TÔI TU TỊNH ĐỘ

TÔI TU TỊNH ĐỘ

Gửi bàigửi bởi thanhlinh » Thứ 3 Tháng 5 30, 2017 5:37 am

TỰ TU TỊNH ĐỘ TẠI NHÀ TRONG MÙA DỊCH, NIÊM CHÚ, LẠY VÀ NIỆM PHẬT (Cư Sĩ Huệ Tâm Hải)
https://youtu.be/EQVOsgvo_9M ..
Cộng Tu Niệm Phật chuyển Di Thần Thức về Tây Phương Cực Lạc
https://youtu.be/39YoURZpwkw
Liên lạc với tôi qua Viber +1 514 374 1849
VIDEO HƯỚNG DẪN TU TỊNH ĐỘ 90 PHÚT TẠI NHÀ, GIÚPTHÂN TÂM AN LẠC ( CÓ CHỮ )
https://youtu.be/ZIAqGqb_lp0

------------

NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG CÙNG ĐẠI CHÚNG VỪA TẬP TU VỪA TẬP THỞ 90 phút
https://youtu.be/pWatl0glybA
Niệm Phật vỡi đại chúng 90 phút tự động ai cũng có điện từ trường tự chữa khỏi bệnh
https://youtu.be/g7D5llpbTa8

CỘNG TU ONLINE TRONG ZOOM, MỖI NGÀY 2 THỜI, TỪ 7:30-9:00 SÁNG VÀ TỐI, GIỞ MONTREAL

Qúy vị Phật tử nào muốn cộng tu online với Thầy KCYĐ ĐỖ ĐỨC NGỌC, tức Cư Sĩ HUỆ TÂM HẢI
download ZOOM.US nhập Meeting ID 7819792463 VÀ password phbtt viết tắt của chữ Pháp Hội Bồ Tát Tạng vừa niệm Phật vừa luyện khi lực tăng cường sức khỏe

NỘI DUNG KHÓA TU

(C) Lạy 3 lạy : (C)
Nguyện hương :

Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi tam bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm bồ đề kiên cố
Chí tu học vững bền
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác
Nam Mô Hương cúng dường Bồ Tát, Ma Ha Tát (3 lần) (C)

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phất bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y : (C)

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :
Nam Mô tận hư không biến pháp giới qúa, hiện, vị lại, thập phương chư Phật, tôn pháp, hiền thánh tăng, thường trụ tam bảo (C)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :
Nam mô Ta Bà Giạo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.(C)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (C) (C)

7 BIẾN CHÚ ĐẠI BI
Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần).
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. (3 lần khi trì biến cuối cùng) (C)

7 Biến Chú Vãng Sanh
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha (C)

A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm
Năn tu di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ Tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát
Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin Đức Từ Bi tiếp độ

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật (3 lần) (C)

10 phút niệm chú Vô Lượng Quang : Om A MI TA BHA SHRI (C)
5 phút niệm chú Dược Sư cầu cho mọi người không bị bệnh : TAYATA OM BEKANZE BEKANZE, MAHA BEKANZE RANZA SAMUNGATE SOHA (C)
5 phút chu Tara hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm cầu cho mọi người bình an vui khỏe : : OM TERATU, TERATURE SOHA (C)

15 phút Lạy Phật 4 chữ A DI ĐÀ PHẬT ( 8 câu 1 lạy là động tác thể dục tăng cường sức khỏe chữa bá bệnh, làm hạ creatinine cho những người đang phải lọc thận) (C)

20 phút nhắm mắt định tâm niệm 4 chữ hồng danh A DI ĐÀ PHẬT theo ngũ giai ,
Video niệm Phật chuyển di thần thức về Tây Phương Cực Lạc
https://www.youtube.com/watch?v=2nKq5ubbPN8
Miệng niệm nhỏ tiếng, dài hơi, nghe tiếng Phật vang lớn trong đầu phóng ra khỏi đỉnh đầu theo hào quang của Phật về Tây Phương Cực Lạc,
Về thể chất, làm tăng hồng cầu, phát triển trí não, ổn định áp huyết, nhưng làm giảm đường huyết nhiều, nên trước khi công phu phải uống 4 thìa cà phê đường cát vàng, sau công phu đo lại đường huyết giảm còn trong tiêu chuẩn đói 100-140mg/dl, như vậy đường đã uống được chuyển thành năng lượng, tăng cường sức khỏe tu không bị mệt mỏi, hôn trầm, tán loạn. (C)

HỒI HƯỚNG :
Niệm chú, niệm Phật, lạy Phật, công đức vô biên
Xin đem hồi hướng mọi miền gần xa
Chúng sanh pháp giới bao la
Đều về Cực Lạc Di Đà Tây Thiên
Nguyện tiêu ba chướng não phiền
Nguyện khai trí tuệ vô biên sáng ngời
Nguyện trừ tội chướng bao đời
Hành theo Bồ Tát đời đời vị tha
Nguyện sanh Tịnh Độ Di Đà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa khai ngộ pháp vô sanh
Cùng chư Bồ Tát bạn lành với ta
Nguyện đem công đức tạo ra
Hướng về tất cả gần xa hưởng nhờ
Con cùng muôn loại thân sơ
Đều thành Phật đạo đến bờ an vui[/i]
Nam mô A Di Đà Phật (C)

12 PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Thân thể không đau bệnh (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Tâm hồn không hôn mê (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Không tham đắm ngũ dục (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Tâm niệm Phật Di Đà (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Xả ly Ta Bà khổ (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Hân nguyện về Tịnh Độ (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Con thấy kim thân Phật (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Phật phóng quang nhiếp độ (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Liên hoa con hóa sanh (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Hoa nở tâm khai ngộ (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Chứng ngộ pháp vô sanh (C)

Kính lạy Phật Di Đà
Con nay xin phát nguyện
Thường xuyên đảnh lễ ngài
Cho đến lúc lâm chung
Chóng viên thành toàn giác (C)
Nam Mô Pháp Giới tàng thân A Di Đà Phật ( 3 lần C)

TAM QUY :
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo qủa, phát lòng vô thượng (C)
Tứ quy y Pháp, xin nguyên chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển (C)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, kính tín hòa hợp, hết thẩy không ngại (C)
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm cõi Tịnh Độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi cực lạc
Khi ta về nơi ấy
Tận tu các đại nguyện
A Di Đà Thế Tôn
Thọ ký cho thành Phật

Nam Mô A Di Đà Phật ( 3 lần C ).


Chú thích :

Người mê ngũ dục thì đức Phật có dạy trong kinh Trung Bộ 2, kinh Potaliya. Ngũ dục ví như con chó đói mà gặm xương khô, như kẻ cầm lửa mà đi ngược gió, như được của trong giấc mộng.
Ngũ dục là gì?
Ngũ dục là năm sự ham muốn, là năm thứ dục lạc của trần cảnh nên cũng gọi là Ngũ tiềm:
- Sắc dục: ham muốn sắc đẹp, ưa thích tướng tốt, hay người nữ thích người nam hoặc ngược lại.
- Thanh dục: ham muốn tiếng hay, lời nói ngọt ngào, êm tai.
- Hương dục: ham muốn mùi thơm ngào ngạt, hay mùi hương của người nữ hoặc người nam.
- Vị dục: ham muốn đồ ăn, thức uống ngon ngọt, bổ dưỡng để phục vụ cho cái thân giả tạm.
- Xúc dục: ham muốn sự đụng chạm mềm dịu của người nữ để thỏa mãn dục vọng.
Ngũ dục còn có năm thứ sau:
- Tài dục: ham muốn tiền bạc, vàng ngọc thật nhiều như cái bình không đáy.
- Sắc dục: ham sắc đẹp, mỹ miều, kiêu sa, nghiêng nước nghiêng thành.
- Danh dục: ham muốn địa vị cao sang, tiếng tốt, ông này bà nọ…
- Thực dục: ham muốn thức ăn ngon và ăn thật nhiều cao lương mỹ vị để thỏa mãn cho cái thân này.
- Thùy dục: ham muốn ngủ nghỉ thật nhiều.
Ngũ dục cũng còn gọi là ngũ độc tiễn (năm mũi tên độc hại). Ngũ dục là năm món dục của chúng sanh, từ súc sanh đến người và chư thiên. Nếu ta không điều phục Ngũ căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thức) để cho say đắm ngũ dục thì thất lạc thiện căn, sa vào nẻo ác và đọa lạc. Tham đắm ngũ dục sẽ bị trói buộc bởi năm thứ độc hại của ham muốn.
Ngũ dục còn độc hơn mũi tên độc
Trong kinh Trung Bộ 2, kinh Potaliya, Đức Phật có dạy, ngũ dục ví như con chó đói mà gặm xương khô, như kẻ cầm lửa mà đi ngược gió, như được của trong giấc mộng. Hoặc là người mê ngũ dục như mới nhốt con rắn độc, như một miếng thịt mà cả bầy chó tham ăn, như giọt sương trên đầu ngọn cỏ, như dấu vẽ trên nước, như giọt mật ngọt trên đầu lưỡi dao bén nhọn. Ngũ dục chỉ là của tạm bợ, không thể tồn tại lâu dài.
Trong kinh Di Giáo, đức Phật dạy rằng: “Tỳ-kheo các ông! Đã có thể an trụ trong giới rồi, phải kiềm chế ngũ căn, chẳng để buông lung theo ngũ dục. Thí như người chăn trâu, cầm roi nhìn nó, chẳng cho chúng vào lúa mạ của người khác. Nếu thả lỏng ngũ căn, chẳng những chạy theo ngũ dục không bờ mé, không thể kiềm chế được, mà còn gây hại rất nặng, cũng như ngựa chứng, chẳng dùng dây cương chế ngự thì chính nó sẽ đưa người ta vào hầm hố”. 
Quán thân bất tịnh
Vì thế, là một Tăng sĩ, chúng ta phải biết tránh xa ngũ dục, và ly dục, ly bất thiện pháp, hành theo Bát chánh đạo và Tứ diệu đế, luôn giữ gìn tứ oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) và siêng tu giới định tuệ, lấy trí tuệ để đạp đi vô minh ngũ dục thế gian, phòng hộ các căn của mình. Hãy quán thân này là giả tạm vô thường, luôn chánh niệm tỉnh giác từng sát-na sanh diệt. Hãy nhớ đến chí nguyện lớn nhất của người tu là “trên cầu thành Phật, dưới độ chúng sanh”.
Đức Phật thường nhắc nhở các hàng đệ tử, phải có thái độ thận trọng đối với ngũ dục, Ngài không khuyến khích lìa bỏ ngũ dục một cách thái quá, để sống đời sống khổ hạnh ép xác, vì hai lối sống cực đoan ấy đều không đưa đến an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau.
Thế gian ai cũng muốn mưu cầu hạnh phúc để hưởng thụ ngũ dục lạc gồm có tiền tài, sắc đẹp, danh vọng địa vị, ăn uống thoải mái và ngủ nghỉ tự do, tùy theo phước báo của mỗi người mà có sự sung mãn hay nghèo nàn trong hưởng thụ. Hưởng thụ ngũ dục như là nhu cầu cần thiết của đời sống con người và ai cũng nghĩ rằng đó là điều kiện mang lại hạnh phúc.
Đức Phật thường nhắc nhở tất cả mọi người phải biết sự tác hại của ngũ dục, không nên tham cầu quá đáng. Tiền bạc hay của cải vật chất là phương tiện để nuôi sống chúng ta tồn tại, nhưng nó do ta làm ra chính vì vậy khi ăn uống, ta phải quan niệm ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn. Rồi kế đến là ngủ nghỉ nó cũng là nhu cầu cần thiết, nếu chúng ta chỉ đam mê ham làm giàu để hưởng thụ dục lạc về sắc đẹp thì sức khỏe sẽ bị tàn phá nhanh chóng và tuổi thọ suy giảm.
Đức Phật khuyến khích mọi người hãy nên giảm bớt ham muốn quá đáng, tham cầu trong khả năng của mình, biết tiết độ trong mọi nhu cầu để có sự an lạc thảnh thơi, mà không bị những lo lắng, thất vọng, sợ hãi…làm mình phiền não khổ đau.
Tâm mong cầu, tham muốn các dục là động lực thúc đẩy con người tích cực làm việc để có đời sống ổn định. Vì thế sự tham muốn, mong cầu về các dục khiến cho con người khổ não nhiều hơn là an vui.

--------------

Chứng ngộ pháp vô sanh :

Sự chứng ngộ của Thiền tông với sự chứng pháp vô sanh có khác không?
12/03/2017704
Hỏi:
Sự chứng ngộ của Thiền tông với sự chứng pháp vô sanh có khác không?

Đáp:
Phật nói vô thỉ là không có sự bắt đầu, cũng là hiển bày nghĩa vô sanh. Nếu có sanh thì có sự bắt đầu, tất cả vũ trụ vạn vật đều không có sự bắt đầu. Như trái dừa không phải cây dừa, nếu nói cây dừa bắt đầu được không? Không được. Tại sao? Không có trái dừa làm sao mọc lên cây dừa. Rồi nói trái dừa có trước được không? Không được. Tại sao? Không có cây dừa làm sao sanh ra trái dừa. Cây dừa và trái dừa đều không có bắt đầu, tức là hiển bày nghĩa vô sanh.

Đây là việc ở ngoài, bây giờ nói thân tôi: Rõ ràng có cha mẹ sanh tôi, cha mẹ cũng có cha mẹ nữa, cứ từ đời từ đời truy cứu mãi có cha mẹ đầu tiên không? Giả thiết có cha mẹ đầu tiên, tôi xin hỏi cha mẹ đầu tiên có cha mẹ đầu tiên không? Nếu có cha mẹ thì không phải đầu tiên, mà không có cha mẹ vậy từ đâu ra?

Nhà khoa học nói là từ một hạt nguyên tử từ từ diễn biến thành, cuối cùng thành con người. Như vậy cho là được đi. Tôi hỏi: bào thai con người một tháng thì có hình tượng một tháng, hai tháng có hình tượng hai tháng, ba tháng có hình tượng ba tháng, đến mười tháng sanh ra đầy đủ ngũ tạng lục phủ, lục căn đều đủ. Từ một hạt nguyên tử diễn biến thành một con người, giả thiết cho 1 triệu năm, mỗi năm lên một cấp, cũng như thai của con người mỗi tháng một cấp. Nhưng bây giờ mình chỉ thấy cấp thứ nhất là nguyên tử với cấp 1 triệu là con người, không thấy mấy cấp kia.

Có người nói mình chỉ sống mấy chục năm làm sao thấy 1 triệu năm được? Tôi nói khỏi cần, bây giờ mình sống 5 năm cũng được, 5 cấp đến 1 triệu gần thành con người thì mình phải thấy chứ! Vậy có ai thấy 5 cấp gần thành con người không? Nếu không có thì lý do này không thành lập được. Truy cứu cách nào cũng không có sự bắt đầu, nên Phật nói trắng ra là vô thỉ, vô thỉ là nghĩa vô sanh; người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, chứng vô sanh pháp nhẫn.


̃̃̃̃̃̃̃̃

&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&



TU HỌC THEO TỊNH ĐỘ VỀ LÝ VÀ SỰ


PHẦN THUỘC VỀ SỰ LÀ THỰC HÀNH PHÁP TU TỊNH ĐỘ :

Tóm tắt thực tập chuyển di thần thức :

1-Cách chuyển di thần thức về Cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, nương theo đại nguyện của Ngài, có 2 ý nghĩa : vượt qua sự sợ hãi về cái chết và hy vọng có thể nhẩy vượi qua vô lượng chu kỳ sanh tử luân hồi để được tái sanh trực tiếp vào cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà.

2-Phật Giáo Tây Tạng tin rằng pháp môn P’howa rất mực mãnh liệt, có thể đưa người về cõi Phật A Di Đà ngay khi lìa trần, hay ít nhất cũng khả dĩ tạo được nhân duyên để không phải đọa vào các đường dữ, tự tin trong lúc hấp hối và lúc lìa trần bằng cách cung cấp cho người tu phương tiện để giải thoát thần thức mình vào cõi tịnh độ Cực Lạc của Phật A Di Đà,

3-Pháp p’howa của ba sự chứng nhập,” kênh giữa được nhận thức như là con đường, quả cầu thần thức (linh hồn) ví như người du hành trên con đường (kênh giữa) và tâm của đức Phật A Di Đà là nơi đến, phải đi qua ra khỏi đỉnh đầu, xuất hiện dấu hiệu vật lý thấy một kẽ hở nhỏ tại luân xa đỉnh đầu gọi là cửa Phạm Thiên, là con đường chuyển di thần thức vào giây phút lìa trần để về Cực Lạc.
a-P’howa Pháp Thân là sự chuyển di thần thức vào trạng thái tỉnh thức tự tại, xa lìa thời gian (Tạng Ngữ: yeshe) – vào không gian căn bản, Tánh Không.
b-P’howa Báo Thân là sự chuyển di thần thức vào trạng thái tâm thức bất nhị, trong sáng của sự hiện hữu thanh tịnh khởi lên liên tục từ Tánh Không.
c-P’howa Ứng Thân là sự chuyển di thần thức vào trạng thái của tâm từ bi vô lượng.

4-Trong Pháp tu Phowa, có ba niệm cần phải có.
Thứ nhất, cõi Cực Lạc nên được nhìn nhận như quê cha của riêng các con nơi cha các con, Đức Phật A Di Đà, đang ngự.
Thứ hai, chúng ta nên coi đường mạch giữa như là đường về cố hương.
Thứ ba, thần thức của các con là vị khách, hoặc một nhà du hành, đang đi trên con đường đó để trở về nhà.

Với tinh tấn, chúng ta liên tục tu học cho tới khi chúng ta có tự tin vào khả năng mình và không bao giờ bị lôi kéo ra khỏi pháp tu dẫn tới cõi tịnh độ.

Với thiền định, chúng ta cắt bỏ mọi vọng tưởng trong thiền định và liên tục chú tâm vào pháp quán tưởng và tụng niệm. Vào giây phút hấp hối, chúng ta tập trung vào Phật A Di Đà, mà vị Phật này là một thể với bổn sư của chúng ta.

THỜI KHÓA TU TẬP THỰC HÀNH.

Chia làm nhiều thời khóa :

I-THỜI KHÓA MỞ ĐẦU TRONG NGÀY
Nguyện hương :

Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi tam bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm bồ đề kiên cố
Chí tu học vững bền
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác
Nam Mô Hương cúng dường Bồ Tát, Ma Ha Tát (3 lần)

Sám nguyện :
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội ác bởi lầm mê
Đắm trong sanh tử đã bao lần
Nay đến trước đài vô thượng giác
Biển tràn khổ lâu đời luân lạc
Với sinh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp sống lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng
Đàn con dại từ lâu vất vưởng
Hôm nay trong thấy Đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng Từ Quang
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước
Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyền
Xin sám hối để lòng thanh thoát
Trí Phật quang minh như nhật nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sanh
Ôi từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi
Theo gót Ngài vượt qua khổ hải
Nương thuyền từ vượt khỏi ái hà
Nhớ lời Ngài bờ Giác không xa
Hành Thập Thiện cho đời tươi sáng
Bỏ việc ác cho đời quang đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyền được sống đời rộng rãi
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi
Hình bóng Người cứu khổ chúng sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ nguyền xin cứu khổ
Chúng con khổ nguyện xin tự độ
Ngoài tham lam sân hận ngập trời
Phá si mê trí tuệ tuyệt vời
Con nhớ Đức Di Đà lạc quốc


II-PHẦN CHÍNH

7 biến Chú Đại Bi :
Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần).
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. (3 lần khi trì biến cuối cùng)

7 biến Chú Vãng Sanh
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha

A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm
Năn tu di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ Tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát

Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin Đức Từ Bi tiếp độ


Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật (3 lần)

1-Niệm A Di Đà Phật theo phương pháp chuyển di thần thức (30-60 phút)

A-ĐIỀU THÂN :

Ngồi trên ghế dựa cho người già không ngồi trên bồ đoàn bán già hay kiết già được, mắt nhắm, hai bàn tay bắt ấn Di Đà để lên đùi hay chồng hai bàn tay lên nhau.

B-ĐIỀU Ý :

Kênh trung ương đầu dưới bị khóa lại nơi dưới rốn huyệt Khí Hải, ý đặt tại đây, dùng ý dẫn tâm thức (linh hồn) đi lên theo đường thẳng vô hình nhỏ bằng ngón tay qua tim từ từ lên đỉnh đầu, tưởng tượng ý và khí xuyên ra khỏi đỉnh đầu qua cửa Phạm Thiên là 1 lỗ nhỏ ở luân xa 7 theo mũi tên vọt lên cảnh giới cực lạc, mà Phật A Di Đà và thánh chúng đang đón ở trên đầu mình.

C-ĐIỀU TỨC :

(Trong Phật Giáo Kim Cang Thừa, hướng dẫn thần thức người tu để tái sinh vào Cõi Cực Lạc thì được thành tựu hiệu quả nhất qua pháp môn chuyển di thần thức phowa về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà).

1-Niệm Phật ra tiếng A Di Đà Phật chậm, tai nghe miệng niệm theo, ý dẫn khí theo nhạc : http://vocaroo.com/i/s1xa4vfK4pG2
Niệm 4 chữ A Di Đà Phật là hơi thở trong miệng đi ra, không cần chú trọng đến hơi thở vào, khi miệng niệm chữ A thì ý ở Khí Hải, niệm chữ Di ý dẫn khí ra theo lên đến tim, niệm chữ Đà ý dẫn khí ra tiếp tục lên ngang mắt, niệm chữ Phật ý dẫn khí thoát ra cửa Phạm Thiên lên khỏi đầu khoảng 50cm là nơi Đức Phật A Di Đà và Thánh chúng đang đợi đón mình.
Cứ mỗi câu miệng niệm A Di Đà Phật là một hơi theo kênh Trung Ương từ Khí Hải ra khỏi Phạm Thiên lên khỏi đỉnh đầu 50cm.
Còn cách đơn giản hơn, mục đính điều chỉnh áp huyết, tăng oxy cho não khi đo oxymét đầu các ngón tay tăng đều trong khoảng 95-99
Miệng niệm nhỏ tiếng dài hơi nhắm mắt tai nghe tiếng A Di Đà Phật, dùng 2 bàn tay bịt lỗ tai sẽ nghe trong đầu vang vang tiếng niệm Phật trong đầu, niệm ra tiếng càng nhỏ thì trong đầu nghe tiếng A Di Đà Phật càng lớn, ngược lại nếu niệm Phật càng lớn tiếng thì trong đầu nghe càng nhỏ hay không nghe được tiếng gì là sai.
Niệm Phật là đã nhớ Phật, tưởng tượng hào quang của Phật theo tiếng niệm vào trong đầu mình đi lên đỉnh đầu thoát ra ngoài phóng lên cao ra khỏi đầu theo hào quang của Phật về Cực Lạc,
Tập niệm Phật vang trong đầu cho thành thói quen, khi cận tử nghiệp đến dù mình không còn hơi sức niệm Phật nhưng khi được hộ niệm, tai vừa nghe tiếng niệm Phật chạy vào trong đầu lên đỉnh đầu là thần thức của mình đã thoát ra khỏi đỉnh đầu theo Phật về cực lạc rồi.
Niệm theo MP3 này : https://drive.google.com/drive/u/0/my-drive
Bấm vào bài Nhạc vừa niệm Phật vừa kinh hành

2-Kinh Hành 5 vòng theo nhạc niệm A Di Đà Phật

3-Cúi Lạy Phật (khí công) 30 phút theo nhạc niệm A Di Đà Phật

4-Thiền Định 30 phút
Mở máy niệm Phật, cuốn lưỡi ngậm miệng, chỉ dùng ý theo tiếng niệm của máy khi thở ra đưa khí theo ý theo kênh Trung Ương qua cửa Phạm Thiên lên cao khỏi đỉnh đầu 50cm
Thiền định chuyển di thần thức mỗi ngày, sau khi thiền định xong, chúng ta trì tụng bài kinh nguyện 2 dòng :
Con cầu xin Phật A Di Đà tiếp dẫn con tái sinh vào Cõi Cực Lạc (3 lần )
Áp dụng PHẦN CHÍNH nhiều lần trong ngày theo thời khóa : 2 khóa, 3 khóa hay liên tục, không cần phần lập lại Thời Khóa mở đầu hay kết thúc.

III-PHẦN KẾT THÚC CUỐI NGÀY :

Sau khi áp dụng xong PHẦN CHÍNH, tiếp theo phần này : :

1-Vãng Sanh Quyết Định Chơn Ngôn.
(Đọc tiếng Phạn hay âm Hán đều được)

NAMO AMITÀBHÀYA, TATHÀGATÀYA, TADYATHÀ: AMRITOD BHAVE AMRITA SIDDHAM BHAVE, AMRITA VIKRÀNTE, AMRITA VIKRÀNTA, GAMINI, GAGANA, KÌRTA KARE, SVAHA.
( https://www.youtube.com/watch?v=srpMVCHWcho )

Cách Phát Âm trì "Chú Vãng Sanh" theo tiếng Phạn:

Nam mô a mi ta ba da, ta tha ga ta da, ta đi da tha: am ri tô ba vê, am ri ta xít đam ba vê, am ri ta vi kờ răng tê, am ri ta vi kờ răng ta, ga mi ni, ga ga na, kiêc ta ka rê, xoa ha.
(https://www.youtube.com/watch?v=tv7rcFTIE4U)

Âm Hán:
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.

2-Niệm ra tiếng :
Nam Mô A Di Đà Phật (10 lần)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần )
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát ( 3 lần)
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát ( 3 lần )
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát ( 3 lần )

3-Hồi hướng .
Niệm Phật, Lạy Phật công đức vô biên...
Xin đem hồi hướng mọi miền gần xa
Chúng sanh pháp giới bao la
Đều về Cực Lạc Di Đà Tây Thiên
Nguyện tiêu ba chướng não phiền
Nguyện khai trí tuệ vô biên sáng ngời
Nguyện trừ tội chướng bao đời
Hành theo Bồ Tát đời đời vị tha
Nguyện sanh Tịnh Độ Di Đà
Hoa sen chín phẩn là cha mẹ mình
Hoa khai ngộ pháp vô sanh
Cùng chư Bồ Tát bạn lành với ta
Nguyện đem công đức tạo ra
Hướng về tất cả gần xa hưởng nhờ
Con cùng muôn loại thân sơ
Đều thành Phật đạo đến bờ an vui

Nam mô A Di Đà Phật

4-Phục Nguyện
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật
Thượng chúc :
Phật pháp sáng soi
Cho đời thoát nỗi lầm mê
Mưa thuận gió hòa
Cho người hết cơn đói lạnh
Sạch nạn binh đao
Tan lòng thù hận
Từ tâm mở rộng
Cho thế giới hòa bình
Chúng sanh an lạc


Phổ nguyện :
Âm siêu dương thái
Pháp giới chúng sanh
Tình dữ vô tình
Tề thành Phật đạo
Nam Mô A Di Đà Phật


5-Tam tự quy y .
Tự quy y Phật., xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng..
Tự quy y Pháp xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển....
Tự quy y Tăng xin nguyện chúng sanh, kính tín hòa hợp, tất cả không ngại....
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm cõi Tịnh Độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi cực lạc
Khi ta về nơi ấy
Tận tu các đại nguỵện
A Di Đà Thế Tôn
Thọ ký cho thành Phật

Nam Mô A Di Đà Phật ( 3 lần ).

Kết quả tu 1 thời công phu :
20 phút niệm Phật +10 phút khai thị =30 phút
Kinh Hành 20 phút + thời gian đứng dậy đi và về ngồi xuống chỗ 10 phút = 30 phút + đi được 200 m
Lạy Phật 20 phút là 120 lễ + 10 phút tịnh niệm = 30 phút.

Kết quả tu 1 ngày Phật thất :
Tổng cộng 1 thời khóa 90 phút, liên tục trung bình là 6 thời là 540 phút, còn 1 giờ ra vào ăn cơm, nghỉ ngơi tổng cộng 10 tiếng mỗi ngày :
Kết quả tối đa :
Kinh hành 6 thời đi được : 200m x 6 =1200m.
Lạy Phật tối đa : 120 lễ x 6= 720 lễ.
Niệm Phật : 1 phút 8 hơi thở mỗi hơi thở 4 câu, là 32 câu, niệm Phật 20 phút 640 câu 1 thời, 6 thời 3840 câu.

Kết quả tối đa 1 tuần Phật thất :
Kinh hành : 8400m
Lễ Phật : 5040 lễ
Niệm Phật : 26880 câu

Tất cả thân bệnh, tâm bệnh, nghiệp bệnh đều khỏi.


Trong giờ nghỉ, đọc thần chú này :
Thần chú A Di Đà - Om Amidewa Hrih
https://www.youtube.com/watch?v=teDl7WSe3Ns

Tác dụng của thần chú Om Amidewa Hrih là giúp bạn đạt được tái sinh tốt lành nơi Cực Lạc, mọi mong cầu đều được như ý, giúp cho chúng sinh khác tịnh hoá nghiệp chướng siêu sinh tịnh độ. Bên cạnh đó, khi bản thân bạn đã tu trì thành thục thì chỉ cần đọc 21 lần câu thần chú này bên người hay con vật vừa chết, chúng sẽ không phải tái sinh vào ba đường Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh nữa mà được tái sinh lên cõi Tịnh Độ.

Cư sĩ Huệ Tâm Hải (doducngoc)

----------------------

CÓ HỒN XÁC LÀ CÓ TA

-Nguyễn Đông Y-

K.T4.10/01/2018

Con người có Xác có Hồn
Xác thì thấy được, nhưng Hồn thì không
Xác Hồn hòa hợp ngoài trong
Xác thuộc âm chất, còn Hồn là dương.

Nhờ Hồn giữ Xác khỏi trương
Nhờ Xác Hồn có chỗ nương tựa vào
Ngũ tạng ngũ khí khác nhau :
Hồn luôn cư trú, ẩn vào tạng Gan.

Gan kho chứa máu, mật vàng
Hồn đi theo máu kiện toàn Xác thân.
Máu vào Tim chứa Tinh Thần
Tim đốt nóng cả châu thân ấm Tỳ.

Tỳ ẩn tàng Ý chỉ huy.
Phách trú trong Phổi nhờ Tỳ tương sinh.
Phổi nạp khí cho Thận mình
Chí ở nơi Thận phát sinh ào ào.

Thận lọc máu chất lương cao
Chất trong kho chứa trử vào nơi Gan
Gan lại trao máu tuần hoàn
Cho Tim bơm cấp phát toàn châu thân.

Ý – CHÍ – HỒN – PHÁCH – TINH THẦN
TỲ – THẬN – GAN – PHỔI TIM nâng đỡ người.
Xác không Hồn, thây ma rồi.
Hồn không có xác tức thời Hồn ma.
thanhlinh
 
Bài viết: 47
Ngày tham gia: Thứ 6 Tháng 3 23, 2012 10:29 pm

Re: TÔI TU TỊNH ĐỘ

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 5 31, 2017 9:49 am

PHẦN THUỘC VỀ LÝ :

HỌC VỀ NGHĨA LÝ KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA ÁP DỤNG CHO TỊNH ĐỘ.

MỤC LỤC :

Ý nghĩa Tịnh Độ và các cảnh giới Tịnh Độ. (trang 9)
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là gì ? (trang 13)
Hữu Lậu và Vô Lậu (trang 14)
Ba Bộ Kinh Tịnh Độ (trang 15)
Bốn nguyên nhân để vãng sanh về cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà (trang 16)
Ý nghĩa sự thực hành Trí Huệ Bát Nhã (trang 20)
Tứ Diệu Đế (trang 25)
Bát Chánh Đạo (trang 33)
Phát Bồ Đề Tâm-Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề (trang 41)
Tứ Nhiếp Pháp (trang 47)
Kiến Tư Hoặc và Trần Sa Hoặc khác nhau thế nào ? (trang 57)
Đạo Đế-Tứ Niệm Xứ (trang 64)
Tứ Chánh Cần (trang 70)
Tứ Như Ý Túc (trang 80)
Ngũ Căn Ngũ Lực (trang 82)
Thất Bồ Đề Phần (trang 86)

NHỮNG TRỞ NGẠI HÀNH GIẢ TU TỊNH ĐỘ KHÓ VÃNG SANH TỊNH ĐỘ.
Cửu Phẩm Vãng Sanh (trang 91)
Luận về Cửu Phẩm Vãng Sanh (trang 94)
Điều kiện vảng sanh ba bậc Thương Phẩm (trang 95)
Điều kiện vảng sanh ba bậc Trung Phẩm (trang 97)
Điều kiện vảng sanh ba bậc Hạ Phẩm (trang 99)
SỰ và LÝ trong Đạo Phật (trang 101)
Ba cõi, Sáu nẻo, Chín cõi (trang 103)
Bốn thứ tâm của pháp môn niệm Phật (trang 106)
Vô Sanh Pháp Nhẫn (trang 110)
Chú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni (tiếng Phạn) (trang 112)
Phương Pháp Chuyển Di Thần Thức Về Tây Phương Cực Lạc (trang 112)
P'howa để chủ động trong sự sống, chết, và tái sinh (trang 123)
Bốn nguyên nhân để sanh vào cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà (trang 126)
Sáu Thân Trung Ấm (trang 129)
Chúng ta chết ra sao (trang 133)
Quy Y và Bồ Đề Tâm (trang 136)
Pháp Thực Tập Chính Yếu (trang 137)
Thiền định P'howa mỗi ngày (trang 146)
Hoàn thành P'howa vào phút lìa đời (trang 151)
Pháp Chuyển Di Tâm Thức cho người hấp hối (trang 161)
Ngũ Trí Như Lai (trang 181)
Tìm hiểu về Tu Thiền (trang 187)
12 Nhân duyên qua sự quán chiếu của duy thức (trang 196)
12 Bộ Kinh (trang 227)



TÀI LIỆU TU HỌC
Cư Sĩ Huệ Tâm Hải



I-Ý NGHĨA TỊNH ĐỘ VÀ CÁC CẢNH GIỚI TỊNH ĐỘ

Chữ Tịnh tiếng Phạn sanskrit là śuddhi, hay viśuddhi, hoặc pariśuddha,, tiếng Anh là pure, đều có nghĩa trong sạch, sạch sẽ, thanh khiết.

Vậy phàm cái gì tinh nguyên không lẫn lộn tạp nhạp gọi là tinh, là thanh tịnh không nhiễm ô, không tạp nhiễm lỗi làm phiền não, hoặc không còn sanh khởi vọng tưởng.

Chữ Độ, là thổ, là đất ở, (land) là vùng, xứ địa phương.

Tịnh Độ nghĩa là cõi thanh tịnh, cõi nước tinh khiết, cõi Phật, là cõi trang nghiêm thanh tịnh, là nơi mà tâm chúng sanh không còn ô nhiễm, không còn phiền não, luôn an vui tu tập để tiến đến cứu cánh giải thoát viên mãn.
Tịnh là mục tiêu, đặc điểm của Phật pháp phải gồm đủ 2 phương diện, chúng sanh tịnh và thế giới tịnh. Có nghĩa là tịnh hóa thân tâm mà còn phải phát bồ đề tâm cứu độ chúng sanh, chuyển ta bà thành tịnh độ.

Một cõi tịnh độ phải đủ 2 điều kiện y báo, chánh báo cũng trang nghiêm thanh tịnh. Chánh báo chỉ cho người dân trong nước đó họ phải được thân trang nghiêm, thọ mạng và tướng hảo như Phật, không có khổ não, tâm bình đẳng, đạo đức kiên cố, trí tuệ, thần thông, và nhất là không còn luân hồi trong lục đạo.
Y báo chỉ cho cảnh vật cõi nước đó như đất đai bằng phẳng không có núi khe sông ngòi lởm chởm, chẳng có ngày và đêm, khí hậu mát mẻ quanh năm, chẳng có thiên tai, lũ lụt hạn hán, phong cảnh tươi đẹp thành quách đều bằng 7 báu,

Như vậy cõi tịnh độ phải là cõi trang nghiêm thanh tịnh gồm cả Phật và nhân dân, thiếu một trong hai thì không còn là cõi tịnh độ nữa.

CÁC CẢNH GIỚI TỊNH ĐỘ.

Từ ý nghĩa trên, có thể phân tịnh độ thành 2 cảnh giới : Cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh quốc độ và cảnh giới tịnh hóa tâm thức.

Cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh quốc độ :

Được xem là hóa thân của thế giới, nơi có vị trí địa lý nhất định, là cõi của những người tu hành muốn được tái sinh. Cõi nước do công đức tu tập của Phật khi còn là bồ tát, thiết lập nên và cũng là nơi Phật cùng bồ tát hóa hiện để dùng làm chốn đạo tràng độ sanh. Nó khác với cõi uế độ. hình thành do cộng nghiệp của chúng sanh duyên khởi.
Trong 10 phương thế giới có vô số cõi tịnh độ vì có vô số chư Phật, nhưng cũng có vô số cõi uế độ vì có vô số chúng sanh.
Tùy theo diệu dụng mà chư Phật quyền biến ra các danh nghĩa tịnh độ khác nhau
Tuy có nhiều cảnh giới tịnh độ khác nhau, nhưng tạm chia một số cõi tịnh độ như :

1-Thập phương tịnh độ :
Là cõi tịnh độ trong 10 phương mà Đức Phật thường nhắc tới do công đức của chư Phật kiến tạo nên như Đông phương tịnh độ của Phật Dược Sư, cõi Diệu Hỷ của Phật Bất Động,
Các thế giới về phương tây có chư Phật như Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Tướng, Vô Lượng Tràng, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang...
Cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà là một trong cõi tịnh độ được các chư Phật tánhn thán nhiều nhất.
Phương Nam là cõi của Phật Bảo Sinh, Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Đại Diệm Kiêm, Phật Tu Di Đăng...vá các chư Phật khác.
Phương Bắc là cõi của Phật Tối Thắng Âm, Võng Minh Phật .....
Còn các cõi phương dưới, cõi phương trên của nhiều vị Phật khác...
Cứ như vậy, mỗi Đức Phật đều an trú trong một cõi tịnh độ trang nghiêm thanh tịnh.

Tỳ Lô Giá Na Tịnh Độ trong thế giới Hoa Tạng và Phật Tỳ Lô Giá Na
Quyền Biến Tịnh Độ là oai lực của chư Phật biến hiện ra làm pháp phương tiện hóa độ chúng sanh.

Ký Báo Tịnh Độ là cõi mà các bồ tát ký thác báo thân nơi đó chờ bổ xứ thành Phật như cõi trời Đâu Suất có bồ tát Di Lặc chờ thành Phật ở cõi Ta Bà tiếp nối Đức Phật Thích Ca, hay cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà cũng có các vị bồ tát chờ tu tập dứt hết lậu nghiệp thì bổ xứ làm Phật thực hiện hạnh nguyện cứu độ chúng sanh.

Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận thì các bồ tát tu hành khi công đức thành tựu viên mãn, đến phút tối hậu, phá sạch vô minh vi tế, nhất niệm hiệp với bát nhã huệ thì được Nhất thế Chủng trí gọi là Chánh Biên Giác. Lúc bấy giờ bồ tát hiện thân Tự thọ dụng (báo thân) cao lớn ngàn trượng ở cõi Tự Thọ Dụng trên trời sắc giới chờ đi bổ xứ làm Phật như đức Di Lặc.

Bất Khả Tư Nghị Tịnh Độ là cảnh giới chư Phật dùng để thâu nhiếp chúng sanh trong 10 phương. Sức thâu nhiếp ấy không thể nghĩ bàn.
Tóm lại mỗi vị Phật có 1 cõi tịnh độ, vì có nhiều vị Phật thì có vô số cõi tịnh độ được xem là cõi tạm thời tái sanh để rồi tiến đến cõi Niết Bàn.

2-Cảnh giới thanh tịnh tâm thức :(duy tâm tịnh độ)
Tịnh độ là một dạng cao của tâm thức giác ngộ không bị ô nhiễm, các phương đông tây nam bắc chỉ có tính chất hình tướng. Đây chính là lộ trình cuối cùng của hành giả trên con đường tu tập tùy theo tâm thức giác ngộ mà có cảnh giới tịnh độ khác nhau, quốc độ tịnh độ xem như là sự tịnh độ, cảnh giới thanh hóa tâm thức xem như lý tịnh độ.
Xét về lý tùy tâm mà biến ra cảnh giới, tâm uế ( dirty) thì quốc độ uế, tâm tịnh thì quốc độ tịnh.
Kinh Duy Ma Cật dạy :

Giảng Giải Kinh Duy Ma Cật, Le Sy Minh Tung
01 https://www.youtube.com/watch?v=v2MVdQGUoQ4
02 https://www.youtube.com/watch?v=Cz6Y_BeOeBw
03 https://www.youtube.com/watch?v=4Eht_Poa0Jg
04 https://www.youtube.com/watch?v=gvaMQ1qMBI4

Trực tâm là tịnh độ của bồ tát,...cho đến bồ đề tâm, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, tứ vô lượng tâm (từ bi, hỷ, xả), tứ nhiếp pháp, phương tiện, ba mươi bẩy phẩm trợ đạo, hồi hướng tâm, giải thoát bát nạn, thập thiện đều là tịnh độ của bồ tát.

Bồ tát tùy theo trực tâm mà khởi hạnh thì được thâm tâm, tùy sự thâm tâm thì ý được điều phục, tùy sự điều phục thì được ngôn hành như một, thì hay hồi hướng, tùy sự hồi hướng thì có phương tiện, được thành tựu chúng sanh, tùy sự thành tựu chúng sanh thì cõi Phật trong sạch. Bồ tát muốn đắc tịnh độ nên tịnh tâm họ thì nơi tâm thanh tịnh thỉ Phật đạo thành. Tùy công phu tu tập cao thấp khác nhau mà có 4 cõi không đồng nhau dựa trên 4 bậc tu chứng khác nhau :

Phàm thánh đồng cư độ :
Thánh phàm cùng ở chung. Phật, bồ tát, và các vị thượng thiên nhân (thánh) cùng sống chung với chúng sanh chưa chứng được quả thánh do còn mang nghiệp vãng sanh lên cõi này.

Phương tiện hữu dư tịnh độ :
Hữu dư là cõi chưa rốt ráo còn sót lại trần sa hoặc và vô minh hoặc. Hàng nhị thừa nhờ đoạn kiến hoặc và tư hoặc nên thoát ra khỏi tam giới. Tuy nhiên đoạn trừ kiến hoặc và tư hoặc cũng mới chỉ là phương tiện chứ chưa đạt được giải thoát hoàn toàn vì còn phải trừ 2 loại mê lấm trần sa hoặc và vô minh hoặc nữa, nên mới gọi là cõi phương tiện hữa dư.

Thật báo trang nghiệm Tịnh Độ :
Bồ tát nương theo pháp chân thật mà tu hành, trải qua 3 số kiếp tích công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại, đoạn trừ được một phần vô minh không còn chướng ngại giữa cảnh và tâm và được quả báo chân thật trang nghiêm thù thắng, nên gọi là Thật Báo Trang Nghiêm Độ, đây là cảnh giới an trú các bậc bồ tát từ thập địa cho đến đẳng giác.

Thường Tịch Quang Tịnh Độ :
Là cảnh giới đã đoạn tận vô minh, và cũng là cảnh giới đại niết bàn của chư Phật an trú, thường không thay đổi, là lâu dài, không sanh diệt, tức là pháp thân Phật. Tịch là không lay động, vắng lặng, xa lìa các phiền não vọng tưởng, tức là đức giải thoát của Phật. Quang là chiếu sáng soi rọi khắp 10 phương, tức là đại trí huệ của chư Phật, như vậy cõi tịnh độ này chứa cả 3 đức quý báu của Phật là Thường, Tịch, Quang, tức là pháp thân, giải thoát, Đại trí huệ, là cảnh giới của bản thể chân tâm nên nó thường vắng lặng chiếu soi và thanh tịnh.

Cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà chứa cả 4 cõi, còn cõi của Phật Bất Động thì không có cõi đồng cư và cõi hữu dư.
Tóm lại trang nghiêm thanh tịnh tâm thức là khi chúng sanh trở về với bản tánh vốn thanh tịnh của mình, nó thường hằng bất biến, thanh tịnh và chiếu sáng, vì vậy thấy tâm là thấy Phật, và tâm tịnh chính là độ tịnh.


Giải thích :

1. Bố thí; 2. Ái ngữ: dùng lời hay khiến người hoan hỷ; 3. Lợi hành: dùng hành vi cảm hoá người khác; 4. Đồng sự: tuỳ thuận chúng sanh để nhiếp độ
Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Tứ niệm xứ, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, và Bát chánh đạo tổng cộng là 37 phẩm
Tám trường hợp không may có thể xảy ra trên con đường giác ngộ, gồm: 1. Địa ngục; 2. Súc sanh; 3. Ngạ quỷ; 4. Trường thọ thiên: cõi trời sắc giới có thọ mệnh cao; 5. Biên địa; 6. Căn khuyết; 7. Tà kiến; 8. Như Lai bất xuất sinh.
10 giới xét đoán công hạnh của người tu tự kiểm hàng ngày để sám hối sửa mình không những dành cho Phật tử mà còn ngay với cả các vị tu sĩ phải giữ bát chánh đạo để làm gương cho hàng Phật tử noi theo :
1. Không sát sanh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm; 4. Không nói dối; 5. Không nói lời thêu dệt; 6. Không ác ngôn; 7. Không nói hai lưỡi; 8. Không tham dục; 9. Không Sân nhuế; 10. Không tà kiến

A-NẬU ĐA-LA TAM-MIỆU-TAM BỒ-ĐỀ LÀ GÌ ?

A-nậu Đa-la Tam-miệu-tam Bồ-đề là trí tuệ sáng suốt của Phật, dịch là trí hiểu biết rộng lớn. Do con đường tu chứng đã đạt được, là trí tuệ vô thượng, là chân lý của sự an lạc .
Chữ A nghĩa là "vô",
Nậu-đa-la nghĩa là "thượng",
Tam-miệu là "chánh",
Tam-bồ-đề là "biến" hay "đạo".
Dịch tổng quát có nghĩa là Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác hay Vô-thượng Chánh-biến-đạo và gọi tắt là A-Nậu Bồ-Đề .

Chỉ có chư Phật là bậc Đại giác ngộ hoàn toàn mới được tôn hiệu này .
Các vị Bồ-tát,La-hán,Thanh-văn...chưa đủ tư cách để tôn xưng .

Con người từ khi phát tâm tu hành cho tới khi đạt được quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác phải trải qua vô số kiếp tinh tấn không ngừng mới phá dẹp được hai trận tuyến của quân giặc đang bủa vây từ trong nội tâm là sự phiền não quấy phá, cho đến giặc ngoại cảnh như ma chướng và các thứ sắc dục khác theo cám dỗ .

Nếu người tu bẻ dẹp được 2 thứ giặc hùng hậu kia rồi cứ tiến thẳng tới quả vị Bồ-Đề là con đường rộng mở để vào ngôi nhà chánh pháp tức là giác ngộ giải thoát vậy .

----------------
Tuy chưa đọc tụng kinh Đại Thừa, nhưng học hiểu được nghĩa lý trong phần giáo lý, cũng hiểu được Tông lẫn giáo “tông thuyết câu thông” tu hành lục niệm đến mức “hạnh giải tương ứng”, cũng được vãng sanh,

HỮU LẬU VÀ VÔ LẬU

Có một câu chuyện về thiền sư Kim Bích Thông, kể rằng một lần nhập định, ông có thể nhập định trong mười lăm ngày. Nếu muốn, ông có thể nhập định cả tháng. Một hôm, vì chưa vượt khỏi pháp hữu lậu, Diêm vương sai Ngưu đầu, Mã viện đến đón ông đi. Hai sứ giả đến chỗ ông ở nhưng kiếm mãi không thấy ông đâu. Hai vị sứ giả phải hỏi thăm Thổ thần:
- Này Thổ địa! Hãy nói cho chúng tôi biết lão Kim Bích Thông đang ở đâu để chúng tôi đưa lão về chầu Diêm Vương.
Thổ thần đáp:
- Ồ! Ông ta đang nhập định, tắt hết thần thức, các ông không kiếm ra ông ta đâu! Nhưng có một cách các ông có thể bắt ông ta được!
Ngưu đầu, Mã viện hỏi:
- Vậy cách đó là cách gì?
Thổ thần trả lời:
- Thiền sư nhà ta vốn rất quý chiếc bình bát ngọc của ông. Trước khi nhập định, ông đã đem dấu chiếc bình bát. Bây giờ nếu tìm ra được chiếc bình bát bằng ngọc ấy, khua leng keng mấy tiếng, chắc chắn ông sẽ xả định. Khi ấy các ông có thể bắt ông ta được.
Ngưu đầu, Mã viện nghe lời, ra sức kiếm chiếc bình bát quý và khi kiếm ra được, họ lấy đồ khua boong beng. Nghe tiếng động phát ra từ chiếc bình bát yêu dấu của mình, thiền sư Kim Bích Thông lập tức xả định, hỏi to: “Đứa nào lấy chiếc bình bát của ta?” Ngưu đầu, Mã viện cười, thưa: “Hôm nay là ngày mãn tuổi thọ nên chúng tôi đến xin mời ngài về chầu Diêm vương.”
Thiền sư Kim Bích Thông ồ lên một tiếng: “Thì ra các ông dùng điều này để bắt ta! Nhưng các ông sẽ thấy các ông vẫn không bắt được Kim Bích Thông đâu! Các ông hãy xem đây!” Nói xong, ông an trú tâm ngay nơi bất động vô sinh, lặn vào cõi vô lậu, tan biến trong thể pháp thân, Ngưu đầu và Mã viện chẳng thấy ông đâu để mà bắt.
Từ câu chuyện này, chúng ta học được bài học: một khi tâm thức chúng ta còn khởi ý niệm “tôi thế này, tôi thế kia”, chúng ta còn ở trong pháp hữu lậu. Và còn hữu lậu thì còn sinh còn diệt. Nếu chúng ta tu tập giỏi, vượt ngang qua tầng chấp trước, ngay trong đời sống hiện thời, chúng ta sẽ trở thành người thênh thang rất nhẹ với mọi chuyện buồn, vui, phải quấy, thị phi v.v.. Người khác có gây khó khăn, phiền muộn cho chúng ta, chúng ta đều xem như chuyện nước đổ lá sen. Đó là thành đạt cạn.
Khi thành đạt sâu hơn, chúng ta điều hòa được đời sống gia đình, có được phúc lạc. Xả ly được những cố chấp nhiều chừng nào, lòng mình thanh thản, bình an nhiều chừng ấy. Năng lượng lành của chúng ta sẽ tỏa rộng, người thân chung quanh cũng được hưởng. Và khi thành đạt sâu hơn nữa, chúng ta lặn ngang qua được những tầng Hữu lậu pháp, vào đến phần tâm Vô lậu – chính là tâm Phật trong chính chúng ta. Khi ấy chúng ta hoàn tất công trình tu tập, không còn rớt vào cõi tử sinh.
Trích "Kinh A Hàm 01"

HT Thích Phước Tịnh
-----------


BA BỘ KINH TỊNH ĐỘ


Quán Vô Lượng Thọ Kinh với A Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh hợp xưng là Tịnh Thổ Tam Bộ Kinh. Kinh này trình bày rõ tư tưởng Tịnh Thổ của Vô Lượng Thọ Kinh, kể lại chuyện Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākya-muṇi) ứng với sự thỉnh cầu của phu nhân Vi Đề Hy (Vaidehī) ở trong cung của Tần Bà Sa La (Bimbisāra) vì Tín Chúng giảng thuật quán tưởng thân tướng của Đức Phật A Di Đà (Amitāyus: Vô Lượng Thọ) với 16 phương pháp quán tưởng trang nghiêm Tịnh Thổ Cực Lạc (Sukha-vatī)

Trong 16 Quán “Tây Phương Tịnh Thổ” thì 13 Quán trước là:

1-Nhật Lạc Quán (Quán mặt trời sắp lặn)
2-Thủy Tịnh Quán (Quán sự trong sạch của nước)
3-Bảo Địa Quán (Quán đất báu)
4-Bảo Thụ Quán (Quán cây báu)
5-Bảo Trì Quán (Quán ao báu)
6-Bảo Lâu Quán (Quán lầu gác báu)
7-Bảo Tòa Quán (Quán tòa báu)
8-Phật Kim Thân Quán (Quán thân vàng ròng của Đức Phật)
9-Phật My Gian Bạch Hào Tướng Quán (Quán tướng lông mày trắng ở tam tinh của Đức Phật)
10-Quán Thế Âm Bồ Tát Quán (Quán Bồ Tát Quán Thế Âm)
11-Đại Thế Chí Bồ Tát Quán (Quán Bồ Tát Đại Thế Chí)
12-Cực Lạc Thế Giới Quán (Quán Thế Giới Cực Lạc)
13-Tạp Tưởng (Tưởng tạp)
14-Thượng Phẩm Sinh Quán
15-Trung Phẩm Sinh Quán
16-Hạ Phẩm Sinh Quán

Ba Quán 14,15,16 này lại chia ra làm ba Phẩm Thượng Trung Hạ, đây là Cửu Phẩm Liên Hoa Sinh

Quán Vô Lượng Thọ Kinh: phần đầu nói rõ tu ba Phước làm Nhân (Hetu) chính của nghiệp trong sạch (Viśuddha-karma:Tịnh Nghiệp). Trong ba Phước thì Phước thứ nhất là căn lành của Thế Gian, Phước thứ hai tức là sự tốt lành của việc giữ Giới, Phước thứ ba tức là hành Thiện độ người.
Phần sau nói rõ Nhân Quả vãng sinh của chín Phẩm khiến cho người có nghiệp chướng nặng, xưng niệm danh hiệu của Đức Phật làm Hạnh chính. Do xưng danh hiệu của Đức Phật cho nên hay trừ tội của nhiều Kiếp, liền được sinh về Tây Phương Tịnh Thổ.

Đại Sư Ấn Quang nói rằng: “Quán chín Phẩm chẳng qua là khiến cho người biết Nhân Quả của Vãng Sinh. Chỉ cần hiểu rõ liền xong, chẳng cần phải tác Quán. Người ấy một lòng trì danh hiệu, chỉ cần chí Tâm quy nơi một thì cảnh thanh tịnh tự tụ hội, hiện ra trước mặt vậy”

Tuy nhiên, Thế Giới Cực Lạc ở phương Tây có cấp bậc khác biệt chẳng đồng của ba nhóm, chín Phẩm. Chỉ là sự tất yếu cần có đầy đủ niềm tin, ước nguyện, một lòng niệm Phật thì chẳng luận nghiệp tội là nhẹ hoặc nặng, đều có thể được sinh về Tây Phương Tịnh Thổ.



BỐN NGUYÊN NHÂN ĐỂ VÃNG SANH VÀO CÕI TỊNH ĐỘ CỦA PHẬT A DI ĐÀ


A-Nguyên do thứ nhất tin vào 48 lời nguyện của Phật A Di Đà :

Theo văn kinh có tên là “Rolling of Drums” (Đánh Trống Pháp), vô lượng kiếp về trước có một vương quốc an vui mà vị vua rất mực thờ kính vị Phật thời đó, Đức Phật Lokeshvaraja. Vị vua đã rời bỏ ngai vàng, trở thành một vị sư, và nguyện thành đạt giác ngộ. Ngài khởi tâm đại bi, phát lên 48 lời nguyện, và nói rằng sẽ không thành Phật nếu bất kỳ lời nguyện nào trong đó chưa thành tựu. Với những lời đó, trái đất rung chuyển và mưa hoa bay xuống từ khắp trời. Những lời ngợi ca vang lên, và cùng với đó là lời tiên tri rằng vị sư này sẽ chắc chắn thành Phật. Và Ngài đã thành Phật, danh hiệu Phật A Di Đà.
Trong kiếp làm một vị bồ tát tu sĩ, Ngài đã thấy rằng có vô lượng cõi tịnh độ cho các vị chứng ngộ, những người đã chiến thắng được vọng tâm, nhưng không có những cõi như thế cho những ai còn gian nan trên đường tu. Trong 48 lời nguyện của Ngài có một ước nguyện tạo ra một cõi thanh tịnh cho tất cả những ai nghe được tên Ngài, mong muốn vào cõi đó, xây dựng cội rễ công đức, và hồi hướng các công hạnh phước đức để được siêu sinh vào cõi tịnh độ đó. Ý nguyện của Ngài mạnh tới nỗi Ngài thề không thành Phật, nếu Ngài không thành tựu được một cõi tịnh độ như thế.
Trong tâm thức giác ngộ, Phật A Di Đà vẫn luôn duy trì trong sự chứng biết pháp thân, trong sự nhận biết không gián đoạn về bản tánh tuyệt đối, trong cái rộng lớn bao trùm hết thảy. Nhưng cái bản chất rỗng rang, cái không gian căn bản, của pháp thân thì không đơn giản là cái không gì hết; mà nó mang giữ tròn đầy năng lực để phát khởi không ngưng nghỉ sự hóa hiện của báo thân và sắc thân. Các cảnh giới thanh tịnh báo thân và các cung điện cõi trời sẽ hóa hiện ra cho các vị Phật và các bồ tát thập địa, những người đã xa lìa phiền não, nên có thể kinh nghiệm và hân hưởng các hiện tượng thanh tịnh như thế. Các hóa hiện sắc thân sẽ khởi lên tùy theo nghiệp chúng sinh sáu cõi.
Cõi Cực Lạc (Dewachen), tức cảnh giới của Niềm Vui Lớn đã hóa hiện ra nhờ nguyện lực Phật A Di Đà, có thể đón nhận những chúng sinh chưa trở thành bồ tát thập địa, nhưng chỉ nhờ lòng tin vào Phật A Di Đà và mong muốn được sinh vào cõi thanh tịnh của Ngài. Nơi đó, họ có thể tiếp tục đường tu để tới giác ngộ trong một cõi thuần an lạc, vượt ra ngoài những khổ đau. Trong Phật Giáo Kim Cang Thừa, hướng dẫn thần thức người tu để tái sinh vào Cõi Cực Lạc thì được thành tựu hiệu quả nhất qua pháp môn phowa.
Ngay cả người chưa thành đạt mức độ thanh tịnh cao cũng có thể, xuyên qua lòng tin mãnh liệt và nguyện lực, được siêu sinh vào Cõi Cực Lạc. Sau khi chết, thần thức người đó được bao bọc bởi một hoa sen cho tới khi hầu hết các chướng ngại biến mất và cõi tịnh độ hiển lộ. Khi hoa sen nở, người tu sẽ thấy một vùng đất của những phần tử hòa hài, không còn các xung khắc, với không gò đống, nguy hiểm hay có thể gây hại. Nhiệt độ tự điều chỉnh theo ý muốn cá nhân. Hoa trải thảm trên mặt đất và gió thổi nhẹ nhẹ, mang mùi hương dễ chịu. Nhiều loại chim kỳ diệu hát các bài ca giàu âm điệu của Phật Pháp, chuông vang dịu dàng, và cây rung chuyển cũng mang theo diệu nghĩa.

Cung điện sáng ngời của Phật A Di Đà đứng nơi giữa Cõi Cực Lạc, và Đức Phật ngồi trong đó, trên một ngai được mang bởi tám con chim công. Nhìn vào khuôn mặt của Phật A Di Đà sẽ làm thanh tịnh nhiều phiền não, thọ nhận giáo pháp trực tiếp từ Ngài sẽ mở vô lượng cánh cửa vào thiền định. Người tu có thể thọ nhận giáo pháp và viếng thăm các cõi tịnh độ khác tùy ý mình.
Sau cung điện là một cây bồ đề vĩ đại với từng chiếc lá mang một câu thần chú và trĩu nặng châu báu. Nhìn cây này sẽ bảo vệ được mắt nhìn, chạm xúc vào cây sẽ có sức khỏe, và nghĩ về cây sẽ mang tới sức định kiên cố.
Các chúng sinh trong Cõi Cực Lạc có thân vàng, và khi họ sắp giác ngộ thì ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của thân Phật sẽ xuất hiện. Các thành viên của tăng đoàn là các vị sư, cũng như chính Đức Phật A Di Đà, nhưng nhiều hình tướng khác của các thiện tri thức cũng cư trú nơi đây.
Không sự căng thẳng, buồn nản, tiêu cực, hay đau khổ nào làm ngăn trở sự toàn hảo của Cõi Cực Lạc, nhưng người tu vẫn không bị cô lập khỏi các hoàn cảnh của chúng sinh xoay vòng trong cảnh luân hồi. Người tu có thể chứng kiến hoàn cảnh của các chúng sinh, và cảm nhận cùng lúc nỗi đau tương đối của họ và bản chất hư vọng tuyệt đối của chúng. Bởi vì lòng từ bi của người tu ở ngôi bồ tát bất thối thì không bị ngăn trở, người tu có thể lựa chọn trở về đầu thai trong cõi luân hồi, không phải vì nghiệp lực lôi kéo nhưng là vì lòng thương xót và muốn cứu độ chúng sinh. Biết những phẩm chất kỳ diệu của Cõi Cực Lạc và khởi tâm mong muốn sinh vào cõi này, đó là nguyên do đầu tiên để được siêu sinh vào cõi tịnh độ này.

B-Nguyên do thứ nhì để vãng sinh vào tịnh độ là khởi tâm thanh tịnh:
Từ lòng đại bi thương xót chúng sinh, chúng ta mong cầu giác ngộ để đưa khắp chúng sinh tới bờ giác ngộ. Sự thức tỉnh bồ đề tâm khởi ra khi các phẩm cách thanh tịnh của Phật tánh của chúng ta – các tâm từ, bi, hỉ và xả – trào lên xuyên qua những lớp che của lòng ích kỷ bình thường xoay quanh tự ngã. Về phương diện pháp môn p’howa, thế nghĩa là chúng ta có ý định thành tựu pháp môn này và sử dụng nó như phương tiện tự giải thoát khỏi cảnh luân hồi với mục đích làm lợi ích người khác. Do đó, chúng ta sẵn lòng muốn lắng nghe và suy nghĩ về giáo pháp, và tu tập thiền định. Pháp môn p’howa tự thân trở thành vận động trường để tích cực tham dự vào bồ đề tâm xuyên qua sáu pháp toàn thiện ba la mật của bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí huệ. Điều này sẽ được bàn luận sâu thêm trong chương về tu tập p’howa.

C-Nguyên do thứ ba là việc huân tập công đức để siêu sinh vào Cõi Cực Lạc :

Điều này thành tựu bằng cách thực hiện Cúng Dường Bảy Phần, pháp này cũng cốt yếu với nhiều pháp môn khác. Khi hướng về Phật A Di Đà, pháp này gồm các phần sau:

1.Kính Lễ.
Hãy quán tưởng Đức Phật A Di Đà trên hư không phía trước chúng ta, chúng ta kính lễ hình tướng (thân) giác ngộ của Ngài bằng cách chắp hai tay lên đỉnh đầu chúng ta, kính lễ lời nói (khẩu) giác ngộ của Ngài bằng cách đưa hai tay về tới cổ, và kính lễ tâm (ý) giác ngộ của Ngài bằng cách đưa hai tay về giữa ngực. Rồi chúng ta lạy bằng toàn thân, quán tưởng có thân phụ bên phải của mình, có thân mẫu bên trái của mình, có loài quỷ dữ sau lưng của mình, có kẻ thù nơi phía trước của mình, và có tất cả chúng sinh vây quanh chúng ta. Tất cả đều cùng quỳ lạy với chúng ta, miệng đọc lên kinh nguyện và quán tưởng Phật A Di Đà. người tu cũng có thể quán tưởng thấy mình hóa hiện ra vô lượng sắc thân đang quỳ lạy kính lễ Phật A Di Đà.
Pháp quỳ lạy là thuốc trị độc dược của cao ngạo.

2.Cúng Dường.
Chúng ta cúng dường Phật A Di Đà một đàn pháp mạn đà la vô tận. Một vũ trụ ba ngàn nếp gấp, đại diện cho hiện tượng bất động, dùng như một vật dung chứa, và tất cả chúng sinh– tức hiện tượng sinh động– là những gì được chứa trong đó. Món cúng dường này được sắp xếp như một vũ trụ khổng lồ, với núi Tu Di nơi trung tâm, vây quanh bởi bảy vòng núi vàng trồi lên từ biển nước thanh tịnh. Nơi đỉnh núi Tu Di là các cõi trời. Trong các phương hướng chính, là bốn lục địa, mỗi lục địa nằm giữa hai tiểu lục địa, gồm cả lục địa hướng nam của chúng ta với các cây như ý. Chúng ta quán tưởng các thiên nữ đang cúng dường những hình tướng, âm thanh, mùi hương dễ chịu, những vật để chạm xúc và những món ăn để nếm, cũng như tám biểu tượng thịnh vượng, bảy thứ trang phục hoàng gia, và tám bảo vật– nghĩa là mọi thứ có thể làm vui bởi sự quý giá, bởi vẻ đẹp, hay bởi tính linh thánh của chúng.
Cúng dường là thuốc chữa trị sự gắn bó ích kỷ.

3.Sám Hối.
Đối trước Phật A Di Đà, chúng ta bày tỏ sám hối về tất cả những gì chúng ta đã làm sai trái qua thân, khẩu và ý nghiệp. Chúng ta nguyện không phạm lỗi nữa, và đón nhận sự thanh tịnh hóa của Phật A Di Đà trong hình thức ánh sáng bao trùm khắp và hoàn toàn làm trong sạch chúng ta.
Sám hối là thuốc chữa trị sân hận.

4.Hoan Hỷ.
Bằng cách chân thực biết ơn và vui mừng với công hạnh của những người cầu nguyện và quán tưởng về Phật A Di Đà và, một cách tổng quát hơn, của những người đã vào con đường giải thoát, chúng ta đối trị lòng ghen tị và ganh đua mà đôi khi khởi lên đối với người tu khác. Bất kỳ ai chân thành hoan hỷ vì công hạnh những người khác cũng thu nhận cùng công đức như người thành tựu công hạnh đó.

5.Thỉnh Pháp.
Việc thu nhận kiến thức siêu việt được thành tựu xuyên qua nghe (văn), suy lường (tư) và thiền định (tu) về giáo pháp. Điều này khởi đầu với một yêu cầu học pháp. Đặc biệt, chúng ta có thể xin học pháp về p’howa và các đề tài liên hệ, nhằm chữa trị sự si mê của chúng ta.

6.Cung Thỉnh Chư Thánh Tăng Ở Lại Trần Gian.
Chúng ta cầu nguyện rằng những vị giác ngộ sẽ vẫn ở lại với chúng ta và đừng vào niết bàn. Bằng cách nhìn thấy các vị sư dạy chúng ta pháp môn thiền định về Phật A Di Đà cũng hoàn toàn không tách biệt với Phật A Di Đà, chúng ta dần dần đạt cái nhìn thanh tịnh về những gì linh thánh. Điều này chữa trị tà kiến.

7.Hồi Hướng.
Thiền định về bất kỳ phương diện nào của Phật A Di Đà cũng có công đức lớn. Cúng dường công đức này cho khắp các chúng sinh sẽ làm lớn rộng thêm công đức này, và không làm cho công đức này mất hay suy giảm đi. Qua sự hồi hướng, công đức khởi lên bởi một người sẽ làm tăng công đức của tất cả chúng sinh, cũng chắc chắn như dầu đổ thêm vào đèn bởi một người sẽ giúp duy trì và tăng thêm ánh sáng chia xẻ bởi nhiều người trong phòng. Sự hồi hướng chữa trị tâm nghi ngờ, mà tâm này có thể khởi lên về khả năng của mình để thành tựu mục tiêu tối hậu để giải thoát tất cả chúng sinh, không bỏ sót ai, vào trong cõi thuần vui của Tịnh Độ.

C-Sự hồi hướng là nguyên do thứ tư để siêu sinh vào Cõi Cực Lạc.

Ý NGHĨA SỰ THỰC HÀNH TRÍ HUỆ BÁT NHÃ

Nguyễn Thế Đăng
Sau đây chúng ta tìm hiểu đường lối và công hiệu của việc thực hành trí huệ Bát-nhã.Trí huệ Bát-nhã soi thấy tánh Không nhằm chủ yếu vào những hiệu quả nào? Người ta đạt đến cái thấy tánh Không bằng cách nào?

Kinh Đại Bát-nhã nói mục đích của kinh là đạt đến thực tại bổn nguyên và tối hậu là tánh Không.Tánh Không này còn được gọi bằng nhiều tên khác như “thật tướng của tất cả các pháp, chân như, pháp giới, pháp tánh, pháp trụ, pháp định, thật tế, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, hư không giới, bất tư nghì giới”. Nhưng kinh nói nhiều nhất về tánh Không và trí huệ Bát-nhã nhìn thấy và tương ưng với tánh Không.

1. Phá tướng để hiển tánh

Sanh tử là do tướng và tưởng. Giải thoát khỏi sanh tử là thoát khỏi hay phá trừ các tướng và tưởng. Người ta thấy thực tại tánh Không khi cởi bỏ được những tướng và tưởng che đậy trạng thái thật của chính mình và của tất cả mọi sự. Sự che đậy này là vô minh.Trạng thái thật của mình và của mọi sự là không có tự tánh hay là tánh Không.
Thế nên kinh nói: Sắc thọ tưởng hành thức là Không, vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc. Điều đó áp dụng cho tất cả các pháp, kể cả những pháp để thực hành và những pháp là mục đích của sự thực hành.
Chúng ta trích một đoạn để thấy điều này:

“Sắc bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy.Thọ tưởng hành thức bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy. Nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy…
“Địa, thủy, hỏa, phong, không, thức, giới, bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy. Dục giới, sắc giới, vô sắc giới bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy. Bốn thánh đế bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy. Vô minh bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy. Hành, thức, danh sắc, cho đến sanh, lão, tử bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy.
“Bốn thiền, bốn vô lượng, bốn vô sắc định bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy. Bốn niệm xứ bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy. Bố thí, trì giới cho đến bát-nhã ba-la-mật bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy. Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy. Như Lai bất khả đắc vì rốt ráo tịnh vậy.
“Các pháp chẳng xuất chẳng sanh, chẳng mất chẳng diệt,vô nhiễm vô tịnh, vô đắc vô vi. Như vậy gọi là nghĩa rốt ráo tịnh.
“Đại Bồ-tát khi học như vậy, là đối với tất cả pháp đều vô sở học. Vì sao thế? Các pháp vốn là vô sở hữu. Nếu đối với pháp vô sở hữu như vậy, chẳng có thể thấu hiểu thì gọi là vô minh” (Phẩm Bát-nhã hành tướng, hội thứ 1).

Chúng ta thấy, trong đoạn kinh này, Không, không có nghĩa là phủ định tất cả. Những cái bị phủ định ở đây là các tướng và tưởng bám che “thật tướng của tất cả các pháp”. Kinh vẫn đồng thời khẳng định thực tại tối hậu là tánh Không thanh tịnh, không bị che phủ bởi vô minh, không có sanh tử, không sanh không diệt, “vì rốt ráo tịnh vậy”.
Khi nói về tánh Không, kinh lập đi lập lại đầy đủ không bỏ sót một pháp nào. Chẳng hạn nói, “các Bồ-tát chẳng nên trụ từ sắc thọ tưởng hành thức, cho đến mười hai xứ, mười tám giới, đất nước lửa gió, bốn thánh đế, mười hai nhân duyên sanh, bốn thiền, sáu ba-la-mật, bốn niệm xứ, mười lực, mười tám pháp bất cọng cho đến nhất thiết trí tướng”, thậm chí cho đến chẳng nên trụ chân như, pháp giới, pháp tánh, thật tế…

Tiếp đó kinh nói thêm: “Nếu Bồ-tát tu hành bát-nhã ba-la-mật-đa mà không có phương tiện thiện xảo, thì bị chấp ngã và ngã sở ràng buộc quấy nhiễu, nên tâm bèn trụ sắc, trụ thọ tưởng hành thức…cho đến trụ tất cả tam muội”.
Rồi tiếp theo, “Sắc chẳng nên nhiếp thọ, thọ tưởng hành thức chẳng nên nhiếp thọ”. Lại nói “Tất cả các pháp chẳng nên nhiếp thọ, từng nhóm pháp một”. Và kết luận đoạn này, “Vì sao thế? Vì tất cả pháp tự tướng đều Không, năng thủ sở thủ đều bất khả đắc vậy” (PhẩmVô trụ, hội thứ 1).

Với sự lập đi lập lại từng pháp một, không bỏ sót pháp nào, kinh triệt hạ, quét sạch tất cả tướng và tưởng tạo ra chấp trước mà một con người như chúng ta có thể có.
Những phá nát, cắt đứt (Năng đoạn Kim cương), triệt hạ tất cả tướng và tưởng của vô minh che phủ, làm bày lộ thực tại tánh Không, vô tướng, vô niệm, vô trụ, vô sở, vô sở hữu, bất khả đắc…

2.Trí huệ tánh Không phối hợp với các hạnh.

Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, các hạnh ba-la-mật này đều được phối hợp với bát-nhã, tức là trí huệ tánh Không. Cho đến “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”, hạnh tổng quát và cao nhất của Bồ-tát cũng được phối hợp với trí huệ tánh Không.
“Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật, tức chẳng phải là trang nghiêm, đó gọi là trang nghiêm”.
“Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào ? Các ông chớ nói Như Lai có tưởng như vầy: ‘Ta phải độ chúng sanh.’ Tu-bồ-đề, chớ tưởng như vậy. Vì sao thế ? Bởi thật không có chúng sanh nào để Như Lai độ cả” (Kinh Kim Cương).

Như chính đầu đề kinh, kinh Đại Bát-nhã, kinh Đại Trí huệ, hệ thống các kinh Bát-nhã lấy Trí huệ tánh Không làm Nền tảng, Con đường, và Quả. Trí huệ tánh Không là Nền tảng cho mọi hạnh của Con đường Bồ-tát. Cuộc đời Bồ-tát diễn tiến trên Nền tảng trí huệ tánh Không.
Bát-nhã gắn liền với sinh hoạt hàng ngày. Đi đứng nằm ngồi, nói, nín, quét sân, làm ruộng, thắp hương, tụng kinh, ngồi thiền… đều gắn liền với trí huệ Bát-nhã. Thiền tông là sự thể hiện trí huệ Bát-nhã trong đời sống hàng ngày. Bởi thế nên Thiền tông vẫn phát triển mạnh mẽ trong đời sống ngày nay.

Trí huệ Bát-nhã có thể thể hiện trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Có một nơi nào mà không có sắc thọ tưởng hành thức, có một nơi nào mà không có sắc thanh hương vị xúc pháp…? Như vậy, có một nơi nào mà không có sắc thọ tưởng hành thức. Không, có một nơi nào mà không có sắc thanh hương vị xúc pháp. Không.
Thực hành trí huệ Bát-nhã là tương ưng với tánh Không trong bất kỳ thời gian nào không gian nào. Cho đến lúc toàn bộ đời sống là sự hiện bày của tánh Không.

3. Đi đến vô trụ, vô tướng, vô niệm, không hý luận.

Vô sở trụ, vô tướng, vô niệm, không hý luận là những từ thường được lập đi lập lại trong kinh.
“Đức Phật dạy:
Đại Bồ-tát nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lui bỏ việc cầu giác ngộ vô thượng, với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vui mừng muốn nghe, thọ trì đọc tụng, thông hiểu rốt ráo, buộc niệm suy nghĩ, tinh tấn tu hành, tâm không nhàm mỏi. Đại Bồ-tát này luôn luôn tùy thuận tiếp nối, hướng đến nhập vào Nhất thiết trí trí. Nên thật hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế” (Phẩm Điều phục tất cả tham, hội thứ 2).
“Vui mừng muốn nghe, thọ trì đọc tụng, thông hiểu, buộc niệm suy nghĩ, tinh tấn tu hành, tâm không nhàm mỏi”, nghĩa là Văn, Tư, Tu tánh Không. Hơn nữa sự Văn, Tư, Tu này là liên tục trong từng niệm niệm: “luôn luôn tùy thuận tiếp nối, hướng đến nhập vào”. Với sự càn quét đi, càn quét lại các tướng và tưởng, tánh Không sẽ không còn bị che ngăn, dần dần hiện bày, vì tánh Không thì luôn luôn hiện tiền từ vô thủy đến vô chung.
Trong đời sống hàng ngày, với sự tùy thuận, tương ưng thường xuyên trí huệ Bát-nhã người ta đi vào tánh Không vô tướng, vô trụ, vô niệm, không hý luận.
Khi không còn chấp trước, phân biệt với các tướng, tâm người ta đạt đến vô tướng, hay là tánh Không. Vô tướng không có nghĩa là không có tướng nào cả, một màn hình hay một tấm gương trống không, mà vô tướng nghĩa là màn hình hay tấm gương vẫn có các tướng, nhưng các tướng ấy có bản chất là tánh Không, vô tự tánh, nghĩa là các tướng ấy vốn là giải thoát.
Khi không còn trụ vào các tướng, tâm người ta được tự do, trở thành vô trụ như tánh Không.
Khi không còn các niệm phân biệt của thức hư vọng (biến kế sở chấp) tâm người ta trở thành vô tâm, vô niệm như tánh Không. Vô niệm không có nghĩa là không có tư tưởng. Mà vô niệm vì bản tánh của tâm vốn là thanh tịnh, vốn là tánh Không, không thể bị ô nhiễm bởi những tư tưởng:
“Tâm này vì sao bản tánh của nó là thanh tịnh? –Bản tánh tâm này chẳng tương ưng với tham sân si và mọi thứ tâm niệm, mà cũng chẳng phải chẳng tương ưng. Xá-lợi tử, Tâm này bản tánh thanh tịnh như thế” (Phẩm Khuyến học, hội thứ 2).

Đạt đến tánh Không vốn thanh tịnh của tâm, khi những tư tưởng sanh khởi từ một tâm thanh tịnh không ô nhiễm như thế, thì chính những tư tưởng cũng thanh tịnh không ô nhiễm. Khi ấy những tư tưởng cũng chính là tánh Không, cũng chính là giải thoát.
Với một tâm vô tướng, vô trụ, vô niệm như thế, người ta tương ưng và an trụ trong tánh Không. Đó là sự giải thoát. Tâm hoàn toàn bình an, tự do và giải thoát, không còn vẩn vơ ràng buộc vào một ý niệm vi tế nào. Nó không còn nghĩ ngược nghĩ xuôi, trôi nỗi theo những ý niệm vi tế, những quan điểm thế này thế nọ. Đây là một tâm “vô hý luận”.
Hý luận là những bàn luận chơi, những lý luận suông một cách vô ích về những điều không có thật. Chẳng hạn lý luận về lông rùa sừng thỏ là sanh hay diệt, dơ hay sạch, tăng hay giảm, một hay nhiều… là hý luận. Suy nghĩ bàn luận về bốn câu: có, không, vừa có vừa không, không có không không, là hý luận. Người xưa nói: lìa bốn câu, dứt tuyệt một trăm cái phủ định (ly tứ cú, tuyệt bách phi), đây là một tâm vô niệm hay tâm vô hý luận.
Ở trong chân lý tuyệt đối (chân đế) thì sắc thọ tưởng hành thức cho đến tất cả các pháp đều là hý luận. Do đó,sanh tử chỉ là hý luận.
Một tâm không hý luận là một tâm dứt bặt với mọi ý niệm sanh tử, một tâm hoàn toàn Niết-bàn.

4.Tánh Không cứu thoát tất cả.

Phẩm Ma ha tát, hội thứ 1, nói:

“Khi ấy Xá-lợi tử hỏi Tu-bồ-đề rằng: Nếu tâm Nhất thiết trí trí là chân vô lậu, chẳng đọa ba cõi như vậy, thì tất cả tâm chúng sanh,Thanh văn, Độc giác cũng phải là chân vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì tất cả các tâm ấy cũng là bản tánh Không. Bởi vì sao? Vì pháp bản tánh Không là chân vô lậu chẳng đọa ba cõi.
Tu-bồ-đề đáp: Như vậy, như vậy. Thật đúng như lời ngài nói.
Xá-lợi tử nói: Sắc cũng phải là chân vô lậu, chẳng đọa ba cõi; thọ tưởng hành thức cũng phải là chân vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao thế? Vì sắc thọ tưởng hành thức bản tánh đều Không vậy. Bởi vì sao? Vì pháp bản tánh Không là chân vô lậu chẳng đọa ba cõi.
Tu-bồ-đề đáp: Như vậy, Như vậy. Thật đúng như lời ngài nói”.
Bản tánh của tâm Nhất thiết trí trí, tức là tâm Phật, là tánh Không. Bản tánh của tâm của tất cả chúng sanh và các bậc thánh Thanh văn, Độc giác cũng là tánh Không. Do đó, tâm của chư Phật, chư Thanh văn, chư Độc giác và của tất cả chúng sanh đều bình đẳng đồng nhất một bản tánh là tánh Không, vốn là chân vô lậu chẳng đọa ba cõi. Nói một cách cụ thể, nếu đi vào và chứng ngộ bản tánh Không của tâm mình thì tâm ấy là tâm Nhất thiết trí trí, tâm Phật.
Tánh Không là sự bình đẳng của tất cả chúng sanh và chư Phật.
Sự bình đẳng ấy không chỉ trong bản tánh, mà còn trong không gian và thời gian khác biệt: ngay lúc này đây hay bất cứ lúc nào khác, tâm chúng sanh của chúng ta vẫn cùng một bản tánh Không với tâm chư Phật. Đây là sự bình đẳng tuyệt đối, xóa hẳn mọi nhân duyên điều kiện. Nói cách khác, tánh Không đồng nhất ấy bất chấp mọi nhân duyên điều kiện, bất chấp không gian và thời gian, nghĩa là nó luôn luôn hiện tiền và thường trụ.
Sắc thọ tưởng hành thức, đất nước lửa gió cho đến vô minh, tất cả các pháp cũng đều là chân vô lậu chẳng đọa ba cõi, vì bản tánh đều Không. Sanh tử là chân vô lậu chẳng đọa ba cõi thì sanh tử ấy xưa nay vốn là Niết-bàn vậy.
Đây là điều Đại thừa thường nói, sanh tử tức Niết-bàn.

“Khi ấy Xá-lợi tử hỏi Tu-bồ-đề rằng: Nếu tất cả các pháp tâm sắc của tất cả chúng sanh,Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vì bản tánh đều Không như vậy, là chân vô lậu chẳng đọa ba cõi như vậy, thì bậc thánh và chúng sanh, nhất thiết trí và chẳng phải nhất thiết trí, đều phải là bình đẳng, không sai khác?
Tu-bồ-đề đáp: Như vậy, như vậy. Thật đúng như lời ngài nói.
Xá-lợi tử nói: Nếu các phàm thánh nhất định không sai khác như vậy, thì vì sao Như Lai thuyết phàm thánh có đủ thứ sai khác?
Tu-bồ-đề đáp: Đây cũng là Như Lai tùy theo lời nói thế tục thi thiết mới có các thứ sai khác này, chớ chẳng phải do thật nghĩa” (Phẩm Ma ha tát, hội thứ 1).
Sự sai khác sở dĩ có, đó là do hý luận của thế tục. Trong tánh Không, phàm thánh không cách hở, đồng một bản tánh Không. Nói theo kinh Viên Giác thì “chúng sanh bổn lai thành Phật”.
Như thế chúng ta thấy tánh Không cứu thoát tất cả tâm sắc, tất cả sanh tử. Đây là sự giải thoát trọn vẹn.
Như thế chúng ta thấy tánh Không đưa đến sự rốt ráo của Đại thừa: “sanh tử tức Niết-bàn”, “chúng sanh bổn lai thành Phật”.
Nguyễn Thế Đăng
(Văn Hóa Phật Giáo số 179)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6825
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TÔI TU TỊNH ĐỘ

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 5 31, 2017 9:53 am

TỨ DIỆU ĐẾ

Thích Viên Giác
A-Dẫn nhập
Một hôm, Đức Phật đang ở tại Kosambi trong rừng cây simsàpa, Ngài nhặt một ít lá simsàpa đưa lên hỏi: «Này các Tỳ kheo, các ông nghĩ thế nào? Lá simsàpa ở trong tay ta nhiều hay là ở trong rừng simsàpa nhiều?«.

«Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Thế Tôn quá ít, còn lá trong rừng simsàpa thì quá nhiều«. Phật dạy: «Cũng vậy, này các Tỳ kheo, điều ta biết thì quá nhiều, nhưng những gì ta dạy cho các ông thì rất ít; nhưng đó là những gì cần thiết và căn bản cho sự giải thoát. Những gì ta đã dạy cho các ông? Chính là «Đây là Khổ«, «Đây là Khổ tập«, «Đây là Khổ diệt«, «Đây là con đường đưa đến Khổ diệt« (Tương Ưng ).

Giáo lý Tứ đế là nền tảng của hệ thống giáo lý đạo Phật. Ngay sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài đến vườn Nai thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần Như, những bạn tu khổ hạnh với Ngài trước đây; nội dung bài thuyết giáo đầu tiên ấy là Tứ diệu đế. Từ đó, xuyên suốt hành trình hoằng hóa của Ngài, giáo lý Tứ diệu đế được triển khai, mở rộng. Đức Phật nhiều lần xác định về tầm quan trọng và siêu việt của giáo lý Tứ đế, Ngài dạy: «Những bậc A La Hán chánh đẳng giác ở trong quá khứ, ở trong tương lai hay hiện tại, được coi là vị Chánh đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng giác về Bốn thánh đế«(Tương Ưng).

Mục đích của đạo Phật là giải thoát mọi đau khổ, vì vậy các pháp môn được thiết lập, mọi nỗ lực tu tập đều hướng về mục tiêu ấy. Giáo lý Tứ điệu đế được coi là thiện pháp tối thắng. Ngài Xá Lợi Phất nhận định: «Ví như tất cả dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này lớn nhất trong tất cả dấu chân. Cũng vậy, chư hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong Tứ thánh đế« (Trung Bộ kinh I). Đức Phật cũng dạy: «Này các Tỳ kheo, nếu có ai nói rằng không cần xây dựng tầng dưới của ngôi nhà, tôi sẽ xây tầng trên của ngôi nhà, sự kiện này không thể xảy ra. Cũng vậy, nếu có ai nói rằng không cần giác ngộ Tứ thánh đế, ta sẽ đoạn diệt khổ đau, sự kiện này không thể xảy ra« (Tương Ưng).
Cho đến lúc sắp nhập Niết bàn dưới cây sa la song thọ, một lần cuối, Ngài nhắc lại giáo lý Tứ đế: «Các thầy Tỳ kheo, đối với Bốn chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, không nên giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp« (kinh Di Giáo, Trí Quang dịch).
Như vậy, tầm quan trọng của giáo lý Tứ diệu đế đã được xác định bởi chính Đức Phật và những đệ tử xuất sắc của Ngài. Trải qua hơn 2.500 năm, giáo lý Tứ diệu đế vẫn được tất cả các bộ phái Phật giáo, Nguyên thủy hay Đại thừa, đều xiển dương và hành trì.

B- Nội dung

I- Định nghĩa :

Tứ diệu đế là Hán dịch từ chữ Phạn Catvary Aryasatyani. Arya là Diệu, cao quý, mầu nhiệm; Satya là Đế, là sự thật, là chân lý.Tứ diệu đế còn được gọi là Tứ chân đế, Tứ thánh đế, Bốn chân lý mầu nhiệm.

1-Khổ đế (Dukkha): là thực trạng đau khổ của con người.
2-Tập đế (Samudaya): là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ.
3-Diệt đế (Nirodha): là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau.
4-Đạo đế (Magga): là con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt khổ đau.

