gửi bởi hoangthuynam » Thứ 5 Tháng 9 03, 2015 8:12 pm
(tiếp)
14
Tôi đã viết về Thày tôi quá nhiều, vẫn cảm thấy như chưa nói được điều cần nói.
Hơn sáu năm, Thầy thay đổi nhiều mà học trò ít nhận ra. Thầy như gần gũi với mỗi người, lại cũng càng cách biệt. Thầy không còn chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ cho từng người. Lên Côn Sơn, Thầy để tất cả tự do sinh hoạt, tập luyện. Chẳng còn dẫn tập, chỉ đường đi nước bước. Thầy bảo:
– Các cụ càng buông tôi ra, quên tôi đi càng khá hơn.
Các cụ lắng nghe và vẫn túm chặt lấy Thầy.
Bạn lâu năm, đám anh chị em ruột thịt đông đúc của Thầy thưa vắng dần. Có gặp,chẳng biết nói gì. Có ngồi ăn cùng nhà ai đó, Thầy chẳng biết gắp miếng nào. Những mối quan tâm, những ham muốn, vật lộn với kiếp sống của họ ở ngoài Thầy. Nhiều người bảo Thầy hâm. Thầy nhận ngay danh hiệu sang trọng ấy. Hâm quá, Thầy tự nói về mình. Trong tay có một nghề được cả xã hội trọng vọng, danh tiếng và tiền bạc ở tầm với, lại buông bỏ nhẹ không. Bao thời gian, công sức và cả tình yêu dồn vào một công việc vô vọng. Như đội đá vá trời. Hâm!
– Thầy hâm thật, Tú ạ! – Thầy nói, và cười tươi.
Tôi rất thích nụ cười của Thầy. Nó hiền và rất thật. Khi Thầy nghiêm mặt, đáng sợ luôn. Ấy là với mọi người. Tôi khống sợ!
Một lần giáo sư Vi Huyền Trắc nói với Thầy, trước mặt tôi:
– Đúng là toa hâm, nhưng không như vậy, không ai làm nổi việc moa đang làm đâu.
Tôi đã nói, giáo sư là một trong số ít người hiếm hoi hiểu và tin vào công việc của thầy trò tôi. Tất nhiên, hiểu theo cách của cụ , một nhà khoa học ham nghiên cứu về thế giới tâm linh.
Tôi chưa vao giờ thấy Thầy tôi hâm cả. Không chỉ ở cái cách thầy điều chỉnh Chương trình có kết quả ngày càng nhanh. Mà trong cung cách sinh hoạt, ứng xử, dù là ai cũng thấy có gì gần gũi, không hề có khoảng cách nào với Thầy.
Thầy tôi rất thích uống bia, bia hơi bình dân, giá rẻ. (Thầy bảo: trình độ Thầy chỉ có thế. Tôi biết là Thầy không có đủ tiền uống các loại bia khác). Thầy có hai quán bia quen cùng phố và một quán – bia – thân – yêu (Thầy gọi thế) ở gần nhà tôi. Mỗi lần đi dạo Thầy trò tôi thường tạt qua. Quán xá đủ hạng người. Từ các hạng chức sắc đã nghỉ hưu hoặc đương chức, đến dân buôn, cửu vạn, có cả anh hùng được Nhà nước sắc phong và lưu manh chuyên nghiệp, không chuyên.
Thầy trò chuyện với ai cũng được, cùng cười vui hết cỡ vì câu chuyện, lời nói đáng cười. Nhiều người thích mời bia hoặc trả tiền cho Thầy, dù không mời trước.
Ở quán bia- thân – yêu, Thầy cũng có một số người quen, dù thi thoảng chúng tôi mới đến. Có một cụ tên là Phan, ngoài tám mười tuổi. Cụ thấy tôi đeo mắt nhựa, rất thương cảm. Tưởng thầy trò là hai cha con, cụ hỏi:
– Cháu thứ mấy của anh đấy?
– Dạ, cháu thứ tám bác ạ. Đẻ theo kế hoạch cũ.
Thầy tôi trả lời, nét mặt rất thành thật.
Cụ Phan kêu lên!
– Đẻ lắm thế!
Cụ yên trí tôi là con thứ tám của Thầy. Từ đó Thầy đặt tên cho cụ là Cụ-tám-con.
Mỗi lần gặp lại, cụ tươi cười chào:
– Hai bố con khoẻ không?
Thầy tôi nói khẻ:
-Tú chào Cụ-Tám-con đi! Có lần mẹ tôi ra quán mua bia. Trong khi chờ, bà trò chuyện với cụ Phan. Mau miệng, bà để lộ chúng tôi là hai thầy trò, cụ vẫn hỏi:
– Thế nào. Hai bố con có khoẻ không?
