loãng máu và đường nhanh bằng nước chanh..
3-Có một số loại hương liệu tự nhiên có khả năng hỗ trợ hạ nhịp tim. Một số ví dụ bao gồm:
-Hoa hồi: Hoa hồi là một loại gia vị phổ biến trong nhiều món ăn và đồ uống. Nó có khả năng giảm căng thẳng và có tác dụng làm dịu hạ nhịp tim.
-Hương thảo: Hương thảo có tính chất làm dịu và giúp thư giãn cơ thể. Nó có thể được sử dụng để giảm căng thẳng và hạ nhịp tim.
-Cam: Cam chứa nhiều chất chống oxy hóa và acid folic có tác dụng tốt cho tim mạch. Việc uống nước cam tươi hoặc ăn cam có thể giúp hạ nhịp tim. Cam là thực phẩm bổ tim nên bổ sung vào chế độ ăn uống hàng ngày của mình. Cam có chứa chất xơ pectin, có tác dụng chống cholesterol xấu và tăng cường lượng cholesterol tốt trong cơ thể. Mặt khác, cam cũng có kali, giữ vai trò kiểm soát mức huyết áp hiệu quả.
Một nghiên cứu mới đây đã cho thấy, khi uống 2 cốc nước cam mỗi ngày có thể giúp tăng cường sức khỏe mạch máu, từ đó ngăn chặn các yếu tố làm kích hoạt những vấn đề về tim. Hơn nữa, nó cũng giúp cải thiện tình trạng cao huyết áp ở nam giới một cách hữu hiệu.
-Trà xanh :
Trà xanh giàu chất chống oxy hóa giúp giảm căng thẳng oxy hóa và viêm nhiễm trong cơ thể. Catechin trong trà xanh có tác dụng hỗ trợ huyết áp và nhịp tim ổn định.
-Uống nước ép trái cây tươi
Uống nước ép trái cây tươi là một cách tuyệt vời để cung cấp dưỡng chất cho cơ thể và hỗ trợ tim mạch. Nước ép trái cây tươi giàu chất chống oxy hóa, vitamin và khoáng chất. Chúng ta có thể uống nước ép trái cây tươi hàng ngày để hạ nhịp tim và tăng cường sức khỏe chung.
d-Dùng chất chống oxy hóa
Chất chống oxy hóa có thể giúp giảm việc hình thành các gốc tự do và bảo vệ tim mạch khỏi tổn thương. Các thực phẩm giàu chất chống oxy hóa bao gồm: quả mâm xôi, dứa, dứa tươi, dâu tây, quả mọng, hạt chia, hạt óc chó, và đậu đen.
B-Cách chữa bằng thức ăn
1-Rau cải xoăn
Nghiên cứu cho thấy cải xoăn có nhiều acid béo omega-3, là một loại acid béo không bão hòa chất chống oxy hóa và chất xơ có lợi cho tim mạch hơn hầu hết các loại rau khác. Cải xoăn có nhiều chất dinh dưỡng giúp điều hòa hệ thống tim mạch, điều chỉnh chức năng của các cơ quan quan trọng, bao gồm cả tim. Nó có khả năng giảm việc hình thành cục máu đông, giảm viêm, hạ huyết áp, và cải thiện chức năng tim mạch. Các nguồn giàu omega-3 khác bao gồm cá hồi, cá thu, hạt lanh, và hạt chia.
2-Sữa đặc Ông Thọ. Bổ máu nhanh nhất là ăn bánh mì chấm nhiều sữa đặc Ông Thọ pha thêm đường cát vàng, nếu đường huyết thấp dưới 6mmol/l. Trong sữa Ông Thọ vừa có protein vừa có đường tạo máu, các trẻ bú sữa Ông Thọ chỉ uống sữa mà khỏe mạnh hồng hào.
Chúng ta hãy thử đo áp huyết tay trái sau khi ăn chỉ có 90/56mmHg 60, đường huyết 6mmol/l, đây là áp huyết ung thư giai đoạn 1. Sau khi ăn mà áp huyết không tăng, nên không ăn thêm được nhiều nữa, chỉ cho dùng ít mẩu bánh mì mềm chấm với 4 thìa canh sữa đặc Ông Thọ, chứ không phải sữa công thức, pha thêm 8 thìa cà phê đường cát vàng, không pha nước, sau khi ăn xong 30 phút đo lại áp huyết lên 115/62mmHg nhịp tim 72, nhờ sữa đặc Ông Thọ đã làm thay đổi áp huyết thoát khỏi ung thư , là do cách ăn đúng mỗi ngày, nhưng nếu những ngày sau lại ăn kiêng chỉ rau củ quả thì áp huyết lại tụt thấp còn 85/55mmHg nhịp tim 58 là ung thư giai đoạn 2.
Như vậy ngày nào ăn đúng áp huyết tăng dần thì thoát khỏi ung thư, ngày nào ăn sai thì ung thư càng nặng, như vậy chữa ung thư cần tăng khí, tăng máu, tăng đường, trong thức ăn thiếu khí thiếu máu, thiếu đường là ăn sai, thức ăn làm tăng khí oxy tâm thu, tăng máu tâm trương, tăng đường, tăng pH kiềm thì ung thư mau khỏi.
3-Rau thơm
Rau thơm là thực phẩm bổ tim hàng đầu nên thường xuyên thêm vào chế độ ăn uống thường ngày của mình. Rau thơm còn được biết đến là rau gia vị, giúp làm tăng thêm hương vị hấp dẫn cho món ăn. Một số loại rau thơm như hành lá, ngò rí, ngò gai, rau ngổ, rau răm, tía tô, hung quế,... mang những mùi vị đặc trưng khác nhau, giúp hỗ trợ rất tốt cho sức khỏe hệ tim mạch.
Trong các loại rau thơm có chứa các hoạt chất chống viêm, chống oxy hóa mạnh, giúp tăng cường sức đề kháng, hạ cholesterol cao trong máu, từ đó ngăn ngừa hiệu quả các vấn đề về tim mạch.
4. Đậu đen
Trong đậu đen có chứa nhiều folate, magie và chất chống oxy hóa giúp giảm mức huyết áp cao – yếu tố hàng đầu kích hoạt các vấn đề về tim mạch. Nhiều chất xơ giúp kiểm soát tốt lượng đường huyết và cholesterol trong máu, giảm nguy cơ xơ vữa động mạch, và vitamin B6 cao trong đậu đen có khả năng ngăn chặn sự tích tụ của homocysteine, giúp làm giảm đáng kể nguy cơ hỏng mạch máu và bảo vệ tốt cho hệ thống tim mạch.
5. Dầu ô liu ép lạnh
Là chất béo lành mạnh, thay cho chất béo bão hòa như bơ chẳng hạn rất giàu chất chống oxy để giảm mức cholesterol, đồng thời giúp bảo vệ mạch máu.
6. Quả óc chó
Ăn qủa óc chó mỗi ngày thay cho các chất béo xấu trong bánh quy và khoai tây chiên. Quả óc chó có thể giúp giảm lượng cholesterol cao trong máu và ngăn ngừa đáng kể chứng viêm trong động mạch tim. Trong quả óc chó có chứa nhiều chất béo omega – 3, chất xơ và sterol thực vật, giúp tăng cường sức khỏe cho hệ thống tim mạch và ngăn ngừa nguy cơ đau tim hoặc đột quỵ.
7. Hạnh nhân
Một loại bổ tim khác là hạnh nhân. Trong hạnh nhân có chứa chất xơ, chất béo có lợi cho tim và các sterol thực vật, giúp giảm lượng cholesterol LDL “xấu” trong máu, từ đó làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. ăn hạnh nhân kèm với bánh mì nướng để tăng độ ngậy cho món bánh.
8. Đậu nành
Trong một cốc đậu nành có chứa tới 8 gram chất xơ tốt cho tim mạch và làm hạ đường huyết,
9. Đậu phụ
Đậu phụ là nguồn cung cấp protein đậu nành chay tuyệt vời cùng với một lượng lớn chất xơ, khoáng chất và chất béo không bão hoà có lợi cho tim mạch..
10. Khoai lang
Với chỉ số đường huyết thấp hơn so với khoai tây trắng, khoai lang được xem là lựa chọn hàng đầu cho những người có lượng đường cao trong máu. Trong khoai lang cũng chứa một lượng lớn vitamin A, carotenoid và lycopene, giúp cơ thể cân bằng mức đường huyết hiệu quả, có nhiều chất xơ giúp hệ tiêu hóa và giảm mỡ máu và áp huyết..
11. Rau cải cầu vồng
Cải cầu vồng là loại rau có lá màu xanh đậm, rất giàu magie và kali, chất chống oxy hoá lutein, zeaxanthin, chất xơ và vitamin A tốt cho tim, làm hạ áp huyết.. Những khoáng chất này nổi tiếng với công dụng kiểm soát tốt mức huyết áp trong cơ thể, nhất là ở những người bị tăng áp huyết.
12. Lúa mạch
Lúa mạch (một loại ngũ cốc nguyên hạt) thay cho gạo trắng. Lượng chất xơ trong lúa mạch có thể giúp giảm đáng kể mức cholesterol và lượng đường trong máu.
Theo chuyên gia, lúa mạch có vỏ là loại ngũ cốc nguyên hạt giàu giá trị dinh dưỡng nhất, tránh lựa chọn loại lúa mạch đã qua quá trình đánh bóng, loại bỏ cám và lớp vỏ ngoài, vì điều này có thể làm mất đi một lượng lớn chất xơ tốt cho tim. Chúng ta có thể ninh lúa mạch thành món hầm hoặc súp
13. Cháo bột yến mạch
Chỉ cần ăn một bát cháo bột yến mạch nóng có thể giúp mình cảm thấy no lâu hơn, từ đó chống lại các cơn thèm ăn vặt và giữ cho lượng đường huyết ổn định hơn theo thời gian, nó có chất xơ làm giảm lượng cholesterol xấu (LDL) trong máu.
14. Hạt lanh
Hạt lanh là loại hạt có màu mật ong sáng bóng, được xếp vào danh sách những thực phẩm tốt hàng đầu cho bệnh tim mạch, có chứa ba chất giúp cải thiện sức khỏe của tim, bao gồm chất xơ, acid béo omega – 3 và chất phytochemical (lignans).
Nên dùng hạt lanh xay để đạt được tối ưu giá trị dinh dưỡng. Ngoài ra, có thể ăn hạt lanh cùng với bánh nướng, ngũ cốc, sữa chua hoặc bánh sandwich.
15. Sữa chua ít chất béo
Loại thực phẩm này thường chứa nhiều kali và canxi, không những tốt cho hệ xương mà còn giúp hỗ trợ kiểm soát mức huyết áp cao và ngăn ngừa bệnh tim hiệu quả.
16. Thực phẩm tăng cường sterol
Một số thực phẩm tăng cường sterol và stanol giúp chống lại cholesterol, bao gồm sữa đậu nành, bơ thực vật, sữa hạnh nhân và nước ép cam. Sterol và stanol là những chất chiết xuất từ thực vật, giúp ngăn chặn sự hấp thụ cholesterol của đường ruột. Ngoài ra, các chất này còn giúp làm giảm mức cholesterol xấu LDL xuống 10% mà không gây ảnh hưởng tới lượng cholesterol tốt.
17. Quả anh đào
Anh đào là loại quả có vị chua ngọt, được rất nhiều người ưa chuộng. Chúng ta có thể tiêu thụ anh đào dưới dạng khô hoặc nước ép để nhận được đầy đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu từ loại quả này. Nó có chứa một lượng lớn chất chống oxy hoá anthocyanins, giúp bảo vệ mạch máu và chức năng tim.
18. Quả việt quất
Việt quất có chứa chất chống oxy hoá anthocyanins, vitamin, khoáng chất giúp hỗ trợ chức năng mạch máu và ngăn ngừa các tác động tiêu cực đến hệ tim mạch, giúp củng cố hàng rào miễn dịch và bảo vệ tim trước các tác nhân gây viêm nhiễm.
19. Rau lá xanh đậm
Rau lá xanh đậm là một trong những loại thực phẩm bổ tim khác được các chuyên gia dinh dưỡng khuyến nghị bổ sung vào chế độ ăn uống thường ngày. Những loại rau này có chứa một lượng lớn vitamin, khoáng chất và nitrat, giúp mở các mạch máu để tăng cường lượng oxy cần thiết đến tim, để trái tim được cải thiện, hạn chế các vấn đề đau tim, tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim. Một số loại rau xanh lá giàu nitrat, bao gồm rau chân vịt, rau diếp, mù tạt xanh, cải chíp,... Chúng ta có thể ăn các loại rau này bằng cách luộc, xào với dầu ô liu hoặc tỏi.
Theo nghiên cứu, tiêu thụ 800g rau củ và trái cây mỗi ngày có thể giúp giảm 28% nguy cơ mắc bệnh tim mạch và 31% nguy cơ tử vong. Bên cạnh đó, rau xanh và trái cây cũng là nguồn cung cấp chất xơ dồi dào cho cơ thể.
Các loại rau như cải bó xôi, cải xoăn, bông cải xanh chứa nhiều magie và kali giúp duy trì hoạt động ổn định của tim. Magie quan trọng nhất vì giúp vận chuyển điện giải như Kali, Canxi vào tế bào, hỗ trợ dẫn truyền thần kinh và co bóp tim ổn định, đặc biệt quan trọng trong việc ngăn ngừa rối loạn nhịp tim.
20. Măng tây
Măng tây là một loại rau đa năng có thể dùng trong nhiều món ăn khác nhau. Măng tây có chứa nhiều chất xơ và rất nhiều vitamin, đặc biệt là vitamin A, E, C và K. Măng tây đã được nghiên cứu và phát hiện hỗ trợ cải thiện chức năng tiêu hóa, làm tăng mức insulin, giảm nguy cơ tăng huyết áp đồng thời bảo vệ chống lại bệnh đái tháo đường và bệnh tim.
21. Rau bina có lợi cho sức khỏe tim mạch
Rau bina hay rau cải bó xôi rất giàu vitamin K - một cốc "siêu thực phẩm" này cung cấp gấp 5 lần liều lượng khuyến nghị hàng ngày của loại vitamin quan trọng này. Vitamin K giúp ngăn ngừa cục máu đông cũng như đảm bảo xương phát triển và chắc khỏe. Rau bina có hương vị tuyệt vời khi dùng làm món salad hoặc làm nền cho món salad, loại rau lá xanh này có nhiều chất xơ, lutein, folate và kali. Điều này có nghĩa là rau bina tốt cho tim.
22. Bắp cải
Bắp cải là một trong những siêu thực phẩm có hàm lượng calo thấp, chứa nhiều vitamin, khoáng chất và chất chống oxy hóa quan trọng. Hơn nữa, bắp cải còn chứa lượng vitamin C cao, giúp tăng cường hệ thống miễn dịch và cũng góp phần bảo vệ chống lại bệnh tim. Các chất chống oxy hóa trong bắp cải cũng giúp ngăn chặn tình trạng mất thị lực và bảo vệ chống lại một số loại ung thư.
23. Rau cải xanh
Rau cải xanh cũng là một lựa chọn tuyệt vời tốt cho tim mạch vì nó có nhiều zeaxanthin, lutein và vitamin A, đồng thời có mật độ calo rất thấp., không bị đi tiểu đêm Sự kết hợp giữa vitamin và chất dinh dưỡng này giúp bảo vệ cơ thể, tăng cường sức đề kháng chống lại bệnh đái tháo đường, bệnh tim và béo phì.
24. Cà chua tốt cho tim mạch
Cà chua có lượng vitamin A, vitamin C, kali và lycopene cao. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng các loại rau như cà chua là không thể thiếu để ngăn ngừa các bệnh tim mạch nguy hiểm.
25. Củ cải đường
Củ cải đường chứa hàm lượng vitamin, khoáng chất và chất chống oxy hóa cao. Củ cải đường chứa vitamin B folate và betaine. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc bổ sung củ cải đường nhiều màu sắc vào món salad giúp giảm mức homocysteine trong máu, làm giảm nguy cơ phát triển bệnh tim. Hơn nữa, củ cải đường còn được phát hiện có tác dụng tăng cường sức mạnh cho nhiều cơ quan khác nhau và loại bỏ nguy cơ mắc một số dạng ung thư.