Giáo lý Tứ diệu đế được nói đến trong các kinh: Đế phân biệt tâm kinh (Trung Bộ III), kinh Phân biệt thánh đế (Trung A Hàm), kinh Chuyển pháp luân ( Tương Ưng&Tạp A Hàm), và rải rác trong kinh tạng Pàli cũng như Hán tạng.

II- Nội dungTứ diệu đế

1)-Khổ đế (Dukkha):

Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai phủ nhận điều ấy. Con người luôn có xu hướng vượt thoát khổ đau, tìm kiếm hạnh phúc, nhưng vì không hiểu rõ bản chất của khổ đau nên không tìm được lối thoát thực sự; đôi khi ngược lại, càng tìm kiếm hạnh phúc càng vướng vào khổ đau.
Khổ đế là một chân lý, một sự thực về bản chất cái khổ. Đức Phật dạy: «Này các Tỳ kheo, sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm uẩn là khổ« (Tương Ưng). Như vậy, Khổ có thể chia làm 3 phương diện như sau:

a)-Về phương diện sinh lý:

Khổ là một cảm giác khó chịu, bức xúc, đau đớn. Khi ta bị một gai nhọn đâm buốt bàn chân hay một hạt cát vào trong mắt khó chịu..., đây là sự bức bách đau đớn của thể xác. Sự đau đớn của thể xác rất lớn, như Lão Tử nói: «Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu thân« (Có thân nên có khổ). Con người sinh ra đã vất vả khốn đốn; lớn lên già yếu, bệnh tật khốn khổ vô cùng; và cuối cùng, cái chết: sự tan rã cuối cùng của thể xác đem đến khổ thọ lớn lao.

b)-Về phương diện tâm lý:

Là sự khổ đau do không toại ý, không vừa lòng v.v... Sự không vừa ý sẽ tạo nên nỗi đau đớn về tâm lý. Những mất mát, thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ. Người mình thương muốn gần mà không được, người mình ghét mà cứ gặp gỡ hoài, mình muốn tiền tài, danh vọng, địa vị nhưng nó cứ vụt qua ngoài tầm tay của mình. Cuộc đời như muốn trêu ngươi, những ước mơ không toại ý, lòng mình luôn trống trải, bức bách v.v... Đây là nỗi khổ thuộc về tâm lý.

c)-Khổ là sự chấp thủ năm uẩn (Upadana-skandhas):

Cái khổ thứ ba này bao hàm hai cái khổ trên, như trong kinh đã dạy: «Chấp thủ năm uẩn là khổ«.
Năm uẩn là 5 yếu tố nương tựa vào nhau để tạo thành con người, gồm có: thân thể vật lý và cấu trúc tâm lý như: cảm giác, niệm tưởng, hành và thức (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Nói một cách tổng quát, khi ta bám víu vào 5 yếu tố trên, coi đó là ta, là của ta, là tự ngã của ta, thì sự khổ đau có mặt. Ý niệm về «thân thể tôi«, «tình cảm tôi«, «tư tưởng tôi«, «tâm tư tôi«, «nhận thức của tôi«... hình thành một cái tôi ham muốn, vị kỷ; từ đó, mọi khổ đau phát sinh. Mọi khổ đau, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, điên cuồng đều gắn liền với ý niệm về «cái tôi« ấy.
Tóm lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặt bản chất, khổ đau là do sự chấp thủ, ngã hóa năm uẩn.

2)-Tập đế (Samudaya):

Tập là tích tập, các phiền não tụ hội tạo thành năng lực đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các khổ. Khi nhận thức được bản chất của khổ một cách rõ ràng, ta mới có thể đi vào con đường đoạn tận khổ đau (Đạo đế).
Cuộc đời là khổ đau hay không khổ ? Câu trả lời là tùy thuộc vào thái độ tâm lý, cảm thọ và nhận thức của mỗi người; nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa trong tâm tưởng của con người. Phật giáo cũng nhìn thấy các nguyên nhân của đau khổ; có cái phát sinh từ vật chất hay hoàn cảnh xã hội, nhưng nguyên nhân thật sự vẫn là tâm thức.
Nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập chính là tham ái, do tham ái mà chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái. Sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lòng khao khát ấy không bao giờ thỏa mãn.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Do không thấy rõ nên sinh tâm tham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Do không thấy rõ mới lầm tưởng rằng «cái tôi« là quan trọng nhất, là cái có thực cần phải bám víu, củng cố và thỏa mãn nhu cầu của nó. Nói cách khác, do vô minh mà có chấp thủ «cái tôi« và «cái của tôi« như thân tôi, tình cảm tôi, tư tưởng tôi..., người yêu của tôi, tài sản của tôi, sự nghiệp của tôi... Do những chấp thủ ấy mà có những nỗi thống khổ của cuộc đời.

Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình; lòng mình đầy tham lam, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì khổ là chắc chắn. Nói cách khác, do cái nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.

3)-Diệt đế (Nirodha):

Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ và sự chấm dứt khổ đau; cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết bàn (Nirvana/Nibbàna).
Đạo Phật xác nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, đồng thời cũng xác định có một sự thật khác nữa là an lạc, hạnh phúc.Vì vậy mà có sự tu tập để đạt được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Hạnh phúc có các mức độ khác nhau.

a)-Hạnh phúc tương đối:

Một khi bạn đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm hẳn, thân tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óc tỉnh táo; bạn nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản và rộng lượng hơn. Đó là một hình thức của hạnh phúc. Kinh Trung Bộ có một ví dụ: Có một người con trai đang yêu một cô gái. Tình cờ, anh ta bắt gặp cô gái nói chuyện, cười đùa với một chàng trai khác.Tâm hồn của người con trai đang yêu ấy bị xáo trộn mạnh mẽ, khó chịu, bực bội và đau khổ. Thời gian sau, người con trai ấy không còn yêu thương cô gái ấy nữa; lần này, anh ta gặp cô gái ấy đang nói chuyện, cười đùa với những chàng trai khác, nhưng hình ảnh ấy không làm tâm hồn anh ta đau đớn nữa. Cũng vậy, nhờ tâm trí không bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị đun nóng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng, sợ hãi, mà tâm ý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc và chính xác hơn, bạn tạo nên một phép lạ: thân tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn đối với mọi người độ lượng, bao dung và khiêm tốn; đối với của cải, tài sản, danh vọng trở nên thanh thản hơn, không còn bị áp lực của nó đè nặng lên trái tim mình. Trên cơ sở ấy, bạn hưởng thụ đời sống có phẩm chất hơn.

Tóm lại, tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, sân và vô minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ được tăng phần hạnh phúc lên mức độ ấy.
Nếu bạn phát triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền định thì bạn sẽ có sự an lạc tuyệt vời. Đức Phật dạy: «Có người có thể không bị bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả trăm năm, nhưng thật hiếm có người không bị bệnh về tinh thần, dù chỉ trong một phút«. Những tâm lý được coi là bệnh của tinh thần gồm có 5 trạng thái tâm lý, thường gọi là 5 triền cái: tham lam, sân hận, hôn trầm ngủ nghỉ, dao động và hối hận, hoài nghi và do dự. Khi 5 loại tâm lý này có mặt, nó sẽ trói buộc và ngăn che tâm trí bạn; loại trừ chúng thì tinh thần sẽ sáng tỏ thanh tịnh và an lạc như mặt trăng thoát khỏi mây che. Các trạng thái hạnh phúc tinh thần này được gọi là Tứ thiền.

b)-Hạnh phúc tuyệt đối:

Trên nền tảng hạnh phúc tinh thần, bạn phát triển tuệ quán, hướng tâm đến đoạn trừ toàn bộ phiền não vi tế, thâm sâu, bạn có thể đạt hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng là Niết bàn. Diệt đế chính là Niết bàn. Niết bàn là sự thanh tịnh, là hạnh phúc tuyệt đối. Đức Phật dạy: «Vô bệnh lợi tối thắng, Niết bàn lạc tối thắng« (K.Magandiya, TBK II).
Niết bàn còn được diễn tả dưới nhiều danh từ khác nhau, tiêu biểu như: vô sanh, giải thoát, vô vi, vô lậu, đáo bỉ ngạn, tịch tịnh, chân như, thực tướng, pháp thân...Niết bàn không phải là đối tượng của tư duy, khái niệm hay ngôn ngữ. Đây là trạng thái an lạc, hạnh phúc tuyệt đối khi tâm ý đã vắng mặt tham, sân, si.
Chúng ta thường quan niệm Niết bàn như một cảnh giới, một cõi nào đó cao cấp hơn cõi người, như là cõi thiên đường của các tôn giáo khác; đó là một sai lầm lớn. Niết bàn vượt thoát mọi khái niệm đối đãi về thời gian, không gian, có, không, lớn, nhỏ... Dù vậy, Niết bàn không phải là hư vô, mà là một thực tại thanh tịnh, siêu việt, không nằm trong phạm vi phân biệt của ý thức, hay nói cách khác, không thể nhận thức được Niết bàn khi đang còn tham, sân, si. Một vị Thiền sư nói: «Hãy nhìn những rặng núi, những con suối chảy, những rừng cây xanh ngắt đẹp tuyệt vời kia. Khi biết nhìn mọi vật với một nhãn quan mới, một nhãn quan không bị chi phối bởi tham sân si, thì cảnh đẹp kia chính là Niết bàn đó ! Niết bàn không phải là một nơi chốn nào khác biệt với thế gian, một cảnh giới nào mà người ta có thể tìm đến. Niết bàn chính là ở đây «.Đức Phật và các vị Bồ Tát, A La Hán đã đạt Niết bàn ngay trong đời sống này. Điều đó nghĩa là Niết bàn nằm ngay trong tầm tay của mỗi người. Biểu hiện của Niết bàn là không còn tạo nghiệp và không còn tái sinh.

4)-Đạo đế (Magga):

Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Như vậy, toàn bộ giáo lý mà Đức Phật đã dạy đều là Đạo đế, tổng quát và căn bản gồm có 37 pháp, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo. Đức Phật dạy: «Này các Tỳ kheo, đây là những pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy, các con phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập, truyền bá rộng rãi để chánh pháp được trường tồn, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người. Đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần,Tám thánh đạo phần «(kinh Đại Bát Niết Bàn).
Trong 37 pháp thì Tám thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất của Đạo đế.Tám thánh đạo, còn gọi là Tám chánh đạo-con đường chân chính- có 8 chi phần:

1)-Chánh kiến (Sammà Ditthi):

Thấy và hiểu đúng đắn, nghĩa là nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào là thiện, cái nào là ác. Nhận biết đúng về bản chất của sự vật là vô thường,vô ngã, duyên sinh. Nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến hết khổ.

2)-Chánh tư duy (Sammà Sankappa):
Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng để đầu óc của mình nghĩ ngợi những vấn đề bất thiện như tham dục, tức tối giận hờn, bạo động, hãm hại... dẫn tư duy của mình hướng về tâm cao thượng như tư duy về sự buông thả, sự giải thoát, về thương yêu giúp đỡ chúng sinh, về sự bất bạo động, nhẫn nhục, trầm tĩnh.

3)-Chánh ngữ (Sammà Vàcà):

Ngôn ngữ đúng đắn, nghĩa là không nói những lời đưa đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những lời lẽ đưa đến xây dựng niềm tin, đoàn kết hòa hợp, thương yêu và lợi ích.
4)-Chánh nghiệp (Sammà Kammanta):

Hành vi đúng đắn, nghĩa là không có hành vi giết hại, trộm cướp, hành dâm phi pháp. Thực hành sự thương yêu, cứu giúp, không ham muốn thú vui bất thiện.

5)-Chánh mạng (Sammà Ajivà):

Đời sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện mưu sinh, nghề nghiệp chân chính, không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo.

6)-Chánh tinh tấn (Sammà Vàyàma):

Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ điều ác, nỗ lực thực hành điều thiện.

7)-Chánh niệm (Sammà Sati):

Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ các pháp bất thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt mình đi lang thang. An trú tâm ý vào thiện pháp, không quên thiện pháp.

8)-Chánh định (Sammà Samàthi):

Tập trung tư tưởng đúng đắn, nghĩa là đừng để tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng làm an tịnh tâm thức một cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển tuệ giác.

Mối quan hệ giữa các chi phần Bát chánh đạo là không thể phân ly, chi phần này có trong chi phần kia, cái kia hỗ trợ cho cái này. Tám chánh đạo có thể chia làm 3 bước là Giới, Định và Tuệ.
Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng;
Định là Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định;
Tuệ là Chánh kiến, Chánh tư duy.

Xác định Bát chánh đạo là con đường đưa đến giải thoát, Đức Phật dạy: «Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát thánh đạo thì ở đấy không có Tứ quả Sa môn« (kinh Đại Bát Niết bàn, TB I). Đức Phật dạy thêm: «Nếu những Tỳ kheo sống chân chính (theo Bát chánh đạo) thì cõi đời này không thiếu vắng những vị A La Hán«.
Con đường tu tập của Đạo đế là con đường nỗ lực tự thân của mỗi hành giả Phật tử; con đường ấy vừa thực tiễn vừa có hiệu quả ngay tại đời sống này.

III-Tu tập Bốn chân lý

Giáo lý đạo Phật không phải là một học thuyết, mà là một công trình tu tập, có thực hành mới biến lý thuyết thành thực tiễn, thành chất liệu sống trong mỗi con người, như ăn cơm mới no, uống nước mới hết khát. Đó là chỗ khó khăn của người Phật tử, không thể nhờ cậy vào ai tu giúp cho mình, hoặc ai ban cho mình được giải thoát, hết khổ.
Trong kinh đưa ra 3 giai đoạn nhận thức và hành trì đối với Bốn chân lý, thuật ngữ gọi là Tam chuyển: Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển.

1)- Đối với Khổ đế:

Thị chuyển là nhận thức, hay nhận diện cái khổ. Thấy được khổ là bước đầu tiên; nếu không thấy, không biết thì sẽ không có hành động diệt khổ.
Khuyến chuyển là đi sâu hơn vào bản chất cái khổ, khởi lên ước muốn đoạn trừ khổ.
Chứng chuyển cảm nhận một cách sâu sắc và toàn diện về bản chất của khổ đau.

2)- Đối với Tập đế:

Thị chuyển là nhận diện nguyên nhân đưa đến đau khổ.
Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn đoạn trừ các nguyên nhân ấy.
Chứng chuyển là tu tập, nỗ lực để đoạn trừ chúng.

3)- Đối với Diệt đế:

Thị chuyển là nhận thức được sự vắng mặt của đau khổ là hạnh phúc, là không có đau khổ, ta phải thấy điều ấy.
Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn được hạnh phúc, hưởng được niềm vui, thanh thản an lạc của đời sống.
Chứng chuyển là đạt được, hưởng thụ thật sự trạng thái an lạc ấy.

4)- Đối với Đạo đế:

Thị chuyển là nhìn thấy con đường, thấy được phương pháp diệt khổ, thấy rõ rằng đây là con đường đưa đến giải thoát; nói cách khác, thấy được lối thoát !
Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn đi trên con đường ấy, khởi hành trên lộ trình ấy.
Chứng chuyển là đi trên con đường ấy một cách trọn vẹn.

Tóm lại, đối với mỗi chân lý, chúng ta đều phải nhận thức rõ ràng. Từ nhận thức thông suốt sẽ dẫn đến ước muốn hành động, và cuối cùng đạt được mục đích. Chúng ta phải thấy rõ diễn biến của hành vi, ngôn ngữ và tư duy của chính mình, cái nào có đau khổ, gây ra đau khổ, ta phải nhận diện và diệt trừ chúng; ta chuyển hóa nó để hưởng được niềm an bình hạnh phúc của Diệt đế. Hạnh phúc hay đau khổ đều xuất phát từ nơi thân tâm của chúng ta.

Tổng Kết Về Đạo Đế

Chúng ta vừa biết qua nội dung của Đạo đế, hay 37 món trợ đạo là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cấn, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phần, Bát Chính đạo phần. Đạo đế đã chiếm hết bốn bài trong mười bài nói về Tứ đế. Chỉ cái số lượng ấy cũng đủ nói lên sự quan trọng mà đức Phật muốn dành cho phương pháp tu hành để chứng nhập Niết Bàn. Nhưng chúng ta đừng nên thấy quá nhiều pháp môn mà vội nản lòng, thối chí. Vì căn cơ chúng sinh không đều, nên đức Phật cần chế ra nhiều pháp môn, để mỗi người có thể tùy theo căn cơ mính mà lựa pháp môn thích hợp để tu hành. Tất nhiên một người có thể tu nhiều pháp môn nếu có đủ khả năng, trí tuệ, sức khỏe; những nếu không đủ điều kiện, thì tu một pháp môn cũng được. Khi tu thành một pháp, các pháp kia đều thành, vì nó là một nhiếp thuộc lẫn nhau.

Vậy Phật tử không nên ngã lòng thối chí. Với sự quyết tâm, với đức tinh tấn, chúng ta tuần tự tiến dần vào Đạo đế, không lo sợ, không nghi ngờ, cũng không quá bồng bột, nóng nảy, rồi đây chậm hay nhanh, thế nào cũng phải đến đích.

Hỡi quí vị Phật tử! Mười phương các đức Như Lai, đầu tiên đều nhờ các pháp môn này mà dần dần được viên thành Phật quả. Tất cả Thánh giả trong ba thừa, đều nương vào đây để tu hành cho đến ngày đạt đích. Chúng ta, là con Phật, những người đang canh cánh ôm ấp bên lòng trí nguyện thành Phật, để tự cứu độ và cứu độ chúng sinh, lẽ nào trong lúc đức Phật đã vì lòng từ bi mà sửa soạn cho chúng ta mọi phương tiện, mọi hành lý để tiến lên đường giải thoát, chúng ta lại do dự, chần chừ hay thối thác!

C-Kết luận

Con người đau khổ không phải vì thiếu thốn vật chất, tiền của, danh vọng, mà chính là vì vô minh. Sự mê muội làm cho con người chưa nhận thức đúng đắn bản chất của cuộc đời. Đạo Phật chỉ dẫn cho con người một hướng đi, một lối thoát, cung cấp phương tiện để cho con người khai mở kho tàng trí tuệ của chính mình. Định nghĩa về vô minh, Đức Phật dạy: «Chính là không biết rõ khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến diệt khổ, này cácTỳ kheo, đấy gọi là vô minh« (Tương Ưng V). Và ngược lại là minh, là trí tuệ. Dưới cái nhìn của trí tuệ, mối quan hệ duyên sinh của Bốn chân lý hiển lộ rõ ràng, thấy được một chân lý là thấy được toàn bộ chân lý.

Đức Phật dạy: «Này các Tỳ kheo, ai thấy khổ, người ấy cũng thấy nguyên nhân của khổ, thấy khổ diệt, thấy con đường đưa đến khổ diệt. Ai thấy được nguyên nhân của khổ, cũng thấy được khổ, thấy được khổ diệt và con đường đưa đến diệt khổ. Ai thấy được khổ diệt, cũng thấy được khổ, nguyên nhân của khổ, con đường đưa đến khổ diệt. Ai thấy được con dường đưa đến khổ diệt, thì cũng thấy được khổ, nguyên nhân của khổ và sự diệt khổ« (Tương Ưng V).
Nhận thức đúng như thế là Chánh kiến, nó đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tu tập Bốn chân lý; nói cách khác, Chánh kiến đi hàng đầu trong mọi pháp môn. Nhận thức sáng tỏ ấy còn gọi là Kiến đạo.
Giáo lý Bốn chân lý vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh. Một giáo lý hoàn chỉnh đầy tính nhân bản đem lại niềm tin, sức sống cho con người, xã hội đương thời và vẫn thiết thực lợi ích cho con người và xã hội hiện đại.
Đặc tính của giáo lý Tứ diệu đế là con đường Trung đạo, không rơi vào cực đoan hưởng thụ dục lạc hay khổ hạnh ép xác. Giáo lý Tứ diệu đế bao hàm tất cả các giáo pháp mà Đức Phật đã dạy. Giáo lý Tứ diệu đế có thể thực hành cho người xuất gia cũng như tại gia, ai cũng tu tập được, ai cũng có thể nếm hương vị giải thoát, đáp ứng được nhu cầu thoát khổ cho cá nhân và chuyển hóa xã hội./.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6825
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TÔI TU TỊNH ĐỘ

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 5 31, 2017 10:02 am

BÁT CHÁNH ĐẠO

Huệ Giáo

I/ Mở đề:

Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trongTứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhóm Kiều Trần Như. Đó là con đường thánh gồm tám chi : Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.

II/ Nhập đề:

A-Định nghĩa:

Bát chánh đạo là con đường chân chánh có tám chi, giúp chúng sanh hướng đến một đời sống cao thượng, hạnh phúc. Bát thánh đạo là tám phương tiện vi diệu đưa chúng sanh đến đời sống an lạc, giải thoát, tiến đến địa vị giác ngộ. Những bậc Hiền, Thánh nương theo tám phương tiện này để đi đến Niết bàn, Phật quả.

B-Nội dung Bát chánh đạo:

1-Chánh kiến:

Chính là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Chính kiến hay Chính tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. Người có chính kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người có chính kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi đã biết cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì chuyên tâm vào sự lý chân thật làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần không phương che ám được.

-a.Hiểu biết chân chánh:

-Hiểu biết tất cả sự vật hiện hữu trên thế gian này đều do nhân duyên sanh, không trường tồn và luôn luôn biến diệt.
-Nhận thức rõ nhân quả-nghiệp báo để hành động.
-Nhận thức rõ giá trị hiện hữu của thân người và mọi vật xung quanh.
-Nhận thức rõ Khổ- Vô thường- Vô ngã của vạn pháp.
-Nhận thức rõ tất cả chúng sanh cùng một bản thể thanh tịnh.
-Nhận thức rõ Tứ đế-Thập nhị nhân duyên, không chấp thường, chấp đọan.

-b.Hiểu biết không chân chánh:

-ChấpThượng đế tạo vật, không tin lý nhân quả nghiệp báo.
-Phủ nhận mọi sự vật hiện hữu, không nhận thức chúng từ nhân duyên sanh.
-Chấp vào thành kiến; quan niệm không bình đẳng giữa người và muôn vật.
-Cố chấp vào kiến thức vọng tưởng; không tin vào những quả vị giải thóat.

2-Chánh Tư Duy:

Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chính tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chính, tư tưởng đúng với lẽ phải.
Người tu theo phép Chính tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy tìm thể tính nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới, Định, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô minh và nguyên nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác, và tìm phương pháp đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người.

a.Suy nghĩ chân chánh:

-Suy nghĩ đến nguyên nhân đau khổ của mình và chúng sanh, ở đó vô minh là nguồn gốc của mọi tội lỗi, để biết mà tu tập hầu tìm được giải thóat cho mình và cho người.
-Suy nghĩ đến Giới- Định–Huệ làm căn bản tiến tu đến quả vị Niết bàn.

b.Suy nghĩ không chân chánh:

-Suy nghĩ đến lợi dưỡng, tài sắc, danh vọng tìm trăm mưu nghìn kế để hại người.
-Suy nghĩ đến nhiều cách để hơn người, mọi mưu mô để trả thù; dùng tà thuật; dựa vào lòng tin của con người để mê hoặc.

3-Chánh ngữ:

Ngữ là lời nói; Chính ngữ là lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý.
Người tu theo Chính ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay, không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người theo chính ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người kẹp miệng ba lần, Ngài dạy lại môn đệ phải cẩn thận lời nói.

Ngày xưa, trước khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, có Đệ tử hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhiều sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật, như thế, biết tin theo lời nào tu?
Phật dạy:
- Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu.
Vậy, phàm những lời nói đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn thể chúng sinh là chính ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải tin theo và tập nói cho đúng như thế.

-a.Lời nói chân thật:

-Lời nói ngay thẳng, thành thật, hợp lý không thiên vị, hòa nhã, giản dị và sáng suốt.
-Lời nói lợi ích, đồng nhất và mang tính chất sách tấn, khuyến tu, mở bày ánh sáng giác ngộ tự tâm trong mỗi tha nhân.
-Lời nói mang tính chất tuyên dương đạo lý làm người; tuyên dương chánh pháp Từ bi và Trí tuệ.

-b.Lời nói không chân thật:

-Lời nói gây chia rẽ, không đúng sự thật.
-Lời nói để hại người, xuyên tạc, thiên vị, dua nịnh.
-Lời nói nguyền rủa, mắng nhiếc, vu họa và thô tục.
-Lời nói để bảo vệ Ngã và Ngã sở.

4-Chánh nghiệp:

Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra. Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác.
Chính nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích cho người lẫn vật.
Người theo đúng "Chính nghiệp" là người luôn luôn thận trọng, giữ gìn mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghề nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tánh mạng của người khác. Hơn nữa người theo đúng chính nghiệp bao giờ cũng tôn trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh quyền lợi hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho người khác.
Ngoài ra cũng gọi là Chính nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những pháp chân chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật, hoặc trì tụng kinh hành, để giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh.


-a. Hành động chân chánh:

-Hành động theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống chung của mọi người, mọi lòai.
-Hành động có thận trọng không tổn hại đến nghề nghiệp, tài sản, danh giá và địa vị của kẻ khác.
-Hành động chân chánh là hành động có lương tâm, đạo đức trong địa vị của mình, biết gìn giữ tánh hạnh. Biết hy sinh chánh đáng để đem lại lợi lạc cho quần sanh.

-b. Hành động không chân chánh:

-Hành động không gìn giữ các phép tắc, giới điều.
Hành động chỉ vì lợi mình mà hại người.

5-Chánh mạng:

Mạng là sự sống, đời sống. Chính mạng là sinh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người theo đúng Chính mạng sống một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Người theo đúng Chính mạng sống một cuộc đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm mình ăn, manh áo mình mặc, chứ không ăn không ngồi rồi, sống bám vào người khác.
Người theo Chính mạng sống đúng Chính pháp, không mê tín dị đoan, và biết thân tứ đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chính pháp.

-a.Đời sống chân chánh:

-Sống bằng khả năng, tài năng chân chánh, không lừa dối gạt người.
- Sống thanh cao, đúng chánh pháp không mê tín.

-b.Đời sống không chân chánh:
- Làm tổn hại và não lọan tâm trí mọi người.
- Sống luồn cúi, dùng miệng lưỡi, mối lái để giao dịch thân thiện.
- Sống chạy theo mê tín, dị đoan; sống nương tựa ăn bám vào kẻ khác.

6-Chánh tinh tấn:

Chữ “tinh tấn” ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã nói trong bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng tiến mục đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước. Chính tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chính nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật.
Người theo đúng Chính tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa mình, cương quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển mọi hạnh lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chính tinh tấn, dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc nào đạt được mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn "Tấn căn" trong bài Ngũ căn).
Nói tóm lại, người theo đúng Chính tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xuất thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng, một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công phu, định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa đỗi chúng sinh.

a.Chuyên cần chân chánh:
-Quyết tâm lọai bỏ các việc ác đã sanh, ngăn ngừa những việc ác chưa sanh.
- Chuyên làm các việc lành việc tốt.
-Chuyên cần trau dồi phước đức và trí tuệ.

b.Chuyên cần không chân chánh:

- Là người say sưa với ngũ dục và khóai lạc.
- Là kẻ say sưa lạc thú làm tổn hại đến người khác, không tiết chế bản thân.

7-Chánh niệm:

Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước). Chính niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu.
Chính niệm có hai phần:
a) Chính ức niệm:là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và ân Tam Bảo để lo báo đền.
b) Chính quán niệm:là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và quyết ra tay cứu độ.
Người theo đúng Chính niệm, thường quán sát cảnh chân đế, năng tưởng niệm các pháp trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng không thối tâm xao lãng.
a.Ức niệm chân chánh:

- Nhớ đến tứ ân.
- Nhớ đến những lỗi lầm xưa, đừng để tái phạm trong hiện tại và tương lai.

b.Ức niệm không chân chánh:

- Nhớ lại những oán hận để phục thù.
- Nhớ lại những hạnh phúc mong manh không ích lợi.
- Nhớ lại hành động oai hùng, dùng thủ đọan xảo trá, tàn bạo đã qua để hãnh diện tự đắc.

-c.Quán niệm chân chánh:

-Quán niệm Từ bi: Thấy nỗi khổ của chúng sanh trong luân hồi sanh lòng thương xót, tìm nhiều phương tiện để giúp đỡ họ. Thấy sự mê lầm của mình và người dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu và não, thực hành lời Phật dạy để chấm dứt mê lầm.

-Quán niệmTrí huệ: Quán niệm nguyên nhân sanh hóa vũ trụ, oán thân, tốt xấu, cao thấp; quán niệm thực tướng của các pháp để vững tiến trên con đường giải thóat.

-d.Quán niệm không chân chánh:

- Nhớ nghĩ đến dục lạc, khóai cảm.
- Nhớ nghĩ đến kế sách, âm mưu và phương tiện giết hại lẫn nhau.
- Nhớ nghĩ đến văn tự xảo trá để gạt người.

8-Chánh định:

Chữ "Định" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các bài trước, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để thấy cho rõ ràng. Chính định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người.
Người theo đúng Chính định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề chính sau đây:

- Quán thân bất tịnh (bất tịnh quán): là quán tưởng thân không thanh tịnh, để trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất tịnh" trong bài Tứ niệm xứ).
- Quán từ bi (từ bi quán): là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận, và mở rộng lòng thương yêu để cứu độ chúng sinh.
- Quán nhân duyên (nhân duyên quán): là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật, vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ không có một cách chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ ngu si, pháp chấp.
- Quán giới phân biệt (giới phân biệt quán): nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diệt trừ ngã chấp, pháp chấp.
- Quán hơi thở (sổ tức quán): nghĩa là quán tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.

-a.Thiền định chân chánh:

-Bất tịnh quán: quán các pháp không thanh tịnh, để trừ tham dục, si ái v.v…….
-Từ Bi Quán: Quán sát tất cả chúng sanh đồng thể tánh thanh tịnh, không hơn không kém để tôn trọng, kính quý và đọan trừ tâm hận thù.
-Nhân duyên quán: Quán tất cả pháp đều do nhân duyên mà thành, không có một pháp nào riêng biệt trong thế giới tương tức tương nhập (Kinh Hoa Nghiêm), không chân thật, không trường tồn, để đọan trừ ngu si thiên chấp.
-Giới phân biệt quán: Nghĩa là phân biệt và quán sát sự giả hợp của 18 giới ( 6 căn, 6 trần, 6 thức) để thấy không thật có ngã pháp và diệt trừ ngu si cố chấp.
-Sổ tức quán: Nghĩa là quán hơi thở, để đối trị tâm tán lọan để đi sâu vào thiền định.

b.Thiền định không chân chánh:

-Thiền định để cầu thác sinh các cõi trời.
-Thiền định để luyện bùa chú, thần thông, phép lạ, trường sanh bất tử.

III/Tu tập Bát chánh đạo:

A-Con đường tu tập Bát chánh đạo cũng chính là con đường tu tập của Giới-Định-Huệ:
Tu tập chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, là tu tập, các điều thiện. Là tu tập Giới vô lậu học.
Chánh tinh tấn, chánh niệm, -chánh định, là tu tập Tứ niệm xứ và Tứ chánh cần. Là tu tập Định vô lậu học.
Chánh kiến, chánh tư duy, là tu tâp về Tuệ vô lậu học của Tam vô lậu học.
Tuy nhiên, để phát triển trí tuệ chúng ta cần phải có sự hổ trợ của Tam học là Văn-Tư-Tu.

B-Con đường tu tập Bát chánh đạo là con đường tu tập của ba mươi bảy phẩm trợ đạo (Đạo đế):
Đạo đế trong giáo pháp Tứ đế bao gồm như là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, được đức Phật đề cập như là Bát chánh đạo.
Chánh kiến là Tuệ căn–Tuệ lực.
Chánh tinh tấn là nội dung của Tứ chánh cần.
Chánh niệm chính là nội dung của Tứ Niệm xứ.
Chánh tư duy là trạch pháp……..
Chánh định là hỷ, khinh an, định, xã….

IV/Công năng và ích lợi tu tập Bát chánh đạo:

A.Công năng:

1.Cải thiện tự thân: Người chuyên tu Bát chánh đạo cải thiện được hành vi bất chính, tạo cho tự thân một đời sống chân chánh ích lợi và thiện mỹ.
2. Cải tạo hòan cảnh: Thế giới quan bên ngòai được hình thành từ tâm niệm, là kết quả của hành vi. Do đó, nếu thực hành theo Bát chánh đạo thì có thể tạo được một thế giới toàn mỹ.
3. Làm căn bản cho chánh giác: Bát chánh đạo là nền tảng căn bản đầu tiên cho sự giác ngộ chân chánh.

B.Ích lợi thực hành Bát chánh đạo:

1. Có kiến thức chân chánh không bị mê hoặc và lôi cuốn bởi ngọai đạo tà giáo.
2.Suy nghĩ chơn chánh không bị sa vào lỗi lầm đen tối.
3.Lời nói chân chánh lợi mình lợi người.
4. Hành động chân chánh có ích cho mình và không làm thương tổn người khác.
5.Đời sống chân chánh không bị khinh rẽ, chê bai, được mọi người mến mộ, kính trọng.
6. Siêng năng chơn chánh sẽ thu được nhiều kết quả.
7. Nhớ nghĩ chân chánh giải tỏa được sự nuối tiếc.
8.Thiền định chơn chánh trí huệ phát triển và Phật quả viên thành.

V/Kết luận:

Bát Chánh đạo chính là phương pháp tu phổ biến cho tại gia lẫn xuất gia, trong bất cứ hòan cảnh, môi trường cũng có thể thực hiện được.
Tu tập Bát chánh đạo chính là tu tập Thân - Khẩu - Ý của chúng ta, khi thực hành Bát chánh đạo thì gặt hái nhiều kết quả tốt.
Bát chánh đạo lại là nền tảng chánh giác, là căn bản của Giải thóat -Giác ngộ.
Như đã nói ở đoạn mở đề, Bát Chính đạo là pháp môn rất được thông dụng. Sự thông dụng này sở dĩ có được là nhờ lợi ích thiết thực và quý báu của nó đối với đời sống cá nhân của người tu hành, đối với xã hội, và đối với đời sống tương lai. Có thể tóm tắt những lợi ích, hay công năng của Bát Chính đạo trong hai điểm sau đây:

1) Cải thiện tự thân: Nếu con người chuyên tu theo tám đường chính này, thì sửa đổi được tất cả mọi sự bất chính, mọi tội lỗi trong đời sống hiện tại của mình, như ý niệm mê mờ, ngôn ngữ đảo điên, hành vi sai trái, đời sống vô luân. Khi những điều trên này đã được cải thiện, thì tất cả cuộc đời riêng của mỗi người sẽ chân chính, lợi lạc và thiện mỹ.

2) Cải thiện hoàn cảnh: Nếu trong xã hội ai ai cũng đều chuyên tu theo tám đường chính đạo này, không những có nhiều lợi lạc trong cuộc đời hiện tại mà còn gây tạo cho mình một tương lai tươi sáng, gieo trồng cho mình những hạt giống Bồ đề để ngày sau gặt hái quả vô thượng Niết Bàn, đầy đủ bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Vì những lợi ích quý báu như thế, chúng tôi xin khuyên mọi Phật tử hãy phát nguyện cương quyết tu theo Bát Chính đạo
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6825
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TÔI TU TỊNH ĐỘ

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 5 31, 2017 10:03 am

PHÁT BỒ ĐỀ TÂM-PHÁT TÂM VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ.

Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, đem công đức niệm Phật để cầu phước lợi nhỏ nhen ở thế gian, tất không hợp với bản hoài của Phật, cho nên hành giả phải vì sự thoát ly khỏi vòng sống chết luân hồi mà niệm Phật. Nhưng nếu vì giải thoát cho riêng mình mà tu niệm, cũng chỉ hợp với bản hoài của Phật một phần ít mà thôi. Vậy bản hoài của Phật như thế nào? Bản hoài đích thực của Đức Thế Tôn là muốn cho tất cả chúng sanh đều thoát vòng sanh tử, đều được giác ngộ như Ngài. Cho nên người niệm Phật cần phải phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề nghĩa là “Giác.” Trong ấy có ba bậc :

-Thanh Văn Bồ Đề
-Duyên Giác Bồ Đề
-Phật Bồ Đề

Người niệm Phật phát tâm Bồ Đề, chính là phát tâm cầu quả giác ngộ của Phật; quả vị ấy cùng tột không chi hơn, siêu cả hàng Thanh Văn Duyên Giác, nên gọi là Vô Thượng Bồ Đề. Tâm nầy gồm hai chủng tử chính, là từ bi và trí huệ, hay phát xuất công năng độ thoát mình và tất cả chúng sanh.
Làm cách nào để phát Tâm Bồ Đề ? Phát Bồ Đề Tâm như trên đã nói, có thể tóm tắt trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện :
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.”

Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, không phải chỉ nói suông “Tôi phát Bồ Đề Tâm” là đã phát tâm, hay mỗi ngày tuyên đọc Tứ Hoằng Thệ Nguyện, gọi là đã phát Bồ Đề Tâm. Muốn phát Bồ Đề Tâm hành giả cần phải quán sát để phát tâm một cách thiết thật, và hành động đúng theo tâm nguyện ấy trong đời tu của mình. Có những người xuất gia, tại gia mỗi ngày sau khi tụng kinh niệm Phật đều quỳ đọc bài hồi hướng: “Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não…” Nhưng rồi trong hành động thì trái lại, nay tham lam, mai hờn giận, mốt si mê biếng trễ, bữa kia nói xấu hay chê bai chỉ trích người, đến bữa khác lại có chuyện tranh cãi gây gổ buồn ghét nhau. Như thế tam chướng làm sao tiêu trừ được? Chúng ta phần nhiều chỉ tu theo hình thức, chứ ít chú trọng đến chỗ khai tâm, thành thử lửa tam độc vẫn cháy hừng hực, không hưởng được hương vị thanh lương giải thoát của Đức Phật đã chỉ dạy. Cho nên ở đây lại cần đặt vấn đề “Làm thế nào để phát Bồ Đề Tâm?” Muốn cho lòng Bồ Đề phát sanh một cách thiết thực. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, chúng ta nên suy tư quán sát để phát tâm theo sáu yếu điểm gọi là Lục Tâm sau đây.

Lục Tâm :

1-Giác Ngộ Tâm :

Chúng sanh thường chấp sắc thân nầy là ta, tâm thức có hiểu biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng thật ra, sắc thân nầy giả dối, ngày kia khi chết đi nó sẽ tan về với đất bụi, nên thân tứ đại không phải là ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái biết của sáu trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Ví dụ như một người trước kia dốt, nay theo học chữ Việt, tiếng Anh, khi học thành, có cái biết về chữ Việt tiếng Anh. Lại như một kẻ chưa biết Ba Lê, sau có dịp sang Pháp du ngoạn, thu thập hình ảnh của thành phố ấy vào tâm. Khi trở về bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi tâm thức hiện rõ quang cảnh của đô thị ấy. Cái biết đó trước kia không, khi lịch cảnh thu nhận vào nên tạm có, sau bỏ lãng không nghĩ đến, lần lần nó sẽ phai lạt đến tan mất hẳn rồi trở về không. Cái biết của ta khi có khi không, hình ảnh nầy tiêu hình ảnh khác hiện, tùy theo trần cảnh thay đổi luôn luôn, hư giả không thật, nên chẳng phải là ta. Cổ đức đã bảo: “Thân như bọt tụ, tâm như gió. Huyễn hiện vô căn, không tánh thật.” Nếu giác ngộ thân tâm như huyễn, không chấp trước, lần lần sẽ đi vào cảnh giới “nhơn không” chẳng còn ngã tướng. Cái ta của ta đã không, thì cái ta của người khác cũng không, nên không có “nhơn tướng.” Cái ta của mình và người đã không, tất cái ta của vô lượng chúng sanh cũng không, nên không có “chúng sanh tướng.” Cái ta đã không, nên không có bản ngã bền lâu, không thật có ai chứng đắc, cho đến cảnh chứng thường trụ vĩnh cửu của Niết Bàn cũng không, nên không có “thọ giả tướng.” Đây cần nên nhận rõ, cũng không phải không có thật thể chân ngã của tánh chân như thường trụ, nhưng vì Thánh giả không chấp trước, nên thể ấy thành không. Nhơn đã không thì pháp cũng không, vì sự cảnh luôn luôn thay đổi sanh diệt không có tự thể. Đây lại cần nên nhận rõ chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà vì nó hư huyễn, nên đương thể chính là không, cả “nhơn” cũng thế. Cho nên cổ đức đã bảo: “Cần chi đợi hoa rụng, mới biết sắc là không.” (Hà tu đãi hoa lạc, nhiên hậu thỉ tri không). Hành giả khi đã giác ngộ “Nhơn” và “Pháp” đều không, thì giữ lòng thanh tịnh trong sáng không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề Tâm.

2-Bình Đẳng Tâm :

Trong khế kinh, Đức Phật khuyên dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều là cha mẹ đời quá khứ và chư Phật đời vị lai.” Chư Phật thấy chúng sanh là Phật, nên dùng tâm bình đẳng đại bi mà tế độ. Chúng sanh thấy chư Phật là chúng sanh, nên khởi lòng phiền não phân biệt ghét khinh. Cũng đồng một cái nhìn, nhưng lại khác nhau bởi mê và ngộ. Là đệ tử Phật, ta nên tuân lời Đức Thế Tôn chỉ dạy, đối với chúng sanh phải có tâm bình đẳng và tôn trọng, bởi vì đó là chư Phật vị lai, đồng một Phật tánh. Khi dùng lòng bình đẳng tôn kính tu niệm, sẽ dứt được nghiệp chướng phân biệt khinh mạn, nảy sanh các đức lành. Dùng lòng bình đẳng như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.

3-Tâm Từ Bi :

Ta cùng chúng sanh đều sẳn đủ đức hạnh, tướng hảo trí huệ của Như Lai, mà vì mê chân tánh, khởi hoặc nghiệp nên phải bị luân hồi, chịu vô biên sự thống khổ. Nay đã rõ như thế, ta phải dứt tâm ghét thương phân biệt, khởi lòng cảm hối từ bi tìm phương tiện độ mình cứu người, để cùng nhau được an vui thoát khổ. Nên nhận rõ từ bi khác với ái kiến. Ái kiến là lòng thương yêu mà chấp luyến trên hình thức, nên kết quả bị sợi dây tình ái ràng buộc. Từ bi là lòng xót thương cứu độ, mà lìa tướng, không phân biệt chấp trước; tâm nầy thể hiện dưới đủ mọi mặt, nên kết quả được an vui giải thoát, phước huệ càng tăng. Muốn cho tâm từ bi được thêm rộng, ta nên từ nỗi khổ của mình, cảm thông đến các nỗi khổ khó nhẫn thọ hơn của kẻ khác, tự nhiên sanh lòng xót thương muốn cứu độ, niệm từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền đã khai thị : “ Đại Bồ Tát với lòng đại bi có mười cách quán sát chúng sanh không nơi nương tựa mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh làm những điều ác mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh đã bị ràng buộc, lại thích lao mình vào chỗ ràng buộc mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh bị chìm đắm trong biển sanh tử mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh vương mang tật khổ lâu dài mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh không ưa thích pháp lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh xa mất Phật pháp mà khởi đại bi…” Đã phát tâm đại bi tất phải phát đại Bồ Đề tâm thề nguyền cứu độ. Thế thì lòng đại bi và lòng đại Bồ Đề dung thông nhau. Cho nên phát từ bi tâm tức là phát Bồ Đề tâm. Dùng lòng đại từ bi như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.