Cụ còn mời, lúc nào thuận tiện, hai cha con đến nhà chơi.
Lắm lúc thấy rất trẻ thơ. Nhất là khi nhảy với Bi, chơi với Mía. thầy như cùng trang lứa với chúng.
Mía rất thích chơi với ông giữa. (Thầy tôi bảo Mía gọi thế. thầy giải thích: không phải ông nội, ông ngoại. Ông già rồi không còn là ông trẻ . Nên là ông giữa). Anh chị tôi nuông chiều Mía. Tên thật cháu là Đỗ Minh Hoàng. Khi mang bầu, chị tôi chỉ thèm ăn mía. Cả nhà gọi đùa thành tên. Bố mẹ Mía không tiếc con thứ gì. Cháu có nhiều đồ chơi đắt tiền. Nhưng nó không thích là mấy. Gặp ông giữa ở nhà tôi, nó chơi không biết chán máy bay, tên lửa, tàu thuyền ông gấp cho. Hai ông cháu la hét, chiến đấu quyết liệt bằng mấy thứ đồ chơi không mất tiền. Nó sẵn sàng bỏ mọi thứ, sán đến bên ông. Ông cháu ba hoa, bốc khoác tận trời.
Có những buổi hai ông cháu dung que hương (hương cúng) bắn ma. Ma chết nhe răng giãy đành đạch, chết hự một cái (lời Mía tả). Rồi hai ông cháu tập võ. Cũng chụm chân, vòng tay bái tổ, xuống tấn, vận khí, phát chưởng công, chỉ công kêu choèn choẹt. Rồi chơi đá bóng. Mới đầu là bóng bằng nhựa hoặc cao su. Sau chỉ là quả hồng xiêm xanh rụng ở sân nhà. Hai ông cháu chia gôn sút chí mạnh “vào rồi”, “không vào”, các đối thủ thi nhau hét toáng. Mía bao giờ cũng thắng, rất hả hê.
Chỉ thế thôi mà Mía mê ông như điếu đổ. Vốn tham ăn, vậy mà món kẹo sô-cô-la là rất thích, nó vẫn để dành phần ông Giữa. Nó dặn đi dặn lại cả nhà: “không ai được ăn đấy”. Nghĩ thế nào nó hạ giọng nói thêm: “Nhưng bảo ông Giữa đừng ăn hết để phần Mía một ít”.
Cầm mấy miếng sô-cô-la bé tẹo, nghe tôi kể về lòng dũng cảm của Mía, Thầy nhấn lại chú bạn nhỏ: “Ông đã hít đến mười lần. Rất ngon, Mía ăn hết đi.”
Thầy tôi thế đấy. Rất đời thường, nhưng với một số người lại cách vời, huyền bí. Không huyền bí sao trong tay chẳng có gì, lại làm cho người mù nhìn thấy? Ngay cả việc Thầy ăn, uống, sinh hoạt cũng đáng đặt dấu hỏi. Mấy năm đầu, Thầy ăn ngày càng ít dần. Các trò đều thấy xót xa. Rồi cũng quen. Vài năm trở lại đây, thực đơn cả ngày của Thầy gồm hai quả trứng gà nhúng, một gói nhỏ bột đậu xanh hay bột ngũ cốc vài chục gam. Có hôm còn lười đến mức bỏ cả nửa gói cháo ăn tối. Hiếm hoi lắm Thầy mới ăn thêm một miếng gì đó (kể cả thịt), chút ít hoa quả. Bia hơi thì mỗi ngày dùng từ bốn đến năm vại. Có điều Thầy ngủ hơi khiếp. Nhiều ngày liền, cụ “chợp mắt” từ 6 giờ tối đến 6 giờ sáng. Cụ tự nhận xét: Thầy ngủ như trẻ sơ sinh! Thầy già đi nhiều. Râu, tóc, lông mày sắp bạc trắng cả. Nhưng trọng lượng cơ thể vẫn như xưa, da lúc nào cũng đỏ hồng. Và vẫn có thể đi xe máy cả trăm cây số không thấy mệt.
Thế mà bảo Thầy là người bình thường ai tin được.
Cả mấy cụ ở Nhóm Mắt Nguyễn Thái Học cũng vậy. Thầy đã nhiều lần nói rất rành mạch về Phương pháp, về con đường đang đi, về việc bắt ma quỷ, thần thánh bỏ ngâm rượu, nếu có. Chẳng ai tin. Thầy nói mặc Thầy. Thầy nói Thầy nghe. Dứt khoát phải có cái gì đặc biệt, là cái gì chứ? Thầy-không-là-gì-cả, không có khả năng kỳ lạ nào, nói vậy sao lọt tai được.