26. Súp lơ
Cải súp lơ trắng và súp lơ xanh đều tốt cho sức khỏe tim mạch. Siêu thực phẩm này chứa nhiều chất xơ và có mật độ calo thấp, giúp bảo vệ chống lại các rối loạn dạ dày, giúp xương chắc khỏe, giảm nguy cơ stress oxy hóa và cũng giúp ngăn ngừa các vấn đề về hô hấp.
27. Bí ngô
Bí ngô siêu giàu vitamin và chất chống oxy hóa, có lượng beta-carotene, kali, chất xơ, vitamin C và phytoestrogen cao. Bí ngô giúp tăng cường sức mạnh hệ thống miễn dịch, điều chỉnh cân nặng, hạ huyết áp và ngăn ngừa bệnh tim...
28- Nhóm thực phẩm giàu vitamin A và C
Tăng huyết áp, mỡ máu cao là nguyên nhân gây ra tổn thương mạch máu, tăng nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch trong đó có bệnh rối loạn nhịp tim. Trong đó những thực phẩm giàu vitamin A và C có tác dụng chống viêm, chống oxy hóa, giảm căng thẳng, stress; vì vậy nên ăn những thực phẩm bảo vệ mạch máu sẽ rất hữu ích để chống rối loạn nhịp tim.
Một số món ăn trị rối loạn nhịp tim người bệnh nên ăn là:
• Những thực phẩm giàu vitamin A bao gồm: dầu gan cá, khoai lang, cà rốt, rau chân vịt, ớt chuông hay ớt ngọt, quả xoài,…
• Những thực phẩm giàu vitamin C bao gồm: ớt chuông đỏ, quả kiwi, súp lơ trắng, bông cải xanh, dưa lưới vàng, cà chua, khoai tây,…
29. Nhóm thực phẩm chứa nhiều kali
Nghiên cứu cho thấy kali giúp hạ huyết áp – yếu tố nguy cơ của rối loạn nhịp tim, đồng thời hỗ trợ giãn cơ tim sau kích thích từ canxi. Vì vậy, thực phẩm giàu kali nên được bổ sung vào chế độ ăn để tránh tăng nhịp tim.
Người bị rối loạn nhịp tim nên ăn cam, chuối, cà chua, cải bó xôi, khoai tây nướng… Ngoài ra, có thể thay muối bằng gia vị như quế, hồi, thảo quả khi chế biến.
Tuy nhiên, khoai tây và chuối có thể làm tăng đường huyết, nên hạn chế với người nhịp tim nhanh kèm tiểu đường hoặc béo phì.
30. Sữa chua và thực phẩm giàu probiotic
Probiotic trong sữa chua giúp cải thiện sức khỏe đường ruột, gián tiếp tác động đến hệ tim mạch. Một hệ tiêu hóa khỏe mạnh giúp kiểm soát viêm nhiễm, từ đó hỗ trợ duy trì nhịp tim ổn định.
31-Nhóm thực phẩm giúp tăng cường trí nhớ, tập trung:
- Cá béo (cá hồi, cá ngừ, cá thu): Giàu omega-3 – chất béo thiết yếu cho sự phát triển và hoạt động của não bộ.
- Trứng gà: Cung cấp choline – dưỡng chất giúp cải thiện trí nhớ.
- Các loại đậu, hạt và quả khô (óc chó, hạnh nhân, hạt chia, nho khô): Chứa nhiều vitamin E và magie, giúp não hoạt động bền bỉ.
32-Nhóm thực phẩm chống mệt mỏi, tăng sức đề kháng
- Rau xanh đậm (rau bó xôi, cải xoăn, rau ngót): Bổ sung folate và vitamin K – hỗ trợ chức năng thần kinh.
- Trái cây giàu vitamin C (cam, bưởi, kiwi, dâu tây): Giúp giảm stress và tăng miễn dịch.
33-Nhóm thực phẩm giúp duy trì năng lượng ổn định
- Ngũ cốc nguyên cám (gạo lứt, yến mạch, bánh mì nguyên cám): Giàu chất xơ và glucose hấp thu chậm – giúp duy trì năng lượng dài lâu.
- Sữa và các chế phẩm từ sữa (sữa chua, phô mai): Cung cấp protein và canxi, tốt cho giấc ngủ và hệ thần kinh
C-Cách chữa bằng đông dược.
1-Vai trò của thảo dược đông y với bệnh tim đập nhanh
Sử dụng thảo dược Đông y có tác dụng đẩy lùi rối loạn nhịp, ổn định nhịp tim, trong đó phải kể đến Khổ sâm.
Có rất nhiều loại thảo dược tốt cho tim, nhưng không phải dược liệu nào cũng tác động lên được hệ thần kinh tim và điều hòa, ổn định nhịp tim, bảo vệ cơ tim khỏi biến chứng của chứng rối loạn nhịp tim như những cây thuốc nam: Khổ sâm, Đan sâm..
Chẳng phải tự nhiên mà người bệnh lại ưa chuộng phương pháp đẩy lùi rối loạn nhịp tim nhanh từ những thảo dược như Khổ Sâm, Đan Sâm, Hoàng Đằng như vậy.
Bởi nhiều nghiên cứu lớn trên thế giới đã chứng minh tác dụng của các thảo dược này đối với tim đập nhanh, tác động vào đầy đủ các nguyên nhân làm tim đập nhanh và mạnh như rối loạn điện giải, rối loạn dẫn truyền xung động điện tim, ổn định thần kinh điều khiển nhịp tim (thần kinh tim), giảm nhịp tim ở những người hay căng thẳng, stress (nhờ khả năng thư giãn mạch máu). Những vị thuốc nam này không chỉ giúp làm giảm và ổn định nhịp tim, giúp tim đập nhẹ nhàng hơn nhưng vẫn tống máu đi nuôi các cơ quan 1 cách đầy đủ, mà còn giúp giảm cả triệu chứng hồi hộp, đánh trống ngực, mệt mỏi, tức là điều trị cả gốc lẫn ngọn của triệu chứng tim đập nhanh và mạnh. Ngoài các lợi ích kể trên thì dùng thảo dược Đông y đẩy lùi tim đập nhanh còn có những ưu điểm nổi bật như:
● Dùng lâu dài không gây tác dụng phụ
● Điều hòa nhịp tim về ngưỡng an toàn và đặc biệt không làm hạ nhịp tim quá mức, không làm co thắt phế quản nên dùng được cho cả người bị hen, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
● Dùng chung với thuốc giúp tăng hiệu quả của thuốc điều trị
● Giúp thư giãn, giải tỏa căng thẳng hiệu quả mà đây cũng là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả điều trị
Khổ sâm, Đan sâm, Hoàng đằng được bào chế dưới dạng thực phẩm bảo vệ sức khỏe giúp người bị rối loạn nhịp tim nhanh giảm hồi hộp, trống ngực, có tên là Ninh Tâm Vương.
Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Ninh Tâm Vương:
● Hỗ trợ giúp người bị rối loạn nhịp tim giảm triệu chứng hồi hộp, trống ngực
● Hỗ trợ giúp phòng ngừa nguy cơ suy tim do rối loạn nhịp
Sản phẩm phù hợp cho người:
● Rối loạn nhịp tim nhanh (nhịp nhanh nhĩ, thất, nhịp nhanh xoang)
● Đối tượng có nguy cơ cao như: người mắc các bệnh tim, bệnh mạch vành, người bị di chứng sau biến cố tim mạch...
D-CHỮA BỆNH BẰNG KHÍ
1-Ngưng mọi hoạt động thể chất
Khi chúng ta tập thể dục, vận động sẽ khiến cho nhịp tim tăng lên, tim hoạt động nhiều hơn để đưa máu đi nuôi cơ thể. Chính vì vậy, cách hạ nhịp tim lúc này sẽ là lập tức dừng mọi hoạt động và ngồi xuống nghỉ ngơi. Những lúc này tuyệt đối không được gắng sức vận động thêm, nếu không sẽ khiến nhịp tim nhanh hơn nữa
2-Hít thở sâu
Khi ta trong trạng thái hồi hộp, sợ hãi sẽ khiến nhịp tim nhanh hơn, có cảm giác đánh trống ngực. Trong trường hợp này, cách hạ nhịp tim chính là ngồi thư giãn hít sâu thở chậm. Việc này sẽ giúp ta giảm hồi hộp, điều chỉnh lại nhịp đập của tim.
3-Bài tập Vỗ Tay 4 Nhịp chậm
Điều chỉnh được hơi thở dều, làm nhịp tim đều và chữa các bệnh về hẹp van tim, hở van tim, rung nhĩ, rung thất, bơm máu tuần hoàn đều.
4-Không sợ đường cao hay có bệnh tên gọi đường cao do kháng insulin là sai.
a-Đường cao có hai loại đường dương là đường làm ấm chân tay đo nhiệt độ 36.5 độ C, nhịp tim trong tiêu chuẩn là đủ đường, không cần tập làm hạ đường
b-Đường cao thật như 15mmol/l, nhiệt độ chân tay nóng trên 37 độ C, nhịp tim cao trên 90, thì uống nhiều nước làm loãng đường và tập bài Đi Cầu Thang 1 bậc, khi thấy hơi mệt, chóng mặt là đường huyết đã xuống thấp, không cần tập nũa, không tập quá nhiều lại có phản tác dụng.
c-Đường cao mà nhiệt độ tay chân lạnh là đường âm, nhịp tim thấp là trong người lạnh, ngoài da chân tay lạnh, thì cơ thể thiếu đường, uống 10 thìa cà phê đường cát vàng rồi tập bài Đi Con Vịt 10-20 lần, đường huyết sẽ tụt thấp thì đường dương mới uống vào đã giúp làm chân tay ấm, trán hơi xuất mồ hôi và làm tăng áp huyết và nhịp tim, và trước khi đi ngủ nhớ giữ đường dương cao 200mg/dl=11mmol/l để ngủ ngon, không bị đi tiểu đêm hay bị xuất mồ hôi trộm.
Đường âm cao, nhịp tim thấp, áp huyết thấp mà ngủ sẽ chết trong đêm vì tim ngưng đập do thiếu đường, máu đông.
5-Tập bài Thụt Dầu :
Áp huyết thấp, thỉ ăn sữa đặc Ông Thọ pha thêm đường cho tăng đường cao rồi tập bài Thụt Dầu 10 lần, rồi nghỉ đo lại áp huyết và đường sẽ thấy đường cao bị tụt thấp sẽ biết đường mất đi đâu, đã làm gì, thì chính nhờ đường đã chuyển hóa thức ăn đạm còn trong bao tử thành máu, khi máu tăng thì khí tâm thu tăng theo, theo lý thuyết của động y. Nếu chỉ uống đường mà không phối hợp với đạm thì sau khi tập chỉ tăng khí tâm thu tạm thời mà không có đạm để tăng máu thì khí tâm thu lại tụt thấp sau khi tập. Không được tập nhiều làm tụt mất nhiều đường hết đường cho tim thì tim ngưng đập gọi là đột quỵ, thường xẩy ra với người đường huyết thấp mà tham dự chạy Marathon. Ngoài ra đường thấp mà tắm đêm lạnh, hay sáng chạy bộ ngoài bãi biển cũng bị đột quỵ do tụt đường huyết tim ngưng đập
6-Tập bài Đi Con Vịt.
Trước khi tập cũng cần phải cho đường huyết cao, hay chỉ những người có đường huyết cao, áp huyết cao, chân lạnh, đo nhiệt độ hay đường huyết dưới chân thấp, sưng chân, đau mắt cá chân, hẹp hay phình tĩnh mạch chân, tắc động mạch háng, táo bón, bệnh tử cung, tuyến tiền liệt, kinh nguyệt không đều, bệnh đường ruột, chân yếu không có sức, sẽ khỏi bệnh, mà bài tập này không làm tăng áp huyết, khi tập chỉ làm xuất mồ hôi trán thì ngưng, tập xong đo lại áp huyết 2 tay và đo đường để kiểm chứng xem nên ngưng hay uống đường tập tiếp cho áp huyết lọt vào tiêu chuẩn tuổi.
7-Bài tập Lăn Người.
Mục đích chuyển hóa đường và máu trộn đều khắp cơ thề cho đường và máu lên nuôi não tăng cường trí nhớ, máu và đường xuống chân lưng chữa thoái hóa cột sống, chữa đau nhức toàn thân, cho khí máu và đường thông lên tai giúp tai nghe rõ hết bị ù tai, thông lên mắt làm sáng mắt, cho bao tử chuyển hóa thức ăn khi nằm úp thức ăn trôi xuống ruột dễ dàng. Người già lớn tuổi không lăn được, cần người giúp đẩy người họ lăn từ đầu giường xuống cuối giường rồi lăn trở lại đầu giường kể là 1 lần, lăn 5-10 lần, trong lúc lăn cảm thấy chóng mặt thì ngưng vì đường đã tụt thấp, không được tập nhiều lần sẽ bị hoa mắt, chóng mặt.
Người bị tê liệt chân tay, hay bệnh Parkinson cũng nên tự tập bài này, hay nhờ người giúp mình tập Lăn Người để chia đều khí máu đường đi toàn thân làm mềm tay chân, tăng sức mạnh cho tay chân.
Đặc biệt những người bị u não, mô não bị đông do thiếu máu và đường lên nuôi não, do kiêng đường, thiếu máu gây ra bệnh đau nửa dầu, rối loạn tiền đình, thì lăn người chậm để đầu luôn thấp cho máu thông lên đầu. khi cảm thấy hơi chóng mặt thì ngưng, đo lại đường huyết thiếu thì uống thêm đường mới lăn người tiếp.
Ngoài ra bài tập này cũng phát giác ra bệnh tắc nghẹt bao tử khiến thức ăn không tiêu sẽ bị nôn ra những bã thức ăn trong bao tử tích tụ lâu ngày, thì thoát khỏi nguy cơ loét bao tử và ung thư bao tử, nên trước khi lăn người uống 1 thìa baking soda pha 5 thìa cà phê đường cát vàng, mục đích baking soda phá vỡ nhỏ những cục bã thức ăn cho chúng thoát ra bằng 2 lối, ra khỏi miệng nhanh khi ói hay lọt xuống ruột nhanh để đi cầu.
8-Nằm úp bụng lên chai nước nóng 40 độ
Áp dụng cho những ai bị cứng bụng, ăn không tiêu thì nằm úp bao tử đè lên chai nước nóng (dùng chai bằng thủy tinh) để chữa bao tử, hay úp bụng đè lên gan chữa chai cứng gan, chữa cả gan nhiễm mỡ hay sạn mật, nếu có bệnh đau ruột, úp bụng đẻ lên ruột, hay bướu tử cung do hàn lạnh, đau bụng kinh nguyêt, sưng tuyến tiền liệt, tiểu nhiều hay bí tiểu, bài tập này cần nằm lâu trên 30 phút.
Muốn làm giảm đau thì uống thêm đường, muốn làm mềm bướu, vỡ polyp hay khối u trong ruột hay ung thư ruột thì uống 1 thìa baking soda pha 5 thìa đường cát vàng trước khi tập.
Dấu hiệu ung thư ruột hay polyp trong ruột thì đi cầu ra những cục phân nhỏ, ngắn, cục phân không to dài đầy đặn mà bị lẹm một bên, sau môt thời gian áp dụng bài này sau mỗi bữa ăn sẽ đi ra phân mềm, ra nhiều hơn, phân mầu vàng có thành khuôn dài hơn, là đường ruột đã thông không còn polyp hay bướu trong đường ruột, thoát khỏi bị mổ cắt bỏ khúc ruột bị ung thư.
9-Cách kiểm soát lượng máu, lượng đường trong cơ thể đủ hay thiếu.
Thỉnh thoảng ngồi xuống đứng lên 10 lần, thấy chóng mặt là đang thiếu đường, khi uống đường thử ngồi xuống đứng lên hết chóng mặt là đủ đường.
Thỉnh thoảng thử khi đang nằm mà ngồi dậy thấy chóng mặt hoa mắt là cơ thể thiếu máu, hay máu không lên đầu. phải đo áp huyết và đường để kiểm chứng.
Có người bị cà hai loại vừa thiếu máu, vừa thiếu đường thì phải kiêng ăn chua, cần uống thêm đường và protein để tạo máu mà dễ tiêu không bị đầy năng bụng thì không gì tốt hơn là ăn thêm sữa đặc Ông Thọ pha thêm đường cát vàng mỗi ngày, và thử lại bài tập này cho đến khi tập 2 bài này không còn thấy chóng mặt nữa.