4-Hoan Hỷ Tâm

Đã có xót thương tất phải thể hiện lòng ấy qua tâm hoan hỷ. Lòng tùy hỷ trừ được chướng tật đố nhỏ nhen. Lòng hỷ xả giải được chướng thù báo phục. Bởi tâm Hoan Hỷ không ngoài sự giác ngộ mà thể hiện, nên đó chính là lòng Bồ Đề. Hoan hỷ có hai thứ:

a) Tùy Hỷ là khi thấy trên từ chư Phật, Thánh nhân, dưới cho đến các loại chúng sanh, có làm được công đức gì, dù là nhỏ mọn cũng vui mừng theo. Và khi thấy ai được sự phước lợi, hưng thạnh thành công, an ổn, cũng sanh niệm vui vẻ mừng dùm.

b) Hỷ xả là dù có chúng sanh làm những điều tội ác, vong ân, khinh hủy, hiểm độc, tổn hại cho người hoặc cho mình, cũng an nhẫn vui vẻ mà bỏ qua. Sự vui nhẫn nầy nếu xét nghĩ sâu, thành ra không thật có nhẫn, vì tướng người, tướng ta và tướng não hại đều không. Nên Kinh Kim Cang dạy: “Như Lai nói nhẫn nhục Ba La Mật, tức chẳng phải nhẫn nhục Ba La Mật, đó gọi là nhẫn nhục Ba La Mật.”.

(Các bậc tu hành và các Phật tử như chúng ta cũng còn gặp trở ngại này khi đối đãi phân biệt với nhau, gây ra chư tăng không hòa hợp, Phật tử không hòa hợp, ưa chùa này không ưa chùa kia, ưa thầy này không ưa thầy kia, dù tu tinh tấn, chuyên cần miên mật một khi ở cõi ta bà còn không có hoan hỷ tâm này, thấy mặt nhau đã không nhìn, đã không hòa hợp làm sao đi chung đường về cõi cực lạc ?)

5-Sám Nguyện Tâm :

Trong kiếp luân hồi, mọi loài hằng đổi thay làm quyến thuộc lẫn nhau. Thế mà ta vì mê mờ lầm lạc, từ kiếp vô thỉ đến nay, do tâm chấp ngã muốn lợi mình nên làm tổn hại chúng sanh, tạo ra vô lượng vô biên ác nghiệp. Thậm chí đến chư Phật, Thánh nhơn, vì tâm đại bi đã ra đời thuyết pháp cứu độ loài hữu tình, trong ấy có ta, mà đối với ngôi Tam Bảo ta lại sanh lòng vong ân hủy phá. Ngày nay giác ngộ, ta phải hổ thẹn ăn năn, đem ba nghiệp chí thành sám hối. Đức Di Lặc Bồ Tát đã lên ngôi bất thối, vì muốn mau chứng quả Phật, mỗi ngày còn lễ sám sáu thời. Vậy ta phải đem thân nghiệp kính lễ Tam Bảo, khẩu nghiệp tỏ bày tội lỗi cầu được tiêu trừ, ý nghiệp thành khẩn ăn năn thề không tái phạm. Đã sám hối, phải dứt hẳn tâm hạnh ác, không còn cho tiếp tục nữa, đi đến chỗ tâm và cảnh đều không, mới là chân sám hối.
Lại phải phát nguyện, nguyện hưng long ngôi Tam Bảo, nguyện độ khắp chúng sanh để chuộc lại lỗi xưa và đền đáp bốn ân nặng (ân Tam Bảo, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân thiện hữu tri thức, và ân chúng sanh). Có tâm sám nguyện như vậy tội chướng mới tiêu trừ, công đức ngày thêm lớn, và mới đi đến chỗ phước huệ lưỡng toàn. Dùng lòng sám nguyện như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.

6-Bất Thối Tâm :

Dù đã sám hối phát nguyện tu hành, nhưng nghiệp hoặc ma chướng không dễ gì dứt trừ, sự lập công bồi đức thể hiện sáu độ muôn hạnh không dễ gì thành tựu. Mà con đường Bồ Đề đi đến quả viên giác lại xa vời dẫy đầy gay go chướng nạn, phải trải qua hằng sa kiếp, đâu phải chỉ một hai đời? Ngài Xá Lợi Phất trong tiền kiếp chứng đến ngôi lục trụ, phát đại Bồ Đề tâm tu hạnh bố thí. Nhưng khi chịu khổ khoét một con mắt cho ngoại đạo, bị họ không dùng liệng xuống đất rồi nhổ nước dãi, lấy chân chà đạp lên trên, ngài còn thối thất Đại thừa tâm. Thế thì ta thấy sự giữ vững tâm nguyện là điều không phải dễ. Cho nên hành giả muốn được đạo tâm không thối chuyển, phải lập thệ nguyện kiên cố. Thề rằng: “Thân nầy dầu bị vô lượng sự nhọc nhằn khổ nhục, hoặc bị đánh giết cho đến thiêu đốt nát tan thành tro bụi, cũng không vì thế mà phạm điều ác, thối thất trên bước đường tu hành.” Dùng lòng bất thối chuyển như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm.


Tám Cách Phát Tâm Bồ Đề :

Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Thế Tôn và chư Bồ Tát đã thuyết giảng rộng rãi về công đức của Bồ Đề tâm: “Cửa yếu vào đạo trước phải phát tâm. Việc yếu tu hành, trước nên lập nguyện.”.
Nếu không phát tâm rộng lớn, không lập nguyện bền chắc, thì dù trải qua vô lượng kiếp, vẫn y nhiên ở trong nẻo luân hồi; dù có tu hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống công khổ nhọc. Do đó nên biết muốn học Phật đạo, quyết phải phát Bồ Đề Tâm không thể trì hưỡn. Do đó khi xưa Đại Sư Tỉnh Am bên Trung Quốc đã soạn ra bài phát nguyện “ Phát Bồ Đề Tâm Văn ” để khuyến khích tứ chúng.Trong ấy, ngài đã theo các tâm nguyện mà trình bày sự phát tâm thành tám cách Tà, Chánh, Chân, Ngụy, Đại, Tiểu, Thiên, Viên. Trong tám cách nầy, Tà, Ngụy, Thiên, Tiểu nên bỏ; Chân, Chánh, Viên, Đại nên theo. Được như thế mới gọi là phát Bồ Đề Tâm đúng cách.

1)Tà:
Có những người tu không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài, hoặc cầu danh lợi, đắm cảnh vui hiện tại, hay mong quả phước trong tương lai mà phát lòng Bồ Đề. Trong đời sống, đây là hạng người chỉ một bề hành theo “Sự Tướng” mà không chịu xoay vào “Chân Tâm.” Phát tâm như thế gọi là Tà.
Trên đây là lối phát tâm của đa phần các người tu, tại gia và xuất gia, trong thời mạt pháp nầy. Những người như thế có nhan nhãn ở khắp mọi nơi, số đông như các sông Hằng.

2)Chánh:
Như chẳng cầu danh lợi, không tham cảnh vui cùng mong quả phước, chỉ vì thoát vòng sanh tử, lợi mình lợi sanh mà cầu đạo Bồ Đề. Đây là hạng người trên không cầu lợi dưỡng, dưới chẳng thích hư danh, vui hiện thế không màng, phước vị lai chẳng tưởng. Họ chỉ vì sự sanh tử mà cầu quả Bồ Đề. Phát tâm như thế gọi là Chánh-Corect.
Đây là lối phát tâm của bậc tu hành chân chánh, chỉ cầu mong giải thoát. Lối phát tâm và cách tu hành nầy đời nay khó thể nào thấy được, họa hoằn lắm trong muôn ngàn người tu mới có được một hay hai vị mà thôi.

3)Chân:
Mỗi niệm trên vì cầu Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn đường Bồ Đề dài xa mà không khiếp, thấy loài hữu tình khó độ nhưng chẳng sờn. Tâm bền vững như lên núi quyết đến đỉnh, như leo tháp quyết đến chót. Những bậc nầy, niệm niệm trên cầu Phật dạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh. Nghe thành Phật dù lâu xa chẳng sợ, chẳng lui. Phát tâm như thế gọi là Chân.

4)Ngụy :
Có tội lỗi không sám hối chừa cải, ngoài dường trong sạch, trong thật nhớp nhơ, trước tinh tấn sau lười biếng. Dù có tâm tốt nhưng còn xen lẫn lợi danh, có pháp lành song bị tội lỗi làm ô nhiễm. Phát tâm mà còn những điều nầy, gọi là Ngụy.
Đây là lối phát tâm của hầu hết người tu hành trong thời mạt pháp nầy.

5)Đại :
Cõi chúng sanh hết, nguyện mới hết; đạo Bồ Đề thành, nguyện mới thành. Phát tâm như vậy gọi là Đại.
Đây là lối phát tâm của hàng Đại Thừa Pháp Thân Đại Sĩ Bồ Tát, hay bậc Thánh Tăng Bồ Tát, đã đắc được vô sanh pháp nhẫn, chuyển pháp luân bất thối trong mười phương pháp giới .
6)Tiểu :
Xem tam giới như tù ngục, sanh tử như oan gia, chỉ mong mình mau giải thoát, chẳng muốn độ người. Phát tâm theo quan niệm nầy gọi là Tiểu.
Đây là cách phát tâm của bậc Thánh nhân trong hàng nhị thừa Thanh Văn và Duyên Giác. Lối phát tâm nầy tuy là được giải thoát ra ngoài tam giới, chứng được Niết Bàn, nhưng vẫn bị Phật quở là đi ra ngoài con đường hạnh nguyện độ sanh của Bồ Tát và Phật .

7)Thiên :
Thấy chúng sanh và Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt. Phát tâm như thế gọi là Thiên.
Đây là cách phát tâm sai lầm của những vị tu hành mà quả vị chứng đắc vẫn còn nằm trong ba cõi sanh tử, chớ chưa giải thoát được, họ chỉ tu hành để đạt được cảnh giới cao hơn như lên cõi sắc giới hay vô sắc giới, vì các vị ấy chưa thông đạt lý “ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm.”
8)Viên :
Biết chúng sanh và Phật đạo đều là tự tánh, nên nguyện độ nguyện thành, tu công đức không thấy mình có tu, độ chúng sanh không thấy có chúng sanh được độ. Các bậc nầy dùng tâm rỗng như hư không mà phát nguyện lớn như hư không, tu hành rộng như hư không, chứng đắc như hư không, cũng chẳng thấy có tướng “không.” Phát tâm như thế gọi là Viên.
Đây là lối phát tâm của các hàng Đăng Địa Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ Tát, và Nhứt Sanh Bổ Xứ Bồ Tát. Sau cùng các vị nầy chứng được quả vị Phật với đầy đủ thập hiệu.



TỨ NHIẾP PHÁP

Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ

Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm "mục đích lợi sanh". Hạnh lợi sanh luôn luôn là hạnh chủ yếu của mười phương chư Phật, chư vị Bồ Tát thị hiện ra đời, thực hành, để đem lại ích lợi, đem lại lợi lạc, cho tất cả chúng sanh. Cho nên, trong tất cả phương tiện giáo hóa, khuyến tu, chúng ta cần tìm hiểu một cách tường tận pháp môn gọi là "Tứ Nhiếp Pháp". Đó là pháp môn thực hành để dẫn dắt chúng sanh tồi tà phụ chánh, tức là bỏ việc gian tà sai trái, theo đường ngay lẽ phải, đi vào chánh đạo. Tứ nhiếp pháp là pháp môn nhiếp hóa chúng sanh, căn cứ vào lòng từ bi để khuyến hóa chúng sanh bỏ tà theo chánh, có công năng nhiếp phục và giác ngộ chúng sanh.
Tứ nhiếp pháp gồm bốn điều là: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Pháp môn này không những dành cho Phật Tử xuất gia là các bậc tu sĩ, hay dành cho các Phật Tử tại gia cư sĩ, mà bất cứ ai cũng có thể áp dụng, tu tập, thực hành, để có cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời, để được giác ngộ và giải thoát. Tứ nhiếp pháp có giá trị cao đẹp, biểu lộ ý chí cao thượng của chư Phật, chư Bồ Tát.

I.-Bố thí.

Bố thí có nghĩa là cho một cách rộng rãi. Cho một cách rộng rãi có hai nghĩa: một là, cho tất cả mọi thứ đến tất cả mọi người và hai là, cho với tất cả tấm lòng rộng rãi, bất tùy phân biệt.
Tại sao chúng ta phải tu hạnh bố thí? Tu hạnh bố thí là để kiến tạo một kho tàng phước báu, là tu tập nghiệp lành. Phước báu có công năng tiêu trừ đau khổ, làm cho tâm trí được an vui, thảnh thơi, hạnh phúc. Tu hạnh bố thí được người đời thương mến, dễ thu phục lòng người, phát triển lòng từ bi. Bố thí là gốc rễ của tất cả các thiện pháp. Bố thí là pháp tu mà những người kém phước đức và trí huệ cần noi theo. Chư vị hiền thánh nhơn kim cổ đều trải qua các hạnh tu bố thí.

Chúng ta sống trên thế gian này gặp nhiều phiền não và khổ đau từ nhiều nguyên do, trong đó lòng tham lam là yếu tố hàng đầu. Do lòng tham lam, con người không bao giờ thấy đủ. Có được chín đồng thì con người cố kiếm cho đủ mười đồng, nói rằng để dành khi hữu sự cần dùng, hay để dưỡng lão mai sau. Đến khi có được chín trăm ngàn thì con người vẫn cố làm việc, cố dành dụm, cố đấu tranh, cố giành giựt, bất chấp thủ đoạn, để có nhiều thêm nữa, dù rằng lúc đó tuổi tác đã già nua, gần đất xa trời. Đó là lòng tham tiền tài, lợi lộc.

Lòng tham danh, háo danh cũng thúc đẩy, sai khiến nhiều ông bà già tiếp tục bon chen trên đường đời, tiếp tục giở những thủ đoạn bất chánh, những tuyệt chiêu điêu luyện, những kinh nghiệm hại người, để đoạt cho kỳ được, giữ cho thực lâu các chức vụ hay danh vị nào đó trong các tổ chức bất vụ lợi trá hình, đôi khi đó chỉ là các chức dõm, danh hàm, danh hão mà thôi, chẳng có chút giá trị nào cả. Lòng tham lam luôn luôn thúc đẩy con người đấu tranh, giành giựt, bất chấp thủ đoạn, thì làm sao cuộc sống thực sự được an lạc và hạnh phúc? Người biết tri túc, biết an phận với những gì đang có, biết cần kiệm, biết sống một cuộc sống đơn giản, an nhàn, trong sạch là người được an lạc và hạnh phúc lớn nhất. Nếu chúng ta không có những gì mình thích thì chúng ta hãy thích những gì mình đang có. Được như vậy đời đâu còn gì gọi là khổ đau.

Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy: Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc. Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý. Nghĩa là: Người biết thế nào là đủ, tuy nằm trên đất cũng thấy an vui, lạc thú. Người không biết thế nào là đủ, tuy thân ở trên cảnh giới thiên đường, tâm ý vẫn không thỏa mãn!
Sách cũng có câu: Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc. Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn. Nghĩa là: Người biết thế nào là đủ thì tức thời thấy đủ, biết thế nào là nhàn thì tức thời thấy nhàn. Như vậy "cái đủ, cái nhàn "thực ra rất cần thiết, rất quan trọng cho cuộc đời, nhưng chúng ta không bao giờ đạt được "cái đủ, cái nhàn", nếu không có "biết đủ, biết nhàn". Bởi vậy, cho nên Đức Phật dạy pháp bố thí, để dẹp bớt lòng tham lam, đòi hỏi, bỏn sẻn, keo kiệt, bần tiện của con người. Pháp bố thí gồm có ba thứ: "tài thí, pháp thí, vô úy thí".

a) Về tài thí có hai phần: ngoại tài thí và nội tài thí.

Chúng ta có thể cho những gì bên ngoài thân thể, như là tiền bạc, của cải, cơm gạo, quần áo, thuốc men, vật chất nói chung, gọi là "ngoại tài thí". Khi thực hành ngoại tài thí, chúng ta cần chú ý các yếu tố đúng người, đúng thời và đúng lượng. Chẳng hạn như người nào cần tiền bạc, chúng ta giúp tiền bạc; người nào cần thuốc men, chúng ta giúp thuốc men và chỉ giúp lúc cần thiết với số lượng hợp tình, hợp lý mà thôi. Nhiều khi giúp đỡ tiền bạc quá nhiều, có thể làm cho người nhận sanh tâm ỷ lại, sanh lòng lười biếng, không thích làm việc, không thích chịu cực, không kham nỗi những khó khăn trong cuộc sống. Nhiều khi giúp đỡ tiền bạc đưa đến chuyện hại người nếu chúng ta không biết người nhận xử dụng số tiền đó với mục đích sai lạc, mục đích xấu.

Chúng ta có thể đem cho những gì thuộc về thân thể, thân mạng của mình, hoặc các bộ phận trên cơ thể như là mắt, tim, gan, phèo, phổi, gọi là "nội tài thí". Điều này, khi còn sống thì khó thực hiện được, nhưng chúng ta có thể làm được khi vừa mới tắt thở. Có rất nhiều người không theo đạo Phật, không hiểu giáo lý đạo Phật, nhưng họ đã ký sẵn giấy cam đoan cho các bộ phận trên cơ thể của họ hoặc cho luôn thân xác của họ, cho bất cứ ai cần đến, hoặc cho các viện y khoa, để giải phẩu nghiên cứu, học hỏi, tìm hiểu, ngay khi họ vừa mới tắt thở.

Điều này giúp chúng ta hiểu rằng, trong tận cùng thâm tâm của mỗi con người,"thiện tâm" đều giống nhau, ai ai cũng có, không phân biệt con người theo bất cứ tôn giáo nào trên thế gian này. Ngày nay chúng ta ít người thực hành nổi hạnh bố thí thân mạng như người xưa. Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng thân mạng để làm những việc ích lợi cho người, như công quả trong chùa, góp công sức trong các cuộc lạc quyên cứu giúp người gặp nạn bão lụt, gặp hỏa hoạn. Thực ra, từ xưa đến nay, có biết bao nhiêu người xả thân cứu người, nhiều khi gặp hiểm nguy đến tánh mạng. Đó cũng gọi là "nội tài thí".

b) Về pháp thí có hai nghĩa:

Một là, đem cho tất cả mọi việc, đem cho tất cả các pháp trên thế gian này và hai là, cho giáo pháp của Phật, còn gọi là Phật Pháp. Chúng ta có thể cho tất cả những gì khác, không thuộc phần nội tài thí và ngoại tài thí nói trên. Chẳng hạn như chúng ta có sở học, có tài năng, có kiến thức, có sự hiểu biết về một vấn đề nào đó, về một phương diện nào đó, về một ngành nghề nào đó, chúng ta có thể đem ra chỉ bảo, hướng dẫn, truyền dạy, giúp đỡ cho người, một cách bất vụ lợi, không mong cầu báo đáp, không kể lể ơn nghĩa. Việc này bất cứ ai cũng có thể làm được, không tốn đồng xu cắc bạc, chỉ cần tấm lòng vị tha, chỉ cần tấm lòng "vì người quên mình" mà thôi.
Đối với hàng tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia có học hiểu giáo pháp của Phật, đem ra giảng giải cho mọi người được biết để áp dụng, để xây dựng cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Theo nghĩa này, pháp thí là điều quan trọng hơn cả. Tại sao vậy? Bởi vì khi chúng ta giúp người về vật chất, như tiền bạc, cơm gạo, có thể làm cho người được qua cơn khó khăn trong ngắn hạn, trong một thời gian nào đó mà thôi. Khi chúng ta giúp người về tinh thần, như dạy chữ, chỉ dạy nghề, hướng dẫn cách sống đúng phép vệ sinh chẳng hạn, có thể làm cho người được qua cơn khó khăn trong một thời gian nào đó, thậm chí có thể giúp họ sống còn, sống khỏe một đời này mà thôi.

Còn nếu chúng ta có học hiểu giáo pháp của Đức Phật, còn gọi là Phật Pháp, đem ra giảng giải cho mọi người được biết, để áp dụng trong cuộc sống, thì có thể giúp con người được an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời, ngay kiếp này, cao hơn nữa là giúp con người được giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi khổ đau vĩnh viễn muôn kiếp. Bởi vậy, cho nên Đức Phật dạy hàng Phật Tử tại gia "pháp cúng dường" chư Tăng Ni, để các vị xuất gia yên tâm tu hành, không phải lo chuyện sinh sống, chuyên tâm nghiên cứu kinh điển, rồi đem ra giảng giải cho mọi người biết, để tu hành theo đúng Chánh Pháp. Pháp cúng dường như vậy là thanh tịnh nhất, dành cho các bậc chơn tu thực học, thanh tịnh trang nghiêm. Đó là một dạng khác của sự bố thí.

Tuy nhiên, không phải giáo pháp luôn luôn cần hơn cơm gạo, hoặc ngược lại. Việc này chúng ta gọi là "tùy duyên". Trong một buổi Đức Phật thuyết pháp, có một người nghèo khó đến dự. Đức Phật liền bảo dọn cơm cho người đó ăn trước, rồi mới giảng pháp cho nghe sau. Khi nghe xong thời pháp đó, người nghèo khó ngộ đạo, chứng ngay quả dự lưu tu đà hoàn. Do đó, ngày nay chúng ta có câu: "Có thực mới vực được đạo". Nghĩa là phải được tạm no lòng thì mới hy vọng hiểu được đạo lý cao siêu. Chúng ta không thể đem giáo pháp cao siêu ra giảng dạy cho những người đang đói khổ, đang cần cơm gạo trước hết. Cũng như không thể đem giáo pháp cao siêu dạy ngay cho người sơ cơ, mới học đạo. Nhu cầu tại thế gian của con người đi từ vật chất đến tinh thần, rồi sau đó mới bàn đến chuyện tâm linh xuất thế gian.

c) Về vô úy thí

Có nhiều nghĩa rộng rãi, cao siêu hơn. Vô là không, úy là sợ, thí là cho.Vô úy thí là đem cho sự không sợ hãi. Hay nói cách khác,vô úy thí là làm sao giúp đỡ cho con người bớt sự lo lắng, sợ sệt, sợ hãi, hay phiền muộn. Vô úy thí có nghĩa là giúp người qua cơn sợ hãi mọi thứ, bớt sự lo lắng mọi điều trong tâm trí trong các biến cố, trước các điều hiểm nguy, và còn có nghĩa là chúng ta không nên gây não phiền, không nên gây bực dọc cho bất cứ ai, khiến họ được an vui, yên ổn.

Con người sống trên thế gian này có rất nhiều điều lo âu, sợ hãi hay phiền muộn. Nào là sợ thiếu tiền, sợ thiếu ăn, sợ thiếu mặc, sợ bệnh hoạn, sợ thiên tai, sợ mất công ăn việc làm, sợ mất hạnh phúc gia đình, sợ đủ mọi thứ chuyện trên trần đời. Nhưng nỗi lo sợ lớn nhất của con người, chính là sợ chết! Tự cổ chí kim, từ người nghèo hèn cho đến người sang trọng, từ người bình dân cho đến người học thức, từ người trẻ cho đến cụ già, từ người thường dân cho đến vua quan hay hàng quí tộc, từ giới phàm phu tục tử cho đến các bậc hiền triết thánh nhơn, nào có ai tránh được cái chết đâu, mặc dù con người vốn tham sinh úy tử, tức là ham sống sợ chết!

Con người thường hay nghĩ "đời còn dài", cho nên chỉ bận tâm đến chuyện mưu sinh, chuyện tranh danh đoạt lợi, chuyện đấu tranh tranh đấu, chuyện hơn thua, thị phi, đúng sai, phải quấy, đủ thứ chuyện linh tinh lang tang. Đến khi sắp từ giã cuộc đời mới giựt mình tỉnh giấc thì đã quá muộn màng. Thực ra, con người có thể chết bất cứ lúc nào, bất cứ cách nào, bất cứ nơi nào. Còn đối với sự sợ chết, chúng ta khuyến hóa mọi người tu hành, phát tâm tìm hiểu đạo lý và cầu đạo giác ngộ giải thoát. Tại sao vậy? Bởi vì chỉ có giáo pháp của Đức Phật mới có thể chỉ bày cho con người hiểu rõ ràng, tường tận "pháp vô sanh", tức là chỉ dạy đường lối tu hành để giác ngộ và giải thoát, không còn sanh phiền não và khổ đau, không còn sanh tử luân hồi nữa, chứ đạo Phật không phải chỉ có các hình thức cúng kiến, lễ nghi, cầu nguyện mà thôi.

Thực hành hạnh vô úy thí còn có nghĩa là giúp chúng sanh khắc phục tư tưởng sợ hãi, khiếp nhược yếu hèn, tự ti mặc cảm, giúp chúng sanh hiểu được điều Đức Phật giác ngộ dưới cội cây bồ đề và giảng dạy khắp tam tạng kinh điển. Đó chính là: "Tất cả chúng sanh ai ai cũng đều có Phật tánh như nhau, tất cả đều bình đẳng, và tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật, giải thoát mọi khổ đau phiền não, nếu biết tu tập, thực hành đúng Chánh Pháp". Trong các kinh điển Phật giáo, đó là bốn bước: khai, thị, ngộ, nhập. Nghĩa là Đức Phật khai mở cánh cửa giải thoát; chỉ thị cho con người thấy được, hiểu được "pháp vô sanh", đó là cái "bất sanh diệt", đó là "con người chân thật" của tất cả chúng ta, chứ không phải cái xác thân giả tạm đang có; giúp cho con người làm sao giác ngộ được "pháp vô sanh" và cuối cùng chỉ dạy đường lối tu hành làm sao chứng nhập được "pháp vô sanh" đó.

Con người sở dĩ sợ chết, bởi vì con người sợ mất cái thân tứ đại mấy chục ký lô giả tạm này, mà không hề biết mình có cái không hề chết, không hề bị tiêu diệt mất, đó chính là "con người chân thật bất sanh diệt" của tất cả chúng ta vậy. Chúng ta biết rằng khi thọ hưởng một tài sản hay của cải, vật chất nào, không nên chỉ dùng cho riêng mình. Chúng ta nên bố thí ra, chia xẻ với mọi người, để tạo an vui lợi ích cho những người chung quanh và cũng tạo an vui ích lợi cho chính chúng ta nữa. Cái gì chúng ta ăn, chỉ được nhứt thời. Cái gì chúng ta tích trữ, dành dụm, chỉ được nhứt đời mà thôi, chắc chắn chúng ta sẽ bỏ lại tất cả khi ra đi. Nhưng những gì chúng ta cho ra, những gì chúng ta bố thí, sẽ trở lại với chúng ta, dưới dạng quả báo lành, sự bình an, sự may mắn, còn gọi là phước báo, giúp chúng ta được tai qua nạn khỏi. Nói cách khác, cái gì chúng ta đã tiêu xài, bây giờ không còn nữa. Cái gì chúng ta đã mua sắm, bây giờ phải để lại cho người khác, một khi ra đi. Chỉ có cái gì chúng ta "đã cho, đã bố thí" là vẫn còn "thuộc về chúng ta" khi từ giã cõi đời. Đó chính là nghiệp lành, là phước báo, là quả báo tốt, là sự may mắn, là sự bình yên, là an lạc và hạnh phúc, tất cả luôn luôn theo cùng với chúng ta như hình với bóng.

Danh ngôn Tây Phương cũng có câu: "If you continually give, you will continually have".
Trong Kinh Địa Tạng, phẩm thứ mười, khi Bồ Tát Địa Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính và bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, con xem chúng sanh trong nghiệp đạo, so sánh công đức bố thí, hiệu quả có sự nhiều ít khác nhau, có người được hưởng phước một đời, có người được hưởng phước mười đời, có người được hưởng phước hàng trăm, ngàn đời, lợi lạc lớn lao. Tại sao như thế, cúi xin Đức Thế Tôn từ bi giảng trạch cho chúng con được biết".
Đức Phật dạy tóm lược như sau: "Bất cứ ai gặp những người già yếu, bần cùng, hèn mạt, tàn tật, câm ngọng, đui mù, ngây điếc, không được toàn vẹn, mà tự tay đem bố thí với lòng từ bi, thương xót, dùng lời mềm mỏng an ủi họ tử tế, khiến cho họ được an ổn,vui vẻ, thì được hưởng phước báo vô lượng. Tuy nhiên, nếu làm được những việc thiện như thế mà đem hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh thì những người làm công đức ấy được hưởng những sự vui sướng nhiệm mầu hàng trăm ngàn đời, nếu đem công đức ấy hồi hướng cho quyến thuộc nhà mình, hay muốn tự mình hưởng những lợi ích, thì ba đời được vui vẻ, làm một phần thì được hưởng vạn phần".
Tại sao vậy? Bởi vì những người làm công đức đó đã phát lòng đại từ, đại bi, lại phát tâm rộng lớn, đem "hồi hướng" cho khắp pháp giới chúng sanh, không cứ công đức ít nhiều, không dành riêng cho mình và người thân của mình, đó chính là những người đã "diệt được lòng tham", cho nên được sự "giải thoát hoàn toàn", cho nên được hưởng quả "phước báo lớn lao" như vậy. Còn người nào chỉ phát tâm hạn hẹp, đem công đức ấy hồi hướng cho người thân hay cho chính mình mà thôi, thì sẽ được hưởng quả phước báo hạn chế hơn, tùy theo tâm lượng còn nhỏ hẹp của chính mình.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật cũng có dạy: "Nhược bồ tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, bố thí. Bồ tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. Nhược bồ tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng".
Nghĩa là nếu chúng ta không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và không chấp sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được. Không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, có nghĩa là: khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta không nên thấy có mình là người cho, để cầu mong được báo đáp, được cám ơn, được tán thán; chúng ta không nên thấy có người nào là kẻ nhận sự bố thí đó, để kể lể chuyện ơn nghĩa; chúng ta không nên thấy có bao nhiêu người đã nhận sự bố thí đó, để khoe khoang, và chúng ta cũng không nên thấy có vật gì, điều gì đã được đem cho, để khỏi tiếc nuối về sau, có khi tiếc của, đi đòi lại! Nếu được như vậy, sau khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta sẽ an trụ được tâm của chúng ta. Chúng ta sẽ không bực dọc khi gặp những người bội bạc, không biết ơn, thậm chí còn trở mặt với chúng ta nữa. Lòng từ bi của chúng ta sẽ không bị hạn chế, nếu không còn nhớ là đã bố thí bao nhiêu tiền của, đã bố thí cho bao nhiêu người, đã dành bao nhiêu thời giờ để làm hạnh bố thí đó.

Muốn hàng phục được tâm ý của chính mình, chúng ta phát nguyện độ tất cả chúng sanh, mà không thấy có chúng sanh nào được độ. Bố thí xong rồi thì thôi, đừng nhớ nghĩ gì nữa. Khi chúng ta xả bỏ được hết tất cả vọng niệm, các tạp niệm, để an trụ tâm, để thanh tịnh tâm, tức là chúng ta đã thực hành được hạnh bố thí ở mức độ cao nhất, mà ít người hiểu được. Hàng phục được tâm ý của chính mình thì mau tiến đến chỗ giải thoát. Cho nên Đức Phật dạy: Thực hành được hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được, chính là nghĩa đó vậy.

d) Không chấp sáu trần:

Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, có nghĩa là: khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta không chấp vào sắc tướng là tốt đẹp hay không tốt đẹp, không chấp vào âm dễ nghe, hay khó nghe, không chấp vào mùi hương dễ ngửi hay khó ngửi, không chấp vào mùi vị dễ nếm hay khó nếm, không chấp vào xúc chạm dễ chịu hay khó chịu, không chấp vào sự việc, ý tưởng vừa ý hay không vừa ý, thích hay không thích, ưa hay ghét. Sở dĩ tâm ý của chúng ta thường hay bất an, hay loạn động, bởi vì chúng ta thường hay dính mắc với sáu trần. Hễ mắt thấy bất cứ sắc gì thì liền khởi vọng niệm phê phán đẹp hay xấu, hễ tai nghe bất cứ tiếng gì thì liền khởi vọng niệm phê phán dễ nghe hay khó nghe, hễ mũi ngửi bất cứ mùi gì thì liền khởi vọng niệm phê phán dễ ngửi hay khó ngửi, hễ lưỡi nếm bất cứ vị gì thì liền khởi vọng niệm phê phán ngon hay dỡ, hễ thân xúc chạm bất cứ vật gì thì liền khởi vọng niệm phê phán dễ chịu hay khó chịu, hễ ý nhớ tưởng bất cứ chuyện gì thì liền khởi vọng niệm phê phán hài lòng hay bực bội. Cứ như thế, tâm ý của chúng ta luôn luôn bất an, loạn động.

Chúng ta thực hành hạnh bố thí với tất cả tấm lòng rộng rãi, với tất cả tấm lòng vì người quên mình, với tất cả tấm lòng từ bi, cung kính, không cầu danh, không cầu báo đáp, không vì hơn thua, không vì mê hoặc lòng người, không chọn lựa món xấu đem cho, món tốt giữ lại, tức là không trụ sắc; cho rồi không cần nghe lời khen, tiếng cám ơn, tức là không trụ thanh, v.v.. và của đem bố thí phải thanh tịnh, chơn chánh; người nhận bố thí phải được tôn trọng, bình đẳng. Đó chính là sự bố thí thanh tịnh, trong sáng, bất tùy phân biệt nam phụ lão ấu, tu sĩ hay người đời, đẳng thí vô sai biệt, phổ đồng cúng dường, chư Phật chư hiền thánh, hạ cập lục đạo phẩm, như vậy sẽ đem lại phước báo vô lượng, vô biên, cho nên được gọi là "bố thí ba la mật". **

II.-Ái ngữ.

Ái ngữ là lời nói dịu dàng, êm ái, ngọt ngào, dễ nghe, phát xuất từ lòng từ bi, thương người như thể thương thân, chứ không phải là lời nói đầu môi chót lưỡi, lời nói hoa mỹ, khách sáo, cốt sao cho đẹp lòng người nghe. Ái ngữ có tác dụng đem lại an vui, bình yên, thanh thản cho người nghe, có tác dụng an ủi vỗ về những người đang bị nhiệt não, âu lo, sợ sệt. Sách có câu: Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Trong cuộc sống trên thế gian này, nếu mọi người đều nhớ nằm lòng câu trên đây, thì cuộc đời hạnh phúc biết là bao nhiêu, dầu cù là và thuốc nhức đầu chắc là không bán chạy! Trong gia đình, vợ chồng con cái, trên thuận dưới hoà, không có tranh cãi, không có xào xáo. Trong xã hội, không có chuyện mất trật tự, an ninh vì những cuộc cãi vã, đưa đến ấu đả và án mạng có thể xảy ra. Trong quốc gia, hòa bình chắc chắn được bền vững, lâu dài. Chúng ta cũng biết rằng, ngoài danh và lợi, trên thế gian này con người thường hay tranh chấp vì lời nói. Hai người nói chuyện với nhau một lát mà không biết nhường nhịn nhau, tương nhượng nhau, thì hay đưa tới tranh cãi. Bởi vậy cho nên, chư Tổ có dạy: Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức. Nghĩa là: Bên trong chúng ta cần luôn luôn khắc chế, khắc phục tâm niệm lăng xăng, lộn xộn, đó chính là công phu tu tập của người Phật Tử. Bên ngoài, chúng ta luôn luôn giữ hạnh nhẫn nhịn, không tranh cãi, dù chuyện lớn chuyện nhỏ cũng vậy, đó chính là đức độ của của người Phật Tử chúng ta vậy. Lời nói đôi khi có những tác dụng không thể lường trước được. Có những lời nói có thể đem lại an vui, hạnh phúc cho người. Có những lời nói có thể đem lại ly tán, đổ vỡ hạnh phúc của người khác, đôi khi tan nát hạnh phúc của chính người nói nữa. Có những lời nói làm cho người nghe mĩm một nụ cười tươi tắn, vui vẻ, khỏe khoắn. Có những lời nói làm cho người nghe ngất xĩu, hay đau đầu, nhức óc, nhói tim, mất ngủ, hay ít ra cũng phải đi xức dầu cù là! Có những lời nói có thể cứu người, cũng có những lời nói có thể hại người một cách dễ dàng.

Thí dụ như lời nói của một luật sư có lương tâm có thể cứu một bị cáo thoát khỏi tội oan, hoặc lời nói của một nhân chứng trước tòa, ngay hoặc gian, có thể làm cho người khác phải bị tù tội. Một vị bác sĩ khéo lựa lời nói, khuyến khích, khuyên lơn, an ủi, động viên tinh thần, có thể giúp bệnh nhân yên tâm dưỡng bệnh, chóng qua cơn hiểm nghèo, sớm được bình phục; bằng như ngược lại, lời nói của vị bác sĩ có thể làm cho bệnh nhân tắt thở ngay tức thì. Cũng như lời nói của các nhà ngoại giao, của các sứ thần, của các sứ giả có thể đem lại hòa bình giữa hai nước, hoặc làm cho chiến tranh lan tràn khắp mọi nơi. Nhiều khi lời nói của một người có sức mạnh hơn cả một sư đoàn quân đội. Con người có thể thương yêu súc vật như chó, mèo, chim chóc chẳng hạn, nhưng lắm khi không thể chịu đựng được, nhịn được người chung quanh, chỉ vì lời nói của người đó. Tại sao vậy? Bởi vì súc vật không biết nói tiếng người, cho nên không bị mích lòng! Người đời thường nói: hai con gà ghét nhau vì tiếng gáy, hai con chó ghét nhau vì tiếng sủa. Hai cô ca sĩ có bao giờ thương nhau!

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: Dù nói hàng ngàn lời vô ích, không bằng chỉ nói một lời đúng Chánh Pháp, có ích lợi làm cho người nghe được an tịnh. Ở những xứ có nhiều sắc dân khác nhau cùng chung sống. Người ta có thể không hiểu người khác nói gì, vì bất đồng ngôn ngữ, nhưng người ta có thể đoán được người khác muốn nói gì qua sắc mặt và giọng nói. Cho nên sắc mặt và giọng nói của chúng ta cũng đóng một vai trò quan trọng qua ngôn ngữ, trong các cuộc giao thiệp, tiếp xúc hằng ngày. Một giọng nói êm ả, lễ độ, ngọt ngào, từ tốn, dễ thu phục lòng người, hơn là giọng nói ồm ồm, chanh chua khế chát, the thé khó nghe. Lời nói từ hòa, thân mật, thành thật, ngay thẳng, rõ ràng, sáng suốt, rất dễ cảm hóa lòng người, có thể hướng dẫn người vào chánh đạo.

Sách có câu: "Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy". Nghĩa là một lời nói ra, bốn ngựa không thể đuổi theo kịp. Có những lời nói nhẹ tựa lông hồng, có những lời nói nặng tựa núi non. Có những người nói ra thì tất cả mọi người đều tin tưởng, nghe theo. Có những người nói ra thì không một ai tin tưởng, nghe theo cả. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy: Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói. Lời nói phải chân thật, đúng lúc, hợp chánh pháp, ích lợi cho mình cho người. Sửa đổi được lời nói, sửa đổi được giọng nói, sửa đổi được cách nói, tức là chúng ta đã đổi được tâm tánh, giảm bớt khẩu nghiệp, rất nhiều rồi vậy.
Thực hành được "ái ngữ" là chúng ta tăng trưởng tâm từ bi của chính mình. Thực hành được "ái ngữ" là chúng ta dẹp được tâm sân hận, tâm ganh ghét, tâm đố kỵ, tâm ganh tị, tâm hiềm khích, tâm tật đố, tâm hơn thua. Thực hành được "ái ngữ" là chúng ta tu tập theo hạnh nguyện đại từ đại bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tầm thinh cứu khổ chúng sanh. Chúng sanh đau khổ vì những lời nói của nhau. Thực hành được "ái ngữ" là đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người chung quanh, đem nước cam lồ trong bình thanh tịnh của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, rưới vào những tâm hồn đang nhiệt não, rót vào tai những người đang phiền muộn những âm thanh dịu dàng, êm ái, có công năng chuyển hóa tâm hồn những con người đang khỗ não, thành tâm hồn an vui, tự tại. Nói cách khác, người không có lòng từ bi bác ái, không thể nào có "ái ngữ" được. Thực hành được "ái ngữ" như vậy tức là chúng ta đang tiến trên đường giải thoát. * *

III.-Lợi hành.

Lợi hành là hành động có ích lợi cho người. Nếu con người có lời nói dễ nghe ngọt ngào, có vẻ từ bi bác ái, nhưng hành động không tốt, lợi mình, hại người, thì những lời nói trên chỉ là thứ "miệng thì nói tiếng nam mô, bụng thì chứa cả một bồ dao găm", hoặc là "năng thuyết bất năng hành", tức là nói được mà chẳng làm được, mà thôi, không hơn không kém. Cổ nhơn có dạy: Những gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm cho người khác. Nghĩa là mình muốn người khác hành động như thế nào có ích lợi cho mình, thì mình phải nên hành động có ích lợi cho người như vậy. Thế nào là hành động có ích lợi cho người ? Đó là hành động theo đúng lời Đức Phật dạy trong các kinh điển. Thí dụ như chúng ta khuyên người làm lành lánh dữ, tụng kinh niệm Phật và chúng ta cũng hành động đúng y như lời nói của chúng ta vậy. Khi nào lời nói và hành động của con người nhất như, tương ưng, không khác, thì người đó đã có công phu tu tập khá rồi, trong kinh điển gọi là "ngôn hạnh tương ưng".

Sách có câu: Đừng nghe những gì người ta nói. Hãy nhìn những gì người ta làm. Chỉ khi nào lời nói của chúng ta đi đôi với hành động có ích lợi cho người về mọi phương diện thế gian và xuất thế gian như trên, thì chúng ta mới nhiếp phục được lòng người mà thôi, chứ nói lý thuyết suông, chẳng đem ích lợi thiết thực gì cả. Thiện hữu tri thức là người bạn hiền, có học hiểu giáo pháp, và biết khuyên bạn mình hành động đúng như lời Đức Phật dạy, chứ không phải hành động theo những lời nói sai trái, xằng bậy, phi pháp. Lợi hành trong công việc hằng ngày là hành động trực tiếp đem lại ích lợi cho chúng sanh về vật chất và tinh thần. Nhưng lợi hành trong việc tu hành là hành động giúp người tiến tu, trên đường học hiểu giáo pháp, để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, cho đến khi đạt được giác ngộ và giải thoát. Nói cách khác, lợi hành có nghĩa là chúng ta có thể hành động ích lợi cho chúng sanh, ngay trong hiện tại, về vật chất cũng như tinh thần, và hành động ích lợi cho chúng sanh, trong tương lai gần, trong kiếp này, và tương lai xa, nhiều kiếp về sau, qua hành động khuyến tu giải thoát.

IV.-Đồng sự.

Đồng sự có nghĩa là cùng làm chung việc với người, để giúp đỡ người và cảm hóa người theo lẽ phải, theo chánh đạo. Thí dụ như muốn dạy người biết bơi, chúng ta phải xuống nước cùng với họ, mới có thể chỉ dạy một cách dễ dàng, nhanh chóng và hữu hiệu được. Chúng ta không thể đứng trên bờ quơ tay, quơ chân, la hét, gào thét mà có kết quả như ý được đâu. Cũng như những vị chỉ huy xuất thân từ hàng binh sĩ, những chủ nhân, cai thợ xuất thân từ giới công nhân, thường thấu hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, cảm nghĩ, tâm lý, yêu cầu, đòi hỏi của cấp dưới, cho nên dễ dàng thành công trong nghệ thuật lãnh đạo hơn, kết quả thường là khả quan hơn, tốt đẹp hơn.