Tôi biết Thầy tôi cô đơn, giữa cuộc đời thừa mứa bon chen, ham hố, thủ đoạn. Tôi hiểu từng lời, từng việc Thầy làm dù có khó hiểu đến mấy. Mà Thầy không cần ai an ủi. Thầy như cỏ cây, như nước, khí trời hoà nhập với tất cả, tạo nên sự sống mới ở chính những con người đầy bệnh tật, mù loà.
Thật ra không ít học trò của Thầy có nhiều khả năng đặc biệt mà dù theo môn phái nào, luyện tập công phu hàng chục năm cũng khó mà có được. Nhưng Thầy tôi không muốn mọi người sa đà vào những cám dỗ tầm thường: nổi tiếng vì những biểu diễn khả năng mà con người không có, thành thày chữa bệnh, thầy dự báo… Thầy khuyến cáo mọi người không nên kiếm tiền, kiếm danh, chạy theo những ham hố muôn đời của con người, dù có tài đến mấy. Thầy nói thẳng:
– Chúng ta không có gì để ban phát, cứu giúp ai. Chương trình Ánh sáng của người mù không làm dịch vụ từ thiện, nhân đạo…
Đến đây Thầy lại nói vui:
– Cụ nào có tiền, hãy tập cho quỹ chung cũng biết cách thở: không cần thì co lại, cần thì nở ra vô tận!
Quỹ chung của thầy trò Nhóm Mắt cũng là chuyện khó hiểu. Bằng mấy năm trời đi Côn Sơn vài chục lần, mãi đến tháng 4 năm 2000, Thầy mới yêu cầu các cụ đống tiền ăn. Tuỳ khả năng kinh tế của mỗi người, đóng bao nhiêu cũng được. Cũng khoảng đó, chúng tôi mới mượn được ô tô để đi. Tiền bồi dưỡng lái xe, thuê khách sạn và các chi tiêu khác quỹ chung vẫn chịu. Có đợt đi đông kéo dài cả tháng, tiêu gần 10 triệu đồng. Thường thì đi nhóm nhỏ hết trên dưới một triệu. Gần đây có tới năm, sáu chuyến đi mỗi năm.
Chỉ có một lần Thầy đồng ý cho lập phòng khám chữa bệnh ở phố Nguyễn Thái Học khoảng hơn một tháng (1998) có thu tiền. Không nhận tài trợ thường xuyên, không người giàu có nào bảo trợ, chẳng biết tiền ở đâu ra. Có thắc mắc thì Thầy bảo:
– Quỹ cũng học phương pháp dưỡng sinh phục hồi chức năng của người mù. Nó biết Thầy bịa ra cái gì là có cái đó.
Cụ Bích có lần nói đùa: Môn học của ta là bịa-tạc-học!
Không nói đâu xa. Tháng 1 năm 2000 quỹ chỉ còn một triệu năm trăm ngàn đồng (không kể số tiền mười triệu gửi Ngân hang, đã năm năm chưa lần nào động đến. Đó là khoản lớn nhất Chương trình nhận được, của ông bà Nguyễn Công Quang và Lý Lệ Hoa). Trong năm thầy trò đi Côn Sơn sáu lần – chưa kể lần đi qua hai năm 2000-2001, quỹ vẫn còn gần một triệu. Mà không phải chi tiêu quá tằn tiện. Bia hơi uống thoải mái. Mỗi đợt bao giờ cũng có một, hai bữa ăn cải thiện.
Tiền đến cứ như trong trò ảo thuật. Chỉ khác, đó là những đồng tiền thật, tiêu được.
15
Chúng tôi có một chuyến đi Côn Sơn hai thế kỷ, cũng là xuyên hai Thiên kỷ. Ở Hà Nội đi sáng 30-12-2000, trưa 8-1-2001, thầy trò có mặt ở nhà.
Tôi không biết kể về kết quả chuyến đi như thế nào cho gần đúng. Nhìn bề ngoài thì chúng tôi vẫn thế: tự sinh hoạt, tự đi không gậy trên những đoạn đường khác nhau, tìm vào quán chỉ định trước, vào chùa theo cổng chính hoặc cổng phụ. Ra cũng vậy, không được trở lại đoạn đường đã đi, cổng vừa vào (chùa có một cổng chính, hai cổng phụ).
Rồi tả người tả cảnh, ngắm mây trời dày hay mỏng, màu gì, trời nắng hay dâm (lúc ngồi trong nhà), nếu nắng, vệt chiếu đến đâu…
Lần này mẹ tôi bảo tôi béo ra, khen Thầy:
– Bác nuôi cháu mát tay thật!
Quả vậy, mấy thầy trò có một đợt an dưỡng thật thoải mái.