(tiếp theo PHẦN 15)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 6 Tháng 5 30, 2025 6:56 am

PHẦN 15
PHẦN 15-Môn học Y Học Bổ Sung Khí Công Y Đạo tự chữa bệnh từ cơ bản đến nâng cao.

Theo dõi áp huyết sau mỗi bữa ăn để ngăn ngừa bệnh ung thư.

https://youtu.be/zjHn09jMUWE
I-Điều kiện tế bào bị ung thư.
1-Tế bào được nuôi dưỡng bằng 4 chất glucose, protein, lipid, oxy. Chúng kết hợp với nhau tạo thành máu nuôi thịt, mỡ nuôi xương. Theo lý thuyết tây y glucose + protein, là đường và đạm động vật hay thực vật tạo thành máu, tăng lượng máu, hồng cầu, bạch cầu, máu nuôi thịt phát triển cơ bắp , glucose kết hợp với chất béo lipid tạo ra vỏ bọc tế bào, tạo ra da bào vệ bên ngoài cơ thể, và năng lượng dự trữ để cơ thể phát triển là lipoprotein cũng được biến đổi ra đường.
2-Theo dõi áp huyết sau mỗi bữa ăn sẽ cho ra 3 số là khí lực tâm thu, huyết lực tâm trương và nhiệt lượng duy trì khí và máu mang ý nghĩa như sau :
a-Tâm thu là tổng số lượng khí oxy mà tế bào cần trong cơ thể do từng mỗi bữa ăn cung cấp đủ hay thiếu theo tiêu chuẩn tuổi
b-Tâm trương là tổng số huyết lực do thức ăn đúng hay sai do mỗi bữa ăn đem lại.
c-Nhịp tim là nhiệt lượng do thức ăn đem lại đúng hay sai của mỗi bữa ăn đủ hay thiếu cũng theo tiêu chuẩn tuổi.
Theo tây y, tất cả các thức ăn vào cơ thể đều được các enzyme chuyển hóa thành năng lượng đường. Như vậy tế bào khỏe hay tế bào bệnh trở thành tế bào ung thư cũng cần đường, khi thiếu môt trong 4 chất như thiếu glucose cũng bị ung thư, thiếu máu cũng bị ung thư, thiếu oxy cũng bị ung thư.
Tế bào ung thư là những tế bào thiếu nhiều đường, nhiều oxy, nhiều máu nhất, nên có những lý thuyết là cấm không ăn đường, vì tế bào ung thư ăn nhiều đường nhất, ăn đường sẽ làm tế bào ung thư phát triển là sai.
Nói theo tây y, muốn tiêu diệt tế bào ung thư thì trong thức ăn cấm đường tuyệt đối để cho tế bào ung thư không có đường sẽ bị đói chết, thì quá vô lý, các tế bào lành chiếm đa số 90% cũng bị bỏ đói thiếu đường lại trở thành ung thư. Nhưng dủ kiêng đường, thì các tinh bột đường các thức ăn vào cơ thể đều biến thành đường cơ thể mới tạo ra năng lượng ATP, nên hiện nay có nhiều nhà khoa học đặt ngược lại vấn đề.
II-Tế bào ung thư có chết nếu không có đường không?
Câu hỏi này dựa trên một ý tưởng phổ biến rằng đường "nuôi dưỡng" ung thư và bằng cách loại bỏ hoàn toàn đường khỏi chế độ ăn, chúng ta có thể tiêu diệt được tế bào ung thư. Mặc dù khái niệm này chứa đựng một phần sự thật khoa học, nhưng thực tế lại phức tạp hơn thế.
1. Tế bào ung thư tiêu thụ những gì
Tế bào ung thư có quá trình trao đổi chất rất tích cực. Chúng cần rất nhiều năng lượng để sinh sôi nhanh chóng.
Chúng chủ yếu sử dụng glucose (đường) làm nguồn năng lượng, thông qua một quá trình gọi là đường phân kỵ khí, ngay cả khi có oxy (hiệu ứng Warburg).
Điều này có nghĩa là chúng tiêu thụ nhiều glucose hơn các tế bào bình thường.
2. Vậy, việc cắt giảm đường có khiến tế bào ung thư bị đói không?
Không hẳn vậy.
Mặc dù tế bào ung thư tiêu thụ nhiều glucose hơn, nhưng tất cả các tế bào trong cơ thể (bao gồm cả tế bào khỏe mạnh trong não, cơ, v.v.) cũng cần glucose.
Cơ thể con người sản xuất glucose từ các nguồn khác (protein, chất béo) thông qua một quá trình gọi là tân tạo glucose, ngay cả khi nhịn ăn hoặc ăn kiêng không đường.
Nói cách khác, hầu như không thể "tước bỏ" hoàn toàn glucose khỏi tế bào ung thư mà không gây hại cho toàn bộ cơ thể.
3. Chế độ ăn uống có vai trò gì?
Mặc dù chúng ta không thể "làm chết đói" tế bào ung thư chỉ bằng cách cắt giảm đường, chế độ ăn uống có tác động thực sự đến sự tiến triển của một số loại ung thư:
Chế độ ăn nhiều đường bổ sung và thực phẩm chế biến có thể gây viêm, tăng cân và kháng insulin, đây là những yếu tố nguy cơ gây ra một số bệnh ung thư.
Ngược lại, chế độ ăn uống cân bằng giàu chất xơ, rau, chất chống oxy hóa và chất béo lành mạnh có thể giúp ngăn ngừa ung thư hoặc cải thiện khả năng kiểm soát trong quá trình điều trị.
4. Các chuyên gia nói gì?
Các nhà nghiên cứu không khuyến nghị loại bỏ hoàn toàn carbohydrate hoặc đường trong quá trình điều trị ung thư.
Một số chế độ ăn cụ thể (như chế độ ăn ketogenic, rất ít carbohydrate) là chủ đề của các nghiên cứu đầy hứa hẹn, nhưng chúng vẫn chưa được xác nhận là phương pháp điều trị tiêu chuẩn.
Chế độ ăn kiêng này phải được giám sát y tế vì nó có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro và không phù hợp với tất cả mọi người.
Kết luận
Không, tế bào ung thư không chết chỉ bằng cách loại bỏ đường khỏi chế độ ăn.
Tuy nhiên, việc giảm lượng đường tinh luyện dư thừa và áp dụng chế độ ăn uống lành mạnh có thể giúp kiểm soát tốt hơn một số yếu tố nguy cơ ung thư và cải thiện sức khỏe tổng thể trong quá trình điều trị.
III-Ngăn ngừa ung thư bằng cách theo dõi áp huyết sau mỗi bữa ăn đúng hay sai
1-Tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi của những người khỏe mạnh không bệnh tật là

2-Nhìn vào số đo áp huyết sau khi ăn biết những số nào làm tế bào sẽ bị ung thư :
Thí dụ chúng ta lấy tuổi trung niên làm thí dụ, Tế bào trong cơ thể khỏe mạnh không bệnh tật, sẽ có số tâm thu là 120-130, tâm trương là 70-80mmHg, nhiệt lượng trong máu là nhịp tim 70-75
Điều kiện 1-Tế bào thiếu oxy :
Có áp huyết tâm thu 90mmHg là ung thư giai đoạn 1
Có áp huyết tâm thu 85mmHg là ung thư giai đoạn 2
Có áp huyết tâm thu 80mmHg là ung thư giai đoạn 3
Có áp huyết tâm thu 75mmHg là ung thư giai đoạn 4
Có áp huyết tâm thu 70mmHg là ung thư giai đoạn chết