Chư Tổ ngày xưa vì muốn độ hạng người bần cùng trong xã hội, các Ngài cũng phải hòa mình sống chung cuộc sống cực khổ với họ, mới có thể giáo hóa họ được. Cho nên, những vị tu sĩ xuất gia từ lúc còn tấm bé, hay khi còn là đồng nam, đồng nữ, thì rất đáng trân quí và có công phu tu tập dài lâu hơn, nhiều năm tháng hơn, nhưng các vị xuất gia sau khi trải qua nửa đời người với cuộc sống tại gia, thì có thể hiểu được tâm lý của người Phật Tử tại gia hơn, cho nên dễ cảm thông hơn, có thể dễ dàng hành đạo hơn, dễ dàng hoằng pháp lợi sanh hơn. Nhưng điều này chỉ là tương đối, còn tùy người, tùy hoàn cảnh, tùy sở học và hiểu giáo pháp, tùy căn cơ, tùy khả năng giảng dạy và tiếp thu giáo pháp, tóm lại là "tùy duyên" mà thôi, "không có gì cố định cả". Trong kinh điển, Đức Phật dạy "quán các pháp vô ngã", chính là nghĩa đó vậy.

Tóm lại, tứ nhiếp pháp là một pháp môn rất cụ thể, rất thực tế, rất cần thiết, rất dễ áp dụng, đúng với mọi hoàn cảnh, đúng với mọi nơi, mọi thời, mọi lứa tuổi, mọi trình độ, hoàn toàn vì mục đích hoằng pháp lợi sanh. Đó là nền tảng của các nghiệp lành, nghiệp thiện, giúp con người sống trong chánh đạo, dẹp bỏ được tam độc: tham lam, sân hận, si mê. Những người muốn có cuộc sống thực sự an lạc và hạnh phúc hiện đời phải luôn luôn quán tứ nhiếp pháp một cách tường tận, sâu sắc và luôn luôn áp dụng tứ nhiếp pháp trong cuộc sống hằng ngày, chắc chắn cuộc đời này sẽ giảm bớt nhiều khổ đau và phiền não. Pháp môn này, nói chung, mọi người ai ai cũng có thể thực hành được, nhưng muốn thực hành cho đến mức độ cao thâm rốt ráo, trong kinh sách gọi là ba la mật, thì chúng ta phải phát tâm bồ đề kiên cố, dũng mãnh, bất thoái chuyển, tức là phát tâm lượng của các bậc Bồ Tát và Đại Bồ Tát vậy.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6825
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TÔI TU TỊNH ĐỘ

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 5 31, 2017 10:04 am

KIẾN TƯ HOẶC VÀ TRẦN SA HOẶC KHÁC NHAU THẾ NÀO ?

Hỏi: Kiến hoặc, tư hoặc và trần sa hoặc, ba thứ hoặc nầy giống nhau và khác nhau như thế nào?

Đáp: Ba thứ nầy có điểm giống nhau và cũng có những điểm khác nhau. Giống nhau ở chỗ, ba thứ nầy đều là vô minh phiền não, đều có tác dụng làm cho chúng sanh mãi bị trầm luân trong sanh tử. Tuy nhiên, chúng cũng có những điểm khác nhau. Trước hết xin nói sự khác biệt giữa kiến hoặc và tư hoặc, rồi sau mới nói đến khác biệt với trần sa hoặc.
Kiến hoặc là gì?
Kiến hoặc là những thứ mê lầm thuộc về Lý. Chúng gồm có 5 thứ: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ.

Tư hoặc là gì?
Là những thứ mê lầm thuộc về Sự. Chúng cũng gồm có 5 thứ: tham, sân, si, mạn, nghi.

Gọi chung 10 thứ nầy là 10 thứ căn bản phiền não. Vì chúng là cội gốc gây ra bao nhiêu sự khổ đau mà con người luôn luôn hứng chịu. Mười thứ nầy, tuy cũng là gốc phiền não, nhưng cường độ sâu, cạn, hay mạnh, yếu của chúng có khác nhau. Nhà Duy thức chia chúng ra làm hai loại:“ngũ độn sử và ngũ lợi sử”.

Đối với 5 món: tham, sân, si, mạn, nghi, hành tướng của chúng rất sâu và mạnh, nên gọi chúng là độn (chậm lụt và khó trừ). Ngược lại, 5 thứ kia: thân kiến, biên kiến… thì hành tướng của chúng yếu hơn, nên gọi là lợi sử. Sử có nghĩa là sai khiến, chúng sai khiến người ta phải làm theo mệnh lệnh của chúng. Đối với 5 thứ trước, hành giả phải tu đến địa vị “Tu đạo”mới trừ được. Còn 5 món sau, vì tánh cách mê lý cạn cợt, nên hành giả tu hành đến địa vị “Kiến đạo”(thấy rõ chân lý và tin chắc lý nhân quả) thì trừ được chúng.

Nói chung, hai thứ nầy, khác nhau về cường độ mạnh yếu và hành tướng chậm lụt cũng như nhạy bén có sai khác. Và khi đoạn trừ, cũng có sự khác nhau ở địa vị tu chứng. Đó là đại khái sự khác nhau giữa Kiến, Tư hoặc là như thế.

Trần sa hoặc là gì ?
Đối với trần sa hoặc thì có khác. Bởi trần sa hoặc không phải là thứ phiền não của các vị A la hán. Vì những vị A la hán đã đoạn hết Kiến, Tư hoặc, nhưng các ngài bị chướng ngại ở nơi hoặc lậu (phiền não) của chúng sanh. Nghĩa là các ngài thấy phiền não của chúng sanh nhiều như là cát bụi (trần sa). Do đó, các ngài không dám ra độ sanh như các vị Bồ tát. Như vậy, sự khác biệt giữa Kiến, Tư hoặc và trần sa hoặc là như thế.

I-Tính Chất Của 10 Món Căn Bản Phiền Não

Tính chất của mười món căn bản phiền não không giống nhau: có thứ nhanh nhẹn, có thứ chậm chạp; có thứ mãnh liệt, có thứ yếu ớt; có thứ đâm sâu gốc rễ trong lòng người, có thứ nằm khơi khơi ở trên ý thức; có thứ dễ dứt trừ, có thứ khó tiêu diệt. Vì tính chất không đồng ấy mà đức Phật đặt cho chúng những danh từ khác nhau, để dễ phân biệt, như Kiết sử, Kiến hoặc, Tư hoặc.

1. Kiết sử:
Mười thứ phiền não gốc: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến cũng gọi là "Thập Kiết sử".

Kiết là trói buộc; Sử là sai khiến. Mười phiền não này gọi là Kiết Sử, vì chúng nó có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho ra khỏi ba cõi và sai sử chúng sinh phải quay lộn trong vòng sinh tử luân hồi, từ đời này đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao nhiêu điều khổ não.
Tuy đều có tính chất sai sử, trói buộc cả, nhưng mười Kiết sử này có thứ mạnh, thứ yếu, thứ chậm chạp, thứ mau lẹ, nên đức Phật chia chúng ra làm hai thứ với hai tên gọi khác nhau là: Lợi sử và Độn sử.

a) Lợi sử là những món phiền não rất lanh lẹ, dễ sinh khởi mà cũng dễ trừ bỏ (lợi là lanh lợi). Lợi sử gồm có năm loại là: Thân kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ, Giới Cấm thủ, Tà Kiến.
b) Độn sử là những món phiền não nặng nề, chậm chạm, sinh khởi một cách ngấm ngầm, sâu xa, nhưng mãnh liệt, khó dứt trừ (độn là chậm lụt). Thuộc về Độn sử gồm có năm phiền não là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.

Người học Phật muốn giải thoát, tất nhiên phải chặt đứt mười thứ dây dợ, xiềng xích này mới được.
Trước khi muốn chặt đứt chúng một cách có hiệu quả, phải hiểu rõ tính chất mềm hay cứng, bở hay dai của chúng để liệt chúng vào loại dễ chặt hay khó chặt. Như người bổ củi, chia củi ra làm hai loại: loại dễ bổ và loại khó bổ; loại dễ bổ thì dùng búa nhỏ, loại khó bổ thì dùng búa lớn; cũng vậy, hành giả trước khi muốn chặt đứt phiền não, phải liệt chúng làm hai loại: loại Kiến hoặc dễ trừ, và loại Tư hoặc khó diệt.

2. Kiến hoặc:
Chữ Kiến hoặc có hai nghĩa:
a) Loại mê lầm này mong manh cạn cợt, chỉ tu hành đến địa vị Kiến đạo (thấy chân lý) thì đoạn được.
b) Loại mê lầm này thuộc về phần vọng kiến (vọng chấp), phân biệt của ý thức đối với sự vô thường, vô ngã v.v... mà sinh ra; hay do lầm nghe theo lời khuyên dạy của tà sư ngoại đạo mà sinh ra.
Nói một cách dễ hiểu hơn, Kiến hoặc là cái lầm thuộc về mê lý, do vọng chấp (chấp sai) phân biệt của ý thức sinh ra. Đến địa vị Kiến đạo là đoạn trừ được cái hoặc này. Bởi chúng nó dễ trừ, cũng như cỏ mọc khơi trên mặt đất, hễ dẫy (phác) thì hết, nên cũng gọi là "Phân biệt hoặc" (nghĩa là cái lầm về phần phân biệt của ý thức).

Tóm lại, Kiến hoặc hay Phân biệt hoặc là do mê lý mà sinh, và sẽ bị diệt trừ khi ngộ được chân lý.
Mười phiền não nói trên, hay Kiến hoặc, nếu đem phối hợp với bốn Đế trong ba cõi, thì thành ra tám mươi tám hoặc.
Để có một ý niệm rõ ràng hơn, chúng ta hãy phân tách như sau:
Mười món Kiến hoặc là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ và Tà kiến.
Trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới), mỗi cõi có bốn Đế (khổ, tập, diệt, đạo), mỗi đế có các hoặc (mê lầm) chung hiệp lại thành tám mươi tám Kiến hoặc.
Như Dục giới có bốn Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ đế có đủ mười hoặc. Tập đế và Diệt đế chỉ có bảy hoặc (vì trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm thủ). Đạo đế có tám hoặc (trừ Thân kiến và Biên kiến). Bốn đế cộng thành ba mươi hai Kiến hoặc.
Cõi Sắc và Vô sắc cũng y như Dục giới, song ở trong đó mỗi Đế đều trừ ra một món Sân (vì hai cõi này chỉ có vui trong thiền định, nên chẳng có Sân) nên mỗi cõi chỉ có hai mươi tám hoặc. Hai cõi hiệp lại thành năm mươi sáu hoặc; cộng với ba mươi hai hoặc ở cõi Dục nữa, tổng cộng thành ra tám mươi tám món Kiến hoặc.
Đây là biểu đồ 88 món Kiến hoặc:

Dục giới (có 32)

(1) Khổ đế: 10

a) Tham,
b) Sân
c-Si,
d-mạn,
đ) Nghi
e) Thân kiến
ê) Biên kiến,
g) Kiến thủ
h) Giới cấm thủ
I) Tà kiến

(2) Tập đế: 7
Như Khổ đế, trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm thủ

(3) Diệt đế: 7
Như tập đế

(4) Đạo đế: 8
Trừ Thân kiến và Biên kiến

Sắc giới (có 28)

(1) Khổ đế: 9
Như Khổ đế ở Dục giới, trừ Sân.
(2) Tập đế: 6
Như Tập đế ở Dục giới, trừ Sân.
(3) Diệt đế: 6
Như Diệt đế ở Dục giới, trừ Sân.
(4) Đạo đế: 7
Như Đạo đế ở Dục giới, trừ Sân.
Vô sắc giới (có 28)

Như Khổ, Tập, Diệt, Đạo ở Sắc giới.
Sắc giới và Vô sắc giới đều trừ Sân, là vì hai cõi này ở trong thiền định, có hỷ có lạc, nên Sân không sinh khởi.
Khổ đế đủ mười hoặc là vì thuộc về Quả. Tập đế ít hơn (có 7) là vì thuộc và Nhân. Diệt đế là quả xuất thế nên chỉ có 7. Đạo đế về phần tu hành nên chỉ có 8.

3. Tư hoặc:
Trong số mười phiền não căn bản nói trên, có bốn thứ ăn sâu gốc rễ từ vô thủy rất khó diệt trừ là Tham, Sân, Si, mạn (bốn Độn sử) thì gọi là Tư hoặc. Theo tân dịch thì Tư hoặc có hai nghĩa:

a) Nó ngấm ngầm khởi lên, do mê muội về sự vật mà sinh; như đói với sự vật ăn, mặc, ở (sắc, thanh, hương, vị, xúc) sinh tham gia trước.

b) Sự mê lầm này phải đến địa vị Tu đạo mới trừ dứt được.
Chúng nó có từ vô thủy đến giờ, hễ có ta là có nó, nó với ta đồng minh một lượt, nên cũng gọi là "câu sinh hoặc". Chúng nó có tiềm tàng sâu kín, và chi phối sai sử chúng ta một cách mãnh liệt, nên hành giả phải hết sức tu trì, mới có thể lần trừ hồi được. Cũng như cỏ, phải ra công moi đào nhiều lần, mới nhổ sạch tận gốc.

Tóm lại Tư hoặc cũng có tên Câu sinh hoặc, do sự mê là sanh, và chỉ khi đến địa vị Tu đạo mới đoán ra được.
Mười món này phối hợp với bốn đế ở ba cõi, sẽ thành 81 món như sau:
Mười món Dục giới, có 4: Tham, Sân, Si, Mạn.
Tư Hoặc Sắc giới, có 3: Tham, Si, Mạn.
Vô sắc giới, có 3: Tham, Si, Mạn
(hai cõi sau vì ở trong thiền định, nên không có Sân)
Bốn thứ Tư hoặc này lại chia ra làm ba hạng: hạng nhất là bậc thượng; hạng vừa là hạng bậc trung; hạng kém hơn là hạng bậc hạ. Mỗi hạng như thế lại chia ra làm ba bậc hay ba phẩm nữa (thượng, trung, hạ), cộng tất cả thành chín phẩm.
(Xem biểu chín phẩm Tư hoặc dưới đây)
Mười thứ:
Thượng
(1) Thượng thượng
(2) Thượng trung
(3) Thượng hạ
Trung
(1) Trung thượng
(2) Trung trung
(3) Trung hạ
Hạ
(1) Hạ thượng
(2) Hạ trung
(3) Hạ hạ
Chín phẩm Tư hoặc nhân cho ba cõi (gồm chín địa 81 thứ) hoặc.
(Xem biểu đồ 81 món Tư hoặc đưới đây)

Dục giới
(1)Ngũ thứ tạp cư địa, có: 9 phẩm Tư hoặc

Sắc giới
(2) Sơ Thiền, ly sinh hỷ lạc địa:
(3) Nhị thiền định sanh hỷ lạc địa:
(4) Tam thiền ly hỷ lạc địa
(5) Tứ thiền xả niệm thanh tịnh địa:

Vô sắc giới
(6) Không vô biên xứ địa
(7) Thức vô biên xứ địa
(8) Vô sỡ hữu xứ địa
(9) Phi phi tưởng xứ địa

Cộng: 9 địa --> Thành: 81 phẩm Tư hoặc

II. Tóm Tắt Về Ý Nghĩa Kiến Hoặc và Tư Hoặc

Nói tóm lại, những cái mê lầm thuộc về phần phân biệt (do ý thức phân biệt mà sinh) đều thuộc về Kiến hoặc. Những cái mê lầm thuộc về phần Câu sinh (ngấm ngầm cùng với ta đồng sinh) thì thuộc về phần Tư hoặc.
Lại một nghĩa nữa, những cái mê lầm thuộc về phần mê lý, đến khi Kiến đạo là đoạn trừ đuợc, nên gọi là Kiến hoặc. Những cái mê lầm thuộc về phần mê sự, phải tu hành đến địa vị Tu đạo, mới lần đoạn trừ, thì gọi là tư hoặc. Đoạn Kiến hoặc chỉ mới là hết cái lầm trên phương diện kiến thức; đến khi đoạn Tư hoặc thế gian thì cả cái lầm trên phương diện ý thức, hành vi đều không còn nữa.
Đoạn 88 cái lầm về Kiến hoặc và 81 cái lầm về Tư hoặc thì sẽ chứng được 4 quả thánh Thanh văn của Tiểu thừa, trong đó quả vị cao nhất là quả vị A la hán (1)

KẾT LUẬN

Sỡ dĩ chúng sinh phải chịu các điều khổ não, nguyên nhân là do phiền não gây tạo ra nghiệp Tập đế. Tập đế gồm có nhiều thứ phiền não; nhưng có mười thư căn bản phiền não là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
Trong 10 món này, vì căn cứ theo nhiều cái dễ phát sinh dễ trừ là năm món sau, thì gọi là ngũ lợi sử; còn 5 món trước tánh nó ngấm ngầm phát sinh và khó đoạn trừ thì gọi là Ngũ độn sử.
Đứng về phương diên Tu chứng mà xét, thì hành giả trong khi tu hành, chia 10 món phiền não trên làm hai loại, để đoạn trừ trong thời kỳ sau đây:

1. Những cái mê lầm khi thấy đạo (chân lý) mới đoạn được, thì gọi là Kiến hoặc.
2. Những cái mê lầm khi đến địa vị tu đạo mới đoạn được thì gọi là Tư hoặc.

Về Kiến hoặc, ở cõi Dục giới có 32 món mê lầm, ở cõi sắc giới có 28 và Vô sắc giới cũng có 28, cộng lại thành 88 món mê lầm. Cái lầm ở cõi dục rất thô, đến cõi sắc và Vô sắc giới thì vi tế hơn. Đoạn được 88 thứ Kiến hoặc trong ba cõi, thì chứng đặng quả thánh thứ nhất trong bốn quả của Tiểu thừa là Tu đà hoàn (Tàu dịch là Dự lưu). Đến quả này, 81 phẩm Tư hoặc của ba cõi vẫn chưa đoạn trừ.
Về Tư hoặc thì cõi Dục giới có 4: tham, sân, si, mạn. Cõi sắc giới và vô sắc, mỗi cõi có ba (vì trừ sân). Cộng chung lại là mười món Tư hoặc. Vì chúng có thô vi tế không đồng nên phân ra có thượng, trung, hạ phẩm. Mỗi phẩm lại phân ra ba phẩm nữa là: Thượng, trung, hạ cộng thành 9 phẩm.
Trong ba cõi có chia ra làm 9 địa mỗi địa có 9 phẩm Tư hoặc từ thô đến tế, cộng chung 9 địa thành ra 81 Tư hoặc. (1)
Chín phẩm Tư hoặc ở cõi Dục thì rất thô, còn hai cõi trên lần vi tế. Các thứ phiền não Tư hoặc vi tế dây, chiêu cảm với những khổ quả sinh tử, luân hồi trong cõi, chứng quả A La Hán.

Phần Phụ Chú

Tứ Đế là thuộc về giáo lý tiểu thừa. Trong khi nghiên cứu và trung thành với giáo lý này, chúng tôi chỉ kể có hai thứ hoặc là Kiến hoặc và Tư hoặc. Nhưng theo giáo lý Đại thừa thì ngoài hai hoặc trên, có hai thứ hoặc khác nữa là Trần sa hoặc và Vô minh hoặc. Nếu chứng quả vị Đại Thừa Bồ Tát hay Phật, thì phải đoạn trừ hai hoặc sau này
Để có một ý niệm tổng quát về các thứ hoặc, chúng tôi xin được phụ chú dưới đây hai loại hoặc ấy:

1. Trần sa hoặc:

Trần sa hoặc là cái mê lầm như cát bụi. Cái mê lầm không phải của mình, vì khi chứng đươc quả A la Hán thì cái mê lầm về phần Kiến Hoặc và Tư hoặc nơi cá nhân mình đã hết. Cái chân trí ở nơi tâm mình đã sáng suốt rồi. Nhưng so với mình, còn thấy cái mê lầm của chúng sinh nhiều như cát bụi, nên sinh tâm chán ngán, thối chí độ sinh, cứ trầm không thu tịch, thủ cảnh thiên không Niết Bàn của Tiểu Thừa, không chịu ra hóa đạo độ sanh (vì còn pháp chấp, mê lầm thấy thật có pháp mình tu, Niết Bàn mình chứng).

2. Vô minh hoặc:

Vô minh là mê lầm, không rõ được bản chất chân tâm. Thứ mê lầm này là gốc của các thứ mê làm khác, nên gọi là bản vô minh. Nó rất vi tế, phá trừ trần sa hoặc rồi mới phá trừ được Vô minh hoặc.
Cứ theo lối tu chứng của Đại Thừa mà luận, thì phải trải qua 51 địa vị, mới phá hết được các vô minh hoặc. Khi mãn địa vị Thập tín rồi bắt đầu lên thập trụ (10 vị) phá một phần vô minh thì được một phần đức Pháp tính (3 đức: Pháp thân, Báo thân, Giải thoát), chứng lên vị sơ trụ. Như thế cứ phá thêm một phần vô minh là chứng lên một địa vị; cho đến phá được 10 phần thì phá được Thập trụ. Bước qua Thập hạnh (10 vị), Thập hồi hướng (10 vị) và thập địa (10 vị ) cũng thế, nghĩa là phá một phần vô minh thì chứng lên một địa vị. Cho đến địa vị thứ 51; là Đẳng giác, dùng trí Kim cương phá sạch hết tướng vô minh rất tinh tế rồi, thì chứng được địa vị thứ 52 là quả Diệu giác (Phật). Lúc bấy giờ vô minh diệt hết trí giác thế gian toàn minh, cũng như trăng rằm Trung thu, bao nhiêu mây mờ vẹt hết, tỏa ánh sáng khắp mười phương.

Chúng ta nên lưu ý: Kiến hoặc, Tư hoặc là chiêu cảm phần đoạn sinh tử trong ba cõi. Đoạn Kiến hoặc, Tư hoặc thì không thọ phần sinh tử ra ngoài tam giới, được thiên lý chân, chứng nhị thừa: Thanh văn, Duyên giác. Đoạn Trần sa hoặc chứng quyền thừa Bồ Tát. Đoạn sạch vô minh chứng quả Phật vô thuợng. Xét như thế thì từ khi phát tâm tu hành cho đến thành Phật, phải trải qua một công trình lớn lao và một thời gian lâu xa mới được.

Sở dĩ gọi là phẩm mà không gọi là món, loại hay thứ là vì trong mỗi mê lầm ấy, không khác chất, chỉ khác phẩm lượng mà thôi, nghĩa là nó đậm hay nhạt, mạnh hay yếu mà thôi.


ĐẠO ĐẾ (Nirodha Gamadukkha)

TỨ NIỆM XỨ

A. Mở Đề

Tổng Quát Về Đạo Đế
Như trong bài trước đã nói, muốn thực chứng, thể nhập Niết Bàn thì phải tu theo phương pháp mà Phật đã dạy. Phương pháp chân chính, có hiệu quả chắc thật để thành Phật đó là Đạo đế. Phần này là phần quan trọng nhất trong bài Tứ diệu đế, vì nếu có rõ biết đời là đau khổ, nguyên nhân của nó là gì, và nếu có thiết tha cầu giải thoát khỏi cảnh khổ để đến một cõi an vui tốt đẹp nhất là Niết Bàn, nhưng nếu không có phương pháp hiệu nghiệm để thực hiện ý muốn ấy, thì biết cho nhiều cũng vô ích và càng thêm đau khổ. Do đó, Đạo đế là phần quan trọng và được Phật dạy một cách rõ ràng chu đáo.
Đạo đế có 37 phẩm, chia ra làm 7 loại:
1 Bốn món Niệm xứ (Tứ Niệm Xứ)
2 Bốn món Chánh cần (Tứ Chánh cần)
3 Bốn món Như ý túc (Tứ Như ý túc)
4 Năm Căn (Ngũ Căn)
5 Năm Lực (Ngũ Lực)
6 Bảy phần Bồ đề (Thất Bồ đề phần)
7 Tám phần Chính đạo (Bát Chính đạo phần).

B. Chánh Đề: Tứ Niệm Xứ

Định Nghĩa Về Tứ Niệm Xứ
TỨ là bốn; NIỆM là hằng nhớ nghĩ; XỨ là nơi chốn. Tứ Niệm Xứ là bốn chữ, bốn điều mà kẻ tu hành thường để tâm nhớ nghĩ đến. Đó là:
Quán Thân bất tịnh
Quán Tâm vô thường
Quán Pháp vô ngã
Quán thọ thị khổ

1. Quán thân bất tịnh:

Quán nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát cho thấu đáo. Bất tịnh nghĩa là không sạch. Quán thân bất tịnh nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát một cách tường tận về sự dơ bẩn của cái thân ta.
Nói cái thân là bất tịnh, chắc có nhiều người ngạc nhiên, phản đối cho là Phật đã nói quá đáng.
Trong đời còn cái gì quý báu hơn cái thân đâu? Người ta bảo bọc nó, nâng niu nó, cung phụng nó đủ điều. Người ta cung cấp cho nó đủ thức ngon vật lạ; người ta đùm bọc nó trong hàng lụa là, gấm vóc; người ta che chở nó trong nhà cao cửa lớn; người ta dám làm tất cả những việc bất nhân tổn đức để cho nó được sung sướng. Cái thân được quí chuộng, tôn trọng như thế, mà bảo rằng nó là dơ bẩn, gớm ghiếc thì ai mà nghe được.
Song bình tĩnh mà xét lại, cái thân này thật không có gì là trong sạch cả. Ngay từ khi mới đầu thai, cái thân này đã bất tịnh rồi, vì nó là do hai thứ nhơ nhớp là phụ tinh và mẫu huyết mà cấu thành. Ở trạng thái đầu tiên, nó chẳng khác gì một con hộ trùng, rồi dần dần lớn bằng hạt đậu, rồi bằng miếng thịt, nằm lẫn trong máu me nhơ nhớp.
Về sau, nhờ sự duy trì của nghiệp thức nó tượng thành hình người, chìm ngập trong một cái bọc đầy máu huyết. Cái thân nằm co rút trong đó cho đến chín tháng mười ngày, rồi chui theo một con đường rất bẩn thỉu, để ra khỏi bụng mẹ. Từ đó, nhờ những thực phẩm phần nhiều cũng không được tinh khiết gì như thịt cá, mà cái thân lớn dần. Nếu xét về sự tiêu hóa của thức ăn thì chúng ta cũng không khỏi lấy làm khó chịu: những món ngon vật lạ, mới nuốt vào thì cũng ưa thích, nhưng khi đã nuốt vào khỏi cổ cách một đêm sẽ biến thành đồ bất tịnh khi bài tiết ra thì không ai chịu nỗi, ngay đến chủ nhân của nó. Chưa nói đâu xa, cái thân này vài ngày chưa tắm đã thấy nhơ bẩn; cái miệng sáng dậy chưa súc, đã nghe có mùi hôi rồi. Trong thân, chín lỗ thường trôi chảy ra những đồ bất tịnh như: đại, tiểu, ghèn, rái, mũi, dãi... lắm chuyện nhơ nhớp. Đó là mới nói bề ngoài, bề trong thân người lại dơ hơn thập phần, nào bọc chứa, ruột non, ruột già, tim, gan, phèo, phổi, bong bóng... . Nhất là bộ tiêu hóa là chỗ chứa đựng đủ thứ vật thực hôi thối, chẳng khác gì một thùng phân.

Đó là mới nói khi lành mạnh, còn khi đau ốm lại càng kinh khiếp hơn: nào đàm, nào mũi, thối tha tanh hôi không sao chịu được, nhất là gặp những bệnh nan y như lao, cùi, giang mai, hoa liễu, thì thật là không ai dám lại gần. Đó là khi trẻ, còn khi già đầu bạc răng long, lưng còm, da nhăn, má hóp, đi đứng yếu ớt, không còn đủ sức để sửa soạn bề ngoài thì lại càng nhớp nhúa hơn nữa.

Đến khi chết, nghiệp thức không còn duy trì để thay lớp mới đổi lớp cũ, thì da thịt rã rời, đụng đâu rệu đấy. Nếu không đem chôn cất cho kín, thì ruồi bọ, troi giòi rúc rỉa, mùi hôi thối xông lên không ai chịu nỗi.

Vậy cái thân này quả thật là bất tịnh, không còn chối cãi vào đâu được. Nhưng người đời vì không xét kỹ nên mới yêu quí nó, cưng dưỡng nó đủ điều: hễ thân ưa thì mình ưa, thân ghét thì mình ghét; làm nô lệ cho thân, gây nghiệp, chịu quả báo đời đời kiếp kiếp không dứt. Cũng vì thân, mà tham, sân, si nỗi lên; cũng vì thân mà sát, đạo, dâm sinh ra; cũng vì thân mà vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu hoành hành. Trăm ngàn vạn điều lỗi lầm, cũng vì quá cưng dưỡng cái thân này mà tạo thành ra.

Vậy hành giả cần phải quan sát rõ cái thân là bất tịnh, mới tránh được những nghiệp tham ái. Nhưng quán sát như thế nào?
Xưa ở Ấn độ, khi một hành giả muốn quán sát thân bất tịnh, thì tìm đến khu rừng người ta bỏ xác người chết, gọi là thi lâm (1) để quán theo lối" Cửu tưởng quán" của Phật dạy: Phép quán này gồm các giai đoạn như sau:

a) Trướng tưởng: Ngày đầu ở gần bên cạnh thây chết, quán thây sình trướng to lên.
b) Thanh ứ tưởng: Ngày thứ hai quán thây bị gió nắng xanh xám.
c) Hoại tưởng: Ngày thứ ba quán thây bị rã nát.
d) Huyết đồ tưởng: Ngày thứ tư, quán thây máu thịt rơi rớt lai láng.
đ) Nồng lãnh tưởng: Ngày thứ năm, quán thây chết da thịt rục rã.
e) Hám tưởng: Ngày thứ sáu, quán chim thú đến mổ ăn thây.
ê) Tán tưởng: Ngày thứ bảy, quán sau khi chim thú ăn, gân xương, đầu mình, tay chân chia tan nát vỡ.
g) Cốt tưởng: Ngày thứ tám, quán huyết thịt đã hết, chỉ còn bộ xương trắng bừa bãi.
h) Thiêu tưởng: Ngày thứ chín, quán bộ xương trắng đốt cháy thành tro đất.

Chín phép quán tưởng này, để đối trị lòng tham sắc dục.
Một khi phép quán này đã thuần thục, thì kẻ tu hành thấy một cách tường tận như ở trước mắt, thân mình và tất cả mọi người điều bất tịnh, không có gì đáng quý chuộng, ham muốn. Do đó, có thể đối trị được bệnh tham sắc dục là một bệnh rất trầm trọng và nguy hiểm của con người trên bước đường tu hành. Nhưng quán thân bất tịnh là để trừ lòng tham sắc dục, chứ không phải để ghê tởm thân mình, đến nỗi hủy bỏ mạng sống, như sáu mươi vị Tỳ Kheo trong thời Phật tại thế, sau khi quán thân bất tịnh thuần thục rồi, thấy ghê tởm mình và người chung quanh, đến nỗi thuê người giết đi. Đấy là một điều mà đức Phật nghiêm cấm.

Ngày nay chúng ta không có được huệ nhãn như Phật để trỏ vào bọn nữ sắc mà Thiên ma sai đến để quấy rối, và bảo rằng: "Những cái túi da đựng toàn những đồ dơ bẩn kia, hãy đi đi, ta không dùng! ". Nhưng nhờ khoa học đã phát minh ra X-quang, chúng ta có thể thấy được rõ ràng những bộ xương sườn, xương sống, đầu lâu, tim, gan, phèo, phổi của một tuyệt thế giai nhân, qua ống rọi kiếng. Và chỉ chừng ấy củng đủ cho chúng ta quan niệm rằng: Cái đẹp chỉ là bộ mã bên ngoài, là lớp da bọc, chứ bên trong thì bộ xương nào cũng giống nhau cả, và chiếu qua quang tuyến X, thì cái đầu lâu của một người đẹp, cũng chẳng khác gì cái đầu lâu trắng phêu đang nằm lăn lóc ngoài bãi tha ma.
Hỡi Phật tử, nếu ai đã phát tâm chân thật tu hành, thì hãy cố gắng thi hành pháp "quán thân bất tịnh "; nếu chưa đủ phương tiện để thực hành phép quán ấy, thì cũng đừng bao giờ nên quên rằng: thân người không trong sạch, không có gì đáng say mê đắm đuối để đến nỗi phải gây ra bao nhiêu tai hại, tội lỗi không lường cho mình và người chung quanh.

2. Quán tâm vô thường:

Tâm vô thường, nghĩa là cái tướng của tự tâm chúng ta luôn luôn đổi thay, không thường. Cái tướng của tự tâm là gì? Chính là cái phân biệt, hiểu biết hằng ngày, cái thức.
Người không học Phật thì không nhận biết thể chân như rộng lớn cùng khắp cả vũ trụ, mà nhận lầm cái phân biệt, cái thức là Ta, và cho rằng cái Ta ấy là thường còn, không thay đổi, như những ngoại đạo chấp có thần ngã hay có linh hồn thường trụ.
Thần ngã là lối chấp của "Số luận sư". Họ cho rằng mỗi chúng ta có thần ngã tự tại, trong sạch, nhưng vì phân biệt, nên nhận thấy có vũ trụ vạn hữu, rồi sanh lòng ưa muốn, bỏ mất thần ngã tự tại trong sạch ấy. Vậy muốn cho thần ngã được giải thoát, thì phải dứt cả cái món phân biệt. Dứt cho hết sạch, không thấy, không nghe, không biết nữa, thì thần ngã mới hiển lộ ra, và khi ấy mới nhận biết rằng vì mình mới sanh ra có vũ trụ. Họ cho như thế là rốt ráo, mà không biết thần ngã ấy cũng chỉ là vọng thức mà thôi.
Còn linh hồn là lối chấp của đa số thần giáo. Họ cho rằng duy có xác thịt chết, chứ cái linh hồn trong trường hợp nào cũng vẫn nhận biết mình, biết người, cũng thấy nghe như xác thịt, không bao giờ chết...

Nhưng sự thật không phải thế: cái tâm của chúng ta không thường chút nào hết. Nó thay đổi luôn, khi nhỏ khác, khi lớn khác, khi có học khác, khi chưa học khác, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi chuyên niệm về một chỗ, khi tản mát ra các trần duyên... thật không có gì là thường hết. Nó là tâm pháp vô thường, nó thay đổi đủ cách, tùy chỗ tu tập của mình mà tiến hóa. Nếu tâm là thường thì không có sinh tử. Nếu tâm là thường, thì dù có tu hành cũng không tăng trưởng, thì người dốt cứ dốt, người vụng cứ vụng, người dữ cứ dữ. Nếu tâm là thường thì không có nhân quả, tu cũng chừng ấy, mà lành cũng chừng ấy, cho đến người học, người không học cũng như nhau, chẳng có gì sai khác, thay đổi cả.

Vì muốn đối trị cái vọng chấp kia, nên Phật mới dạy phép quán "Tâm vô thường", để cho chúng sinh nhận biết rằng cái tâm không phải như một vật bất biến vô dụng, không phải là cái "Ta" chắc thật muôn đời, rồi nương vào đó mà sinh ra không biết bao nhiêu là vọng tưởng phiền não. Những tính tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v... đều do ngã chấp mà sinh ra cả.
Lại cũng vì chấp tâm là thường nên chi chi cũng là do bản tính của mình, không thể sửa đổi được, như bảo:" Tính tôi hay nóng giận, hay tham lam"; "Tính tôi hay đam mê đàn ca xướng hát "; "Tính tôi thích cờ bạc rượu chè".
Họ cho đó là một lối bào chữa, vì không phải lỗi tại họ, mà tại cái bản ngã chắc thật của họ như thế rồi, không làm sao sửa đổi được. Do đó, họ không thể nâng cao tâm trí theo con đường chân chánh được.
Vậy, Phật tử chúng ta cần phải quán sát cái "tâm vô thường" đổi cái tâm mê lầm ra cái tâm giác ngộ, phải trừ ngã chấp để ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.

3. Quán pháp vô ngã:
Pháp, theo tiếng Phạn là Dharma. Tiếng Hán dịch là quỹ trì, nghĩa là nắm giữ phạm vi của mình, như vuông, dài, tròn méo... để mỗi khi người ta trông đến, liền nhận biết cái này là gi, và khỏi lẫn lộn với vật khác. Nghĩa chữ Pháp rộng lớn mênh mông, chỉ cho tất cả mọi sự thật trên vũ trụ, chẳng những các vật hữu hình, cho đến các vật vô hình tưởng tượng như lông rùa, sừng thỏ, cũng gọi là Pháp cả.

Còn Ngã có nghĩa là chủ lễ, là riêng có tự tướng của mình. Người ta thường chấp các pháp đều có tự tướng của người, vật có tự tướng của vật, thế giới có tự tướng của quốc gia, xã hội có tự tướng của xã hội.
Đã chấp có tự tướng của mình, tất nhiên thấy có tự tướng của người khác. Đối với tự tướng của một vật, hễ về mình thì không về người khác, còn về người khác thì không về mình. Do đó, sinh ra tâm niệm nhân, ngã, bỉ thử, quí trọng, khinh rẻ, tranh chấp, đấu tranh trong xã hội.
Song, xét ra cho kỹ thì các pháp nào phải thật có "tự tướng"? Nói về lục trần thì sắc đối với không, động đối với tịnh, sanh đối với diệt... nào có cái gì riêng một mình thật có tự tướng đâu ? Trần đối với căn mà có hình tướng, căn đối với trần mà có tác dụng, ngoài trần không có căn, ngoài căn không có trần. Như thế, thì biết tất cả các pháp, dù căn, dù trần cũng đều không có tự tướng.

Trong kinh Lăng Nghiêm có câu: "Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sinh, nhân duyên biệt ly, hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: các nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sinh, các nhân duyên chia rẽ, thì giả dối có hoại diệt. Vậy đủ biết: tất cả các pháp làm nhân duyên cho nhau, in tuồng là có, chứ không có tự tướng. Không có tự tướng, tức là "vô ngã".

Ví như trong giấc chiêm bao, vì nhân duyên chiêm bao hiện ra thấy có cảnh này cảnh khác. Đương khi ấy, người chiêm bao, cũng lầm tưởng là thật có, đến khi thức dậy, mới nhận ra đó là cảnh giả dối trong chiêm bao. Chúng ta cũng thế, vì mê lầm nên không nhận ra được sự giả dối của sự vật. Trong khi tâm duyên với cảnh, cảnh duyên với tâm, vạn pháp hiện ra giữa vũ trụ, chúng ta tưởng là thật có. Thật ra, các pháp đều không tự tướng, đều là "vô ngã".

Chúng ta không biết lý "pháp vô ngã", cho nên ngoài bị hoàn cảnh kích thích, trong bị phiền não lay động, quay cuồng theo sự múa rối của giả cảnh. Vì thế, tuy muốn tự tại mà chưa lúc nào chúng ta được tự tại, muốn an vui mà chưa lúc nào được an vui, muốn thường trụ mà vẫn phải trôi lăn trong vòng sinh tử.
Nếu chúng ta chứng được pháp vô ngã rồi, thì một thể vô ngã trùm khắp cả pháp giới. Cảnh cũng vô ngã, tâm thức cũng vô ngã, thì còn cái chi mà ghét, mà thương, mà chịu sinh tử luân hồi nữa.
Pháp vô ngã là lối tu giải thoát rốt ráo. Nếu ai ai cũng biết tu hạnh vô ngã một đôi phần thì đâu có sự ích kỷ hại nhân, và cảnh tượng thế giới hòa bình đâu phải là điều không thể thực hiện được?

4. Quán thọ thị khổ:

Thọ là chịu, nhận lãnh. Thọ thị khổ nghĩa là có nhận lãnh là có khổ.
Nhận lãnh đây là nhận lãnh cái gì?

Nhận lãnh ở đây có nghĩa vô cùng rộng rãi, nghĩa là nhận lãnh tất cả những gì mà người đời có thể nhận được trong cuộc sống. Trước tiên nhận lãnh cái thân này là cái thân riêng của ta, cái tâm này là cái tâm riêng của ta. Sự thọ nhận này là nguồn gốc đầu tiên để thọ nhận những cái khác nhau về sau: để giữ gìn thân mạng, ta thọ cái ăn, thọ cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc; thọ những cái gì làm cho ta khoái trá, thích thú, vui vẻ. Và lòng tham càng nhiều, thì thọ lại càng lắm. Từ cái thọ cần thiết cho cuộc sống, ta tiến dần đến những cái thọ ít cần thiết, rồi đến những cái thọ xa xỉ, thừa thãi vô ích, nhưng vì thói quen góp nhặt, tham lam, ta không thể bỏ qua được. Nói tóm lại, mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là một chuỗi thọ nhận liên tiếp.
Và chính thọ nhận ấy là mầm chính của đau khổ.

Trước tiên ta thọ nhận cuộc đời; nhưng cuộc đời là gì nếu không phải là một trường đau khổ, như chúng ta đã thấy trong phần khổ đế? Nào sinh, nào lão, nào bệnh, nào tử, nào yêu mà phải xa lìa, nào oán mà phải gặp gỡ v.v... thật là toàn những khổ nhưng đó là mới nói những nỗi khổ căn bản. Ngoài ra, còn bao nhiêu nỗi khổ khác, cũng do thọ mà ra như: nhận được một cái gì cho là quý thì nơm nớp sợ mất, lo tìm kiếm cách này, chước nọ để giữ gìn nó. Nhưng cuộc đời đã là vô thường thì còn cái gì là tồn tại mãi? Ngay cuộc đời của ta mà cũng không giữ mãi được thì còn cái gì được nữa? Do đó, sanh buồn thương, tiếc nuối, mất ăn bỏ ngủ. Và người càng thọ nhiều chừng nào lại càng khổ chừng ấy. Kẻ giàu thì sợ mất của, kẻ có địa vị thì sợ mất địa vị, kẻ có người yêu đẹp thì sợ mất người yêu, kẻ có danh vọng lớn thì sợ mất danh vọng...

Nhưng có phải muốn thọ lĩnh thì bao giờ cũng được thọ lĩnh theo ý muốn đâu? Thọ mà may gặp thuận cảnh thì được thỏa dạ trong lần đầu tiên, nhưng thọ mà gặp nghịch cảnh thì càng thêm đau khổ. Ở đời, thuận cảnh thì ít, mà nghịch cảnh thì quá nhiều. Thường thường, ta ngửa tay mong thọ nhận một cái này, mà một cái trái ngược khác lại rơi vào tay ta! Do đó, sinh giận dữ, thất vọng, khổ đau.

Đó là nghĩa của "Thọ thì khổ". Phép quán này mục đích đối trị bệnh tham là một bệnh trầm trọng nhất trong các bệnh phiền não, đã ăn sâu gốc rễ trong lòng chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp.
Vậy Phật tử chúng ta, muốn diệt trừ tính tham, phải quán "thọ thị khổ". Ta phải luôn luôn nhớ lời Phật dạy: hễ có lĩnh thọ thì có khổ; càng lĩnh thọ nhiều thì càng khổ lắm. Càng ít lĩnh thọ, thì khổ đau càng ít. Tất nhiên chúng ta không thể xả bỏ tất cả trong một lúc; nhưng chúng ta nên tuần tự xả những gì dễ xả, có thể xả được, rồi đi dần đến những cái khó xả. Càng xả chứng nào lại càng nhẹ gánh đau thương. Người đời thường cho rằng càng gánh nhiều vàng bạc châu báu, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, vui thú, lại càng sướng; nhưng đã gọi là gánh gì thì gánh cũng là gánh, và càng gánh nặng thì vai càng đau, chân càng mỏi, đi càng chậm; tóm lại khổ càng nhiều. Trái lại, nếu chúng ta không lãnh thọ, như sắc đẹp, mùi ngon, vị lạ v.v... thì thân tâm ta không bị lay động. Đối với cảnh ta thấy không có gì đáng ưa, cũng không có gì đáng khổ sở. Như thế mới được an nhiên tự tại thoát vòng khổ đau.