Có một hiện tượng trước đây đôi lúc tôi thoáng trải qua, ở Côn Sơn lần này như được khẳng định thêm. Trong sinh hoạt hay đi trên đường, tôi không thấy thông tin hình ảnh, thông tin nhắc. Không gian chung quanh trở nên chông chênh, mất hoàn toàn những điều kiện lâu nay đối với tôi như chỗ dựa tin cậy. Tôi hơi hoang mang. Rồi ngạc nhiên thấy mình đi nhanh hơn, chính xác hơn. Thầy bảo:
– Nếu không quen, mọi người không biết là Tú nhìn bằng hai mắt nhựa! Tú đi đàng hoàng, tự nhiên như người sang mắt.
Thực ra không phải lần nào cũng được như thế. Nhưng cứ dày lên, dày lên. Thầy bảo tôi tạm để vậy, không phân tích, so sánh.
– Chúng ta cần người mù sinh hoạt bình thường như mọi người là đủ. Còn nếu giữ các khái niệm, các điều kiện ràng buộc, chúng ta đánh vật với Chương trình vài chục năm may lắm cũng chỉ có số ít người mù nhìn lại. – Thầy tôi nói.
Thầy cho chúng tôi chạm thử vào CÁI KHÔNG CÓ GÌ. Định hướng cho cách tiếp xúc, quan sát xong Thầy bảo:
– Chúng ta vẫn chưa thoát khỏi thói quen đặt tên cho sự vật theo ý mình. Chưa khá được!
Đúng là chưa khá được. Những trò giỏi nhất của Thầy vẫn chỉ xác định được là có dấu hiệu nhìn lại. Chưa ai nhìn được thường xuyên, sinh hoạt bình thường. Song qua mấy lần đi Côn Sơn gần đây nhất, dường như thầy trò chúng tôi đã chạm được vào cái gọi là CƠ CHẾ TỰ ĐỘNG của Tự nhiên.
Ngày 19-11-2000, Thầy gợi ý với nhóm Nguyễn Thái Học, từng người tự thử nghiệm cơ chế nói trên. Thử vào việc gì tuỳ ý chọn. Chữa bệnh không cần chữa. Làm cho một người hay một nhóm người thay đổi lối sống, hành vi làm phiền, thậm chí làm hại người khác… Chỉ cần biết tên tuổi, địa chỉ của họ. Định hướng nội dung việc cần làm và theo dõi hàng ngày hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tôi thử ngay hôm đó.
Hàng xóm giáp vách nhà tôi có ba cặp vợ chồng ở chung. Một cặp bố mẹ, hai cặp con và hai đứa cháu nội. Nhiều năm nay họ nghiện cãi nhau. Mỗi ngày một đến hai trận. Bảnh mắt ra đã ầm ĩ, không bố mẹ thì các con. Có khi tất cả cùng tham gia. Toàn chuyện không đầu không đuôi. Mỗi trận đấu khẩu kéo dài cả giờ, kèm theo tiếng đập phá. Mẹ con tôi và các nhà ở gần đến khổ. Chẳng ai có ý định can ngăn, vì họ sẵn sàng chửi luôn cả người khác.
Thật lạ, kết quả gần như ngay lập tức. Cả tháng trời, họ chỉ va vấp nhau vài lần thoáng qua. Có lần tưởng bùng nổ to, song chỉ ít phút lại yên. Ông bố giảm bớt những lần say rượu gần bất tỉnh. Hai đứa cháu ít quấy, nên không bị quát nạt, bị đánh như trước. Mọi khi cứ có người ở nhà, họ lại mở đài mở băng hết cỡ, dù không ai nghe. Chỉ hàng xóm là ong hết cả đầu. Từ cuối tháng 11 năm 2000. họ vẫn mở, song chỉ vừa đủ người trong nhà nghe tiếng. Đến nay (19-2-2001), cuộc thử nghiệm đã tròn ba tháng. Chỉ một lần ầm ĩ nhất là cuối ngày mồng một tết ta. Cặp vợ chồng con cãi nhau chí tử vì mấy trăm nghìn đồng tiền mừng tuổi của đứa con. Hôm sau họ lại anh anh em em ngọt xớt.
Kết quả vừa kể và kết quả những năm qua đôi lúc làm tôi thấy mình cũng oai, cũng có vai trò gì đó mà không ít người thèm khát. Tôi thú thật với Thầy.
– Không sao cả – Thầy bảo – Oai vệ một chút, thấy mình cao hơn một chút cũng được. Còn làm việc với mọi người, phải chấp nhận cả những thứ ta không thích, không cần. Kể cả nếu thiên hạ thổi ta lên tận mây xanh!
Thầy trò tôi ngày này qua ngày khác âm thầm thử nghiêm, nhặt nhạnh từng dấu hiệu xác định đúng các bước đi của chương trình.