Điều kiện 2.
Tâm thu chuyển hóa nghịch, trước khi ăn khí trong bao tử phải nhẹ là 120, sau khi ăn khí trong bao tử phải đầy 130, thì ngược lại, sau khi ăn lại nhẹ 120 là nghịch, có nghĩa lượng thức ăn ít, không đủ chất tạo khí, tạo máu, tạo nhiệt lượng. Tâm thu bao tử chuyển hóa nghịch có nghĩa bao tử không chuyển hóa thức ăn xuống ruột mà trào ngược lên họng
Điều kiện 3.
Sau khi ăn, Tâm thu tay trái phải cao 130, tâm thu tay phải, phải thấp 120 là chuyển hóa thuận, ngược lại tâm thu tay phải cao hơn tay trái là gan không làm việc hấp thụ được máu từ thức ăn.
Điều kiện 4.
Sau khi ăn, tâm thu 2 tay bằng nhau, là bộ máy tiêu hóa ngưng không hoạt động, nên bữa ăn hôm đó không tạo khí, tạo máu, đủ đường nuôi tế bào, khiến các tế bào bị bỏ đói.
Điều kiện 5.
Sau khi ăn tâm trương tay trái là bao tử phải cao 80 mới đủ lượng thức ăn, ít hơn như 60 thì lượng thức ăn không đủ tạo máu.
Điều kiện 6.
Sau khi ăn tâm trương tay phải là gan chứa máu hấp thụ thức ăn thành máu phải cao 80, nếu thấp dưới 65, hay 60 là cơ thể bị mất máu, thì tế bào mất máu sẽ bị ung thư.
Điều kiện 7.Nhiệt lượng máu.
Là nhịp tim không nằm trong tiêu chuẩn tuổi 70-75, có 2 loại, thấp dưới 60 là cơ thể hàn do không đủ dường cát vàng để duy trì nhiệt lượng máu, và cao hơn như trên 90 là nhiệt lượng máu cao, là âm hư nội nhiệt là cơ thể thiếu máu, hay tế bào thiếu máu trầm trọng, liên quan đến lượng đường dương trong máu thấp dưới 6mmol/l=100mg/dl, hay thừa đường âm cao trên 200mg/dl mà nhịp tim thấp dưới 60, và nhiệt độ tay chân thấp dưới 36 độ C
Điều kiện 8.Đường huyết thấp áp huyết cao sau khi ăn
Như sau khi ăn đường huyết dưới 6-8mmol/l, thì ap huyết cao trên 140-150mmHg, thì bao tử không chuyển hóa và gan không hấp thụ máu
Điều kiện 9.Đường huyết thấp áp huyết thấp sau khi ăn.
Sau khi ăn đường huyết thấp, áp huyết thấp, nhịp tim thấp, nhiệt độ chân tay thấp. Không đủ chất nuôi tế bào.
Điều kiện 10. Áp huyết giả
Sau mỗi bữa ăn, thức ăn làm áp huyết tâm thu cao, mà đường huyết thấp và nhịp tim cao, gọi là áp huyết giả, mà chúng ta thường gặp do chọn thức ăn uống hay ăn kiêng sai lầm vô tình tạo điều kiện cho tế bào bị thiếu chất mới trở thành tế bào ung thư phát triển.
IV-Cách chuyển đổi áp huyết giả thành áp huyết thật để ngăn ngừa ung thư.
Do không biết loại thức ăn nào đúng hay cách ăn nào đúng hay sai, chúng ta phải biết cách chuyển đổi áp huyết giả thành áp huyết thật, trước ăn và sau như các ví dụ sau đây để biết xem bữa ăn đó có làm cho tế bào bị ung thư hay không :
Chọn tuổi trung niên làm ví dụ :
Trường hợp : Bài tập mẫu
1-Trước ăn : Đo tay phải, trước ăn 111/76mmHg 97 đường huyết 110mg/dl
Lấy nhịp tim tiêu chuẩn 75, do thiếu máu nhịp tim phải đập nhanh hơn 97 trừ 75, nhanh hơn 22 nhịp, áp huyết thật tâm thu sẽ là 111-22= 89mmHg
Áp huyết tâm trương sẽ là 76 trừ ½ của 22, còn 65mmHg
Áp huyết thật trước ăn sẽ là 89/65mmHg 75, là ung thư giai đoạn 1, tây y chưa phát hiện, nếu pH nước bọt 6.5-7.0 chỉ là bướu mỡ lành do máu mỡ đặc, nếu pH 5.5 là ung thư ác tính.
2-Sau ăn : Đo tay phải 99/67mmHg 107, đường huyết 103mg/dl
107-75=32 nhanh hơn 32 nhịp
Áp huyết tâm thu thật 99-32=67mmHg
Áp huyết tâm trương thật 67 trừ ½ 32= 21mmHg
Áp huyết thật 67/21mmHg 75 đây là ung thư do ăn sai, sau khi ăn người rất mệt, tức nghẹt tim ngực khó thở, chóng mặt do thiếu máu, có thể chết nếu người đã gầy bị sụt cân, ngược lại nếu người còn năng lượng dự trữ thì cơ thể tự điều chỉnh lượng đường và lượng máu nuôi tế bào, nên người sẽ bị sụt cân dần cho đến khi trong người không còn năng lượng dự trữ nữa mới bị chết vì ung thư chứ không phải chết ngay.
Chứng tỏ có lúc ăn đúng đủ thức ăn bổ máu bổ đường thì tế bào suy yếu sắp trở thành tế bào ung thư được phục hồi, như vậy trong cuộc đời của chúng ta cũng có lúc thức ăn làm cho tế bào khỏe mạnh, cũng có lúc ăn kiêng làm cho tế bào suy yếu sắp trở thành ung thư mà chúng ta không biết, nên để phòng ngừa tế bào ung thư, chúng ta phải theo dõi thức ăn uống đầy đủ khí, máu, đường bằng cách theo dõi áp huyết trước và sau khi ăn.
V-BÀI TẬP CHUYỂN ĐỔI ÁP HUYẾT GIẢ THÀNH ÁP HUYẾT THẬT CỦA MỖI BỮA ĂN.
Trường hợp 1 .
Tay trái 107/79mmHg 95
Sau khi uống 1 lon Coca 120/82mmHg 93, đường huyết 8.9mmol/l
Trường hợp 2 :
105/71mmHg 99 sau khi ăn 1 bát cơm, đường+ sữa 106/73mmHg 98 đường huyết 7.4 mmol/l
Trường hợp 3 :
Tay trái 106/77mmHg 90, tay phải 105/72mmHg 92
Trường hợp 4 :
Trước ăn 118/77mmHg 80 đường huyết 6.6mmol/l,
sau ăn 106/72mmHg 86 ăn bún chay+ đường sữa, đường huyết 7.5mmol/l
Trường hợp 5 :
Trước ăn 114/77mmHg 83 đường huyết 6.5mmol/l
Sau ăn: 116/82mmHg 97 ăn cơm rau muống, củ cải nấm sữa, nước ép củ cải + đường, đường huyết 9.6mmol/l
Trường hợp 6 :
Trước ăn : 111/75mmHg 94 đường huyết 8.5mmol/l
Sau ăn : 105/74mmHg 94 nước mía chanh, bánh mì sữa đường gừng,cơm rau cải xanh, 1 quả trứng, đường huyết 11,4mmol/l
Trường hợp 7 :
Tay trái 112/76mmHg 99, tay phải 116/76mmHg 92
Nằm úp bụng tay trái 113/75mmHg 99, tay phải 129/80mmHg 97
Trường hợp 8 :
Đói : TT 90/65mmHg 95, TP 109/66mmHg 87
No TT 93/70mmHg 102, TP 109/74mmHg 100
Nàm úp bụng TT 110/76mmHg 97, TP 111/72mmHg 94
Uống baking soda đường, nằm úp TT 106/75mmHg 89, TP 114/77mmHg 88
Trường hợp 9 :
Đói, TT 113/85mmHg 99, TP 120/83mmHg 98, đường huyết 8,6mmol/l
No TT 108/77mmHg 98 , TP 110/78mmHg 94
Ăn canh rau cải xanh, 1 bát cơm + sữa, đường huyết 9.1mmol/l
Trường hợp 10 :
Đói : TT 115/73mmHg 95, TP 119/82mmHg 92
No TT 111/74mmHg 95, TP 122/82mmHg 100 đường huyết 8.3mmol/l
Đã uống 9 thìa bột Whey+5 thìa cà phê đường cát vàng+sữa, đường huyết 8.3mmol/l
Trường hợp 11 :
Đói TT 103/78mmHg 87, TP 114/79mmHg 85, đường huyết 6.3 mmol/l
No TT 115/73mmHg 95, TP 119/82mmHg 92
Ăn 4 thìa bột Whey + 5 thìa cà phê đường cát vàng + sữa, đường huyết 8.3 mmol/l
Trường hợp 12 :
Đói TT 111/74mmHg 99, TP 122/82mmHg 102, đường huyết 8.3mmol/l
Trường hợp 13 :
Đói TT 127/85mmHg 110, TP 130/85mmHg 114, đường huyết 6.8 mmol/l
Trường hợp 14 :
TT 127/92mmHg 81, TP 139/98mmHg 76 đường huyết 96mg/dl
Trường hợp 15 :
Đói TT 109/75mmHg 78, TP 100/57mmHg 78 đường huyết 7.2 mmol/l
No TT 117/70mmHg 90, TP 108/67mmHg 80, đường huyết 9.9mmol/l
Trường hợp 16 :
Đói 93/67mmHg 75 đường 5.8mmol/l
No 87/61mmHg 77 đường 7.1mmol/l
Trường hợp 17 :
No TT 130/76mmHg 101, TP 129/73mmHg 97 đường huyết 128mg/dl
Trường hợp 18 :
Đói TT 105/65mmHg 76, TP 100/60mmHg 75, đường huyết 6 mmol/l
Trường hợp 19 :
Dói TT 108/63mmHg 58, TP 102/69mmHg 61 đường huyết 7.4mmol/l
Trường hợp 20 :
TP 177/90mmHg 67, đường huyết 247mg/dl
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 6 Tháng 5 30, 2025 12:31 pm