C. Kết Luận

"Tứ niệm xứ" là giáo lý căn bản trong phần Đạo đế. Có hiểu được giáo lý này một cách tường tận thì sự tu hành mới vững chắc được. Nó đánh đổ được một cách rốt ráo bốn thánh kiến sai lầm lớn lao của con người là:
Tưởng thân mình là quý báu tốt đẹp trong sạch.
Tưởng tâm mình là vĩnh viễn thường còn, như một linh hồn bất diệt.
Tưởng mọi sự vật trên đời này chắc thật trường cữu.
Tưởng thu nhận gom góp được nhiều chừng nào thì sung sướng chừng ấy.

Nhưng sự thật lại rất trái ngược:
1) Thân thì bất tịnh, như một cái đãy đựng đồ dơ, không đáng nâng niu chiều chuộng.
2) Tâm thì vô thường, luôn luôn biến đổi theo với hoàn cảnh bên ngoài, không có gì là trường tồn, bất diệt.
3) Pháp thì vô ngã, không có tự tính nhất định, không chắc thật mà đều là như huyễn như hóa.
4) Thọ thì khổ, chẳng hạn, ta thọ lĩnh cái thân, thì cái thân là dơ bẩn; ta thọ lĩnh cái tâm, thì tâm là vô thường là luôn luôn biến đổi; ta thọ lĩnh sự vật ở chung quanh, thì sự vật đều là giả trá, như khói, như mây. Do đó, càng thọ lĩnh nhiều chừng nào, lại càng đau khổ nhiều chừng ấy.

Vậy chúng ta phải luôn luôn quán sát, ghi nhớ bốn sự thật trên đây. Càng chứng được bốn sự thật ấy chừng nào thì sự chấp ngã, chấp pháp, tham, sân, si lại càng bớt dần chừng ấy.
Phật tử càng nắm vững bốn sự thật ấy chừng nào, thì sự tu hành theo các môn trong Đạo đế sau này, như bốn món chánh cần, bốn món Như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực v.v... mới dũng mãnh và chóng có kết quả chừng ấy.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6825
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TÔI TU TỊNH ĐỘ

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 5 31, 2017 10:06 am

TỨ CHÁNH CẦN

A. Mở Đề

Nhờ Tứ Niệm Xứ, chúng ta đã thấy rõ sự thật của đời. Đó là: thân bất tịnh, tâm vô thường, pháp vô ngã và thọ thị khổ.
Thấy rõ được sự thật đau khổ ấy rồi, chúng ta phải gia công, cố sức làm thế nào để thoát ra ngoài móng vuốt nguy hiểm của chúng.
Muốn thế, sự siêng năng, tinh tấn là điều kiện trên hết trong công cuộc giải thoát của chúng ta.
Ngoài đời cũng như trong đạo, mỗi người muốn đạt được kết quả tốt đẹp trong đời mình thì phải luôn luôn gia công, gắng sức. Nhất là người tu hành, mà cái quả là xuất trần, cái cứu kính là an vui vĩnh viễn, thì sự gia công, sức cố gắng lại càng phải bền bỉ, dẻo dai vượt bậc mới thành tựu được.

Hơn ai cả, đức Phật hiểu rõ sự quan trọng của tự tướng, nên đã dạy bảo chúng ta trước khi đi sâu vào Đạo, phải chuẩn bị những phương tiện cần thiết, phải tỏ rõ một thái độ quyết tâm: Quyết tâm xa lánh điều dữ và thực hiện những điều lành. Đó là ý nghĩa của "Tứ Chánh Cần" mà chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây.

B. Chánh Đề

I. Định Nghĩa Tứ Chánh Cần

Tứ Chánh Cần là bốn phép siêng năng Tinh tấn hợp với chánh đạo. Bốn phép Tinh tấn ấy là:
1. Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh.
2. Tinh tấn dứt trừ những điều ác phát sinh.
3. Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh.
4. Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.

II. Quan Niệm Về Điều Dữ Và Điều Lành Trong Đạo Phật

Trước khi làm điều lành tránh điều dữ, chúng ta phải biết rõ thế nào là lành, thế nào là dữ. Những điều dữ là những điều gì có thể làm tổn hại cho mình và người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chúng bao giờ cũng nghịch với từ bi, bình đẳng, trí tuệ và chân lý.

Trái lại, những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình và người, trong hiện tại cũng như tương lai. Chúng bao giờ cũng hợp với từ bi, bình đẳng, trí tuệ và chân lý.

Với hai định nghĩa này, không phải đợi đến khi phát lộ ra bằng hành động, mới gọi là lành hay dữ. Ngay trong ý nghĩ, và quan trọng nhất là ý nghĩ, cũng đã phân biệt được lành hay dữ rồi. Theo đạo Phật, ba nơi phát sinh của lành hay dữ là: thân, khẩu, ý. Như thế, một cử chỉ, một lời nói hay một ý nghĩ, đều có thể là lành hay dữ. Do đó, đức Phật dạy chúng ta phải ngăn ngừa những điều dữ, hay thực hiện những điều lành, ngay khi chúng còn ở trong ý thức.

Thập thiện(zh. 十善, sa.daśakuśalakarmāṇi) là mười việc thiện được thực hiện qua thân (3), khẩu (4) và ý (3).
Thập thiện bao gồm:
1. Bất sát sinh (zh. 不殺生, sa.pāṇāṭipātā paṭivirati) không sát sinh
2. Bất thâu đạo (zh. 不偷盜, sa.adattādānādvirati), tức là không trộm cắp, hay nói chính xác hơn: "Không nhận đồ vật người không cho";
3. Bất tà dâm (zh. 不邪婬, sa.kāmamithyācārādvirati) không tà dâm
4. Bất vọng ngữ (zh. 不妄語, sa.mṛṣāvādātvirati), nghĩa là không dối gạt người, không nói lời không chân thật. phải nói trên sự thật.
5. Bất lưỡng thiệt (zh. 不兩舌, sa.paisunyātvirati), không nói lưỡi đôi chiều, trước nói như vậy, sau lưng nói khác
6. Bất ác khẩu (zh. 不惡口, sa.pāruṣyātprativirati), không nói lời hung dữ, văng tục, chửi thề, nói lời độc địa.
7. Bất ỷ ngữ (zh. 不綺語, sa.saṃbinnapralāpātprativirati), không dùng lời phù phiếm, nói những chuyện không mang lại lợi ích.
8. Bất tham dục (zh. 不貪欲, sa.abhidhyāyāḥprativirati); Ý không tham (tham ngũ dục lạc, sắc, danh, lợi, ăn, ngủ)
9. Bất thận khuể (zh. 不慎恚, sa.vyāpādātprativirati), Ý không sân (sân giận, phẫn nộ, buồn bực, khó chịu, chán nản)
10. Bất tà kiến (zh. 不邪見, sa.mithyādṛṣṭi-prativirati), Ý không si mê (không hiểu biết chân thật- hiểu biết lầm lạc, không tỉnh táo sáng suốt- nghiện ngập, mê ngủ)

III. Nội Dung Của Tứ Chánh Cần

1. Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh:

Tâm mình chưa mộng tưởng điều ác thì mình phải ráng giữ gìn, đừng cho nó phát khởi lên, cũng như sợi dây buộc mũi con trâu, kìm nó, không cho ăn lúa.

Sau đây là một ít thí dụ cụ thể có thể xảy ra hằng ngày trong đời chúng ta:

Khi chúng ta muốn tổ chức một cuộc đi săn bắn, để lấy thịt rừng cụng ly đánh chén với bè bạn, nhưng chúng ta lại nghĩ: "Ta đã là đệ tử Phật, đã thọ tam quy, trì Ngũ Giới rồi, không lẽ dám quên lời hứa nguyện, sát hại chúng sinh và uống rượu!" Thế là chúng ta không thi hành cuộc săn bắn nữa.

Khi phát khởi tâm gian lận, muốn lập mưu kế lấy của người, chúng ta liền xét lại rằng: "Của mình mất mình biết buồn rầu, thì của người mất người đâu có vui! Vả lại, mình đã nguyện trọn đời không tham một vật nhỏ của ai, lẽ nào mình dám quên lời thệ nguyện?" Sau khi nghĩ thế rồi, chúng ta không thi hành mưu kế đen tối trên nữa.

Khi móng tâm hoa nguyệt, chúng ta lại nghĩ rằng: "Mình đã nguyện trọn đời không tà dâm, thì phải trì chí giừ gìn tiết hạnh". Và do ý nghĩa ấy, chúng ta ngăn chặn được lòng hoa nguyệt.

Khi muốn nói dối để cho được việc riêng của mình, chúng ta liền nghĩ rằng: "Mình đã nguyện trọn đời nói lời ngay thật, thì phải cố gắng giừ cho trọn lời thệ nguyện". Như thế, chúng ta khỏi phạm tội vọng ngữ.
Nói tóm lại, mỗi khi tâm chúng ta khởi lên một ý nghĩ sai trái, muốn thực hiện một điều ác gì, chúng ta phải tìm những lý do chính đáng, tưởng nghĩa đến hậu quả tai hại của nó, để dập tắt ngay những ý nghĩ bất chính, và ngăn ngừa không để cho nó phát sinh trong hành động.

Người tu hành sợ các giặc phiền não, si mê len lỏi vào tâm mình cướp mất của báu công đức, nên luôn luôn cần thận giữ gìn, như người nhà giàu giữ của: ngăn tường đóng ngõ, bỏ tủ, khóa chặt không để cho kẻ gian vào nhà trộm mất.

Sự ngăn chặn, giữ gìn không cho điều ác phát khởi này, không phải hạn cuộc trong một thời gian nhất định nào, mà trái lại, phải tiếp tục luôn luôn trong từng sát na, từng giây phút, từng ngày tháng, từ năm này sang năm khác, cho đến chừng nào tâm mình được thuần thục an nhiên, không nghĩ đến điều ác nữa mới thôi. Công cuộc ngăn chận này đòi hỏi một sự siêng năng, tinh tấn dẻo dai, bền bỉ mới có hy vọng thành tựu được như ý muốn.

2. Tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sinh:

Trong đời sống của chúng ta, nhất là khi chưa hiểu biết Phật pháp và không tu hành, chúng ta đã phạm rất nhiều tội ác. Những tội ác này làm cho tâm của ta càng ngày càng tối tăm, lu mờ, như một tấm gương bỏ lâu ngày, không ai chùi rửa, không thể soi được nữa. Nay chúng ta đã nhận thấy cái nguy hại của những điều ác, thì chúng ta phải quyết tâm dứt trừ. Điều ác không ở đâu xa, chúng phát sinh trong thân, khẩu, ý của mỗi chúng ta. Vậy, trừ tội ác tức là ngăn chặn không cho thân, khẩu, ý chúng ta tiếp tục tạo nghiệp dữ nữa. Nhưng cái đà tội lỗi, như cái đà một chiếc xe xuống dốc, càng xuống càng mau, càng mãnh liệt, cho nên muốn diệt trừ tội lỗi, chúng ta phải vận dụng nhiều nghị lực, nhiều cố gắng, phải luôn luôn siêng năng, tinh tấn để ngăn chặn cái đà tội lỗi, Phật tử chúng ta phải luôn luôn nhớ nghĩ như vậy:
- Sát sinh là điều ác đã gây tội lỗi cho mình phải mắc nợ máu thịt và mạng sống, lại làm hại cho người lẫn vật.
- Trộm cướp làm khổ cho người bị nghèo đói, rách rưới, buồn rầu, đau khổ không thể kể xiết.
- Tà dâm là điều không hợp lễ tiết, thường gây sự rối ren trong gia đình và nhất là mang tiếng xấu hổ, làm mất phẩm giá con người.
- Nói dối mất lòng tin cậy.
- Nói thêu dệt làm chia lìa ân nghĩa.
- Nói lưỡi hai chiều làm tăng trưởng oán thù.
- Nói lời hung ác, trước dơ miệng mình, sau chiêu lấy họa.
- Ham muốn quá sức (tham) thấy mình thiếu mãi, càng khổ thân nhọc trí.
- Giận hờn tức tối, lửa sân nỗi lên, làm hư công hỏng việc và bao nhiêu rừng công đức đều tiêu tan.
- Si mê không rõ chính tà, mờ ám chân lý gây đủ các tội.
Xét như vậy rồi, nếu tội ác đã trót lỡ sinh, thì bất cứ tội nào chẳng hạn, chúng ta phải đoạn trừ tận gốc rễ, đừng cho nó đâm chồi nảy nhánh nữa. Trong lúc đó, chúng ta lại huân tập các hạt giống lành thay thế vào tạng thức, thì lần hồi, chúng ta sẽ trở thành người thuần thiện.

3. Tinh tấn làm phát sinh những điều lành chưa phát sinh:

Nhiều khi chúng ta có những ý định hay đẹp, muốn giúp ích người này, nâng đỡ người khác, nhưng vì tánh giải đãi, hay thiếu nghị lực, chúng ta không thực hiện được những ý định tốt đẹp ấy. Như thế, dù có thiện chí bao nhiêu, cũng không đem lại lợi ích gì cho ta và cho người chung quanh cả. Muốn tạo những thiện nghiệp, như nói lời hòa nhã với mọi người trong mọi trường hợp, bố thí cho người nghèo túng, giúp đỡ cho người có công ăn việc làm, thì chúng ta đừng chần chừ, mà trái lại, phải hăng hái, tinh tấn làm ngay. Ta phải luôn luôn thúc đẩy ta, biến những ý nghĩ tốt thành hành động. Người Pháp có câu tục ngữ rất có ý nghĩa, để châm biếm những người có dự định tốt mà không bao giờ thực hiện: "Địa ngục lót đầy những dự định tốt". (L'enfer est pavé de bonnes intentions). Thật đúng như vậy, ở đời có bao nhiêu người có nhiều thiện chí, có ý định làm điều hay điều phải, nhưng cho đến chết vẫn chưa thực hiện được, và mang theo xuống địa ngục.
Vậy chúng ta phải luôn luôn hăng hái làm phát triển những điều lành, mỗi khi chúng vừa móng khởi trong tâm, đừng chần chờ, giải đãi cho đến khi tử thần đến gõ cửa, mới ân hận là mình chưa gây tạo được cho mình những nhân lành gì cả, nên phải rơi vào địa ngục.

4. Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh:

Những điều lành khi đã phát lộ ra hành động rồi, chúng ta đừng cho thế là vừa, là đủ, không cần phải cố gắng làm thêm nữa.
Khi chúng ta làm điều trọn lành, chúng ta có lợi về hai phương diện: một mặt, ngăn chặn điều ác không cho tác hại; một mặt, làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Chẳng hạn, như khi chúng ta thọ giới bất sát sinh và thực hành theo giới ấy, là chúng ta vừa ngăn chận sự giết hại người và vật, mà vừa chuộc người và phóng sinh nữa. Các giới khác cũng vậy, nghĩa là một mặt vừa "chỉ ác", một mặt vừa "tu thiện", rồi cứ như thế mà siêng năng. Tinh tấn luôn luôn mới được. Chúng ta phải tập làm điều thiện cho thật thuần thục, cho thành thói quen, cho đến khi mỗi ý nghĩ, mỗi lời nói, mỗi việc làm điều thiện cả mới được.

C-Kết Luận

Ý Nghĩa Rộng Lớn Và Diệu Dụng Của Tứ Chánh Cần

Tứ Chánh Cần là bốn phép siêng năng chân chính trong công cuộc diệt trừ tội ác và phát triển điều thiện. Nó bao gồm tất cả những quy điều căn bản thiết yếu của mọi tôn giáo, đạo đức, luân lý.
Thật thế, nếu suốt đời, chúng ta chỉ theo cho đúng 4 phép siêng năng này là: ngăn ngừa không cho những điều ác phát sinh, diệt trừ những điều ác đã phát sinh; thúc đẩy thực hiện những điều lành vừa khởi lên ở trong tâm, tiếp tục thực hiện được. Nếu chúng ta Tinh tấn làm được như thế, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được địa vị Thánh hiền.

Có chỗ gọi là Tứ chánh đoạn, Tứ ý đoạn, Tứ ý đoan, Tứ chánh thắng hay Tứ đoạn. Chữ cần và chữ đoạn ở đây theo Pāli có nghĩa là pahāna-padhāna (tinh cần để đoạn trừ) tức là dùng bốn pháp này trong việc siêng năng tinh tấn (cần) để có thể đoạn trừ (đọan) ác cùng mọi sự giải đãi biếng nhác của chúng ta trong việc hành thiện. Về chỉ ác thì dùng mọi sự siêng năng tinh tấn của mỗi chúng ta vừa nỗ lực đọan trừ những việc ác mà chúng ta đã lỡ làm ra và dứt khóat không bao giờ tái phạm và, nỗ lực siêng năng tinh tấn trong việc ngăn ngừa những việc ác chưa phát sinh ra ngay từ trong ý nghĩ, không cho chúng phát sinh ra trong tự ý (ý hành) và ngoài hành động của thân (thân hành) của miệng (khẩu hành) làm di hại tự chúng ta và cho người khác.
Về hành thiện thì hành giả chúng ta cũng dùng siêng năng tinh tấn trong việc vừa khơi dậy những việc làm thiện chưa phát sinh ra trong ý nghĩ thì khiến cho chúng phát sinh ra trong tự ý và thể hiện ra ngoài bằng những hành động của thân mình và miệng mình, đồng thời cũng dùng siêng năng tinh tấn trong việc tiếp tục tiếp nối làm cho những việc làm thiện đã-đang phát sinh tăng trưởng ngày càng nhiều hơn trong việc lợi mình lợi người. Đó là ý nghĩa của Tứ chánh cần hay Tứ chánh đoạn trong việc chỉ ác hành thiện lợi mình lợi người trong cuộc sống.
Pháp Tứ chánh cần này được đức Đạo sư dạy cho môn đồ của mình rất nhiều cũng tùy theo trình độ căn cơ của hàng đệ tử mà Ngài chỉ dạy. Pháp này được ghi lại rải rác trong ba tạng giáo điển khởi nguyên cũng như phát triển sau này rất nhiều, như trong Trung A-hàm q . 21, q . 52; Tạp A-hàm q . 26, 30, 31; Tăng Nhất A-hàm q . 18. Ở đây chúng tôi xin ghi lại một số kinh luận tiêu biểu và thông dụng.

Căn cứ vào Pháp giới thứ đệ sơ môn (phần cuối của quyển trung) thì Tứ chánh cần được ghi lại như sau:
1. Vì muốn đoạn trừ những việc ác đã sinh, mà siêng năng tinh tấn.
2. Vì muốn khiến cho những việc ác chưa sinh không cho phát sinh, mà siêng năng tinh tấn.
3. Vì muốn khiến cho những điều thiện chưa phát sinh có thể phát sinh, mà siêng năng tinh tấn.
4. Vì muốn khiến cho những điều thiện đã phát sinh có thể làm tăng trưởng hơn lên, mà siêng năng tinh tấn.
Nhờ nỗ lực một lòng siêng năng tinh tấn hành bốn pháp này cho nên gọi là Tứ chánh cần.

Nhưng theo Kinh Trung A-hàm 21 Hán tạng KinhThuyết Xứ 86, tương đương với Trung bộ kinh bên Pāli tạng M. 148 Chachikka-suttaṃ, đức Đạo sư dạy cho người đệ tử thân cận của mình rằng:

“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn chánh đoạn, Tỳ-kheo đối với pháp ác bất thiện đã sanh, vì để đoạn trừ chúng nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ. Đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh, vì để chúng không phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ. Đối với các pháp thiện chưa sanh, vì để cho phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ. Đối với các pháp thiện đã sanh, vì để chúng kiên trụ, không bị quên lãng, không bị thoái hóa, được bồi bổ tăng tiến, được phát triển rộng rãi, được viên mãn cụ túc, nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ. A-nan, bốn chánh đoạn này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn chánh đoạn này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc,thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.”

Ở đây, đức Đạo sư cũng đứng trên lập trường nhân quả‘ Chỉ ác hành thiện’ mà Ngài dạy cho chúng đệ tử của mình phương pháp nỗ lực siêng năng tinh tấn đoạn trừ: Một mặt ác đã sinh và chưa sinh, đoạn trừ chúng bằng cách không được tái phạm cùng, nỗ lực ngăn ngừa không cho phát sinh và, mặt khác siêng năng tinh tấn đọan trừ ma tâm biếng nhác, nỗ lực phát huy nuôi dưỡng lớn thêm hơn, thành tựu những điều thiện đã phát sinh rồi và, nỗ lực khởi phát những ước muốn, tạo điều kiện để cho những điều thiện chưa phát sinh xuất hiện trong cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày của mỗi hành giả chúng ta, ngày càng hòan thiện hơn. Đây là bốn phương tiện được đức Đạo sư chỉ dạy cho tôn giả A-nan để dạy lại cho những Tỳ-kheo còn nhỏ tuổi một cách tổng quát được áp dụng hằng ngày trong hiện quán qua việc đoạn trừ ác pháp và nuôi lớn hành thiện.

Ở chỗ khác như trong kinh Tăng nhất A-hàm 18, tương đương Tứ chánh cần Pāli, D 33 Saṅgīti (R. iii.221) Cattāro Sammappadhānā. Bấy giờ,Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

«Tỳ-kheo không phóng dật tu bốn ý đoạn, tu tập nhiều tứ ý đoạn. Những gì là bốn? Ở đây, Tỳ-kheo, Pháp tệ ác chưa sanh, tìm cầu phương tiện khiến không cho sanh, tâm không rời xa, hằng muốn khiến nó không sanh.
Pháp tệ ác đã sanh, tìm cầu phương tiện khiến diệt, tâm không xa lìa, hằng muốn khiến diệt.
Pháp thiện chưa sanh, tìm cầu phương tiện khiến sanh.
Pháp thiện đã sanh, tìm cầu phương tiện khiến tăng nhiều, không để thoái thất, tu hành đầy đủ, tâm ý không quên.”

Trong kinh này tuy ngoài hình thức lời dạy có khác, nhưng về ý nghĩa thì cũng như các kinh trên nhằm lọai bỏ trước hết là ba nghiệp ác của thân khẩu ý trong tác nhân trực tiếp sinh ra quả khổ cho tương lai gần và xa theo nhân quả nhị nguyên và, mặc khác hòan thành tác nhân thiện cũng thuộc ba nghiệp thân khẩu ý trong việc hoàn thành quả vui gần hay xa trong tương lai dành cho những căn cơ còn lệ thuộc vào ba cõi sáu đường luân hồi sinh tử.

Ở đây đức Đạo sư cũng đặt nặng vấn đề cần thiết của mọi sự nỗ lực tinh cần đoạn trừ pháp ác bất thiện không cho sinh, nếu lỡ đã phát sinh rồi thì vẫn phải nỗ lực ăn năn hối lỗi không tái phạm lại nữa, và canh giữ cái tâm của hành giả trong mọi ý nghĩ mọi hành động một cách liên tục trong việc làm thanh tịnh hóa ba nghiệp ác và, hòan thành ba thiện nghiệp một cách đầy đủ cũng qua ba nghiệp thân khẩu ý.

Cũng theo Tăng nhất A-hàm 18 thì bốn chánh đọan nếu tu tập thực hành đầy đủ thì tâm ý không quên; tức là trong ý lúc nào cũng nhất quyết thực hành việc đoạn trừ ác pháp và thực hành thiện pháp. Cho nên gọi Tứ ý đọan. Ngoài ra đối với trong ba nghiệp thân khẩu ý nó rất cần mọi sự nỗ lực siêng năng đọan trừ trong việc chỉ ác hành thiện. Như vậy Tứ chánh đoạn là tối thắng, cho nên nó cũng được gọi là Tứ chánh thắng.

Và cũng như ý nghĩa của các kinh trên, nhưng tiến lên một bậc nữa, dức Đạo sư theo căn cơ của môn hạ mình dạy về bốn pháp này chi tiết hơn như trong kinh Tạp A-hàm 31 thuộc Hán tạng, tham chiếu S. 49.1-12. Gaṅgā-peyyāla, tương đương Cf. D. 33. Saṅgīti, của Pāli. thì bốn chánh đoạn này được đức Đạo sư dạy và có những cách đặt tên cho bốn hình thức này cùng mỗi ý nghĩa của chúng định nghĩa khác nhau trên hình thức khi Ngài dạy cho các đồ đệ của mình từ kinh 875-879. Trong năm kinh này về hình thức tên gọi của bốn chánh đọan này là nhất thống, nhưng trên mặt nhận thức và định nghĩa thì có khác nhau về mặt triển khai chi tiết và đi sâu hơn những kinh mà chúng tôi vửa đề cập đến.

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn Chánh đoạn. Những gì là bốn? Một là đoạn đoạn, hai là luật nghi đoạn, ba là tùy hộ đoạn, bốn là tu đoạn.”
“Thế nào là đoạn đoạn?
Tỳ-kheo, pháp ác bất thiện đã khởi thì đoạn trừ, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là đoạn đoạn.
“Thế nào là luật nghi đoạn?
Pháp ác bất thiện chưa khởi thì không cho khởi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là luật nghi đoạn.
“Thế nào là tùy hộ đoạn?
Pháp thiện chưa sanh thì khiến cho sanh khởi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là tùy hộ đoạn.
“Thế nào là tu đoạn?
Pháp thiện đã khởi, khiến tu tập thêm ích lợi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là tu đoạn.”

Ở hình thức này tuy đức Đạo sư có đặt cho bốn chánh đoạn này mỗi pháp một tên riêng và, cũng theo đó màý nghĩa của chúng được xác lập theo ý nghĩa tên gọi của chúng.

Cách thứ nhất là đoạn đọan tức là không những đọan trừ những pháp ác bất thiện chúng ta đã từng lỡ tạo ra bằng cách không ăn năn hối cải và đoạn trừ không cho thân miệng ý tái phạm nữa.

Cách thứ hai là luật nghi đọan ở đây cần siêng năng nỗ lực giữ gìn tâm ý thân miệng mình không cho phạm phải những sai lầm chưa phát sinh bằng cách giữ gìn luật nghi đối với thân miệng ý không cho phát sinh.
Cách thứ ba là tùy hộ đoạn, tức những pháp thiện thì hành giả phải nỗ lực khiến cho sinh khởi bằng vào những ước muốn, bằng những nỗ lực tinh cần tiến lên để đạt những ước muốn và nhiếp tâm giữ gìn.

Cách thứ tư là tu đoạn, là những pháp thiện đã đuợc hành giả thực hành bằng vào ý nghĩ hành động của thân của miệng, không những chỉ thực hành tu tập một lần mà còn nỗ lực tu tập, huân tập nhiều hơn nửa, để cho pháp thiện càng ngày càng tăng trưởng và hòan thiện hơn trong việc thực hiện hành thiện.

Và bài kinh cuối cùng của loạt kinh trên đức Đạo sư dạy về bốn chánh đọan, được Ngài triển khai khác hơn một chút về cách phân chia cũng như tiến sâu và chi tiết hơn, trong những ý nghĩ cử chỉ hành động của hành giả. Ngoài những chi tiết về bốn phương tiện chỉ ác hành thiện trên, ở đây chúng còn tùy thuộc vào giới của các căn thuộc luật nghi và nhờ các đối tượng cảnh bên ngòai các tướng tam-muội chân thật khi định như tướng xanh bầm, tướng sình chướng, tướng mưng mủ, tướng hoại, tướng thú ăn chưa sạch mà khéo léo nỗ lực bảo vệ hộ trì tu tập không cho thối thất. Và cuối cùng cách thứ tư được đức Đạo sư chỉ cho hành giả nào tu tập bốn niệm xứ tức là thực hành tu đoạn.

Đức Phật dạy:
“Có bốn Chánh đoạn. Những gì là bốn? Một là đoạn đoạn, hai là luật nghi đoạn, ba là tùy hộ đoạn, bốn là tu đoạn.”
“Thế nào là đoạn đoạn?
Tỳ-kheo, pháp ác bất thiện đã khởi thì đoạn trừ, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ; pháp ác bất thiện chưa khởi, thì không cho khởi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ;
Pháp thiện chưa sanh, thì khiến cho sanh khởi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ;
Pháp thiện đã sanh, thì khiến cho tu tập thêm lợi ích, khởi dục, phương tiện,tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là đoạn đoạn.

“Thế nào là luật nghi đoạn?
Tỳ-kheo khéo phòng hộ căn con mắt, giữ kín chặt, chế ngự, tiến hướng. Cũng vậy, đối với các căn tai, mũi, lưỡi, thân, ý, khéo phòng hộ, giữ kín chặt, chế ngự, tiến hướng. Đó gọi là luật nghi đoạn.

“Thế nào là tùy hộ đoạn?
Tỳ-kheo đối với mỗi một tướng tam-muội chân thật, như tướng xanh bầm, tướng sình chướng, tướng mưng mủ, tướng hoại, tướng thú ăn chưa sạch mà khéo bảo vệ hộ trì, tu tập, giữ gìn, không khiến cho sút giảm. Đó gọi là tùy hộ đoạn.
“Thế nào là tu đoạn?
Tỳ-kheo nào tu tập bốn Niệm xứ, thì đó gọi là tu đoạn.”
Riêng bản kinh này bốn cách theo tên gọi được phân bố trở lại và thêm vào những chi tiết rõ ràng hơn trong mỗi chức năng của từng tên gọi không còn như trước nữa. Chức năng của đoạn đoạn nay bao hàm cả bốn công việc cùng lúc cho việc chỉ ác hành thiện nói chung và, vai trò của luật nghi đọan dành cho việc phòng hộ, giữ kín chặt, chế ngự, tiến hướng của các căn mắt tai, mũi, lưỡi, thân và ý thuộc về giới, trong việc tiếp xúc các cảnh bên ngoài như sắc thinh, hương, vị, xúc và pháp. Trong khi cách thứ ba dành cho định để bảo hộ, giữ gìn trong việc thực hành lúc tu tập phải nhờ vào các tướng như tướng xanh bầm, tướng sình chướng, tướng mưng mủ, tướng hoại, tướng thú ăn chưa sạch, để hành giả quán mà đối trị các bệnh chấp về thanh tịnh của thân mà nhìn ra được những tuớng đó là như thật bất tịnh. Và cách còn lại là cách quán khi hành giả tu tập Tứ niệm xứ (trụ) với mục đích đề phòng và đình chỉ để đọan trừ tất cả những tạp niệm vọng tưởng khởi lên khi hành giả tu tập.

Riêng ở đây Theo Đại Tỳ-bà-sa luận 141 ghi lại thì bốn phương tiện này có khả năng chính đọan trừ tất cả mọi thứ phiền não. Cho nên gọi là Tứ chánh đoạn. Cũng theo bộ luận này thì, hai phương tiện trước liên quan đến việc đoạn trừ phiền não chướng, và hai phương tiện sau có liên quan đến việc đọan trừ sở tri chướng. Ở đây tứ chánh đọan nếu theo vị của Tứ thiện căn thì bốn phương tiện này chủ yếu đang ở trong thời gian tu tập thuộc noãn vị, tức thuộc giai đọan phàm phu vị chuẩn bị tiến vào địa vị của các bậc Thánh. Đó là những gì chúng ta tìm thấy vị trí của bốn phương tiện tu tập hành giả chúng ta, nếu hoàn thành bốn phương tiện này một cách rốt ráo thì nhân đây là hành trang để hội nhập Thánh vị.

Tóm lại, qua Tứ chánh đoạn này, hành giả nếu tu tập trong hiện quán theo chỉ ác hành thiện thì quả vị của các bậc Thánh đang nằm trong tầm tay của mọi hành giả qua việc thanh tịnh hóa ba nghiệp thân khẩu ý. Đây là một phương pháp không có gì gọi là khó khăn cho lắm nếu hành giả nỗ lực siêng năng tinh tấn trong việc kiểm sóat ý nghĩ, hành động của mình một các miên mật để đọan trừ mọi thứ tạp nhiễm của vọng và, làm chủ được ý nghĩa và hành dộng của chúng ta trong việc chỉ ác hành thiện.Vì vậy cho nên Kinh Tứ chánh đoạn này được đức Đạo sư liệt kê vào một trong bảy hành pháp của Ba mươi bảy phẩm trợ đạo cần thiết dành cho những hành giả muốn đi vào con đường Thánh đạo thật sự.
-------


TỨ NHƯ Ý TÚC

A. Mở Đề

Sau khi đã nhận rõ được chân tướng của cõi đời (Tứ niệm xứ), đã quyết tâm bỏ ác theo thiện (Tứ Chánh Cần), hành giả muốn đi xa trên đường đạo, cần phải vạch cho mình một hướng tiến nhất định và phải có một thái độ quyết tâm nhắm theo đúng hướng đã vạch mà đi, không nhìn ngang nhìn ngửa, không mong ước cái này cái khác. Hành giả chỉ quyết đi một đường, tập trung tất cả mong ước, chí nguyện, ý chí, năng lực tinh thần của mình vào đó đến khi được toại nguyện như ý mới thôi.
Muốn được như thế, hành giả phải tu theo pháp môn "Tứ Như Ý Túc", một trong những pháp môn của Đạo đế dưới đây.

B. Chánh Đề

I. Định Nghĩa Tứ Như Ý Túc

Tứ Như ý túc là bốn phép thiền định. Nói cho rõ đó là bốn phương tiện giúp chúng ta thành tựu các Tam ma địa Samadhi (chánh định), vì thế nên cũng gọi là định pháp. "Như ý" là được như ý mình muốn. "Túc" là chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy đủ. Tứ Như ý túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định, thần thông được thành tựu viên mãn như ý muốn của mình. Bởi lý do ấy, nên cũng gọi nó bằng tên Tứ thần túc. Luận Câu xá quyển 25 có nói: "Vì sao định mà gọi là thần túc? Vì các công đức linh diệu thù thắng đều nương nơi bốn định này mà được thành tựu".
Bốn định ấy là:
-Dục Như ý túc
-Tinh tấn Như ý túc
-Nhất tâm Tứ Như ý túc
-Quán Như ý túc.

II. Thành Phần Và Nội Dung Của Tứ Như Ý Túc

1. Dục như ý túc:

Dục là mong muốn. Mong muốn một cách thiết tha, mong muốn cho kỳ được, mong muốn cho đến khi mãn nguyện mới thôi. Đó gọi là dục như ý túc. Nhưng mong muốn cái gì? Tại sao đã là Phật tử mà còn "dục", còn mong muốn?

Trước tiên, chúng ta nên nhận định rõ ràng tính chất của sự mong muốn ở đây. Có thứ mong muốn thỏa mãn những thú tính, những tham vọng, đó là mong muốn tội lỗi, nên diệt trừ. Có thứ mong muốn hướng thượng, trong lành, như mong muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ, thanh cao, mong muốn được giải thoát ra ngoài biển khổ sinh tử, đó là thứ mong muốn hợp lý, đáng khuyến khích. Người Phật tử mong muốn được thành đạt pháp thiền định mình đang tu, để tiến lên chứng các Thánh quả. Thứ mong muốn này rất cần cho người tu hành; nếu không mong muốn thiết tha, mãnh liệt thì khó mà đi đến đích giải thoát được. Đây cũng là một sự cải chính rất hùng hồn để đánh tan quan niệm sai lầm cho rằng: người Phật tử phải diệt dục, mà diệt dục nghĩa là diệt tất cả, diệt luôn cả sự sống. Thật ra diệt dục ở đây tức là dục vọng, diệt những phần ham muốn xấu xa đê hèn, làm cho con người bị đọa xuống hàng thấp thỏi như loài súc sinh, địa ngục, chứ đâu có diệt luôn cả những chí nguyện, những mong ước, những đức tính tốt đẹp của con người. Sự mong muốn sau này, người Phật tử không bào giờ lãng quên, trái lại họ trút cả tâm tư hướng về cái đích mình đang nhắm, những pháp mình đang tu. Người thế gian ưa thích vật dục mạnh mẽ như thế nào, thì người tu hành mong muốn thành tựu những pháp thiền định của mình cũng mạnh mẽ như thế ấy. Có như thế, hành giả mới tăng tiến mãi trên bước đường tu hành của mình.

2. Tinh tấn như ý túc:

Tinh tấn là dũng mãnh, chuyên nhất vào pháp thiền định mình đang tu. Phần trên chỉ mới là sự ước muốn. Sự ước muốn dù đẹp đẽ bao nhiêu mà không ra công, gắng sức, luôn luôn bền tâm vững chí, nghĩa là thiếu sự Tinh tấn dũng mãnh, thì ước muốn muôn đời cũng chỉ là ước muốn suông mà thôi.
Chúng ta nên nhớ rằng: Tinh tấn không phải chỉ là sự hắng hái, bồng bột trong chốc lát, như sự ồ ạt, bốc cháy của ngọn lửa rơm. Tinh tấn là nghị lực tu tập mạnh mẽ, thường hằng, không bao giờ gián đoạn.

Trong Kinh Di Giáo, Đức Thế Tôn có dạy: "...Như người kéo cây lấy lửa, cây chưa nóng đã thôi, tuy muốn được lửa, nhưng khó thể được".
Vậy người muốn chứng đạo quả, phải thường Tinh tấn đầy đủ như ý mình ước nguyện.

3. Nhất tâm như ý túc:

Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định cảnh, không bào giờ tán loạn. Một con sông lớn, nếu bị chia nhiều nhánh tất nhiên sức chảy của nó bị yếu. Trái lại, một dòng suối nhỏ, nếu chỉ chảy một đường, cũng đủ sức xối thủng đá. Người tu hành, tâm được chuyên nhất, không bị tán loạn, thì muôn sự đều thành. Phật có dạy: "Như người chứa nước, khéo giữ bờ đê, người tu hành giữ nước trí tuệ cũng vậy, phải khéo tu thiền định, chớ cho tán động".

4. Quán như ý túc:

Quán nghĩa là dùng trí tuệ sáng suốt quán sát pháp mình đang tu. Quán trí ấy do định mà phát sinh, trí ấy là tịnh trí. Vì tịnh cho nên nó có thể như thật thông đạt thật nghĩa (chân lý) của các pháp (vũ trụ).

C. Kết Luận

Tóm Tắt Ý Nghĩa Và Diệu Dụng Của Tứ Như ý Túc
Sở dĩ Dục, Tinh tấn, Nhất tâm và Quán đều được gọi là như ý túc, vì chúng ta là những thứ để cho tất cả công đức tu hành, thần lực nương vào đó mà phát sinh, hợp như ý muốn của hành giả.
Bốn phép này như bốn nấc thang kế tiếp theo nhau, để đưa hành giả từ cái nhân hữu lậu mê mờ, đến cái nhân vô lậu giải thoát: Trước hết, do tu tâm hằng mong muốn (Dục), cho nên sự tu tập dũng mãnh (Tinh tấn); nhờ sự tu tập dũng mãnh, nên phiền não tiêu, tán động hết, do đó tâm được chuyên nhất (Nhất tâm), nhờ tâm chuyên nhất nên quán trí được thanh tịnh mãnh lợi (Quán), và có năng lực phá tan cội gốc vô minh.
Khi vô minh hết, thì vô số nghiệp chướng phải tiêu, hằng sa trí đức phát hiện. Người tu hành, khi trí tuệ và công đức viên mãn tức khắc đầy đủ vô biên thần dụng trong sự hiện thân, hiện độ để cứu khổ chúng sinh, chứ đâu có phải chỉ khi chứng được lục thông mới được tự tại?



NGŨ CĂN NGŨ LỰC


A. Mở Đề

Trong 37 món trợ đạo, Ngũ căn và Ngũ lực là những phương pháp quý báu, cũng quan trọng như các pháp khác; có thể đưa người tu hành từ địa vị phàm phu đến các Thánh quả trong ba thừa. Chúng là sự phục sức trang nghiêm, là phương tiện công hiệu giúp người thẳng tiến trên bước đường tu đạo, chứng quả. Vậy Phật tử chúng ta không thể không biết để trì hành.

B. Chánh Đề

I. Định Nghĩa Ngũ Căn

Ngũ căn là năm căn. Căn đây tức là căn bản, là gốc rễ, là nguồn gốc để tất cả các thiện pháp xuất phát.
Luận Trí Độ, quyển thứ mười, giải rằng: "Năm căn này là căn bản để phát sinh tất cả thiện pháp, nên gọi là ngũ căn". Năm căn ấy là: Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn, Huệ căn.
II. Thành Phần Và Nội Dung Ngũ Căn

1. Tín căn:

Là lòng tin mạnh mẽ vững chắc. Lòng tin này không giống như lòng tin mù quáng, vô điều kiện, bất chấp lý trí của phần nhiều ngoại đạo. Lòng tin ở đây là con đẻ của lý trí, là kết quả của sự suy luận sáng suốt, của sự quan sát kỹ càng. Đức Phật không bao giờ bắt buộc Phật tử tin một điều gì mà không suy luận được, không giải thích được.Vì lòng tin của người Phật tử khởi từ trí xét đoán. Bởi thế nên nó vô cùng vững chắc, mãnh liệt. Chính nó là căn bản phát sinh các hạnh lành, Phật dạy: "Tin là mẹ vô lượng của công đức". Nhưng Phật tử tin cái gì? Phật tử tin Tam Bảo:

Tin Phật: Phật tử biết rằng đức Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ, giải thoát. Vì thế, Phật tử suốt đời tin tưởng theo Phật, để hướng tiến đến sự giác ngộ, giải thoát mà Phật đã thân chứng.
Tin pháp: Pháp là chân lý, là sự thật mà đức Phật đã khám phá ra và truyền lại cho chúng ta. Hay nói một cách khác, pháp là giáo lý đúng như sự thật mà đức Phật đã thuyết minh. Chúng ta tin tưởng những giáo lý ấy, vì người nói ra là đức Phật, đã thân chứng được và giác ngộ được nhờ giáo lý ấy.
Tin Tăng: Tăng là người thực hành các giáo lý của Phật để giác ngộ mình và người, là kẻ thay Phật đưa cao ngọn đuốc chính pháp sáng ngời, để soi đường cho chúng sinh. Vì thế, Phật tử suốt đời quy hướng về Tăng.

2. Tấn căn:

Tấn là tinh tấn. Tấn căn là sự dũng mãnh tinh tấn trên bước đường tu tập không bao giờ thối lui. Nếu đã có lòng tin chắc chắn mà không tinh tấn thực hiện, làm theo những điều mình tin, thì lòng tin suông ấy trở thành vô dụng, không đưa chúng ta đến đâu cả.
Vậy cho nên người Phật tử đã tin Tam Bảo, thì phải luôn luôn tinh tấn thực hành giáo lý của Phật. Theo Luận Nhiếp Đại Thừa, tinh tấn có ba thứ:

Bị giáp tinh tấn: Nghĩa là mang áo giáp tinh tấn. Người Phật tử trong cuộc chiến đấu để diệt trừ đau khổ, tiến tới giải thoát, cần phải mang áo giáp tinh tấn, để khi xông pha vào trận địa "phiền não", khỏi bị ma quân hãm hại. Nhờ có áo giáp này, người Phật tử tin tưởng ở năng lực của mình hùng dũng tiến tới, không sợ gian nan nguy hiểm, không lùi bước trước một trở ngại hay một địch thủ nào.

Gia hạnh tinh tấn: Nghĩa là luôn luôn gắng sức không bao giờ dừng nghĩ trên bước đường đi đến giải thoát. Với thứ tinh tấn này, người Phật tử càng tiến càng hăng, càng thêm sức lực, càng phấn chí không bao giờ biết mệt mỏi.

Vô hỷ túc tinh tấn: Vô hỷ túc tinh tấn nghĩa là không vui sướng tự mãn, cho là vừa đủ khi mới thu được một ít thắng lợi trên đường tu hành. Người Phật tử chưa chứng được Phật quả, thì còn gia công gắng sức tu luyện mãi, chứ không chịu dừng nghỉ, vui thú với một quả vị thấp thỏi, tạm bợ, như người bộ hành khi chưa đến đích cuối cùng, thì còn hăng hái bước mãi, chứ không chịu chấm dứt cuộc hành trình của mình, bằng cách an phận ở mãi trong quán trọ bên đường.