Có mấy cuộc thử nghiệm nữa, cũng cho thấy kết quả.
Phía trước nhà Thầy, có hai vợ chồng trẻ ở nông thôn ra thuê trọ. Họ có cô con gái khoảng hai tuổi. Đứa bé khóc ề à dai dẳng cả ngày lẫn đêm, kèm tiếng gào không thay đổi: “Mẹ ơi, bê…ê…” . Buổi tối và ban đêm thật khó làm việc, khó ngủ với nó.
Tuy chưa gặp mặt, Thầy tôi cũng biết cháu bé bị một bệnh khá hiểm nghèo, Thầy giúp nó. Tuần đầu con bé khóc thưa dần. Tuần thứ hai trở đi, nó chịu ăn chịu chơi và đã biết cười. Thảng hoặc nó khóc thưa vì lý do gì đó, giọng nó khoẻ, có sinh lực. Mãi một tháng sau, Thầy mới gặp hai mẹ con cháu dắt nhau đi chơi. Bà mẹ trẻ bảo:
– Con khoanh tay chào ông đi.
Đứa bé làm theo. Nhìn cháu Thầy giật mình: mặt nó quắt queo như mặt bà già. Da xanh mướt và khô. Nó chỉ bằng đứa trẻ một tuổi.
Tình cờ nói chuyện với người anh họ lớn tuổi của cháu bé, Thầy mới biết trong dòng họ ngoại của nó đã có vài trường hợp bị bệnh máu trắng hoặc u ác. Bố mẹ Phương Huế – tên bé – ở quê không sống nổi, định gửi con cho bà ngoại, ra thành phố kiếm ăn. Nó không chịu, khóc đến lả người. Đành phải cho đi cùng. Nhưng nó quấy thế, không làm ăn gì được. Vậy mà sau khi bớt khóc, nó đã chịu về quê ở với bà, suốt ngày chạy chơi.
Bố mẹ Phương Huế không hề biết và không bao giờ biết Thầy tôi đã làm gì để giúp cháu. Phía sau nhà Thầy có một gia đình hai con. Họ ít cãi cọ, nhưng khi có ba bốn thành viên ở nhà, lại ầm ầm như chợ vỡ. Đứa em gái sinh sau anh nó sáu bảy năm. Nó luôn vờ khóc khiến thằng anh nhiều lần bị đòn oan rất đau. Không phải là khóc, nó hét đanh đảnh, giọng mỗi lúc một cao vút, lên đến cung bậc nghệ sĩ ô-pê-ra thượng thặng cũng xin thua. Tiếng hét – khóc của nó như mũi dùi xuyên vào tai hàng xóm. Thỉnh thoảng đến nhà Thầy, tôi cũng đượng thưởng thức giọng nữ cao không hề có ấy.
Kết quả gia đình phía sau không nhanh bằng gia đình phía trước .
***
Tôi chỉ kể thêm một việc nữa để nói về cái tạm gọi là CƠ CHẾ TỰ ĐỘNG. Có vẻ nó có thật!
Tết Tân Tỵ này (2001), cụ Nhung về quê nghỉ dài ngày. (Thầy cho nhóm Mắt nghỉ gần một tháng).
Đầu năm cụ sang chúc tết ở làng bên. Cụ gặp người anh họ xa tên là Hoàng Văn Hoan, mù từ ba tháng tuổi, di chứng của bệnh đậu mùa. Năm nay anh Hoan năm mươi nhăm tuổi. Hai anh em trò chuyện, cụ Nhung bảo:
– Có một phương pháp dưỡng sinh giúp người mù tự lo sức khoẻ và nhìn tại. Mấy năm nay em học ở Hà Nội, cùng mấy nhóm người mù khác. Nhiều người hết bệnh và đã nhìn lại chút ít. Anh có học thì em hướng dẫn.
– Anh xin học – Anh Hoan nói.
Buổi đầu tiên cụ Nhung dẫn tập bài Bốn hiệu ứng vật lý. Chỉ đến hiệu ứng thứ hai thì dừng lại. Rồi cụ kiểm tra kết quả. Anh Hoan thấy được màu sắc, kiểu áo khoác, chất liệu vải cụ đang mặc. Áo của cụ trùm kín cả cổ tay. Cụ hỏi:
– Anh thấy tay em có đèo già không?
Anh Hoan nói ngay:
– Hai tay cô đeo vòng đồng hồ.
– Anh xem đồng hồ đeo ở tay nào?
– Tay trái.
– Anh có khẳng định là ở tay trái không?
À, không. Cô đeo đồng hồ tay phải.
Con trai anh Hoan lên mười cũng ngồi xem. Cụ Nhung hỏi cháu:
– Bố cháu nói có đúng không?