PHẦN 16
THẮC MẮC VỀ PHAN TẢ DIỆP THẢI ĐỘC GAN ĐƯỢC KHÔNG

https://youtu.be/Jxfz-5gakq4
Câu hỏi 1 :
Dạ thưa thầy con đã xem cả ngày lẫn đêm.. Nhưng không biết con uống phan tả diệp để thải độc gan có được không ạ.. Con là nam 38 tuổi sau ăn 4h.. Nặng 70kg bị viêm gan mạn tính, huyết áp tay trái 120/75/79.. Huyết áp tay phải 118/75/82..Nhiệt độ trán 36.4.. Ngón út tay trái 36.2.. Chân trái 35.8.. Đường huyết 102.. Độ pH6 ...con muốn hỏi thầy nhìn vào số đo huyết áp con uống phan tả diệp được không.. Nhưng con không may mắn được thầy đọc tin nhắn.. Vì thầy nhìn số đo huyết áp thầy biết ngay bị bệnh gì
Trả lời :
Không học kỹ từng câu mà chỉ đọc lướt qua tìm vào bệnh của riêng mình thì nói là không có là sai rồi. Trong khi bài nói trường hợp nào được uống chanh, mục đích uống chanh làm gì, mục đích uống phan tả diệp làm gì, từ đó mình xem số đo AH của mình, số nào được uống chanh, số nào được uống Phan Tả Diệp.
Câu hỏi 2 :
Dạ vâng con xin lỗi thầy.. Con cứ nghĩ đưa ra số đo thì thầy sẽ nói luôn bệnh và nên uống hay không.. Và cần thiết uống những gì.. Con theo dõi 13 phần.. Không thấy những trường hợp nào không được phép uống chanh và phan tả diệp hoặc những thứ khác.. Lại tiếp tục xem video.. Thầy nhìn vào số đo huyết áp đó mà trả lời luôn thì tuyệt vời quá
Trả lời :
Các câu hỏi thắc mắc được giải thích trong 13 bài học từ Phần 1-13 rồi
Câu hỏi 3 :
Lại là con đây ạ.. Huyết áp tay trái 120/75/79..chân trái 122 /72/81...huyết áp tay phải 118/75/82..chân phải 123/71/78..Nhiệt độ trán 36.4.. Đường huyết 102.. Con là trai 38 tuổi nặng 69.5kg..cho con hỏi với số đo đó.. Con uống phan tả diệp được không.. Nếu uống chanh có được không ạ.. Con phải sử dụng gì để chữa bệnh... Số đo đó thì con bị bệnh nặng không ạ
Trả lời :
Học cách tự chữa từ bài phần 1 đến phần 13
Câu hỏi 4 :
Con muốn hỏi số đo đó được phép uống chanh và phan tả diệp.. Được hay không.. Nhưng thầy không nói rõ ràng
Dạ chào thầy con (nam) 38 tuổi huyết áp tay trái 120/75/79...chân trái 122 /74/81..Nhiệt độ trán 36.4 độ C..Nhiệt độ ngón út tay trái 36.2.. Chân trái 36.2.. Huyết áp tay phải 118 /75/82..chân phải 123/71/78..độ pH 6.5...Dạ con muốn hỏi là con bị làm sao không ạ.. Con uống phan tả diệp và chanh được hay không ạ
Trả lời :
Yếu tố hấp thụ và chuyển hóa thức ăn, thuốc uống đúng hay sai cần phải đo tất cả các chỉ số của 4 yếu tố trên lúc đói trước khi ăn và lúc no sau khi ăn 30 phút
Câu hỏi 5 :
Đây là phản hồi của bệnh nhân trong video Phần 15
Con đo tất cả số đo gửi cho thầy Gmail thì thầy lại nói xem toàn bộ clip rồi tự chữa lành.. Đệ tử của thầy thì bán thuốc lọ nhỏ 700k..Không có thành phần trong thuốc.. Cũng không biết làm sao.
Trả lời :
Ai bán thuốc thì hỏi người ấy không liên quan đến môn Y Học Bổ Sung tự chữa lành bệnh không dùng thuốc.
Nhận xét :
1-Bệnh nhân muốn tôi trả lời ngay vào cách chữa ngọn viêm gan mạn tính, có dùng Phan Tả Diệp được không.
Nhưng theo phương pháp Y Học Bổ Sung, không phải bệnh nhân kể bệnh viên gan mạn tính mà tin ngay được, mặc dù bệnh nhân đã được thầy thuốc đông y nào hay kết quả của tây y cho biết là viêm gan.
2-Theo KCYD, muốn biết bệnh của gan hay bao tử, thì phải xem chức năng chuyển hóa của gan hay bao tử trước khi ăn và sau khi ăn xem chuyển hóa thuận hay nghịch, chuyển hóa bao nhiêu phần trăm, thì bệnh nhân không thực hiện đo áp huyết 2 tay trước và sau khi ăn, cứ vẫn giữ số đo áp huyết cũ không biết là trước khi ăn hay sau khi ăn.
3-Áp huyết tiêu chuẩn tuổi 38 là 110-120/65-70mmHg 65-70
Áp huyết của bệnh nhân sau ăn 4 tiếng cho biết là
tay trái 120/75/79, tay phải 118/75/82, đường huyết 102mg/dl.
Phải đo sau khi ăn 30 phút sẽ khác, còn sau 4 tiếng sẽ có 2 trường hợp :
Bệnh nhân không chịu phân tích áp huyết của mình theo hướng dẫn của bài Phần 15,
a-Nếu là trước khi ăn, thì áp huyết tay phải cao 118 là đúng, thì tay trái phải thấp 110 mới đúng, nhưng chưa ăn bao tử đã đầy là do đường huyết thấp 102mg/dl không chuyển hóa hết thức ăn, thì bệnh tại bao tử thiếu đường chuyển hóa thức ăn.
b-Nếu là sau khi ăn, thì áp huyết tay trái cao 120 là đúng thỉ áp huyết bên gan phải thấp 110, thì chuyển hóa của gan 100%, nhưng gan vẫn còn cao 118mmHg chuyển hóa có 20%, nguyên nhân do đường huyết thấp 102mg/dl thay vì phải 200mg/dl
Như vậy dù áp huyết này là trước ăn hay sau ăn, thì nguyên nhân do đường huyết thấp không đủ tiêu chuẩn đói 140, no 200mg/dl
4-Áp huyết thay đổi từng mỗi bữa ăn khác nhau, ăn đúng thì áp huyết tốt, ăn sai thì áp huyết lọt ra ngoài tiêu chuẩn, vì thế tôi nhắc nhở bệnh nhân xem bài Phần 15, mà vẫn không áp dụng thử tính ra áp huyết thật xem sao.
Tay phải 118/75/82 có nhịp tim cao 82 so với tiêu chuẩn 70, thì nhanh hơn 12 nhịp, thì áp huyết thật bên gan sẽ là : tâm thu 118 trừ 12=102mmHg, tâm trương 75 trừ 6= 69mmHg
Áp huyết thật bên gan sẽ là 102/69mmHg 75 đường huyết 102mg/dl.
Nếu áp dụng Phan Tả Diệp, thì phải biết công dụng của Phan Tả Diệp làm hạ áp huyết và hạ đường, mất máu. Hay uống chanh đường là tăng đường, hạ áp huyết, nếu lợi dụng Phan tả diệp khi áp huyết thật xuống 90mmHg là gan bị ung thư giai đoạn 1 rồi.
Cách chữa :
Không phải dùng Phan Tả Diệp mà phải thay đổi thức ăn có tinh bột đường làm tăng đường huyết lên 200mg/dl và sau khi ăn nằm úp bụng cho gan đè lên chai thủy tinh đựng nước nóng 40 độ C, cho gan mềm, tiêu gan nhiễm mỡ để tăng cường chức năng gan.
Phải mua máy đo áp huyết và máy đo đường huyết theo dõi sức khỏe cho mình suốt đời từng mỗi bữa ăn, luôn luôn đổi áp huyết giả ra áp huyết thật để ngừa ung thư. Đó là cách tự mình chữa khỏi bệnh là đối chứng trị liệu, thiếu gì bù nấy là bổ, trường hợp này là thức ăn tăng tinh bột đường để làm tăng đường huyết chuyển hóa thức ăn, cái gì thừa thì tả cũng là thay đổi thức ăn và tập các bài tập phù hợp, tùy theo mỗi bữa ăn khác nhau.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 5 Tháng 6 12, 2025 9:37 pm

PHẦN 17
Phải lọc thận do si mê tự hại chính mình.