3. Niệm căn: Niệm là ghi nhớ. Ghi nhớ những gì?

a) Thứ nhất niệm thí: nghĩa là nhớ tu bố thí. Người Phật tử thường ngày nhớ đem tài sản bố thí cho người bần cùng; đem hùng lực cứu giúp người sợ hãi; đem chính pháp chỉ giáo cho người si mê, khiến họ hết khổ được vui.

b) Thứ hai niệm giới: nghĩa là nhớ trì tịnh giới để đoạn trừ các phiền não nghiệp chướng, tăng trưởng mọi hạnh lành. Giới có ba thứ:

- Nhiếp luật nghi giới: Những giới để ngăn cấm các hạnh nghiệp thô xấu, đoạn diệt các nghiệp chướng nơi thân tâm.
- Nhiếp thiện pháp giới: Những quy điều đúng pháp và lợi ích, người thực hành theo nó, có thể thành tựu tất cả pháp lành.
- Nhiếp ích hữu tình giới: Những điều luật làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh.

c) Thứ ba niệm thiên: Luận Nhiếp Đại Thừa có nói: "Thiên niệm trụ là an trụ bốn món thiền định". Vậy niệm thiên là nhớ tu các niệm thiền định, để gạn sạch tất cả phiền não, thể chứng chân như.

4. Định căn:

Định hay tịnh lự do dịch nghĩa chữ Phạn là Dhyana (Thiền na). Định là lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp, để suy đạt thật nghĩa của nó. Theo Luận Nhiếp Đại Thừa, định có thể chia làm ba bậc:
- An trụ định: Để tâm an trụ vào định cảnh, không cho tán động, do đó phiền não được tiêu trừ.
- Dẫn phát định: Do đoạn sạch phiền não nên được phát sanh sáu món thần thông là các công đức thù thắng.
- Thành sở tác sự định: Do đã phát khởi được các công đức, thần thông, nên thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh; cứu độ chúng sinh giải thoát sinh tử, chứng được Niết Bàn.

5. Huệ căn:

Huệ là trí huệ sáng suốt, thâm nhập được chân tướng của vạn pháp. Trí huệ ấy không có sự phân biệt, vì phân biệt là tác dụng của vọng thức, là mê lầm. Cũng theo Luận Nhiếp Đại Thừa, trí huệ có ba thứ:

- Vô phân biệt gia hạnh huệ: Quán trí này không còn thấy có phân biệt, nhưng còn có gia hạnh, nghĩa là còn phải dụng công tu hành, để thành tựu hoàn toàn vô phân biệt trí. Vì thế, nên gọi là " vô phân biệt gia hạnh huệ".
- Vô phân biệt huệ: Trí huệ này không có sự phân biệt, mà không cần phải gia hạnh vì đã thuần phục. Do không phân biệt nên không có mê vọng. Nhờ trí huệ này, người tu hành được tự tại thể chứng chân như.
- Vô phân biệt hậu đắc huệ: Hay hậu đắc trí, nghĩa là trí huệ có được sau khi đã chứng được chân như. Trí huệ này hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ được thật nghĩa của các pháp. Chư Phật nhờ hậu đắc trí này mà thi tác vô lượng công đức, để cứu độ chúng sinh.

Nói một cách tổng quát giản dị, huệ căn là trí huệ do thiền định đã làm lặng sạch. Nó không đạt được sự thật của các pháp; nó là căn nguyên phát sinh mọi việc vĩ đại để giải thoát chúng sinh.


III-Định Nghĩa Ngũ Lực

Ngũ lực tức là năm năng lực vĩ đại, năm thần lực của Ngũ căn. Nói một cách dễ hiểu: Ngũ căn như năm cánh tay, còn ngũ lực như là sức mạnh của năm cánh tay ấy.

IV. Thành Phần Và Nội Dung Của Ngũ Lực

1. Tín lực: tức là thần lực của đức tin, hay sức mạnh lớn lao, vi diệu do tín căn phát sinh.
2. Tấn lực: tức thần lực của đức tinh tấn, hay sức mạnh bất thối chuyển, kiên cố, có thể san bằng mọi trở lực, sức mạnh này do tấn căn phát sinh.
3. Niệm lực: tức là thần lực của sự ghi nhớ, hay sức mạnh lớn lao bền chắc của niệm căn.
4. Định lực: tức thần lực của sự tập trung tư tưởng hay sức mạnh vĩ đại của định căn.
5. Huệ lực: tức thần lực của trí huệ hay sức mạnh vô biên của huệ căn.

Nói một cách tổng quát, những sức mạnh này là kết quả thu đạt được do sự kiên cố tu luyện của Ngũ căn. Nó như là một ngọn lửa bật lên sau khi người ta đã nỗ lực cọ sát hai cây củi vào nhau để lấy lửa.
C. Kết Luận

Diệu Dụng Của Ngũ Căn Và Ngũ Lực
Như chúng ta đã thấy ở trên, Ngũ căn và Ngũ lực vừa làm hai căn bản, vừa là nghị lực để phát sinh, tăng trưởng vô lượng công đức thù thắng.
Bất luận người nào, hễ đã lấy trí làm nền tảng, tinh tấn thật hành chính pháp (tấn), hằng ghi nhớ chánh pháp để tiến tu (niệm), tập trung tư tưởng để trừ sạch vô minh phiền não, đem diệu huệ vô phân biệt (huệ) để chứng chân như, thì người ấy thế nào cũng nắm chắc trong tay quả vị vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì người ấy đã có những thần lực vĩ đại (Ngũ lực) do Ngũ căn gây tạo. Với ngũ lực này, hành giả như người bộ hành có đủ phương tiện linh lợi, diệu dụng để băng rừng, vượt biển và đi đến đích cuối cùng. Đích cuối cùng của người tu hành theo chính pháp tức là thành Phật. Đến đích này, người ấy là ánh sáng của chúng sinh gieo mầm an lạc. Chính người mới có đủ thần lực, diệu dụng làm cho chúng sinh trở thành những kẻ hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn giác ngộ.
Kết quả của Ngũ căn và Ngũ lực lớn lao, quý báu như thế đó, chúng ta không thể không tu theo hai pháp môn ấy.



THẤT BỒ ĐỀ PHẦN

Còn gọi là Thất Giác Chi.

A. Dẫn Nhập

Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc do chính con người tạo nên, và nó đã trở nên một phương tiện, hay một phương pháp giúp cho mọi người vượt khỏi những bế tắc trong đời sống mà con người gặp phải, hay nói cách khác, giáo lý đạo Phật là những phương thuốc trị những căn bệnh cho mọi người, chính vì thế mà chúng ta thường nghe : "Chúng sanh đa bệnh, Phật pháp đa phương" (chúng sanh có nhiều bệnh, Phật pháp cũng có nhiều phương thuốc trị cho nhiều căn bệnh khác nhau). Thất giác chi là bảy phương pháp nhằm giúp cho chúng sanh thoát khỏi những vọng niệm mê lầm để đạt sự tỉnh giác trong đời sống.

B. Nội dung

I- Ðịnh nghĩa

Thất giác chi (Satta sambojjhanga) = The Seven factors of Enlightenment, còn gọi là Thất bồ đề phần, Trung Hoa dịch là Giác đạo (con đường đưa đến giác ngộ), một trong những thắng pháp (paramattha dhamma) của 37 phẩm trợ đạo được Ðức Phật đề cập ở phần Ðạo đế. Thất giác chi là bảy phương pháp tu tập nhằm giúp cho hành giả đạt được giác ngộ, thành tựu đạo quả giải thoát.

II- Nội dung của Thất giác chi

1)- Trạch pháp giác chi (Dhammavicaya sambojjhanga) :

Trạch là sự chọn lựa, pháp là pháp môn, trạch pháp là sự chọn lựa pháp môn tu tập sao cho phù hợp với trình độ căn cơ của chính mình. Nó còn giúp cho mọi người nhận thức một cách sáng suốt để phân biệt, lựa chọn một cách chính xác những phương thức khế hợp với chính mình, vì thế cho nên các vị Tổ sư thường dạy : "Thuốc không có quý-tiện, lành bệnh là thuốc hay, Pháp không có đốn-tiệm (mau, chậm), hợp cơ là pháp diệu".

Chọn được hướng để đi đúng với chánh pháp là chúng ta đã thực hiện tinh thần trạch pháp giác chi. Trong kinh Sa Di Thập Giới nói : "Cái khổ ở địa ngục, của con lừa, con lạc đà chở nặng chưa phải là khổ, không tìm thấy được hướng đi mới thực sự là khổ". Người muốn có một chánh tư duy (suy tư một cách chân chánh) phải thực hành trạch pháp, vì chính đây là một phương pháp phân tích, suy luận nhận chân các giá trị hiện thực. Ðạo Phật xem sự tự giác trong niềm tin phải được qua gạn lọc của trí tuệ được gọi là chánh kiến (sự thấy biết một cách chân chánh), điều này Ðức Phật nói : "Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta".

Trong kinh Kamala (Tăng Chi I), Ðức Phật nói : "Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó thường nghe nhắc nhở đến luôn. Ðừng tin tưởng điều gì mà điều đó là một tập tục đã qua cả ngàn xưa để lại. Ðừng tin tưởng những điều sáo ngữ hay bất cứ một điều gì mà người ta thường nói đến nhiều quá. Ðừng tin tưởng bất cứ điều gì, dù cho điều đó là bút tích của thánh nhân xưa để lại bảo ta phải tin. Ðừng tin một điều gì dù điều đó ở dưới mãnh lực của ông thầy hay nhà truyền giáo. Tất cả những sự thật, theo suy nghiệm riêng của mình và sau khi xác nhận rõ ràng, phù hợp với lẽ phải, tạo thành hạnh phúc riêng cho mình và hạnh phúc cho tất cả mọi người thì chính đó là sự thật và ta cố gắng sống theo sự thật ấy".
Người xưa cũng thường dạy : "Thà ngàn năm không ngộ, còn hơn một phút sai lầm". Tổ Lâm Tế nói : "Nhất niệm hào ly, thiên địa huyền cách" (Một niệm lìa xa, đất trời xa cách). Nếu chúng ta chọn sai con đường đi không đúng chánh pháp thì muôn kiếp khó tìm lại được. Cho nên trạch pháp giác chi là yếu tố để giúp người học Phật nhận thức một cách sáng suốt tỉnh táo trên con đường chọn lựa pháp môn tu tập.

2)- Niệm giác chi (Sati sambojjhanga) :

Niệm là nhớ nghĩ, giác là sự tỉnh giác. Niệm giác chi là luôn luôn nhớ đến sự tỉnh giác. Ðây là phương pháp được Ðức Phật đề cập nhằm giúp cho con người phát triển tuệ giác, đồng thời có công năng làm cho các vọng niệm không dấy khởi. Như chúng ta biết, tạp niệm là nguyên nhân làm cho con người kinh nghi và thoái hóa, nó là bước trở ngại đáng kể cho tuệ giác phát triển, làm phân tán sức mạnh của tâm thức.
Trái lại, chánh niệm giúp cho chúng ta nhận thức một cách rõ sự vật hiện tượng qua các pháp vô thường, khổ, vô ngã trong đời sống, những đổi thay của những dục niệm, cho chúng ta cái nhìn xét đoán chuyển biến của tâm thức trong từng sát na sanh diệt, thấy rõ các tà niệm, có nhận thức đúng đắn (chánh kiến) và nhờ đó chúng ta nhận thức rõ sự thật của các pháp. Niệm giác chi giúp cho chúng ta luôn tỉnh táo trong mọi hoàn cảnh khi đối diện với thực tế của đời sống.

3)- Tinh tấn giác chi (Virya sambojjhanga) :

Tinh tấn giác chi là nỗ lực chuyên ròng hướng đến tỉnh giác để loại trừ các tư hoặc, thực hành chánh pháp làm cho tuệ giác được phát triển, dù chúng ta có một lý tưởng cao đẹp nhưng thiếu chuyên chú, nỗ lực và bền bỉ (tinh tấn) thì khó thành tựu được chí nguyện. Nhà triết gia Huxley đã nói : "Mục đích tối cao trong đời người là sự hành động, không phải là sự hiểu biết suông".
Vì thế cho nên tinh tấn là yếu tố tối quan trọng trong việc thực hiện lý tưởng giải thoát giác ngộ ; thiếu sự tinh tấn, nỗ lực của tự thân để tạo thành sức mạnh nội tại thì không thể chiến đấu chống giặc phiền não. Hình ảnh đầy sinh động dưới cội cây bồ đề khi Ðức Bổn Sư Thích Ca dùng bát sữa của Sujàta, xong Ngài quăng bát đựng sữa xuống dòng sông Ni Liên Thuyền và phát đại nguyện : "Dù thân ta có khô, máu ta có cạn, nếu không thành đạo, ta nguyện không rời khỏi chỗ ngồi này".

Qua đó, chúng ta nhận thấy trong tu tập hay đời sống thường nhật của con người, bao giờ sự thành công cũng dành cho những con người siêng năng và chăm chỉ (tinh tấn), thiếu chuyên cần thì dù có thông minh đến đâu cũng khó thành tựu được sự nghiệp. Ðức Phật dạy : "Hết ngày này qua tháng khác, hết giờ nọ sang giờ kia, người thợ vàng phải nỗ lực công phu mới lọc được vàng ròng. Con người muốn cho thân tâm trong sạch cũng phải cố gắng rèn luyện như thế" (Pháp Cú).

4)- Hỷ giác chi (Piti sambojjhanga) :

Hỷ giác chi là sự vui có tỉnh giác, khi tu tập, chúng ta luôn luôn cảm nhận niềm an lạc trong đời sống hàng ngày, không bị phiền não trói buộc, tùy hỷ với những thiện pháp mà mọi người xung quanh đã đạt được. Vì thế cho nên người tu tập phải biết khởi tâm hoan hỷ trong mọi hoàn cảnh để vượt qua mọi chướng duyên, trở ngại trên bước đường tìm cầu sự an lạc giải thoát. Nếu như trong đời sống không có sự vui tỉnh giác thì việc tu tập của hành giả khó mà đạt được cứu cánh của sự giác ngộ. Trong nền giáo lý của đạo Phật, tâm hỷ là yếu tố cơ bản, có công năng chuyển hóa và hóa giải các cấu uế phiền não, nó là nhân tố giúp cho người thực hành pháp cảm nhận phấn khởi trên bước đường tu tập, giúp cho hành giả có một niềm tin mãnh liệt để đi đến thành tựu đạo quả Bồ đề. Mục đích chính của đạo Phật là "chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc" (chuyển sự mê mờ làm cho chúng sanh giác ngộ, lìa khổ được vui).

5)- Khinh an giác chi (Passaddhi sambojjhanga) :

Khinh có nghĩa nhẹ nhàng, an là an ổn, khinh an giác chi là trạng thái nhẹ nhàng an lạc tỉnh giác trong đời sống, luôn luôn thư thái do đạt được niềm hỷ lạc thanh tịnh của các pháp thiện. Nó có công năng làm cho các phiền não trói buộc bị tiêu trừ và đối trị những bất thiện tâm sở làm dao động bất an. Khi người tu tập đạt được khinh an sẽ cảm nhận một trạng thái nhẹ nhàng, ví như người bị bệnh qua được cơn đau lâu ngày hành hạ cơ thể. Do đó, họ có thể vững bước trên con đường đi tới đích vì đã đạt được sự nhẹ nhàng của tâm.

Trong kinh A Hàm kể một pháp thoại : Có một vị Tỳ kheo đang ngồi tĩnh tọa trong rừng bỗng nhiên tâm hoan hỷ phát sanh thốt lớn lên : "Ôi, hạnh phúc quá. Ôi, hạnh phúc quá...". Những người bạn đồng tu ngồi bên cạnh nghe được liền đem bạch lại với Phật. Ðức Phật nhân câu chuyện đó giảng cho mọi người nghe và hỏi vị Tỳ kheo kia nguyên nhân vì sao khi tĩnh tọa lại phát ra những lời như thế ?
Vị Tỳ kheo bạch Phật : "Trong lúc ngồi thiền đạt được trạng thái an lạc, cảm nhận thân tâm được nhẹ nhàng, con có thốt ra những lời đó vì trước đây con làm quan trong triều, có đầy đủ cao lương mỹ vị, kẻ hầu người hạ nhưng không ngày nào con cảm thấy yên tâm, luôn luôn lo sợ bị người khác chiếm lấy quyền lực, địa vị của mình, đối với nhà vua thì sợ bị khiển trách do kẻ sàm tấu tâu lên. Trái lại từ khi con vào đây sống với đời sống phạm hạnh, con thấy không bị những bất an sợ hãi lo lắng như ở triều đình, nên khi ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây, con cảm nhận có một niềm an lạc khinh an (nhẹ nhàng) hạnh phúc tràn ngập trong lòng nên con thốt lên những lời như thế".

6)- Ðịnh giác chi (Samadhi sambojjhanga) :

Ðịnh là samadhi, là giữ tâm an trụ vào một điểm, một đối tượng, không cho tâm phan duyên phóng đi nơi khác. Ðịnh giác chi là tâm luôn luôn an định tỉnh giác, không bị chi phối bởi phiền não vọng tưởng và các duyên bên ngoài tác động vào tâm thức. Chúng ta biết giáo lý đạo Phật là giáo lý nội quan, cho nên việc thực hành chánh định không thể thiếu trong đời sống của người con Phật. Mục tiêu của đạo Phật là giúp con người quay lại tìm về chính mình, nhận chân giá trị của mọi giá trị không có giá trị nào bằng giá trị nơi từng con người, vì chính hạnh phúc hay khổ đau đều do con người tạo nên. Cho nên Ðức Phật từng nói : Con người là tối thượng. Việc tu tập để tâm định không có nghĩa là để biết người khác, tìm tòi "soi căn, soi kiếp của người khác", hay để có thần thông, phép lạ trị bệnh chữa tà, sai khiến quỷ thần, những điều đó trái với tinh thần đạo Phật. Trái lại, định của Phật dạy là để chữa căn bệnh vọng tưởng chạy theo cảnh duyên bên
ngoài, không nhận chân được giá trị của nguồn hạnh phúc của chính mình, đây thực sự là điểm khác biệt của đạo Phật với các tôn giáo khác.
7)- Xả giác chi (Upekkhà sambojjhanga) :

Xả là upekkhà, do hai từ gốc upa là đúng đắn, chân chánh, vô tư, và ikkha trông thấy, nhận thức, suy luận. Vậy, upekkhà là trông thấy đúng đắn, nhận định chân chánh, hoặc suy luận vô tư, không luyến ái, không ghét bỏ, không ưa thích cũng không bất mãn.

Kinh Jãtaka nói : "Trong hạnh phúc, trong phiền não, lúc thăng, lúc trầm, ta phải giữ tâm như đất. Cũng như thế, trên đất, ta có thể vất bất cứ vật gì, dầu chua, ngọt, sạch, dơ, đất vẫn thản nhiên, một mực trơ trơ. Ðất không giận cũng không thương". Dùng tuệ quán đối trị với chấp thủ của tâm, không để cho bóng dáng của vọng tưởng lưu lại nơi tâm thức, luôn luôn để tâm đạt được sự an tịnh, đó là chúng ta thực hành tâm xả. Không một đối tượng nào có thể làm cho người có tâm xả bị lay chuyển. Thuận và nghịch cảnh không làm cho người có tâm xả cảm thấy bất an trước những thuận nghịch của ngoại duyên. Bát phong không làm cho người thực hành pháp xả bị cuốn theo. Người thực hành tâm xả không chấp thủ vào các pháp mình đã tu, đã đạt được. Kinh Kim Cang Sớ nói : "Người tu tập phải như thuyền qua sông, khi thuyền đã cập bến, nếu ta không bỏ để lên bờ thì đừng hòng đi đến đâu và biết được gì".

III- Một số ý niệm khi thực hành pháp giác chi

1)- Khi thực hành trạch pháp giúp cho người con Phật nhận thức một cách độc lập, tự do, tự chủ, có tỉnh giác, không bị những tín điều, giáo điều, những xu hướng ỷ lại vào những quyền năng thần lực gia hộ, phù trì, làm đức tin bị mù quáng, thủ tiêu hết mọi ý chí suy tư tự chủ cá nhân của con người.

2)- Con người luôn luôn bị những tà niệm, tạp niệm chi phối không giữ được chánh niệm, phân tán sức mạnh nội tại, làm tiêu tan ý chí với những hoài nghi tìm cầu viển vông không thiết thực. Thực hành niệm giác chi là chúng ta đã điều chỉnh tâm sinh lý về mặt tự thân.

3)- Thực hành pháp tinh tấn giác chi là chúng ta loại trừ tính biếng nhác, do dự và bất nhất trong đời sống khi gặp nhiều chướng duyên trắc trở. Có thể nói tinh tấn là yếu tố phát triển đức tính kiên trì giúp cho con người thành công trên bước đường lập nghiệp.

4)- Những lo âu phiền muộn là nguyên nhân gặm nhấm thiêu đốt con người trở nên héo tàn theo thời gian, cho nên người ta thường nói : "Nụ cười hơn mười thang thuốc bổ". Thật vậy, ứng dụng hỷ giác chi là chúng ta có nụ cười trong tỉnh thức. Ngài Dhammanda nói : "Bí quyết của một đời sống hạnh phúc và thành công là cố gắng làm những điều đáng làm trong hiện tại, không lo âu tương lai, không phiền muộn về quá khứ".

5)- Mọi sự chấp trước bất an, sợ sệt đều là những nguyên nhân làm cho thân tâm chúng ta nặng nề không thoải mái trong đời sống, bực dọc trong sinh hoạt. Thực hành khinh an giác chi là chúng ta có một thân tâm nhẹ nhàng, trút bỏ gánh nặng của lo âu, sợ hãi. Thảnh thơi tự tại ung dung trong công việc là chúng ta đã thể hiện người con Phật hưởng được pháp vị của Phật.

6)- Oán thù, chiến tranh, tranh chấp quyền lợi hơn thua, phải quấy làm khổ mình, khổ người. Mọi sự đổ vỡ hạnh phúc, bạn bè thân thuộc, trong gia đình đều bắt nguồn từ nguyên nhân không làm chủ được tâm. Hành pháp định giác chi là người con Phật học pháp làm chủ mình, phát triển sức mạnh tinh thần, không bị những tác duyên bên ngoài sai khiến.

7)- Những đố kỵ, ganh ghét, bỏn xẻn đều bắt nguồn từ chỗ thiếu tâm xả mà ra, cho nên phiền não khổ đau cũng từ nơi đất này phát sinh trổ quả. Thực hành xả giác chi là chúng ta đã mở rộng lòng từ, buông xả, tiêu trừ hết mọi tâm lý nhỏ hẹp, ích kỷ, đập tan tường thành cá nhân chủ nghĩa. Vì thế cho nên muốn cho đời sống của mình và người có hạnh phúc an vui, phải thực hành xả giác chi : chỉ có lòng thương yêu chân thật đặt trên tư tưởng bình đẳng mới đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.

C. Kết luận

Qua những yếu tố trên, cho chúng ta một nhận thức : chỉ có con đường thực hành bảy phương pháp đưa đến giác ngộ (Thất giác chi) mới đem lại đời sống an vui hạnh phúc, thoát khỏi khổ đau mà Ðức Phật đã tuyên bố : "Nước của bốn biển chỉ có một vị duy nhất, đó là vị mặn của muối ; giáo pháp của Như Lai cũng thế, chỉ có một vị, đó là vị giải thoát".



NHỮNG TRỞ NGẠI HÀNH GIẢ TU TỊNH ĐỘ KHÓ VÃNG SANH TỊNH ĐỘ.


CỬU PHẨM VÃNG SANH

NGŨ THÁNH TRÍ TAM MA ĐỊA
Ngũ Thánh Trí tam ma địa là pháp Tam muội ( Đại định ) có năm phần Thánh Trí. Đại định của Phật vốn là pháp Thánh, không nhiễm, không chấp, quảng đại, từ nơi pháp ấy thị hiện cái trí huệ có năm hạnh tướng:
1. Tự thể trí
2. Thường trụ trí
3. Thanh tịnh trí
4. Quảng trí
5. Nhập xuất định tướng trí
Tam ma địa chính là Đại Định của Phật, những nhà tu hành bậc cao có thể đạt tới định này. Đây là trạng thái khi hành giả nhập định thì thân thể và tâm trí chẳng còn xao động, chí thú hướng vào một mục đích mà thôi. Lúc bấy giờ những vọng kiến những vọng tưởng tà vạy không thể xâm nhập vào tâm đại định này. Đắc Tam ma địa nhà đạo hoàn toàn nhập vào pháp thân của Đức Đại Nhựt Phật cũng như chư Phật mười phương.

KINH A-Di-Đà Tam-Ma-Địa Tập Đa-Ra-Ni

Đời nhà Tấn, tại chùa Hưng Thiện, ngài Tam tạng sa-môn Đại Quảng Trí Bất Không dịch từ Phạn ra Hán văn.
*Việt Nam, chùa Thiền Tịnh, sa-môn Thích Viên Đức dịch thành Việt văn.

Bấy giờ, đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai ở nơi Đại Tam-ma-địa môn tịnh xá cùng với các bậc đại Tỳ-khưu gồm tám vạn chín ngàn người đều câu hội đầy đủ, toàn là bậc đại A-la-hán, huệ thiện đầy đủ, việc cần làm đã làm xong, các vị ấy là: Thần lực Trí Biện Quán Thế Âm Bồ-tát, Đắc Đại Thế Bồ-tát, Thần Thông Tự Tại Vương Bồ-tát, Tĩnh Quang Vô Cấu Đà La Ni Bồ-tát, Đại Lực Phổ Văn Bồ-tát, Đại Trang Nghiêm Lực Bồ-tát, Vô Lượng Quang Bồ-tát, Huệ Thiện Huệ Phổ Quang Vương Bồ-tát. Những vị Đại Bồ-tát và đại chúng Thanh văn như vậy đi đến chỗ Phật, bạch rằng: "Tại Vô Lượng Thọ quốc có chín phẩm Tịnh Thức Tam-ma-địa. Đây tức là cảnh giới của chư Phật, nơi Như Lai đang an ở.
Chư Phật ba đời đều y theo đó mà thành Chánh giác, cụ túc tam minh, tăng trưởng phước huệ. Chín phẩm ấy là:

*Thượng Phẩm Thượng Sanh Chân Sắc Địa.
*Thượng Phẩm Trung Sanh Vô Cấu Địa.
*Thượng Phẩm Hạ Sanh Ly Cấu Địa.
*Trung Phẩm Thượng Sanh Thiện Giác Địa.
*Trung Phẩm Trung Sanh Minh Lực Địa.
*Trung Phẩm Hạ Sanh Vô Lậu Địa.
*Hạ Phẩm Thượng Sanh Chơn Giác Địa.
*Hạ Phẩm Trung Sanh Hiền Giác Địa.
*Hạ Phẩm Hạ Sanh Lạc Môn Địa.

Đây gọi là Chín phẩm Tịnh Thức chơn như cảnh. Trong ấy có bảo tượng Nội tọa gồm 12 mạn-đà-la Đại Viên Cảnh Trí. Đó là:
1 -Nhất Thiết Tam Đạt Vô Lượng Quang Phật
2 -Biến Giác Tam Minh Vô Biên Quang Phật
3 -Trí Đạo Tam Minh Vô Ngại Quang Phật
4 -Lục Chơn Lý Trí Tam Minh Vô Đối Quang Phật
5 -Sắc Thiện Tam Minh Quang Diệm Vương Quang Phật
6 -Nhứt Giác Tam Minh Thanh Tịnh Quang Phật
7 -Phổ Môn Tam Minh Hoan Hỷ Quang Phật
8 -Nhập Huệ Tam Minh Trí Huệ Quang Phật
9 -Quang Sắc Tam Minh Bất Đoạn Quang Phật
10 -Minh Đạt Tam Minh Nan Tư Quang Phật
11 -Ngũ Đức Tam Minh Vô Xứng Quang Phật
12 -Trí Lực Tam Minh Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.

Chư Phật Như Lai như vậy là Chơn sắc cụ túc, là Bi tướng sở y của tất cả ba đời Như Lai. Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy, xưng tán danh hiệu của 12 vị Quang Phật, tức vĩnh viễn ra khỏi nhà lửa trong ba cõi, quyết định sanh Chơn như, xa lìa Hữu lậu, vĩnh nhập Vô lậu.

Nếu có người muốn nhập cảnh Tam-ma-địa ấy, để được đầy đủ Phật huệ, thân tâm trong sạch, thì hãy quán niệm Đại Tam-ma-da Phật tướng chơn ngôn thần chú:
Án, A mật lật đá Đế tế Già lam Hùm.
(Phạn Ngữ ) OM AMRTA TEJE HARA HUM
https://www.youtube.com/watch?v=MzesYMj_fW8

–Thiện nam tử, chơn ngôn Phạm chú nầy là tòa ngồi cứu cánh lý trí của tất cả mười phương ba đời Như Lai, là căn bản của 12 Không nguyện. Nếu đệ tửcủa ta muốn làm lợi lạc cho ba cõi nhơn thiên, hãy viết chép Kinh này mà thọ trì, đọc tụng sẽ tăng trưởng phước lạc,tăng ích trí tuệ,biện tài tăng trưởng thọ mạng sắc lực, tiêu trừ nghiệp chướng, tiêu diệt vạn bệnh, tăng trưởng bi ái, sắc thiện đều đầy đủ. Huống là chí tâm biên chép, đọc tụng sẽ độ cho ba đời vô sanh thay đổi nhà lửa trong Tam giới. Đã tụng trì nhứt định vãng sanh về Chín phẩmTịnh độ của cõi Cực Lạc.
Bấy giờ,đại chúng nghe được lời Đức Phật đều đại hoan hỉ, tin thọ phụng hành.
CHUNG
-----------

Giải thích :

OṂ: Thân khẩu ý
AMṚTA: Cam Lộ bất tử
TEJE: Uy Quang
HARA: Thâu nhiếp
HŪṂ: Thành tựu mùi vị an lạc tịch tĩnh của Đại Niết Bàn

Toàn bài Chú trên có thể diễn dịch là:
“Thân khẩu ý hãy thâu nhiếp ánh sáng uy đức của Cam Lộ Bất Tử mà thành tựu tự tính an vui vắng lặng của Đại Niết Bàn”

.Một số vị Đạo Sư Mật Giáo giải thích ý nghĩa của Tâm Chú này như sau:
OṂ: Ba thân, Quy Mệnh
AMṚTA: nghĩa là Cam Lộ biểu thị cho Đại Bi của Đức Phật A Di Đà

TEJE: có sáu nghĩa
1_Uy Đức tức đầy đủ uy đức của 6 Ba La Mật
2_Uy Quang, tức đầy đủ ánh sáng chiếu khắp
3_Uy Thần, tức đầy đủ Thần Cảnh Thần Thông
4_Uy Lực, tức đầy đủ Đại Lực
5_Uy Mãnh tức đầy đủ Đức mau diệt oan gia
6_Đại Uy Nộ, tức đầy đủ sự giận dữ nhập vào Địa của Bồ Tát

HARA: nghĩa là tác nghiệp, có 6 nghĩa
1_ Làm Phật, tức được Tâm làm Phật như vậy lâu xa đến Thỉ Giác
2_Tác Nghiệp, tức đi đến nghinh đón, tiếp dẫn không có gián đoạn
3_Tác dụng, tức là Thần Lực tự tại
4_Tác niệm, tức là nghinh đón chúng sinh có mười niệm
5_Tác Định, tức là nhập vào Diệu Quán Sát Trí Tam Ma Địa Định
6_Tác Nguyện, tức là phát 48 Đại Nguyện

HŪṂ: nghĩa là phát Tâm Bồ Đề khủng bố các Ma chướng, thành tựu cuộc sống cao đẹp của Thánh Nhân
Chân Ngôn này hay tụng đủ mười vạn biến thì được thấy Đức A Di Đà Như Lai, sau khi chết quyết định được sanh về Thế Giới Cực Lạc.

Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy, xưng tán danh hiệu của 12 vị Quang Phật, tức vĩnh viễn ra khỏi nhà lửa trong ba cõi, quyết định sanh Chơn như, xa lìa Hữu lậu, vĩnh nhập Vô lậu.
Đây gọi là Chín phẩm Tịnh Thức chơn như cảnh. Trong ấy có bảo tượng Nội tọa gồm 12 mạn-đà-la Đại Viên Cảnh Trí như trên.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6825
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TÔI TU TỊNH ĐỘ

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 5 31, 2017 10:07 am

LUẬN VỀ CỬU PHẨM VÃNG SANH :

Người Phật tử trong lúc sơ cơ học đạo, vì còn nặng gánh gia đình, chúng ta nên thực hành từng bước một những điều Phật dạy để tạo dựng một nếp sống gia đình thoải mái,lành mạnh, an vui, hạnh phúc, nhờ đó làm thềm thang đưa tới quả vị Bồ-Đề .
­Nếu luận rằng quả Phật khó đạt và việc Phật sự khó thực hành, chúng ta không biết đến đời nào mới chứng quả ? Sự giác ngộ và giải thoát không gì khác là ngay trong mỗi hành động, lời nói của ta trong sạch và lợi lành cho kẻ khác.

Phật đã dạy "Ta là Phật đã thành,các ngươi là Phật sẽ thành" thì quả Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác không xa đối với người Phật tử chân chánh, biết quyết tâm thực hành Phật giáo .

Những ai muốn sanh qua cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà đều do công hạnh tịnh nghiệp khác nhau mà vãng sanh đến chín phẩm hoa sen cao thấp khác nhau. Chín phẩm hoa sen ấy sanh ra làm ba bối Thượng, Trung, Hạ mỗi bối lại có ba phẩm khác nhau : Thượng, Trung, Hạ.
Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ giải thích cửu vãng sanh như sau:

Phật Thuyết Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật - Sūtra of Visualization of Amitāyus Buddha
https://www.youtube.com/watch?v=-UjX2qnqPzo
Tụng Kinh Vô Lượng Thọ ( Trọn Bộ ) - Thích Trí Thoát ( Có Chữ )
https://www.youtube.com/watch?v=23ie2CXMg9w
Kinh A Di Đà (Âm Việt) (Có Chữ Dễ Đọc Tụng Theo) (Rất Hay) - Thích Trí Thoát
https://www.youtube.com/watch?v=ofTH_Vk1ZC0

Tín - Nguyện đã đầy đủ thì Niệm Phật chính là chánh hạnh; cải ác tu thiện đều là trợ hạnh. Tùy theo công sức sâu cạn mà chia thành chín phẩm, bốn cõi Tịnh Ðộ, mảy may chẳng lạm. Chỉ cần tự kiểm điểm lấy mình, chẳng cần phải hỏi người khác nữa.
Nghĩa là: tín sâu nguyện thiết niệm Phật.
Câu hỏi tự trả lời : Tam thời hệ niệm là chánh hạnh hy trợ hạnh ?

Hơn nữa, tín nguyện trì danh, tiêu phục nghiệp chướng, đới nghiệp vãng sanh chính là Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ.

Tín nguyện trì danh, đoạn sạch Kiến Tư Hoặc mà vãng sanh thì là Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ.

Tín nguyện trì danh, phá tan một phần vô minh mà vãng sanh chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ.

Tín nguyện trì danh, trì đến chỗ cứu cánh, đoạn sạch vô minh mà vãng sanh thì chính là Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ. Vì thế trì danh sanh trong tứ độ cũng là điều đích xác chẳng lầm vậy.

(Ngẫu Ích Đại Sư)

http://niemphat.net/Luan/ngauichdaisu.htm

* Một môn Tịnh Độ tuy rộng nhiếp các căn đều đạt Bất Thoái, nhưng gặp Phật lâu - mau, nghe pháp lớn - nhỏ, chứng quả, thọ ký nhanh - chậm đúng là khác nhau vời vợi một trời, một vực! Kinh Đại Bổn chia giản lược thành ba bậc, Quán Kinh chia kỹ thành chín phẩm. Trong Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh ghi chép là:


ĐIỀU KIỆN VÃNG SANH BA BẬC THƯỢNG PHẨM :

Thượng Phẩm lấy giải ngộ làm gốc.

Nhóm bậc Thượng là: buông bỏ nhà cửa, vứt bỏ ái dục mà làm Sa Môn, phát Tâm Bồ Đề, một hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, tu các Công Đức, nguyện sinh về nước ấy.

THƯỢNG PHẨM Thượng Sanh
a-Dùng tín tâm, đối với bản thệ nguyện lực của đức Phật A Di Đà.
Dùng chí thành tâm, miệng niệm tâm nhớ.
Dùng thâm tâm, niệm Phật niệm niệm buộc tâm.
Lại dùng hồi hướng phát nguyện tâm, đem công đức niệm Phật hồi hướng cho tất cả chúng sinh, đều lìa khổ được vui, đều tin Phật, học Pháp, kính Tăng, đều niệm Phật thành Phật.
Tu 3 thứ : Từ tâm bất Sát
Đọc tung Kinh điển đại thừa
Tu hành 6 niệm : niệm Phật, Pháp, Tăng Giới, Thí, Thiện hồi hướng phát nguyện vãng sanh

b-Niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, tùy ý đoạn Kiến Tư Hoặc hay Trần Sa Hoặc trước và cũng hàng phục được vô minh thì thuộc vào ba phẩm Thượng Sanh.
Tín nguyện trì danh, trì đến chỗ cứu cánh, đoạn sạch vô minh mà vãng sanh thì chính là Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ. Vì thế trì danh sanh trong tứ độ cũng là điều đích xác chẳng lầm vậy.

c-Nếu phân tích kỹ, “đọc tụng kinh Đại Thừa” như đã nói trong phần Thượng Phẩm Thượng Sanh, nghĩa là “tông thuyết câu thông” (thông suốt cả Tông lẫn Giáo), tu hành lục niệm đến mức “hạnh giải tương ứng”, cho nên trong khoảng khảy ngón tay liền vãng sanh, thấy Phật, nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn, trong khoảnh khắc đi qua các nơi phụng sự mười phương chư Phật, được thọ ký. Tăng như Viễn Công, Trí Giả, tục như các vị Lưu Di Dân, Dương Vô Vi... đáng thuộc phẩm này.

THƯỢNG PHẨM Trung Sanh

a-Tin kính Phật, tin sâu lý nhân quả, không ngạo báng Giáo pháp Đại thừa, dùng công đức ấy, hồi hướng nguyện vãng sanh qua cõi Cực Lạc.
b-Niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, tùy ý đoạn Kiến Tư Hoặc hay Trần Sa Hoặc trước và cũng hàng phục được vô minh thì thuộc vào ba phẩm Thượng Sanh.
Tín nguyện trì danh, phá tan một phần vô minh mà vãng sanh chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ.

c-Người sanh trong Thượng Phẩm Trung Sanh là tuy chưa đạt đến mức đọc tụng kinh Đại Thừa, nhưng đã hiểu được Đệ Nhất Nghĩa. Như vậy, chính người ấy đã có ngộ nhập, nhưng hạnh chứng chưa bằng được với bậc Thượng Thượng Phẩm, nên phải trải qua một đêm hoa sen mới nở, thấy Phật. Do sự tu tập từ trước, nghe thấy tất cả các âm thanh đều nói Đệ Nhất Nghĩa Đế rất sâu. Trong vòng bảy ngày đắc Bất Thoái Chuyển nơi A Nậu Bồ Đề, tu các tam muội, trải qua một tiểu kiếp đắc Vô Sanh Nhẫn.

THƯỢNG PHẨM Hạ sanh
a-Tin lý nhân quả, chẳng ngạo báng Giáo lý Đại thừa, chỉ phát tâm Bồ Đề vô thượng. Dùng công đức ấy nguyện hồi hướng cầu sanh qua thế giới Cực Lạc Tây Phương.

b-Niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, tùy ý đoạn Kiến Tư Hoặc hay Trần Sa Hoặc trước và cũng hàng phục được vô minh thì thuộc vào ba phẩm Thượng Sanh.
Tín nguyện trì danh, đoạn sạch Kiến Tư Hoặc mà vãng sanh thì là Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ.

c-Người sanh trong Thượng Phẩm Hạ Sanh, tuy chưa ngộ nhập, nhưng cũng đã phát Vô Thượng Đạo Tâm, tự muốn thấy rõ bổn tánh, nhưng chưa được toại chí bèn cầu sanh. Bảy ngày thấy Phật, hai mươi mốt ngày mới được nghe diệu pháp, trải qua ba tiểu kiếp mới trụ vào Hoan Hỷ Địa.
Người sanh trong Thượng Phẩm Hạ Sanh : sau khi phát Vô Thượng Đạo tâm phải qua mười tiểu kiếp mới đắc Sơ Địa.



ĐIỀU KIỆN VÃNG SANH BA BẬC TRUNG PHẨM

Trung Phẩm lấy giới - thiện làm gốc.

Nhóm bậc Trung là: tuy chẳng thể hành làm Sa Môn, tu Công Đức lớn, một hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, tùy theo sự tu hành của chính mình: các Công Đức tốt lành, phụng trì Trai Giới, dựng lập Tháp Tượng, dâng thức ăn cho Sa Môn, treo lụa là, thắp đèn, rải hoa, đốt hương… đem điều này hồi hướng, nguyện sinh về nước ấy.

TRUNG PHẨM Thượng sanh

a-Thọ trì 5 giới, 8 giới, cụ túc giới… chẳng tạo tội ngũ nghịch, không có lầm lỗi. Dùng căn lành ấy hồi hướng nguyện cầu sanh qua cõi Cực Lạc Tây Phương.
b-Tin sâu nguyện thiết niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si thì thuộc vào ba phẩm Trung Sanh.

c-Người sanh trong Trung Phẩm Thượng Sanh là nam nữ tại gia lòng tin trong sạch, trì giới cầu sanh, lâm chung thấy Phật vãng sanh, hoa sen liền nở, nghe pháp nói Tứ Đế liền lập tức đắc đạo A La Hán. Do giới lực chuyên chú nên hoa nở chứng quả rất nhanh, nhưng do chưa phát Vô Thượng Đạo Tâm nên những điều được nghe chỉ là Tứ Đế, quả chứng được chỉ là Tiểu Quả.

d-Ba phẩm Trung tuy dùng giới - thiện để cầu sanh, tâm tự độ kiên cố, nhưng hạnh độ tha khiếm khuyết nên dù rốt cuộc sẽ đắc Đại Thừa, nay tạm thời chỉ chứng Tiểu Quả.
Người xuất gia giới hạnh tinh chuyên cũng sanh trong Trung Phẩm Thượng Sanh.

TRUNG PHẨM Trung Sanh

a-Một ngày một đêm trì 8 giới, một ngày một đêm trì giới 10 Sa di, một ngày một đêm trì cụ túc giới, oai nghi không thiếu. Dùng công đức ấy hồi hướng nguyện cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc Tây Phương.
b-Tin sâu nguyện thiết, niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si thì thuộc vào ba phẩm Trung Sanh.

c-Người sanh trong Trung Phẩm Trung Sanh là hạng nam nữ xuất gia trì giới cầu sanh. Kinh nói: “Một ngày một đêm trì giới Sa Di, trì giới Cụ Túc” nhằm chỉ rõ: Giới pháp thù thắng, dù trì trong một thời gian ngắn ngủi còn được vãng sanh, huống là trì giới đã lâu?

Người tại gia tạm thời trai giới cũng có thể sanh trong Trung Phẩm Trung Sanh. Lâm chung thấy Phật, vãng sanh xong bảy ngày sau hoa mới nở, nghe pháp đắc quả Tu Đà Hoàn, sau nửa kiếp thành A La Hán.

d-Ba phẩm Trung tuy dùng giới - thiện để cầu sanh, tâm tự độ kiên cố, nhưng hạnh độ tha khiếm khuyết nên dù rốt cuộc sẽ đắc Đại Thừa, nay tạm thời chỉ chứng Tiểu Quả.
Như vậy hàng cư sĩ chúng quả cao nhất nằm trong Trung Phẩm Trung Sanh với điều kiện : Tin sâu nguyện thiết, niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si.