Thằng bé lắc đầu.
Cụ vén hai tay áo lên, để lộ cái đồng hồ và chiếc vòng. Thằng bé trố mắt, ngạc nhiên vì bố nó nói đúng.
Anh Hoan nhìn như cung cách của người mù.
Mấy buổi tập sau (cũng chỉ là bốn hiệu ứng vật lý), cụ Nhung hỏi về nhiều thứ, anh Hoan nói lúc đúng lúc sai. Để xác định chắc chắn là anh Hoan đã nhìn lại được, cụ nghĩ ra một cách thử khó. Cụ giơ một bàn tay lên, lúc mở hai ngón, lúc mở bốn ngón, anh đều nói đúng.
– Bây giờ anh bắt chước em nhé. – Cụ Nhung phấn chấn bảo.
– Cô cứ thử đi!
Cụ Nhung đưa tay lên, lúc nắm lúc mở, lên cao xuống thấp và làm một số tư thế khác. Làm chậm. Anh Hoan đưa tay theo, không sai mấy. cụ Nhung còn gặp bé Giang 6 tuổi và cụ Vin ở một xóm khác. Giang mù bẩm sinh. Cả nhà Giang vô cùng ngạc nhiên vì lần đầu cậu bé thấy khá chính xác màu sắc những thứ cụ Nhung đưa ra hỏi, cả hình dáng , kích thước và tên gọi của một số vật dụng. Mấy tháng sau, Giang được nhận vào học ở một Trung tâm nuôi dạy trẻ em mù ở thành phố Hồ Chí Minh. Chú được mang biệt danh Giang-thông-thái vì nhìn được bằng đôi mắt hỏng và biết rất nhiều thứ vượt lứa tuổi.
Cụ Vin không bằng Giang, song cũng thấy thấp thoáng như mấy cụ ở nhóm Cầu Giấy.
Chưa có nhiều trường hợp như anh Hoan và ông Thiệu (Dịch Vong), cụ Vin, bé Giang (Ý Yên – Nam Định). Kết quả cũng chưa được lắp đi lắp lại ổn định. Khẳng định điều gì lúc này cũng là quá sớm.
***
Sau tháng tám, theo thầy, tôi được giao công việc đọc lập: phụ trách nhóm Mắt ở phố Nguyễn Thái Học. Cụ Tưởng làm nhiệm vụ đưa đón tôi đến lớp hàng tuần. Thầy vắng mặt trong nửa năm.
Nhóm Nguyễn Thái Học lúc ấy thường xuyên có hơn mười người, hầu hết là các thương binh đã tập nhiều năm. Thỉnh thoảng mấy bà vợ bị bệnh của các cụ cũng đến lớp tập.
Tôi không tự coi mình là cô giáo, dù các cụ học viên muốn như thế. Đến lớp, có buổi tôi dẫn tập, có buổi tôi phân công luân phiên mấy cụ đã nắm chắc phác đồ cơ bản hướng dẫn mọi người. Công việc có vẻ đâu vẫm ra đấy, như khi Thầy có mặt . Nhưng đó chỉ là bề ngoài.
Hầu như không có cụ nào hướng dẫn đúng bài đã học. Thực ra, họ không cố ý làm sai. Họ chỉ không hiểu được Thầy và thực chất của PHƯƠNG PHÁP. Lẽ thường, ở tất cả mọi công việc, người ta bắt đầu từ việc dễ đến việc khó, từ đơn giản đến phức tạp. Thương pháp dành cho người mù làm ngược hẳn. Sau nhiều năm thực hành trắc nghiệm, các bài tập, cách tập đã lược giản đến mức tối đa, thời gian một đợt, một buổi tập cũng rát ngắn chỉ còn ít phút.
Mọi người trong nhóm chỉ nghiêm chỉnh tập đúng cách khi có mặt Thầy. Ngay khi tôi hướng dẫn, một vài người đã tự ý tập lại những phác đồ Thầy đã bảo phải loại bỏ. Để các cụ dẫn, còn tệ hại hơn. Nhớ được những gì đã từng được học, họ băm trộn, biến báo thành một bài thật dài, đôi khi tới nửa giờ, bốn mươi lăm phút. Chỉ nhắm mắt ngồi nghe cũng ê ẩm cả người. Có nhắc để sửa, họ cãi: “chúng tôi tập toàn những thứ Thầy đã dạy”. Đó là lúc ở lớp, họ còn nể nang cô giáo đôi chút. Ở nhà, ông nọ mách ông kia cách mở rộng, thêm bớt vào mỗi bài tập, say sưa ứng dụng sự tìm tòi hàng ngày. Tệ hơn cả, chính cụ trưởng lớp nghe xui khôn xui dại, tham gia tập chui với một vài thành viên cũ của Chương trình. Họ tập bài hô hấp vận khí hổ lốn, ăn cắp một chút của phương pháp Y-ô-ga, một chút của khí công, một chút của Thiền.