https://youtu.be/g3kcliI1KSg
Đôi khi chúng ta tự hỏi tại sao con người cứ phải tái sinh nhiều lần để phải chịu đau khổ vì bệnh tật, hóa ra con người sinh ra là để học hỏi và tiến hóa trong mỗi lần tái sinh.
Thượng đế đã ban cho chúng ta mọi thực phẩm để chúng ta tự sống và trải nghiệm, vì thế không có loại cây cỏ hoa trái rau củ quả nào là thừa, nhưng chính chúng ta nghiên cứu rồi người này nói ăn cái này tốt cho sức khỏe, lại có người khác bài bác ăn cái này có hại cho sức khỏe, ngay cả do nguồn tin khoa học nghiên cứu theo thời gian cũng thay đổi như trước kia cho là đúng ngày nay cho là sai, hay do kinh nghiệm của một nhóm người phổ biến. Nhiều tin tức trái chiều, không biết cái nào đúng cái nào sai. Đấy chính là mục đích tự mình phải học hỏi để tiến hóa, có thể tiến hóa từ người tiến hóa lên thành thánh thành thần, hay thoái hóa thành súc sanh, như con người thì biết ăn ngon, còn trâu bò thì ăn cỏ, như lợn thì ăn cám… các thức ăn khác nhau cho từng loại người, loại thức ăn làm cho con người khỏe mạnh sống thọ, loại thức ăn làm cho mọi người bệnh tật giảm thọ, có nghĩa trời sinh ra mọi thứ để chúng ta trải nghiệm học hỏi tự nghiên cứu loại thức ăn nào phù hợp với mình, có thứ hợp với người này nhưng không hợp với người khác, chứ không phải những thức ăn đó là thừa vô ích hại người.
Trải qua hơn 4000 năm, đông y đã có kinh nghiệm phân loại thức ăn theo vị khí là mặn, ngọt, chua, cay, đắng; phân loại thức ăn theo hàn, nhiệt, phân loại thức ăn theo khí, huyết loại nào tăng khí, loại nào làm giảm khì; rồi lại tìm ra phương pháp bắt mạch để biết tình trạng sức khỏe của cơ thể mỗi người khác nhau về khí huyết hư thực hàn nhiệt như thế nào để chọn ra các loại thức ăn nào phù hợp giúp cho con người khỏe mạnh không bị bệnh tật.
Kinh nghiệm này của đông y càng ngày càng thấy đúng cũng nhờ sự tiến bộ của khoa học, đã chế ra máy đo áp huyết, máy đo đường, súng bắn nhiệt kế, giấy qùy thử pH nước bọt, thay cho bắt mạch cơ thể con người để biết tình trạng sức khỏe về khí huyết hư thực hàn nhiệt như thế nào, rồi lại đối chứng với các loại thức ăn uống để kiểm chứng sau khi ăn uống, thức ăn uống đó đã làm thay đổi khí huyết hư hay thực, hàn hay nhiệt, nếu nó làm cho áp huyết của mình lọt vào tiêu chuẩn thì chúng ta đã học hỏi và tiến hóa đúng, nếu thức ăn thuốc uống đó làm cho áp huyết của mình lệch chuẩn gây ra bệnh là mình đã học hỏi sai lầm gây ra bệnh làm giảm tuổi thọ.
Thế giới loài người hiện nay cũng đang tranh cãi về chất ngọt và đường cũng là một học hỏi để tiến hóa, có nhiều lý thuyết thuận chiều, nhiều lý thuyết trái chiều, cũng là một thử thách mà chúng ta cần phải trải nghiệm và học hỏi để tiến hóa làm sao cho cơ thể khỏe mạnh không bị bệnh tật.
Đề tài học hỏi trong thời đại ngày nay là đường làm hại cơ thể hay làm lợi cho cơ thể, thì chúng ta phải nghiên cứu 2 lý thuyết của ngành y hiện nay.
I-Khái niệm tổng quát :
1-Tế bào cần 4 chất glucose+Protein+Lipid+ Oxy, để chúng phối hợp với nhau tạo ra lượng máu từ glucose+protein để các tế bào nuôi thịt, và glucose+lipid tạo ra mỡ nuôi các tế bào da, xương, cốt, tủy, thần kinh.
2-Sự sống của con người lệ thuộc vào tổng số hơn 40 ngàn tỷ tế bào, có nghĩa cơ thể phải có đủ lượng oxy duy trì sự sống cho tế bào, đủ lượng máu, mỡ và lượng đường nuôi tổng số 40 ngàn tỷ tế bào, tùy theo trọng lượng cơ thể con người nên phải có số lượng oxy, lượng máu, lượng đường cụ thể bằng con số, do lượng thức ăn của mỗi bữa ăn cung cấp số lượng khí, máu, đúng hay sai được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết và máy đo đường huyết trước khi ăn và sau khi ăn.
3-Nếu tổng số hơn 40 ngàn tỷ tế bào thiếu đường sẽ phát sinh ra bệnh do hậu quả thiếu đường, nếu tế bào thiếu máu sẽ phát sinh ra bệnh do hậu quả thiếu máu, nếu tế bào thiếu oxy sẽ phát sinh ra bệnh do hậu quả thiếu oxy .
4-Lấy tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi, và trọng lượng cơ thể theo chiều cao để kiểm chứng kết quả áp huyết của mỗi bữa ăn do thức ăn có duy trì lượng oxy, lượng máu, lượng đường, đúng theo tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi hay không, nếu thiếu tiêu chuẩn thì tế bào sẽ gây ra bệnh.
II.Nguyên nhân tại sao ngày nay chúng ta lại bị nhiều bệnh không đáng có.
1-Hai tiêu chuẩn đường huyết trái chiều :
Hiện nay ngành y chữa bệnh bị lệ thuộc vào ngành y kinh doanh ấn định tiêu chuẩn cho ngành y chữa bệnh phải tuân thủ tiêu chuẩn đường huyết mới từ 3.9-5.9mmol/l thấp hơn so với tiêu chuẩn cũ năm 1979 của cơ quan Y Tế Thế Giới từ 6.0-11.0mmol/l .
Cho nên hiện nay ai có đường huyết nằm trong tiêu chuẩn thấp này 3.9-5.9mmol/l tương đương 70.2-106.2mg/dl thì không bị bệnh tiểu đường, còn những ai có đường huyết nằm trong tiêu chuẩn cũ 6.0-11.0mmol/l tương đương 108-200mg/dl thì bị bệnh tiểu đường.
Trái lại theo tiêu chuẩn của Pháp trước năm 1979 tiêu chuẩn 3.9- 5.9mmol/l được chỉ định cho bệnh đường huyết thấp hypoglycemie, phải tiêm glucoza, tiêu chuẩn 6.0-11.0mmol/l là bình thường không bị bệnh tiểu đường, còn cao hơn 11.0mmol/l=200mg/dl là bệnh đường huyết cao hyperglycemie.
Để mọi người không thắc mắc nghi ngờ, ngành y kinh doanh lại bầy ra cách thử nghiệm HbA1C là đếm lượng đường bám vào tế bào hồng cầu, khi lấy máu xét nghiệm định kỳ 3-6 tháng
Những tỷ lệ % của HbA1c tương đương với máy thử đường cá nhân ở đầu ngón tay :
4.0%= 60mg/dL (4.0mmo/l)
4.5% =75mg/dL (4.7mmol/l)
5%= 90 mg / dL (5.5 mmol / L).
6% =120 mg / dL (7.0 mmol / L).
6.5%= 135mg/dL (7.7mmol/l)
7% =150 mg / dL (8.3 mmol / L).
8% =180 mg / dL (10 mmol / L).
9%= 210 mg / dL (11,7 mmol / L).
10%= 240 mg / dL (13,3 mmol / L).
11%= 270 mg / dL (15 mmol / L).
12%= 300 mg / dL (16,7 mmol / L).
13%= 333 mg / dL (18,5 mmol / L).
14%= 360 mg / dL (20 mmol / L).
Cách thử HbA1C có vẻ khoa học nhưng thực chất cũng để lừa gạt mình, vì tiêu chuẩn cũng bị hạ như thử đường ở đầu ngón tay, như HbA1C .6.0% thì tương đương với đường huyết thử trên ngón tay 120mg/dL (7.0mmol/l).
Nếu tiêu chuẩn cũ năm 1979, đường huyết 180mg/dl thì tương đương HbA1C là 8% 180 mg / dL (10 mmol / L). còn tiêu chuẩn thấp này theo ngành y bên Pháp xếp loại tiêu chuẩn bệnh đường huyết thấp hypoglycemie.
Khi thử đường trên ngón tay cao 180mg/dl thì tương đương HbA1C là 8% thì cơ thể khỏe không có bệnh, nhưng khi hạ đường huyết theo tiêu chuẩn thấp 3.9-5.9mmol/l, thì khi kiểm chứng bằng máy đo áp huyết sẽ bị lệch chuẩn về nhịp tim rơi vào các trường hợp sau đây :
a-Trường hợp nhịp tim quá thấp dưới 65 là tốc độ tim bơm máu tuần hoàn chậm do máu đặc, là nội hàn, và nhiệt độ tay chân lạnh là ngoại hàn hậu quả gây ra nhiều bệnh như :
Triệu chứng như đói, đổ mồ hôi quá nhiều, run rẩy, mệt mỏi, yếu ớt và không thể suy nghĩ rõ ràng, trong khi hạ đường huyết nghiêm trọng gây ra các triệu chứng như lú lẫn, co giật và hôn mê.
b-Trường hợp nhịp tim quá thấp như 60, sẽ không đủ đường chuyển hóa thức ăn thành máu thì cơ thể thiếu máu sẽ có dấu hiệu nhịp tim cao trên 100, đông y gọi là âm hư nội nhiệt, mà đo nhiệt độ tay chân lạnh là ngoại hàn, nếu có áp huyết tâm thu thấp dưới 100mmHg là dấu hiệu ung thư.
c-Trường hợp nhịp tim thấp như 60 không đủ đường cho bao tử co bóp thức ăn xuống ruột, sẽ bị trào ngược, và thức ăn không xuống ruột do bao tử hàn lạnh làm tăng khí áp huyết tâm thu cao như 170mmHg, và tâm trương cao như 100mmHg là thức ăn không biến thành máu mà biến thành mỡ, vì thiếu đường không đủ kết hợp với protein thành máu, thì thừa protein biến thành mỡ gây ra bệnh gan nhiễm mỡ, do đường huyết thấp, thực tế khi xét nghiệm máu có đường huyết trong tiêu chuẩn thấp 3.9-5.9mmol/l thì có mỡ máu cao như cholesterol và triglyceride cao. Điều này luôn xảy ra mà chúng ta chưa chịu học hỏi sự thật đúng hay sai. Nồng độ glucose trong máu của cơ thể thường duy trì ở mức từ 6,0 mmol/L đến 8,0 mmol/L (khoảng 100 mg/dL đến 140 mg/dL). Các mức này được duy trì trong cơ thể thông qua các cơ chế như hormone insulin và một số hormone khác do tuyến tụy sản xuất.
Chúng ta không sợ thừa đường, nếu khi lượng glucose trong máu tăng trên 10mmol/l=180mg/dl, tuyến tụy phản ứng bằng cách giải phóng insulin để thúc đẩy quá trình chuyển glucose từ máu vào các tế bào.
2-Glucose là nhiên liệu chính của cơ thể.
a-Lý thuyết thứ nhất đường là năng lượng chính cho não.
Tất cả các loại thức ăn vào cơ thể đều được chuyển hóa thành năng lượng đường, nên có một lý thuyết của tây y nghiên cứu về hoạt động của não cho rằng cơ thể cần lượng thức ăn cung cấp đủ 180g glucose cho cơ thể
mỗi ngày, trong đó tim cần 36g, còn não cần nhiều hơn là 144g, vì não cần cung cấp glucose liên tục trong máu.
b-Lý thuyết thứ hai là tuyến tụy điều chỉnh lượng đường trong máu tùy theo mỗi bữa ăn.
Lý thuyết tuyến tụy điều chỉnh lượng đường trong máu lệ thuộc vào lượng thức ăn, để giữ lượng đường trong máu luôn ổn định trong tình trạng nghỉ ngơi không làm hại đến chức năng hoạt động của tim và não là từ 6.0-11.0mmol/l. Đó là hai lý thuyết thuận chiều không làm hại đến sức khỏe con người.
3-Điều gì xảy ra khi dùng thuốc hạ đường huyết.
Não cần nhiều đường hơn để điều khiển thần kinh chức năng hoạt động của tạng phủ mà ít ai biết khi tiêu chuẩn đường huyết từ 100-200mg/dl và HbA1C 8% thì ít có ai bị bệnh tật.
Nhưng từ khi ngành y kinh doanh muốn tăng lợi nhuận bán thuốc đã hạ tiêu chuẩn đường huyết xuống thấp 3.9-5.9mmol/l để tạo ra nhiều bệnh không đáng có do hậu quả thiếu đường cho thần kinh não, lúc đó não phản ứng như thế nào các bạn đều chưa biết.
Khi lượng đường trong máu rất thấp có thể ảnh hưởng đến chức năng của một số hệ cơ quan. Não đặc biệt nhạy cảm với lượng đường thấp vì đường là nguồn năng lượng chính của não. Để ngăn lượng đường trong máu giảm xuống dưới mức bình thường, não phản ứng bằng cách kích thích :
a- tuyến thượng thận tiết ra adrenaline
b- tuyến thượng thận tiết ra cortisol
c- tuyến tụy tiết ra glucagon
d- tuyến yên tiết ra hormone tăng trưởng
Vai trò của hormone adrenaline của tuyến thượng thận :
Chức năng của tuyến thượng thận có 2 loại hormon là Adrenaline cùng với hormon có tên gọi noradrenaline có tác dụng kích thích điều chỉnh làm tăng lượng oxy cung cấp cho não và các cơ, làm giãn nở đồng tử và ức chế các chức năng không cần thiết của cơ thể trong các trường hợp khẩn cấp, chẳng hạn như trong cấp cứu sốc phản vệ.
Nhiệm vụ của Adrenaline trong tuyến thượng thận tác dụng trong cơ thể con người lên cái gọi là adrenoceptor, giúp làm tăng áp huyết khi áp huyết xuống quá thấp. Nó mở rộng đường hô hấp, có nghĩa là có thể hấp thụ nhiều oxy hơn. Hít thở nhanh, làm nhịp tim trở nên nhanh hơn và huyết áp tăng lên, do đó có thể bơm máu nhiều hơn qua cơ thể. Vì vậy, các cơ quan như tim, não, phổi và cơ được kích thích để làm việc mạnh mẽ hơn trong khi các cơ quan tiêu tốn nhiều năng lượng khác như đường tiêu hóa, da và các chi được giữ lại một thời gian.
Vai trò của hormone cortisol của tuyến thượng thận huy động đường trong xương tủy giải phóng đường vào máu, cùng với adrenaline, cùng tuyến tụy tiết ra glucagon và tuyên yên tiết ra hormone tăng trưởng đều huy động đường vào máu để khắc phục tình trạng hạ đường huyết. Đấy là nguyên tắc của lý thuyết.
Trên thực tế con người bị ngành y kinh doanh dược liệu không chế hù dọa kiêng đường không cho ăn đường, không cho ăn nhiều cơm, tinh bột… thì cơ thể làm gì có đường ở đâu mà huy động. Vì tất cả các hormone này khiến gan giải phóng glucose vào máu, nhưng đôi khi các hormone này không làm tăng lượng đường trong máu đủ để khắc phục tình trạng hạ đường huyết. Nếu lượng đường trong máu vẫn quá thấp, não sẽ không
nhận đủ nguồn năng lượng, dẫn đến lú lẫn, co giật hoặc mất ý thức trong khi vẫn lọc thận để gây hại cho các tạng phủ trong cơ thể dẫn đến tử vong.
Cho nên tuyến thượng thận vẫn phải cứu cho bộ não hoạt động nên càng tiêu hao nhiều adrenaline và cortisol, glucagon của tuyến tụy, và hormone tăng trưởng của tuyến yên để lấy hết đường trong cơ thể tạo ra đường huyết cao do cơ thể mất đường khiến cơ thể bị sụt cân, khiến tăng áp huyết, khiến hư tuyến tụy, tuyến yên, hư gan thận, loãng xương, mất trí nhớ và hậu quả chúng ta phải bị lọc thận hay thay ghép thận.
Như vậy, đó là tại sao những người bị lọc thận, đều có áp huyết cao, đường huyết cao, sụt cân, tuyến thượng thận hư, chúng ta đã biết nguyên nhân và chúng ta đã học được những gì để tiến hóa, hay vẫn còn si mê không thấy rõ thực tế chúng ta đã kiêng ngọt, dùng thuốc hạ đường, hạ áp huyết mà đường và áp huyết vẫn cao, cơ thể không nạp đường làm gì có đường mà đường vẫn cao là do đường ăn vào hay do tuyến thượng thận moi móc hết đường trong cơ thể làm sụt cân để dành lại sự sống cho mình mà mình không biết, vẫn cứ tiếp tục si mê mình tự hại mình giảm tuổi thọ để tái sinh sang kiếp thấp hơn là súc sinh.
III-Nguyên tắc phòng ngừa.
1-Hạ đường huyết do thuốc chỉ xảy ra với những người đang dùng thuốc hạ đường huyết, ít xẩy ra với người không dùng thuốc hạ đường huyết.
2-Hạ đường huyết khi tập thể dục nhiều cũng nguy hại như dùng thuốc hạ đường huyết.
3-Nếu chúng ta giữ đường huyết theo tiêu chuẩn của cơ quan Y Tế Thế Giới năm 1979 từ 100-200mg/dl thỉ không bị bệnh, nếu có ăn nhiều mà đường huyết cao hơn 200mg/dl mới cần phải tập thể dục khí công cho đường hạ thấp, thì lý thuyết insulin và tiểu đường loại 1 loại 2 không còn đứng vững.
4-Phục hồi tuyến thượng thận là thận dương, có hai lý thuyết, lý thuyết theo tây y hai trái thận thì đều có tuyến thượng thận là thận dương, có chức năng điều tiết adrenaline điều chỉnh áp huyết, có chức năng điều chỉnh lượng đường vào máu bằng hormone cortisol. Còn lý thuyết thứ hai của đông y gọi thận trái là thận dương, vì khi đo áp huyết tay trái là bao tử cung cấp thức ăn tạo ra 2 chất khí và huyết, khí thì cung cấp cho phổi là kim sinh thủy thì thận bên trái chứa nhiều khí của phổi gọi là thận dương, thận bên phải lọc máu chuyển về gan, thì thận phải chủ về máu gọi là thận âm, nó có công dụng khi dùng huyệt để chữa bệnh thận dương bên chân trái, chữa thận âm dùng huyệt thận bên chân phải, chứ không phải dùng thuốc. Như vậy phục hồi chức năng thận dương là vừa hơ huyệt bổ Mệnh Môn, Thận Du, Phục Lưu chân trái, vừa bổ sung thêm nước mía làm tăng đường và tăng máu, hay nước mía vắt chanh làm hạ nhịp tim hạ áp huyết, hay chỉ cần uống đường vắt chanh làm tăng nhịp tim hạ áp huyết.
5-Chữa bao tử hàn không chuyển hóa thức ăn thành máu, thành đường thì uống thêm đường rồi nằm úp bụng đè lên chai thủy tinh đựng nước ấm 40 độ C để chai dọc theo mạch nhâm kích thích huyệt Thượng hạ uyển của ngài Y Tổ Biển Thước nằm trong 30 phút có công dụng như thuốc bổ Campolon fort của tây y tăng khí bổ huyết, bổ tiêu hóa.
6-Muốn sáng mắt, thính tai, tỉnh não, cần uống thêm đường rồi tập bài Lăn Người cho chuyển hóa đường và máu đi toàn thân, lên đầu, tai mắt lưng cột sống, bụng, và chân tay.
7-Luôn kiểm soát bằng máy đo áp huyết máy đo đường, súng bắn nhiệt kế, giấy qùy thử pH nước bọt phải lọt vào tiêu chuẩn chuyển hóa thuận.
8-Tối trước khi đi ngủ cần đủ đường 180-200mg/dl, thời gian ngủ mất ít nhất 6 tiếng, đường sẽ tụt mất 60mg/dl, để sáng ngủ dậy đường huyết còn 120-140 mg/dl thì não không bị mất đường, sẻ không làm hại chức năng thận phải tiết adrenaline và cortisol làm suy thận phải lọc thận.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 6 18, 2025 9:50 pm