TRUNG PHẨM Hạ sanh

a-Hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, làm những việc nhơn từ ở thế gian, lúc sắp mạng chung gặp bực thiện trí thức nói cho nghe việc vui nơi cõi nước A Di Đà. Cũng nói cho nghe 48 điều nguyện của Ngài Pháp Tạng Kỳ Kheo. Nghe mà vui liền được sanh qua cõi Cực Lạc Tây Phương.
b-Tin sâu nguyện thiết, niệm Phật đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si thì thuộc vào ba phẩm Trung Sanh.

c-Người sanh trong Trung Phẩm Hạ Sanh cũng là tục nhân nam nữ chưa từng quy hướng Tam Bảo, nhưng bẩm tánh nhân hiếu, có khả năng đạt đạo. Lúc lâm chung gặp thiện tri thức khai thị liền được vãng sanh. Sau bảy ngày thấy hai vị đại Bồ Tát, nghe pháp đắc quả Tu Đà Hoàn, trải mười tiểu kiếp mới thành A La Hán.
d-Ba phẩm Trung tuy dùng giới - thiện để cầu sanh, tâm tự độ kiên cố, nhưng hạnh độ tha khiếm khuyết nên dù rốt cuộc sẽ đắc Đại Thừa, nay tạm thời chỉ chứng Tiểu Quả.


ĐIỀU KIỆN VÃNG SANH BA BẬC HẠ PHẨM

Tín nguyện trì danh, tiêu phục nghiệp chướng, đới nghiệp vãng sanh chính là Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ.

Hạ Phẩm thuần ác không thiện, chỉ là lúc lâm chung gặp thiện hữu, một niệm tín tâm diệt tội vãng sanh.
Ba phẩm Hạ tuy là phàm phu cực ác nhưng do được nghe hai vị Đại Sĩ thuyết pháp thậm thâm, phát được Vô Thượng Đạo Tâm nên dù phải trải qua nhiều kiếp, vẫn dự thẳng vào thánh vị. Đấy chính là chỉ trong một niệm, nhanh chóng vượt khỏi Đại - Tiểu, Quyền thừa tiểu quả, một đời tinh tấn vượt xa nhiều kiếp. Thai sen lớn - nhỏ là do phát tâm nhanh hay chậm.

Nhóm bậc Hạ là: chẳng thể làm các Công Đức, chỉ một hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, vui vẻ tin tưởng ưa thích, chẳng sinh nghi ngờ. Dùng Tâm chí thành nguyện sinh về nước ấy.

Nhưng nếu không tu niệm Phật khi còn khỏe, minh mẫn, đến lúc đau bệnh hôn mê không biết niệm Phật là gì và không có số may phước đức gặp thiện tri thức khai ngộ thì không thể vãng sanh.

HẠ PHẨM Thượng sanh

a-Ai làm ra việc ác, tạo nhiều pháp dữ, chẳng biết hổ thẹn. Song lúc sắp mạng chung, gặp bậc thiện tri thức thuyết cho nghe danh tự đầu đề 12 bộ Kinh Đại thừa, nhờ vậy mà trừ được nghiệp dữ rất nặng trong ngàn kiếp. Bậc thiện tri thức ấy lại dạy cho đảnh lễ Phật và niệm danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” nhờ xưng tên Phật mà được vãng sanh qua thế giới Cực Lạc.

b-Tin sâu, nguyện thiết niệm Phật, nhưng lúc niệm Phật lại chẳng tán loạn thì là Hạ Phẩm Thượng Sanh.
c-Người sanh trong Hạ Phẩm Thượng Sanh chính là ác nhân tục gia, lúc lâm chung gặp thiện tri thức dạy xưng niệm Phật danh, diệt tội vãng sanh. Bảy ngày sau hoa nở, thấy hai vị đại sĩ giảng mười hai bộ kinh rất sâu, bèn phát Vô Thượng Đạo Tâm. Qua mười tiểu kiếp được nhập Sơ Địa.

HẠ PHẨM Trung sanh

a-Ai hủy phạm năm giới, tám giới, cụ túc giới, ăn cắp đồ của nhà Chùa, thuyết pháp chẳng thanh tịnh, chẳng biết hổ thẹn, dùng các nghiệp dữ tô điểm lấy mình, kẻ ấy đang đọa Địa ngục. Lúc lâm chung lửa Địa ngục sắp đốt. Song nhờ gặp bậc thiện tri thức tán thán cho nghe oai lực của Đức Phật A Di Đà, thần lực hào quang của Đức Phật A Đà. Cũng tán thán công đức của Giới, Định, Huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến. Người ấy nghe rồi, vui mừng liền có gió mát thổi đưa mình đến cõi Phật A Di Đà.

b-Tín sâu, nguyện thiết niệm Phật, nhưng lúc niệm Phật tán loạn giảm thiểu thì là Hạ Phẩm Trung Sanh.

c-Người sanh trong Hạ Phẩm Trung Sanh chính là ác nhân xuất gia phá giới, lâm chung gặp thiện tri thức xưng danh hiệu Phật, thuyết pháp, nhất niệm vãng sanh. Phải sáu kiếp hoa sen mới nở, thấy hai vị Đại Sĩ, nghe kinh điển Đại Thừa rất sâu, phát Vô Thượng Đạo Tâm.


HẠ PHẨM Hạ sanh

a-Ai làm nghiệp chẳng lành: Năm nghịch, 10 ác, đủ hết sự chẳng lành, đáng đọa ác đạo, trải nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Nhưng tới lúc mạng chung gặp bậc thiện tri thức an ủi, thuyết pháp cho nghe và dạy niệm Phật A Di Đà. Nhờ xưng danh hiệu của Phật A Di Đà mà được tiêu tội, liền được vãng sanh về cõi Cực Lạc.

b-Tín sâu, nguyện thiết niệm Phật, nhưng lúc niệm Phật nhiều tán loạn

c-Người sanh trong Hạ Phẩm Hạ Sanh là hạng ngũ nghịch thập ác cực ác và cả hai loại Tăng, tục, lúc lâm chung gặp thiện tri thức dạy xưng danh hiệu Phật, mười niệm vãng sanh. Sau mười hai tiểu kiếp hoa sen mới nở, nghe hai vị Đại Sĩ vì mình giảng Thật Tướng các pháp bèn phát tâm Bồ Đề.

Với hai phẩm cuối này, kinh không nói đến thời hạn chứng nhập địa vị .
Ba phẩm Hạ tuy là phàm phu cực ác nhưng do được nghe hai vị Đại Sĩ thuyết pháp thậm thâm, phát được Vô Thượng Đạo Tâm nên dù phải trải qua nhiều kiếp, vẫn dự thẳng vào thánh vị. Đấy chính là chỉ trong một niệm, nhanh chóng vượt khỏi Đại - Tiểu, Quyền thừa tiểu quả, một đời tinh tấn vượt xa nhiều kiếp. Thai sen lớn - nhỏ là do phát tâm nhanh hay chậm.

(Triệt Lưu Đại Sư)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6825
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TÔI TU TỊNH ĐỘ

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 5 31, 2017 10:08 am

SỰ VÀ LÝ TRONG ĐẠO PHẬT
Nhiều người mới học Phật chỉ được chút ít kiến thức về tư tưởng của Thiền Tông hay là triết lý Tánh Không trong Kinh Bát Nhã mà hễ thấy ai nói gì về sự tướng thì nói là Chấp.

Tất cả lời dạy của Chư Phật, Chư Tổ đều có hai phần Sự và Lý.
Sự là nói tất cả các Hiện Tượng sanh diệt trong thế gian.
Lý là nói về Bản Thể của Hiện Tượng.

Sự là nói về Tướng Sanh Diệt của các Pháp, Lý là nói về Thể Bất Sanh Bất Diệt của các Pháp.

Trong Kinh thí dụ Sự như là sóng biển còn Lý như là cái ướt của nước. Nhìn theo Tướng của sóng mà nói thì có muôn ngàn sự sai biệt không đồng, nhìn theo cái ướt của nước mà nói thì tất cả sóng đều cùng một Thể. Trên Lý thì các ngọn sóng đổng cùng Thể là ướt nhưng mà trên Sự thì mỗi ngọn sóng đều có Tướng khác nhau.

Nói đến Lý Chân Thật Tuyệt Đối như trong Kinh Hoa Nghiêm nói thì Lý Sự Viên Thông tức là Lý không rời Sự, Sự không rời Lý. Lý tức là Sự, Sự tức là Lý.

Một người biết áp dụng thông lý lẽ trong kinh Phật thì phải hiểu thông Sự và Lý trong kinh dạy. Người mà Chấp Sự thì còn gọi là Chấp Tướng, Người mà Chấp Lý thì còn gọi là Chấp Không.

Thế nào là Chấp Tướng:

I-Đó là không tu quán tâm để xả các tâm niệm Tham, Sân, Si, tuy là nói tu theo Phật nhưng mà vẫn tham đắm thế gian ham mê các thứ phước hữu vi không chịu hành Thiền, Niệm Phật mà chỉ cầu quả báo cõi người cõi trời.

II-Là dù có phát tâm tu hành muốn vượt khỏi sanh tử những vẫn còn chấp vào các sự tướng như là thấy mình làm bao nhiêu việc phước thiện, giữ giới thanh tịnh như thế nào v.v.

III-Đó là Chấp vào các Pháp Phương Tiện mà Đức Phật dạy trong các Kinh cho là cứu cánh rồi sanh tranh cãi lẫn nhau. Thí dụ như người tu Thiền lại bác người tu Tịnh Độ, người tu Tịnh Độ lại bác người tu Thiền v.v.

Thế nào là Chấp Không:

Đây là lối Chấp rất là nguy hiểm mà trong kinh Đại Bát Nhã Đức Phật đã nói.
Trong Kinh Đại Bát Nhã, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Đại Bảo Tích mà đặc biệt là Kinh Đại Bát Nhã là bộ kinh thuyết giảng về Tánh Không trong kinh Đức Phật đã dạy rõ là "Thà Chấp Có như núi Tu Di còn hơn là Chấp Không như hạt cải" Đức Phật đã giảng là người mà Chấp Có thì còn tin Nhân Quả Nghiệp Báo còn chịu thực hành tu tập còn người mà Chấp Không thì không có chịu làm gì cả chỉ là chấp chặt vào mớ kiến giải về Không của minh mà cho là sự chứng đắc.

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Phật dạy "Vì chúng sanh có bịnh Chấp nên Đức Như Lai dùng thuốc Không mà chữa, người mà chấp vào Không thì không có thuốc chữa"

Người Chấp Không là những người chỉ học Phật Pháp trên Lý Thuyết chứ không có thực hành gì cả. Hơn nữa những người này chỉ lập lại Lời Nói Phá Chấp của Chư Phật, Chư Tổ rồi cứ cho như vậy là mình đã hiểu đạo đã là tu đạo.
Điển hình là những người học kinh Bát Nhã rồi Chấp vào câu "Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc" rồi thì chẳng tu Thiền, chẳng tu Tịnh Độ, chẳng tu Mật, mà chỉ một bề nói là tất cả các việc đó đều chỉ là hình tướng bên ngoài chứ Lý Tuyệt Đối thì không cần phải gò bó mà phải tự nhiên mà làm. Còn đối với giáo lý trong kinh thì chẳng hiểu thông suốt chỉ là hiểu một cách lờ mờ không thể phân biệt cái nào là Chánh Pháp cái nào là Tà Pháp. Hễ có ai nói thì bảo là người đó còn Chấp.

Trong Kinh Đại Bát Nhã nói Bồ Tát đối với tất cả Pháp đều thấy như mộng huyễn không có tự tánh mà Bồ Tát thường luôn thực hành các môn Ba La Mật.

Cái lối Nguỵ Biện trên mới qua thì nghe rất là hay và rất là cao siêu nhưng thật ra thì là trống rỗng bởi vì bản thân của những người thường trích dẫn các câu của các Chư Tổ Thiền Tông để bác bẻ người khác thì họ lại không có tu Thiền.

Người Chấp Không thì lúc nào cũng nói là không chấp gì cả rồi thì chẳng có tu hành gì cả mà chỉ là biện luận trống rỗng bằng những lời lẽ rất là cao siêu nhưng mà bản thân thì lại không có sự thật chứng. Người Chấp Không lúc nói Lý thì rất là hay nhưng lúc gặp cảnh thì Tham, Sân Si lại khởi lên mạnh mẽ không thể làm chủ mình.
Trong Kinh có dạy muốn biết là Ai Chấp Ai không Chấp thì chỉ có khi gặp cảnh thì mới biết thật bởi vì hễ còn Chấp thì còn Tham, Sân, Si thì còn bị cảnh dẫn đi.

Người Chấp Không thì chẳng biết là các lời Chư Phật, Chư Tổ nói ra là để Phá Chấp cho người tu hành chưa ngộ chứ không phải là vì đã ngộ mà nói. Cũng như là thuốc để trị cho người bịnh chứ không phải là vì người mạnh khoẻ. Người Chấp Không thì chỉ thiên về Lý mà chẳng chịu tu Sự, chỉ thấy nói các Pháp Không Có Tự Tánh mà chẳng biết là Kinh dạy Nghiệp theo thân như bóng theo hình.

Người mà thật sự Ngộ Lý thì lại càng tinh tấn Tu Sự, bởi vì đến bậc đó thì trong Sự là Lý, trong Lý là Sự.
Chư Tổ Thiền Tông nói lời ra đều là vì người đương cơ trong hội mà nói hoặc là để Ngăn Chấp vọng tưởng phân biệt hoặc là để Chỉ Thẳng Bản Tâm .

Những người Chấp Không khi thấy người khác dẫn lời Phật, Tổ thì cho là Chấp nhưng mà họ lại không biết là muốn giảng giải lý lẽ trong Kinh thì phải nương nơi Kinh. Trong Kinh Hoa Nghiêm có "Chấp y lời kinh mà giải nghĩa thì là oan cho ba đời chư Phật, còn rời kinh một chữ mà nói đó là lời nói của Ma".
Người Chấp Không thì không chịu giữ giới, ngồi Thiền, Niệm Phật gì cả mà chỉ thich bàn luận Phật Pháp suông mà thôi.

Các Thánh như Bồ Tát Mã Minh, Bồ Tát Long Thọ, Chư Tổ Thiền Tông, Tịnh Độ Tông đối với Phật Pháp đã thông suốt hết mà lúc các Ngài vẫn lạy Phật sám hối, ngồi Thiền, niệm Phật. Khi mà các Ngài làm Luận để giảng giải lời của Đức Phật thì các Ngài cũng phải dẫn lời trong Kinh Phật ra để làm chứng chứ không phải là muốn nói sao thì nói.

BA CÕI, SÁU NẺO, CHÍN CÕI

Ba cõi (Tam giới, hay còn gọi là Tam hữu), là ba cõi của Vòng sinh tử, là nơi mà loài Hữu tình tái sinh. Khái niệm Tam giới này có thể hiểu là Vũ trụ quan của đạo Phật. Tam giới bao gồm:

1-Dục giới:
Có ái dục về giới tính và những ái dục khác.
Trong dục giới có những loại hữu tình sau (6 nẻo hay còn gọi 6 đường): Ngạ quỷ, Địa ngục, Loài người, Súc sinh, A-tu-la, Cõi trời.
Cõi trời ở dục giới cũng chia thành sáu cõi Thiên:
*Tứ thiên vương
*Đao lợi hay Tam thập tam thiên
*Dạ-ma hoặc Tu-dạ-ma thiên
*Đâu-suất thiên (Là nơi Bồ Tát Di Lặc đang tu tập để trở thành Phật trong tương lai)
*Hoá lạc thiên
*Tha hoá tự tại thiên

Thế nào là Cõi Dục Giới ?
Cõi Dục Giới là nơi chúng sanh phần lớn là hưởng cảnh ngũ dục (Sắc dục, Thinh dục, Hương dục, Vị dục và Xúc dục).

Cõi Dục Giới chia ra có 11:
1-Cõi Ðịa Ngục là cảnh giới bất hạnh, những chúng sanh ở trong cõi này hoàn toàn không có hạnh phúc.
2-Cõi Ngạ Quỷ là cảnh giới của những chúng sanh hằng chịu sự đói khát.
3-Cõi Bàng Sanh là cảnh giới của những chúng sanh có thân hình đầu đuôi ngang nhau.
4-Cõi A Tu La là cảnh giới của những người Tâm tánh hung dữ.
5-Cõi Nhân Loại là cảnh giới của loài người có trí tuệ thông minh được gọi bằng danh từ Manussàna.
6-Cõi Tứ Thiên Vương là cảnh giới của Chư Thiên dưới quyền chủ trị của 4 vị Thiên Vương.
7-Cõi Ðạo Lợi là cảnh giới của Chư Thiên có 33 vị Trời làm chủ nên cõi này còn được gọi là cõi Tam Thập tam Thiên; theo tục truyền thì thời quá khứ có chàng thanh niên Magha hướng dẫn 32 vị thanh niên khác làm những công tác từ thiện, phục vụ cho người nên sau khi chết được sanh về cõi này.
8-Cõi Dạ Ma là cảnh giới của Chư Thiên được nhiều sự an vui tiêu diệt những sự khổ (thông thường).
9-Cõi Ðâu Suất là cảnh giới của các vị Trời thọ hưởng Quả phước nhất là Quả phước của Ba La Mật, các vị Bồ Tát trước khi thành Phật sanh lên đây để chờ cơ hội đầy đủ căn duyên liền tái sanh lần chót chứng Quả Phật Toàn Giác. (Cõi trời này có hai viện, Đâu-Suất Ngoại Viện và Đâu-Suất Nội Viện)
10-Cõi Hóa Lạc Thiên là cảnh giới của các vị Trời khi nào muốn hưởng Dục lạc thì tự hóa hiện ra mà dùng.
11-Cõi Tha Hóa Tự tại là cảnh giới của các vị Trời khi nào muốn hưởng năm món Dục Lạc thì có kẻ khác đem đến dâng. Cõi này là trú xứ của Ma Vương.

(*) Cõi nào là nơi phát sinh phiền não và vật dục, cõi ấy gọi là Cõi Dục giới (Kamassabhavoti: Kamavacara).

2-Sắc giới:

Các vị ở đây thuộc nam tính nhưng đã chấm dứt mọi dục tính, ăn uống, nhưng còn có khoái lạc. Đây là thế giới của các thiên nhân trong cõi Thiền. Hành giả tu tập thiền định có thể tái sinh trong cõi sắc. Sắc giới gồm bốn cõi, mỗi cõi lại được chia làm nhiều cõi thiên khác nhau.

3-Vô sắc giới:

Thế ở cõi này được tạo dựng thuần túy bằng tâm thức và gồm Bốn xứ:
*Không vô biên xứ
*Thức vô biên xứ
*Vô sở hữu xứ
*Phi tưởng phi phi tưởng xứ

Hành giả tu học Tứ thiền bát định có thể tái sinh vào bốn xứ này.

Chín cõi (cửu địa, cửu hữu) chỉ là một cách phân chia khác của“ba cõi”hay“sáu nẻo”, đều chỉ cho cái vòng sinh tử luân hồi. Chín cõi ấy là:

1-Cõi của năm loài có dục vọng cùng ở chung lộn với nhau (Ngũ thú tạp cư địa). Năm loài này là: Trời cõi Dục, Người, Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh. Nói cách khác, đây tức là cõi Dục, một trong ba cõi đã đề cập ở trước.

2-Cõi của chúng sinh do vì thoát li khỏi cõi Dục mà sinh niềm vui vẻ (Li sinh hỉ lạc địa– tức cõi trời Sơ-thiền của cõi Sắc).

3-Cõi của chúng sinh do vì được an trú trong thiền định mà sinh niềm vui vẻ (Định sinh hỉ lạc địa– tức cõi trời Nhị thiền của cõi Sắc).

4-Cõi của chúng sinh do vì bỏ được niềm vui có vẻ tự mãn của hai cõi trên (Sơ thiền và Nhị thiền) mà tâm ý trở nên an tĩnh hơn và có được niềm vui thanh thoát hơn (Li hỉ diệu lạc địa tức cõi trời Tam-thiền của cõi Sắc).

5-Cõi của chúng sinh do vì buông bỏ được mọi niềm vui đã có ở trên mà tâm trở nên hoàn toàn tĩnh lặng, bình đẳng, thanh tịnh (Xả niệm thanh tịnh địa– tức cõi trời Tứ-thiền của cõi Sắc).

6-Cõi của chúng sinh đã vượt khỏi cõi Sắc để an trú trong cảnh giới thiền định đầu tiên của cõi Vô-sắc là Không-vô-biên-xứ (Không vô biên xứ địa).

7-.Cõi của chúng sinh được an trú trong cảnh giới thiền định thứ hai của cõi Vô-sắc là Thức-vô-biên-xứ (Thức vô biên xứ địa).

8-Cõi của chúng sinh được an trú trong cảnh giới thiền định thứ ba của cõi Vô-sắc là Vô-sở-hữu-xứ (Vô sở hữu xứ địa).

9-Cõi của chúng sinh được an trú trong cảnh giới thiền định cao tột của cõi Vô-sắc là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ (Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa).
Nhiều Phật tử đến chùa, làm việc thiện… chỉ để cầu mong được phước đức, giàu sang. Nhưng như Đức Phật đã dạy trong kinh “Diệu Pháp Liên Hoa”:Dù chúng ta có sinh vào cõi sung sướng như cõi trời hay cao hơn nữa như ở cõi sắc và vô sắc thì vẫn như đang ở trong nhà lửa, hết phước đức lại vẫn bị đọa vào các đường xấu. Hãy cầu xin được giải thoát, cầu xin thoát khỏi sinh tử. Trong thời mạt pháp này, Đức Phật khuyên chúng ta hãy trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà để được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Lên được cõi đó, chúng ta không còn bị luân hồi, sinh tử nữa.



BỐN THỨ TÂM CỦA PHÁP MÔN NIỆM PHẬT

Dùng tín tâm, đối với bản thệ nguyện lực của đức Phật A Di Đà.
Dùng chí thành tâm, miệng niệm tâm nhớ.
Dùng thâm tâm, niệm Phật niệm niệm buộc tâm.
Lại dùng hồi hướng phát nguyện tâm, đem công đức niệm Phật hồi hướng cho tất cả chúng sinh, đều lìa khổ được vui, đều tin Phật, học Pháp, kính Tăng, đều niệm Phật thành Phật.

1. Tín tâm

Ở trong Phật pháp cho dù tu pháp môn nào trước tiên phải có tín tâm, như trong kinh đã nói: tin thì có thể vào. Người học Phật lấy tín tâm làm điều kiện trọng yếu thứ nhất.
Đối tượng của tín tâm là tin pháp mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói trong kinh, đều là chân ngữ thật ngữ, câu câu đều hữu dụng, chữ chữ quý như vàng. Đứng ở lập trường phàm phu dù không đủ sức làm được đều phải nên tin. Vì đó gọi là Thánh ngôn lượng, đối với lời nói của bậc đại Thánh Phật Đà, lời lời đều chân thật không được hoài nghi, không nên cân nhắc. Đặc biệt là phương pháp tu hành rất nhiều, có vô lượng pháp môn, mỗi một pháp môn đều tùy theo căn tính bất đồng. Người không cùng chủng loại với nhau có căn tính tương đồng và căn tính bất đồng. Người không cùng hoàn cảnh thời đại cũng có căn tính tương đồng và căn tính bất đồng, cần phải đem pháp môn vô lượng để tiếp dẫn chúng sinh vô biên.
Cho nên, lúc chúng ta nhận định chính xác và chấp nhận theo một vị Thiện tri thức nào tu hành, không nên hoài nghi về cá nhân họ nữa, cũng không nên hoài nghi về pháp môn mà họ đã dạy với pháp môn khác có giống nhau không? Có mâu thuẫn không? Trái lại thì sẽ không có cách gì sản sinh tín tâm kiên cố, cũng không đạt được chỗ thọ dụng chân chính.
Chúng ta đang ở trong khóa tu Phật thất, niệm là niệm Phật A Di Đà, tu là tu pháp môn Tịnh độ. Pháp môn này trong kinh Phật có hơn 60 loại nói về Tịnh độ phương Tây của Phật A Di Đà, trọng yếu nhất là kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, hợp lại gọi là ba kinh Tịnh độ.
Ở vào thời đại Ngụy Tấn của Trung Quốc (khoảng trước sau thế kỷ thứ 5 Tây lịch), việc tạo tượng Phật A Di Đà đã được thịnh hành. Ngài Đàm Loan thời Bắc Ngụy, ngài Huệ Viễn thời Đông Tấn, ngài Đạo Xước thời Tùy Đường, ngài Thiện Đạo thời Sơ Đường, về sau có các vị như Từ Mẫn, Pháp Chiếu, Thiếu Khang v.v… hoằng dương Tịnh độ Di Đà, nghiễm nhiên trở thành một dòng chính lớn của Phật giáo Trung Quốc.

Chúng ta tin gì? Tin trong kinh điển nói có thế giới Cực lạc phương Tây, tin bản thệ nguyện lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sinh hữu duyên đồng đăng chín phẩm sen ở cõi Tịnh độ phương Tây. Trước hết phải có tín tâm đối với bản nguyện của Phật A Di Đà, có tâm nguyện cầu sinh Tịnh độ, thì mới có thể quyết định được Đức Di Đà tiếp dẫn vãng sinh về thế giới Cực lạc phương Tây. Thế nhưng, phương pháp tu hành trong ba kinh Tịnh độ đã giới thiệu cũng có khác biệt.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật chủ trương dùng 16 pháp môn quán tưởng, tu trì theo quán tưởng tam muội và niệm Phật tam muội để đạt thành mục đích vãng sinh ba bậc chín phẩm.
Kinh Vô Lượng Thọ chủ trương tín ngưỡng 48 lời nguyện của Phật A Di Đà, y nguyện tu hành, cho dù phàm phu còn hoặc nghiệp cũng nhất định được vãng sinh Phật quốc.

Kinh A Di Đà chủ trương lấy tín nguyện hành, chấp trì danh hiệu Di Đà, cầu nguyện vãng sinh cõi Phật. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật cũng yêu cầu phải trì giới, tu phước, phát tâm Bồ đề. Kinh A Di Đà thì yêu cầu phải trì danh đến chỗ nhất tâm bất loạn.

Kinh Vô Lượng Thọ chủ trương nếu chỉ có thể tin vui không sinh tâm nghi, từ mười niệm cho đến một niệm, người cầu nguyện vãng sinh cũng được như nguyện. Vì Phật giáo Trung Quốc xem trọng kinh A Di Đà, cho rằng niệm Phật đến nhất tâm bất loạn mới có thể vãng sinh Tịnh độ phương Tây, do đó khiến cho rất nhiều người niệm Phật biến thành tự tư, không quản đến sự việc thế gian, chỉ cầu chuyên tâm niệm Phật, sợ đến lúc lâm chung không được nhất tâm bất loạn sẽ không được vãng sinh Cực lạc.

Tín ngưỡng Tịnh độ của Nhật Bản thì không như vậy, họ xem trọng kinh Vô Lượng Thọ, cho nên Tịnh độ tông của phái Pháp Nhiên, Tịnh độ Chân tông của phái Thân Loan, đặc biệt cường điệu bản nguyện tha lực của Phật A Di Đà, chỉ cần tin bản nguyện của Đức Di Đà cũng có thể nương nhờ sức Phật mà được cứu, tư tưởng này cũng giống như niềm tin Thượng đế của Cơ Đốc giáo, nhưng trên thực tế thì chẳng đồng. Bởi vì tín đồ Cơ Đốc giáo tin Chúa, tự mình không thể thành Chúa được, còn tín đồ Phật giáo niệm Phật kết quả sẽ thành Phật. phải tin kinh Phật, tin lời Phật, nếu y theo kinh A Di Đà trì danh hiệu Phật, từ một ngày đến bảy ngày nhất tâm bất loạn, lâm chung thấy Phật đến tiếp dẫn, quả là quý báu vô cùng, cho nên cần dùng phương thức tu Phật thất để trợ duyên tu chứng. Nếu căn cứ theo kinh Vô Lượng Thọ thì trừ người phạm tội ngũ nghịch ra, người nào muốn sinh về cõi Tịnh độ nên hết lòng tin vui, cho đến niệm Phật mười niệm cũng đều quyết định vãng sinh. Theo phương pháp này thì không phải lo không được nhất tâm bất loạn và không được vãng sinh Tịnh độ nước Phật.

Nếu y theo kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật thì so ra phiền phức hơn, phải chia làm ba điểm tiến hành tu trì Tịnh độ Di Đà.
1/ Tu ba phước (bao hàm luân lý thế gian, quy giới thập thiện, phát tâm Bồ đề, tụng kinh Đại thừa).
2/ Tu 16 pháp quán tưởng.
3/ Tu pháp chín phẩm vãng sinh.

Cho nên, kinh này tại Trung Quốc và Nhật Bản đều ít người tu. Thời xưa Trung Quốc và Nhật Bản xem trọng kinh Vô Lượng Thọ.
Người Trung Quốc hiện nay xem trọng kinh A Di Đà, cứu cánh của pháp môn Tịnh độ ở tại chữ tín, có tin bản nguyện của Đức Di Đà, mới có thể niệm Phật vãng sinh. Ngay như Bồ tát Long Thọ cũng nói, Tịnh độ thuộc về đạo dễ hành nhờ tha lực trợ giúp, nếu tu thiền quán thì cũng giống như kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói, ngược lại có điểm giống như đạo khó hành phải tự lực giải thoát.

Pháp môn tu hành Tịnh độ Di Đà, pháp này sở dĩ được nhiều người sùng tín tại Trung Quốc và Nhật Bản, là ở chỗ bản nguyện tha lực của Đức Di Đà ban cho người ta tín tâm tuyệt đối an ổn, không phải suy nghĩ công đức của mình đã làm nhiều hay ít, cũng không cần quan tâm đến công sức lớn nhỏ mà mình tu chứng. Chỉ cần tín ngưỡng bản nguyện của Phật A Di Đà, lập thệ vãng sinh là được, sau đó có thể an tâm gánh vác những việc tự lợi lợi tha. Cho dù trì giới không nghiêm, phiền não chưa đoạn hết, cũng có đức Phật A Di Đà y theo bản thệ nguyện lực của Ngài đến tiếp dẫn. Hành giả Tịnh độ có thể an tâm tu tập.

chấp trì Thánh hiệu Di Đà, cần phải tin bản thệ nguyện lực của đức Phật A Di Đà, tin người niệm Phật lúc lâm chung quyết định thấy được đức Phật A Di Đà từ bi tiếp dẫn, trong bảy ngày tu có thể được nhất tâm niệm Phật rất tốt, cho nên cần phải mỗi niệm dùng tâm niệm. Nếu vẫn tán tâm niệm mà không được hiệu quả nhất tâm cũng không lo, như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã nói, dù là người phạm tội ngũ nghịch thập ác, nếu đến lúc lâm chung gặp được bậc tri thức dạy cho niệm Phật A Di Đà, niệm được mười niệm thì thấp nhất cũng được hạ sinh hạ phẩm vãng sinh Cực lạc. Thế nhưng, đã đến đây tham gia Phật thất niệm Phật thì không được để tâm giải đãi, nếu bạn không kịp thời niệm Phật, niệm cho thành tập quán, đợi đến khi lâm chung, ai có thể bảo chứng bạn gặp được thiện hữu đến khuyến dẫn, ai lại có thể bảo chứng lúc ấy bạn còn đủ sáng suốt để niệm được mười niệm danh hiệu Phật A Di Đà? Do đó, phải ngay tại trong Phật thất này tinh tấn niệm Phật, nếu có thể trì niệm liên tục mọi lúc mọi nơi, thì đó là sự chuẩn bị rất tốt cho việc vãng sinh cõi nước Cực lạc phương Tây.

2. Chí thành tâm

Là tâm khẩn thiết, tâm thiết tha, không phải lòng này ý khác, tính khí bốc đồng, làm lấy lệ cho xong. Lúc niệm Phật phải miệng niệm tâm nhớ, như đức Phật A Di Đà đang ở trước mặt mình, tiếng từ miệng xuất, lại từ tai vào, tiếng tiếng in vào ruộng tâm, câu câu đều từ tâm xuất. Niệm niệm đều là danh hiệu Phật, chỗ chỗ đều là cõi Phật. Nếu như không có cách gì chuyên tâm niệm Phật thì nên quán tưởng: bạn là hành khách trên chiếc thuyền, gặp phải nạn biển bị bể, trồi hụp trong những cơn sóng dữ. Rất may lúc ấy bạn với được tấm ván thuyền bể, tất phải nắm chắc ôm chặt, không được sơ suất, ngược lại sẽ bị sóng to nhận chìm. Chỉ cần sơ ý lỏng tay một chút là tấm ván vuột ra khỏi tay trôi đi biền biệt, khi đó muốn nắm giữ cũng không còn kịp nữa. Lúc ấy thân bạn ở trong biển cả mênh mông, chỉ còn có con đường chết mà thôi. Lúc chúng ta niệm một câu danh hiệu Phật, cũng giống như người ở trong biển cả mênh mông sắp bị chết chìm ôm được tấm ván thuyền kia, ôm giữ danh hiệu Phật để niệm cũng vậy, lúc niệm phải đem danh hiệu Phật làm chiếc ván nỗi cứu mạng trong biển, không thể đem tâm lơ là mà niệm Phật. Tôi tin rằng quý vị đã xem câu biểu ngữ treo trên điện Phật tại Nông Thiền tự này rồi: “Miệng cùng với tâm tiếng tiếng tương ưng, niệm cùng với Phật bước bước không lìa”. Lúc ngồi niệm Phật thường dùng câu thứ nhất, dùng sức niệm lớn tiếng, dùng tâm niệm cao tiếng. Lúc kinh hành niệm Phật, thường dùng câu thứ hai, mỗi một câu niệm đều cùng với danh hiệu Phật tương ưng, mỗi một bước đều phối hợp với tiết tấu niệm Phật, niệm niệm không gián đoạn, bước bước không xa lìa. Đem toàn bộ ba nghiệp thân khẩu ý chăm chú vào từng câu niệm Phật.

3. Thâm tâm

Phẩm Phật quốc trong kinh Duy Ma có nói: “Thâm tâm tức là Tịnh độ”, còn trong phẩm Bồ tát của kinh này thì lại nói: “Thâm tâm là đạo tràng hay tăng trưởng công đức”. Tín tâm kiên cố không lay chuyển là do chỗ kinh nghiệm tu chứng và sự ứng nghiệm niệm Phật mà có. Khởi tâm niệm niệm buộc tâm niệm Phật, khi thành thói quen rồi thì tự nhiên lúc nào cũng niệm Phật, đó chính là thâm tâm niệm Phật. Nếu lúc niệm lúc không, ngày có ngày không, một ngày nóng mười ngày lạnh, thì đó là thiển tâm niệm Phật. Nếu vừa niệm Phật lại vừa khởi vọng tưởng, vừa niệm Phật lại vừa hôn trầm ngủ gục thì đó là thiển tâm niệm Phật.

Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ ở vào đầu đời Tống cuối đời Đường, đề xướng Thiền Tịnh song tu, nhưng lại lấy Tịnh độ làm chỗ quy thú, mỗi ngày trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà 100.000 câu. Đây là tấm gương của thâm tâm niệm Phật, phải niệm liên tục cả lúc ăn cơm, làm công việc, đi vệ sinh, không lúc nào lìa câu niệm Phật mới có thể một ngày niệm đủ số 100.000 câu. Nếu có thể thâm tâm niệm Phật như vậy thì phiền não vọng tưởng không có cách gì sinh khởi được.

Đủ chứng tỏ thâm tâm tức là tâm vi tế miên mật, là định tâm thật sự, là huệ tâm sáng suốt. Nếu có thể dùng thâm tâm niệm Phật, thì chính là nhất tâm niệm Phật, như vậy không chỉ thông đạt sự nhất tâm, cũng có thể tương ưng với lý nhất tâm. Không chỉ nhất định được vãng sinh Tịnh độ phương Tây, còn có thể tự mình thể nghiệm được Tịnh độ tự tính và Tịnh độ tự tâm. Thảo nào ngài Vĩnh Minh Diên Thọ chủ trương Thiền Tịnh song tu, khác đường nhưng chung mục đích đến. Nếu có thể thâm tâm niệm Phật cho đắc pháp đắc lực, thì đã thông cả cửa ngộ của người tu thiền rồi.

4. Hồi hướng phát nguyện tâm

Ý cạn của hồi hướng là đem mục đích niệm Phật mà cầu vãng sinh Tịnh độ phương Tây, là đem tất cả công đức tu hành hồi hướng vãng sinh thế giới Cực lạc phương Tây.
Ý sâu của hồi hướng là phát tâm Bồ đề rộng độ chúng sinh, nghĩa là nguyện đem công đức niệm Phật của mình hồi hướng cho tất cả chúng sinh, đều lìa khổ được vui, đều tin Phật học Pháp kính Tăng, đều niệm Phật, thành Phật. Cũng đem công đức niệm Phật hồi hướng cải biến chúng sinh có tâm cang cường, khiến cho họ hồi tâm tín ngưỡng Phật giáo, tu học Phật pháp, sớm được vãng sinh về thế giới Cực lạc, sớm thành tựu Vô thượng Bồ đề. Đủ biết mục đích hồi hướng niệm Phật có hai: cầu nguyện mình được vãng sinh, cầu phước cho tất cả chúng sinh đều được vãng sinh.

Không nên chỉ vì tự mình cầu vãng sinh Tịnh độ mà niệm Phật, còn phải vì tổ tiên được vãng sinh phương Tây mà niệm Phật, cũng nguyện cho tất cả chúng sinh nhờ sự niệm Phật của chúng ta mà được vãng sinh phương Tây. Cho nên, ý của hồi hướng phát nguyện tâm và phát đại Bồ đề tâm tương ưng tương thông.

Thông thường người ta đến tham gia niệm Phật cộng tu Phật thất, chỉ mong tự thân được tiêu tai giải nạn gặp điều may mắn. Khi chúng ta nghe lời khai thị trên rồi, phải biết ngoài việc tự thân cầu phước cầu tiêu tai khỏi nạn, chúng ta niệm Phật, lễ Phật, kinh hành, làm các việc công đức, nên vì phát tâm Bồ đề rộng độ chúng sinh. Xưa nay oán thân trái chủ của chúng ta, nhờ đem công đức tu hành này hồi hướng cho họ, họ sẽ biến thành kẻ hộ trì, tăng thượng duyên cho chúng ta, giúp chúng ta tiêu tai khỏi nạn. Thế nhưng, chẳng thể nói nhờ bạn niệm một vài câu danh hiệu Phật mà có thể tiêu tai được, mà là do oán thân trái chủ thấy bạn phát tâm Bồ đề đại nguyện, tương lai bạn sẽ thành Bồ tát, Phật, thì oán thân bình đẳng, cho nên không quấy rầy bạn nữa, họ cũng nhờ sự tu hành niệm Phật của bạn mà được lợi ích, đủ thấy niệm Phật rất tốt. Như vậy điều tốt ấy từ đâu đến? Là từ trong phát nguyện hồi hướng mà đến, là từ trong sự phát Bồ đề nguyện rộng kết thiện duyên mà đến.


VÔ SANH PHÁP NHẪN

Chữ Hán nghe thấy ghê ghớm, đối với kẻ mê còn ghê ghớm hơn chứ người giác chẳng là gì. Đừng có mà sợ hãi, vì bấy lâu nay ta mê lại còn bị quá nhiều người hù mà làm ta sợ. Đối với chúng sanh vô minh, Vô sanh pháp nhẫn chẳng thể tự mình mà thành tựu được. Còn người giác chẳng khó, vì hiểu ra được mọi thứ rồi, chân tướng vũ trụ hiểu được rồi còn gì gọi là vô sanh pháp nhẫn. Ví như ta đã chỉ cho quanh mình có 6 cái vực sâu rồi, có ngu gì dại gì mà nhảy xuống, có đánh chết cũng không nhảy, thì gọi là không nhảy pháp nhẫn vậy. Sáu vực sâu đó là lục đạo luân hồi, nay biết nhất nhẫn chẳng chẳng sanh vào nữa gọi là vô minh pháp nhẫn vậy. Ta biết dẫu tìm khắp cũng chẳng có ai ngu đến mức mà khi được chỉ rõ rồi lại còn nhảy vào nữa cả, có chăng là mấy ông bồ tát vậy. Đừng vọng tưỏng hoá cao siêu mà điên đảo, tuy quả khó, khó nhận ra nhưng khi được chỉ rõ thì dễ dàng. Nay mọi việc đã rõ, chẳng gì mà lo ngại. Ta chẳng thể sánh bì phật, chẳng cao siêu quảng đại, ta chẳng dám hoá độ phổ độ chúng sanh, ta chẳng dám lên mặt dạy đời, ngay ngã ba tư năm pháp giới này, nếu ai thật sự cần hỏi đường đâu đến bến bờ an lạc, ta chân thành chỉ đường cho họ mà thôi. Thật chỉ dám đơn giản vậy mà thôi.
Bài pháp này tuy ngắn nhưng rất quan trọng, khi ta rời khỏi thể xác này sẽ có 6 hố sâu thăm thẳm, chính là 6 đường tái sinh trở lại chịu quả báo luân hồi. Lúc này ta đã thấu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh, có nhiều thế giới tốt đẹp hơn rất nhiều so với thế giới này. Quyết không sanh vào đây nữa, dù có như thế nào cũng nhẫn mà không nhẩy vào 1 trong 6 cái hố đó. Lúc này một lòng kêu Phật A Di Đà đến đón ta về thế giới Tây Phương Cực Lạc sẽ được toại nguyện.


--------------
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6825
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TÔI TU TỊNH ĐỘ

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 4 Tháng 5 31, 2017 10:09 am

CHÚ PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI (tiếng Phạn)


UṢṆĪṢA VIJAYA DHĀRAṆI
https://www.youtube.com/watch?v=TCkt6YuariE

https://www.youtube.com/watch?v=EEEmhYJeHJ0 (đọc kinh-Thích Thiền Tâm)

Namo bhagavate trailokya prativiśiṣṭaya buddhāya bhagavate. Tadyathā, om, viśodhaya viśodhaya, asama-sama Samantāvabhāsa-spharana gati gahana svabhāva viśuddhe, Abhiṣiňcatu mām. sugata vara vacana amṛta abhiṣekai mahā mantra-padai. Āhara āhara āyuh saṃ-dhāraṇi. śodhaya śodhaya gagana viśuddhe. Uṣṇīṣa vijaya viśuddhe sahasra-raśmi sam-codite. Ssarva tathāgata avalokani ṣaṭ-pāramitā-paripūrani. Sarva tathāgata mati daśa-bhūmi prati-ṣṭhite. Sarva tathāgata hṛdaya adhiṣṭhānādhiṣṭhita mahā-mudre. Vajra kāya sam-hatana viśuddhe. Sarvāvaraṇa apāya-durgati pari viśuddhe, prati-nivartaya āyuh śuddhe. Samaya adhiṣṭhite. maṇi maṇi mahā maṇi. Tathatā bhūta-koṭi pariśuddhe. visphuṭa buddhi śuddhe. Jaya jaya, vijaya vijaya. smara smara, sarva buddha adhiṣṭhita śuddhe, Vajri vajragarbhe vajram bhavatu mama śarīram. Sarva sattvānām ca kāya pari viśuddhe. sarva gati pariśuddhe. Sarva tathāgata siñca me samāśvāsayantu. Sarva tathāgata samāśvāsa adhiṣṭhite. Budhya budhya, vibudhya vibudhya, Bodhaya bodhaya, vibodhaya vibodhaya samanta pariśuddhe. Sarva tathāgata hṛdaya adhiṣṭhānādhiṣṭhita mahā-mudre svāhā.


Chú Dược Sư :
TAYATHA OM BEKANDZE, BEKANDZE, MAHA BEKANDZE, RANDZE SAMU GATE SOHA
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6825
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Trang kế tiếp

Quay về Đông Y căn bản

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến1 khách

cron