Tôi thật buồn và mệt mỏi và phải làm việc với những người như thế. Họ ham hố, mong sớm tới đích hơn người khác. Thầy đã hoài công nhắc nhở: “Muốn đi đường xa tới đích, phải biết bỏ lại những phương tiện đã giúp ta vượt qua từng chặng. Có ai còn cõng cả con thuyền đã đưa ta qua sông mà đi tiếp?”
Cái giá họ phải trả cho sự ham hố không rẻ. Mấy người hăng hái nhất miệt mài tập những bài không chính thức đều có biến động xấu về bệnh tật. Họ lại quay về với bệnh viện với thuốc men, sau một thời gian dài tự làm chủ sức khoẻ của mình. Cụ trưởng tràng đi lạc đường quá xa. Sau này, cụ xin Thầy cho bổ sung chính thức bài tập hổ lốn vào phương pháp. Bị kiên quyết từ chối, cụ xin từ chức, rời bỏ nhóm.
Làm việc với nhóm thương binh hỏng mắt, tôi càng thấy sự kiên trì của Thầy, tình thương của Thầy với người mù là không có giới hạn. Bị thương tật nặng (có người mất 98% sức khoẻ, được coi là liệt sỹ sống), nhiều năm sống trong bóng tối, mất thăng bằng, họ đòi hỏi mọi ưu tiên, rất dễ nổi khùng, bất chấp phải trái. Không ít thương binh trong nhóm đã thấy lại ánh sáng, nhìn được mặt vợ con, người thân. Có người còn xem được cả truyền hình. Song cũng có một vài người vẫn mù hoàn toàn. Họ ấm ức, tự gọi mình là hội mù tịt. chương trình mở rộng ra Quận hội người mù Cầu Giấy, Hoàn Kiếm. Người mù xã hội sinh sống tản mạn, rất cơ cưc. Thầy phải lặn lội đến dạy từng nhóm nhỏ dăm ba người. Tôi và cụ Nhung, cụ Tưởng vợ thầy đươc phân công đến hướng dẫn các nhóm tập mới. Kết quả rất nhanh ở các lớp học thuộc Cầu Giấy, Hoàn Kiếm được thông báo với nhóm Nguyễn Thái Học. Không phải ai cũng mừng. Nhất là các cụ tự nhận ở hội mù tịt, trong đó có cụ Nhâm. Những buổi đầu đến với Chương trình, Cụ Nhâm hồ hởi nói: “chỉ cần một người trong chúng tôi nhìn lại được là có thể coi như thành công, có thể tuyên bố để thiên hạ biết việc chúng ta dám chống lại cả trời”. Lần lượt là cụ Trần Công Nhuận, rồi đến tôi, cụ Hoàng Văn Bạo, cô Thu Trang cụ Khởi và nhiều người nữa có kết quả, cụ Nhâm không vui, mà buồn. Nghe thông báo về các nhóm mới tập, cụ làu bàu thở dài: “việc ở đâu đâu nhà giời, bố ai đến tận nơi hỏi rõ thực hư ra sao”. Chính từ cụ và một hai người a dua, đã lọt ra những lời thậm thụt thông hay về Thầy. Vẫn theo học đều đều, cụ tung ra nhận xét: “nhìn thấy hay không chẳng biết. Thôi thì cứ tập để lấy cái sức khoẻ”. Không phải không có người gật gù tán thưởng.
Tháng 9 băn 2004, báo Tiền Phong đăng bài viết dài kỳ vể kết quả của Chương trình. Tác giả Phùng Nguyên còn rất trẻ. Anh đã đến tận nhà gặp cụ Bạo, cụ Hạ và Thu Trang. Sau đó, anh lên Côn Sơn cùng ăn ở với nhóm người mù đang tập luyện. Bài báo viết có tiếng vang rộng rãi. Số người mù và người bệnh tìm đến với Chương trình rất đông, kể cả ở một số tỉnh miền Trung, miền Nam. Vậy mà có gia đình ở Yên Bái lần tìm không ra địa chỉ. Một gia đình khác cũng ở Yên Bái cử người lên tận Hà Nội hỏi. Vòng vo mãi, họ đến được nhà ông Nhâm. Ông bảo là có tham gia tập, nhưng không có kết quả. Dù vậy, những người khao khát ánh sáng vẫn kiên trì cuộc kiếm tìm.