PHẦN 18.NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ HẠ ĐƯỜNG HUYẾT
https://youtu.be/jgjVq-02mnI
I-Hạ đường huyết do thuốc tây y.
1-Hầu hết các trường hợp hạ đường huyết xảy ra ở bệnh nhân tiểu đường và là do sử dụng insulin hoặc các loại thuốc khác (đặc biệt là sulfonylurea, chẳng hạn như glyburide, glipizide và glimepiride.
2-Do điều trị bằng thuốc cho bệnh tiểu đường: Thuốc hạ đường huyết dạng uống) nhằm mục đích hạ đường huyết. Hạ đường huyết phổ biến hơn khi mọi người nỗ lực hết sức để giữ lượng đường trong máu càng gần mức bình thường theo tiêu chuẩn thấp 3.9-5.9mmol/l càng tốt hoặc khi những người dùng insulin không kiểm tra lượng đường trong máu thường xuyên.
3-Hạ đường huyết phổ biến hơn ở những bệnh nhân tiểu đường giảm lượng thức ăn hoặc bị suy thận mãn tính. Người lớn tuổi dễ bị hạ đường huyết liên quan đến sulfonylurea hơn người trẻ tuổi.
4-Nếu sau khi dùng thuốc chống tiểu đường, một người ăn ít hơn bình thường hoặc trong quá trình gắng sức bất thường, thuốc có thể khiến lượng đường trong máu giảm quá mức. Những người mắc bệnh tiểu đường loại 1 hoặc những người đã mắc bệnh tiểu đường loại 2 trong thời gian dài (ít nhất 10 năm) có nguy cơ hạ đường huyết đặc biệt trong những tình huống này vì khả năng tiết glucagon hoặc adrenaline để chống lại lượng đường trong máu thấp của họ có thể không đủ.
5-Một số loại thuốc khác ngoài thuốc chống tiểu đường, đặc biệt là pentamidine, được sử dụng để điều trị một dạng viêm phổi thường gặp nhất ở bệnh nhân AIDS và quinine, được sử dụng để điều trị chuột rút cơ, đôi khi gây hạ đường huyết.
6-Hạ đường huyết do thuốc thường xảy ra ở những người mắc bệnh tiểu đường, đặc biệt là bệnh tiểu đường loại 1 (tuyến tụy của họ không sản xuất insulin). Tình trạng này có thể xảy ra ở cả bệnh tiểu đường loại 1 và loại 2 sau khi dùng liều insulin quá cao hoặc sau khi dùng các thuốc chống tiểu đường khác kích thích tuyến tụy giải phóng insulin quá mức, tùy thuộc vào mức độ hoạt động và chế độ ăn uống. Lượng đường trong máu sau đó có thể giảm đáng kể và dẫn đến hạ đường huyết.
7-Những người mắc bệnh tiểu đường, và thậm chí cả những người không mắc bệnh, có thể bị hạ đường huyết nếu họ dùng một số loại thuốc điều trị huyết áp cao (ví dụ: atenolol, metoprolol, propranolol), một số thuốc chống trầm cảm (ví dụ: phenelzine, tranylcypromine), quinine và một số loại kháng sinh (ví dụ: trimethoprim-sulfamethoxazole, levofloxacin).
II-Hạ đường huyết không do thuốc.
Có những loại hạ đường huyết khác, bao gồm hạ đường huyết lúc đói và hạ đường huyết phản ứng.
1-Hạ đường huyết lúc đói được đặc trưng bởi lượng đường trong máu thấp khi một người không ăn trong một khoảng thời gian.
2-Hạ đường huyết phản ứng xảy ra sau khi ăn, thường là một bữa ăn nhiều carbohydrate. Ăn một bữa ăn khiến lượng đường trong máu tăng quá nhanh, trong một số trường hợp, kích thích tiết insulin quá mức. Hạ đường huyết phản ứng có thể xảy ra ở những người gặp khó khăn trong việc tiêu hóa fructose và galactose (hai loại đường trong chế độ ăn uống) hoặc leucine (một loại acid amin do thực phẩm cung cấp).
3-Hạ đường huyết cũng có thể xảy ra sau một số loại phẫu thuật dạ dày, vì đường có thể được hấp thụ quá nhanh sau các thủ thuật này, khiến lượng insulin tăng đột biến.
4-Hạ đường huyết do các hormone của tuyến yên, tuyến thượng thận, tuyến tụy, thận hoặc gan. Tuyến yên kiểm soát việc sản xuất một số hormone cần thiết trong cơ thể để nâng cao lượng đường trong máu thấp. Các hormone này bao gồm cortisol, được giải phóng từ tuyến thượng thận; glucagon, được giải phóng từ tuyến tụy; và adrenaline, được giải phóng từ phần tủy của tuyến thượng thận. Tất cả các hormone này đều có khả năng làm tăng lượng đường trong máu thấp. Khi chúng không hoạt động bình thường, tình trạng hạ đường huyết có thể xảy ra.
5-Khi gan không lưu trữ carbohydrate đúng cách và chuyển hóa chúng thành glucose, tình trạng hạ đường huyết có thể xảy ra. Khối u tuyến tụy cũng có thể gây hạ đường huyết bằng cách liên tục tiết insulin. Hạ đường huyết cũng có thể xảy ra trong một số trường hợp suy thận đáng kể.
6-Hạ đường huyết do rượu, nghiêm trọng có thể phát triển ở những người uống quá nhiều rượu (mà không ăn).
III-Triệu chứng và biến chứng
1-Khi lượng đường trong máu giảm quá thấp, cơ thể sẽ giải phóng adrenaline làm tăng áp huyết. Phản ứng này tạo ra các triệu chứng tương tự như lo lắng, chẳng hạn như căng thẳng, đổ mồ hôi, mất ý thức, nhịp tim nhanh, cảm giác ngứa ran, buồn nôn, ớn lạnh và đôi khi đói. Nếu não không nhận đủ glucose, người bị yếu sức, chóng mặt, mệt mỏi, buồn ngủ và lú lẫn, và cũng có thể bị đau đầu, khó tập trung, nói không rõ hoặc nhìn không rõ. Người lảo đảo có thể hành động như thể mình say rượu. Hạ đường huyết nghiêm trọng cũng có thể dẫn đến co giật và hôn mê. Hạ đường huyết dai dẳng có thể dẫn đến tổn thương não gây tai biến tê liệt.
Các triệu chứng của hạ đường huyết có thể xuất hiện dần dần hoặc đột ngột, gây ra lú lẫn hoặc hoảng loạn trong vòng vài phút.
2-Những người có lượng đường trong máu thấp thường không gặp bất kỳ triệu chứng hạ đường huyết nào. Nhưng lại hay xảy ra hạ đường huyết hiện ở những người có lượng đường trong máu bình thường.
IV- Tại sao thử đường HbA1C không đáng tin cậy
1-Khi chúng ta ăn có đường cao hơn 180mg/dl thì số đường dư thừa mới bám vào tế bào hồng cầu, nhưng đời sống của tế bào hồng cầu sau 3 tháng sẽ chết đi, khi chúng ta không ăn đường qúa cao nữa thì những hồng cầu mới không có hạt đường nào bám vào.
Để chúng ta bị lừa, ngành y kinh doanh định hướng cho ngành y chữa bệnh theo giải pháp, nếu ai có 1 trong 2 cách cao hơn tiêu chuẩn thì bị bệnh tiểu đường, nhưng thật ra tiêu chuẩn tiểu đường đã bị hạ thấp thì không ai thoát khỏi bị bệnh tiểu đường
2-Thiếu đường là thiếu kháng thể chống bệnh.
Tuy nhiên nhờ có nạn đại dịch cúm, chúng ta mới thấy đường bám vào hồng cầu lại chính là kháng thể tạo ra IgG và IgM chống bệnh.
Khi những người có đường huyết thấp là cơ thể thiếu nhiều đường thì không có kháng thể, vì glucose và protein, glucose và lipid hình thành glycoprotein, glycolpipd tạo ra kháng thể IgG, IgM, tạo ra hồng cầu, vỏ bọc tế bào. Ngoài việc thiếu đường tạo kháng thể, thiếu đường làm cơ thể lạnh thiếu năng lượng, thiếu nhiệt lượng, nhịp tim thấp bị máu đông sẽ làm nghẽn tim mạch chết vì đột qụy,
Khi ngành y kinh doanh hạ tiêu chuẩn đường huyết thấp cho ngành y chữa bệnh phải tuân theo, thì họ có lợi gì ? Họ sẽ bán được nhiều loại thuốc chữa cho nhiều loại bệnh do hậu quả gây ra tế bào thiếu đường, thí dụ như bệnh nhân bị các bệnh như sau .
V-Thực chứng lâm sàng.
a-Những người có đường huyết thấp gây ra những bệnh như :
1-Nữ 80 tuổi : Hai ngón chân cong, rút.
AH tay trái 144/86/77 TP 131/93/78 đường 5.9mmol/l
2-Nam 69 tuổi : Lupus
AH TT 107/64/77 TP 97/68/81 đường 5.7mmol/l
3-Nữ 64 tuổi : Chân, lưng, gối đau, ngứa cả người,
AH TT 139/77/77 TP 129/78/75 sau khi ăn, đường thấp 6.3mmol/l
4-Nữ 60 tuổi : Người nóng, tay lạnh
AH TT104/63/78 TP 100/69/78 đường sau khi ăn 6.3mmol/l
5-Nam 51 tuổi : Ăn không tiêu, nhức cổ gáy vai, đầu gối
AH TT 100/69/72 TP 99/65/76 đường sau khi ăn 5.8mmol/l
6-Nam 66 tuổi : Cao mỡ máu, miệng lưỡi khô, đau gót chân
AH TT 115/85/69 TP 110/80/71 đường 4.2mmol/l
7-Nữ 80 tuổi : Loãng xương đau nhức chân trầm trọng
AH TT 123/84/76 TP 135/84/74 đường 5.6mmol/l
8-Nữ 75 tuổi : Đau vai đã mổ vẫn còn đau, nhức lưng, đầu gối, nhượng chân
AH TT 135/67/76 TP 145/69/74 đường 6.2mmol/l
9-Nữ 60 tuổi : Đau ngực, đau cứng 2 vai chỉ đưa được 2 tay lên ngực
AH TT 124/91/75 TP 124/87/75 đường 6.4mmol/l
10-Nữ 66 tuổi : Nhức đầu, chảy máu cam, đau 2 đầu gối
AH TT 135/64/74 TP 129/62/75 đường 5.2mmol/l
11-Nam 58 tuổi : Nhức 2 vai, 2 bắp chân, cổ bị vướng nghẹn khi nuốt
AH TT 104/64/70 TP 101/66/76 đường 4.6mmol/l
12-Nữ 67 : Choáng xoáy đầu, mỏi cổ, đau thắt lưng, đau thận đang nằm viện, ù tai
AH TT 156/81/76 TP 161/84/76 đường 5.8mmol/l
13-Nam 38 tuổi, 2 chân tê lạnh
AH Tay T:107/67/73 Tay P:105/73/77 Đường:48mg/dl
Nhiệt độ: Trán:36,3-Tay P:36,2- Chân P:35,3

b-Những người có đường huyết thấp nhịp tim thấp gây ra nhửng bệnh như :
1-Nữ 39 tuổi, viêm gan siêu vi B, người mệt mỏi , kém ăn
Áp huyết tay trái 132/84/65 tay phải 126/80/66 , nhiệt độ tay 36 độ C
Áp huyết chân trái137/59/62 chân phải 136/64/64 nhiệt độ chân 34 độ C
Đừong huyết 119mg/dl, uống thêm 5 thìa cà phê đường cát vàng đo lại đường huyết lại thấp hơn 117mg/dl
2-Nữ 57 tuổi, bướu cổ, trào ngược dạ dày, yếu chân gối, lưng
AH TT 148/79/69 TP 131/76/66 nhiệt độ tay 35.8 độ C, ĐH 111mg/dl
Chân T 147/76/73 CP 149/82/67 nhiệt độ chân 33.8 độ C
3-Nữ 39 tuổi, HP dạ dày, u dạ dày, viêm xoang
AH tay trái 112/63/58 tay phải 103/59/58
AH chân T 117/65/58 chân P 120/60/58 ĐH 106mg/dl sau ăn
4-Nam 70 tuổi, tây y định bệnh hp dạ dày, bị teo, viêm gan B, rối loạn
nhịp tim, giãn tĩnh mạch .
AH .TT 122/63/62 tay phải 117/53/62 nhiệt độ tay 36.4 độ C
AH chân trái 133/54/64 133/58/68 ĐH 111mg/dl sau ăn, nhiệt độ chân 35.8 độ C
5-Nữ 39 tuổi, nhân xơ tử cung, hở van tim 3 lá
AH TT 109/62/72 tay phải 113/59/66 nhiệt độ tay 33.5 độ C
AH chân trái 129/65/67 124/66/74 DH 120mg/dl, nhiệt độ chân 32.5 độ C
6-Nữ 37 tuổi, áp huyết thấp, nhịp tim thấp, nhân xơ tử cung
Sau ăn 3h AH tay trái102/62/60, 101/61/55 nhiệt độ tay 26.4 độ C
Chân T 131/74/64 CP 123/66/60 nhiệt độ chân 32 độ C. ĐH 101mg/dl
7-Nữ 71 tuổi : Co giật 2 chân, đau nhức 2 vai đang uống thuốc đau nhức, ngủ không được,
AH TT 107/70/63 TP 111/64/62 đường 6.1mmol/l
c-Những người có đường huyết thấp, nhịp tim cao gây ra những bệnh như sau :
1-Nam 27 tuổi.
Con chao thầy con bi bệnh ra nhiều mồ hôi mặt lưng và ngực con bi 10 năm nay rồi nhiều bác sĩ bảo là rối loạn thần kinh thực vật con chữa trị nhiều mà bệnh không giảm con xin thầy giúp con chữa trị con xin cảm ơn thầy
Trước khi ăn : tay trái 130/85/85 tay phải 120/84/80 ĐH 80mg/dL
Sau khi ăn : tay trái 122/82/89 tay phải 114/66/88 ĐH 111mg/dL
2-Nữ 19 tuổi : Bướu cổ, rụng tóc, tim đập mạnh
AH TT 117/60/104 TP 114/63/104 đường sau khi ăn 6.6mmol/l
3-Nữ 29 tuổi : Hay nhức đầu chóng mặt, hay bị trúng thực ăn không tiêu
AH TT 104/63/79 TP 94/76/79 đường 5.5mmol/l
4-Nam 92 tuổi : Mắt mờ, tai điếc, mất ngủ đang dùng thuốc áp huyết
AH TT 120/60/89 TP 110/58/90 đường sau khi ăn 6.6mmol/l
5-Nam 45 tuổi : Đau cột sống lưng, nhức đầu chóng mặt, tê thấp mấy ngón tay
AH TT 103/70/75 TP 94/68/72 đường 5.2mmol/l
6-Nam 53 tuổi : Đau thần kinh tọa bên phải.
AH TT 144/78/84 TP 131/81/87 đường 5.9mmol/l
7-Nam 29 tuổi : Chóng mặt, hoa mắt, đau lưng
AH TT 101/68/72 TP 101/67/74 đường 6.4mmol/l
8-Nữ 67 tuổi : Đau bao tử, đau lưng, khớp
AH TT 113/69/94 TP 100/70/93 đường 6.3mmol/l
9-Nữ 65 tuổi : Đau khớp cổ, đau đốt cuối xương sống, cổ chân, ợ hơi, đau ngực, loãng xương, đang dùng thuốc mất ngủ mà không ngủ được
AH TT 115/71/89 TP 114/71/92 đường sau khi ăn 5.3mmol/l
10-Nữ 44 tuổi : Đau cổ, cao máu, cao mỡ.
AH TT 180/111/85 TP 168/105/82 đường sau khi ăn 5.3mmol/l
11-Nữ 50 tuổi : Áp huyết cao, Tức ngực
AH TT 149/108/80 TP 140/98/81 đường 5.2mmol/l
12-Nam 35 tuổi: Đau thận trái
AH TT 121/85/87 TP 128/84/91 đường 5.7mmol/l
d-Những người bị ung thư có áp huyết thiếu khí oxy, thiếu máu, thiếu đường như dưới đây :
So sánh với áp huyết tiêu chuẩn tuổi trung niên
120-130/70-80mmHg nhịp tim 70-75.
Nhận xét : Đa số những người bị ung thư đều có áp huyết tâm thu thấp và nhịp tim cao so với tiêu chuẩn tuổi và có đường huyết thấp như trước khi ăn có đường huyết trong tiêu chuẩn 3.9-5.9mmol/l, sau khi ăn có đường huyết dưới 8mmol/l, nguyên nhân do ăn sai, gọi là tinh sai, khí thiếu, thần suy. Nếu thử pH nước bọt kiềm là bướu lành, pH nước bọt acid là ung thư.
Áp huyết ung thư của 4 giai đoạn :
Có áp huyết tâm thu 90mmHg là ung thư giai đoạn 1
Có áp huyết tâm thu 85mmHg là ung thư giai đoạn 2
Có áp huyết tâm thu 80mmHg là ung thư giai đoạn 3
Có áp huyết tâm thu 75mmHg là ung thư giai đoạn 4
Có áp huyết tâm thu 70mmHg là ung thư giai đoạn chết

Thí dụ như áp huyết 100/60mmHg 90, đường huyết 6mmol/l
So sánh với áp huyết của người khỏe không bị bệnh là 130/80mmHg 75
Tây y nhìn vào cho rằng áp huyết tốt, chỉ cho rằng nhịp tim hơi cao mà không để ý nguyên nhân nhịp tim cao là do thiếu đường chuyển hóa thức ăn thì thức ăn không biến thành máu nên thiếu máu nhịp tim mới bị cao, như trong thí dụ môt công việc có 10 người làm thong thả xong trong 1 giờ, nếu rút bớt 5 người, chỉ còn 5 người cũng phải làm xong trong 1 giờ thì 5 người này phải làm với tốc độ nhanh hơn, nên nhịp tim nhanh, nguyên nhân do thiếu người, cũng vậy nếu trong cơ thể đủ 6 lít máu thì tốc độ tim bơm máu tuần hoàn thong thả 75 nhịp, nhưng cơ thể thiếu máu chỉ còn 4 lít thì tốc độ tim bơm máu tuần hoàn phải nhanh hơn.
Đổi sang áp huyết thật theo tiêu chuẩn nhịp tim 75, nên vì thiếu máu nhịp tim mới đập nhanh hơn 90 trừ 75, đã nhanh hơn 15 nhịp.
Lấy số áp huyết tâm thu 100 trừ 15, thí áp huyết tâm thu thật là 85mmHg là ung thư gia đoạn 2, lấy tâm trương 60 trừ ½ của 15 nhịp, thì lượng máu thật trong cơ thể chỉ có 52mmHg

Dưới đây là 20 trường hợp chúng ta xem có bao nhiêu người bị ung thư :

Trường hợp 1 :
Tay trái 107/79mmHg 95 đường huyết 6mmol/l sau ăn, pH 5
Trường hợp 2 :
105/71mmHg 99 sau khi ăn 1 bát cơm, đường+ sữa 106/73mmHg 98 đường huyết 7.4 mmol/l
Trường hợp 3 :
Tay trái 106/77mmHg 90, tay phải 105/72mmHg 92 đường huyết 6.5mmol/l sau ăn đường huyết 8mmol/l
Trường hợp 4 :
Trước ăn 118/77mmHg 80 đường huyết 6.6mmol/l,
sau ăn 106/72mmHg 86 ăn bún chay+ đường sữa, đường huyết 7.5mmol/l
Trường hợp 5 :
Trước ăn 114/77mmHg 83 đường huyết 6.5mmol/l
Sau ăn: 116/82mmHg 97 ăn cơm rau muống, củ cải nấm sữa, nước ép củ cải + đường, đường huyết 9.6mmol/l
Trường hợp 6 :
Trước ăn : 111/75mmHg 94 đường huyết 8.5mmol/l
Sau ăn : 105/74mmHg 94 nước mía chanh, bánh mì sữa đường gừng,cơm rau cải xanh, 1 quả trứng, đường huyết 11,4mmol/l
Trường hợp 7 :
Tay trái 112/76mmHg 99, tay phải 116/76mmHg 92
Nằm úp bụng tay trái 113/75mmHg 99, tay phải 129/80mmHg 97, đường huyết 8mmol/l
Trường hợp 8 :
Đói : TT 90/65mmHg 95, TP 109/66mmHg 87
No TT 93/70mmHg 102, TP 109/74mmHg 100
Nàm úp bụng TT 110/76mmHg 97, TP 111/72mmHg 94
Uống baking soda đường, nằm úp TT 106/75mmHg 89, TP 114/77mmHg 88 đường huyết 6.5mmol/l
Trường hợp 9 :
Đói, TT 113/85mmHg 99, TP 120/83mmHg 98, đường huyết 8,6mmol/l
No TT 108/77mmHg 98 , TP 110/78mmHg 94
Ăn canh rau cải xanh, 1 bát cơm + sữa, đường huyết 9.1mmol/l
Trường hợp 10 :
Đói : TT 115/73mmHg 95, TP 119/82mmHg 92
No TT 111/74mmHg 95, TP 122/82mmHg 100 đường huyết 8.3mmol/l
Đã uống 9 thìa bột Whey+5 thìa cà phê đường cát vàng+sữa, đường huyết 8.3mmol/l
Trường hợp 11 :
Đói TT 103/78mmHg 87, TP 114/79mmHg 85, đường huyết 6.3 mmol/l
No TT 115/73mmHg 95, TP 119/82mmHg 92
Ăn 4 thìa bột Whey + 5 thìa cà phê đường cát vàng + sữa, đường huyết 8.3 mmol/l
Trường hợp 12 :
Đói TT 111/74mmHg 99, TP 122/82mmHg 102, đường huyết 8.3mmol/l
Trường hợp 13 :
Đói TT 127/85mmHg 110, TP 130/85mmHg 114, đường huyết 6.8 mmol/l
Trường hợp 14 :
TT 127/92mmHg 81, TP 139/98mmHg 76 đường huyết 96mg/dl
Trường hợp 15 :
Đói TT 109/75mmHg 78, TP 100/57mmHg 78 đường huyết 7.2 mmol/l
No TT 117/70mmHg 90, TP 108/67mmHg 80, đường huyết 9.9mmol/l
Trường hợp 16 :
Đói 93/67mmHg 75 đường 5.8mmol/l
No 87/61mmHg 77 đường 7.1mmol/l
Trường hợp 17 :
No TT 130/76mmHg 101, TP 129/73mmHg 97 đường huyết 128mg/dl
Trường hợp 18 :
Đói TT 105/65mmHg 76, TP 100/60mmHg 75, đường huyết 6 mmol/l
Trường hợp 19 :
Dói TT 108/63mmHg 58, TP 102/69mmHg 61 đường huyết 7.4mmol/l
Trường hợp 20 :Đang lọc thận không đo được tay trái
TP 177/90mmHg 67, đường huyết 247mg/dl
KẾT LUẬN :
Nguyên nhân gây ra các bệnh như dưới đây đều do chúng ta si mê mà bị lọt bẫy tiểu đường do kiêng đường có đường huyết thấp để phải tốn tiền uống nhiều loại thuốc suốt đời cho đến chết.
Những chứng bệnh do hàng ngàn bệnh nhân khai dưới đây được thống kê trong hơn 10 năm chưa được tây y bổ sung vào triệu chứng của bệnh đường-huyết thấp hypoglycemia ( đường dưới 6.2mmol/l = 104mg/dL)gây ra nhiều bệnh vô duyên nan y mạn tính và cuối cùng tế bào sẽ trở thành ung thư, gồm các bệnh như sau :
Giảm vị giác, mất khứu giác, thính giác, mắt kém. mắt đỏ, tổn thương da, hội chứng sjogren là nước mắt, mùi, miệng cổ họng khô, thoái hóa xương cổ, thoát vị đĩa đệm, vẹo cột sống, cứng cổ gáy vai, tê đau nhức tay vai, đau lưng, chân, đầu gối, gót chân, đi khó khăn, parkinson (run tay chân), dị ứng mũi, dị ứng da,bệnh cholesterol, gout, thần kinh tọa, giảm trí nhớ, lồi điã cột sống, liệt đường ruột, hư thận phải lọc thận 3 ngày/tuần, nhức nửa đầu, đau lưng xuống thận qua bụng ra sau lưng dấu hiệu của sạn thận. nhức đầu, đau đầu chóng mặt, ho suyễn kinh niên, khó thở, yếu bao tử, bao tử ăn không tiêu, ợ hơi, trào ngược thực quản, bướu cổ, ung thư bao tử, đi cầu ra phân sống, bệnh tâm thần, mất ngủ, đau nhức mỏi toàn thân, bị chóng mặt mệt tim. bệnh tiểu nhiều, mất ngủ ban đêm, buồn ngu ban ngày, tiểu đêm, rối loạn tiền đình, rối loạn thần kinh, chướng bụng căng cứng to, yếu sức, đi đứng chậm chạp, người xanh xao, đi hay lảo đảo, khi đi đau bàn chân, đầu cổ cứng không quay trái phải hay cúi ngửa được, ù tai, mắt sụp, nhìn không có thần, bệnh trầm cảm, tâm thần, dễ bị vong nhập, liệt mặt méo miệng, hoăc mắt bị chói, thấy xung quanh tối sầm thoáng qua, u xơ tử cung ,(xơ hóa sợi cơ, u lành tính tái phát tại chỗ, ung thư vú, ung thư tử cung, viêm gan , suy thận độ 2, mắt mù dần, bại xuội chân tay vô lực do áp huyết thấp và đường thấp khác với stroke tai biến gây liệt cứng, động kinh co giật, thiếu đường sẽ bị loãng xương, chân yếu đi hay bị té ngã gẫy xương, và bệnh thường gặp khi bỗng nhiên tụt thấp đường-huyết mà không biết, bị ớn lạnh xuất mồ hôi, chóng mặt xây xẩm có dấu hiệu như trúng gió muốn té xỉu, phải uống đường ngay tức khắc chứ không phải cạo gió bệnh nhân sẽ chết ngay nếu không cứu kịp bằng đường. ...
Do đó những ai bị những chứng bệnh kể trên, biết nguyên nhân bệnh là thiếu đường do tiêu chuẩn ngành y tự hạ xuống qúa thấp, tạo ra nhiều bệnh "để bán bệnh cho mình mua thuốc". Mình tự phải bào vệ sức khỏe cho mình, nguyên nhân thiếu đường thì uống thêm đường cát vàng (glucose) và tập thể dục khí công, các bệnh kể trên tự nhiên biến mất không cần thuốc.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Trang trướcTrang kế tiếp

Quay về Tài liệu Tự Học Chữa Bệnh

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến6 khách