Cùng khoảng thời gian vừa kể trên, Thầy tôi bị bệnh nặng. Khối u ác ở bàng quang khiến cụ đi tiểu ra máu tươi kéo dài, nhiều lần bị tắc niệu đạo, rất đau đớn. Không đi bệnh viện, không dùng bất cứ loại thuốc gì, Thầy âm thầm tự chữa cho mình bằng chính phương pháp cụ tìm ra cho người mù. Dù thầy kín tiếng, rồi cũng có người biết. Hơn hai năm sau bệnh Thầy mới lui, sức khoẻ hồi phục dần. Thời gian ấy, khi nào khá hơn đôi chút, Thầy lại đến với người mù, mỗi năm vẫn tổ chức cho mọi người đi Côn Sơn ít nhất một lần. Vậy mà suốt thời gian đó, ở nhóm Nguyễn Thái Học, không ai nghĩ đến việc thăm hỏi Thầy, dù chỉ một lần. Một cú điện thoại cũng không.
Tôi cũng được giao hướng dẫn lớp học dài hạn, mỗi tuần một buổi vào sáng chủ nhật tại nhà. Tôi không có thói quen ghi chép nên không nhớ được có bao nhiêu người học đã đến rồi đi. Nhưng có một trường hợp khá đặc biệt làm tôi nhớ lâu.
Một hôm, giáo sư vi Huyền Trắc mời thầy trò tôi đến chơi. Đúng giờ , Thầy và tôi có mặt. Phòng khách khá rộng của giáo sư chật kín người, phải kê thêm dãy ghế phụ ở lối sang buồng bên. Tôi đi trước, đến thẳng chỗ để hai chiếc ghế trống. Vừa ngồi xuống, tôi lướt qua những người có mặt, theo cách riêng. Nhận ra chú Cao Giang ở nhà xuất bản Thanh Niên, tôi chỉ cho Thầy chỗ chú ngồi, tả gương mặt và chiếc kính cận chú đeo, bộ quần ác chú mặc. thực ra, tôi mới chỉ quen chú qua điện thoại, nhìn chú ở đầu máy bên kia.
Cuối buổi gặp, giáo sư như tình cờ nhờ tôi kiểm tra bệnh cho mấy người đang học khí công ở nhà ông. Được tôi đồng ý, hai bệnh nhân ngồi ở dãy ghế phụ tự giới thiệu tên, không nói đang mắc bệnh gì. Cả hai đều là đại tá quân đội, một đương chức, một đã nghỉ hưu.
Khoảng mười phút sau, tôi nói với đại tá Nghĩa ở Học viện Kỹ thuật Quân đội: “Gan chú đã bị nhiễm chất đọc hoá học đã lâu, thuỳ lớn bị teo và khô. Chú đang mắc thêm bệnh tiểu đường”. Bệnh nhân thứ hai bị xơ gan cổ chướng và loãng dịch mật. Quá ngạc nhiên, giáo sư đề nghị tôi khám thêm cho người thứ ba cô kỹ sư Vân. Tôi đắn đo, hỏi người bệnh có cần biết sự thật không. Bệnh nhân đồng ý. Cô Vân có một khối u ác ở phổi phải; vú bên đó đã bị cắt bỏ.
Cả ba bệnh nhân trên đều đã có bệnh án, sau đó tôi mới biết.
Một tuần sau hai vị đại tá, cô kỹ sư, và một số người khác đến nhà tôi xin học. Chú Cao Giang đến muộn hơn. Chú bị thiểu năng tuần hoàn não, rối loạn tiền đình, huyết áp không ổn định, chỉ một đến hai tháng, mấy người bị bệnh nặng đã có cải thiện rõ rệt. Đến khi xét nghiệm lại với tôi. Rất lạ, thấy bệnh đã ổn định dần, họ im lặng rút khỏi lớp và không một lần liên hệ với tôi. Rất lạ, tôi hay nhớ đến họ, không hề oán trách. Họ rời bỏ giáo sư Vi dễ dàng đến thế thì việc quay lưng lại với một cô gái mù có gì lạ. Mẹ tôi có lần hỏi: “Thầy trò con định làm không công cho thiên hạ đến bao giờ”. Thật khó trả lời. Riêng ở nhà tôi cũng có đến cả trăm người đến học rồi đi. Hơn mười năm qua, số người đến với các lớp dưỡng sinh do Chương trình mở nhiều gấp nhiều lần thế. Rất hiếm lớp học mọi người tự nguyện đóng góp học phí. Cũng hiếm như thế, số người có hoàn cảnh khá giả bỏ tiền ra ủng hộ Chương trình. Kinh tế gia đình Thầy tôi ngày càng eo hẹp. Còn tôi, ao ước có đủ khả năng nộp tiền ăn ở hàng tháng cho mẹ cũng rất xa vời. Thầy tôi chủ trương không thương mại hoá phương pháp. Nhưng Thầy cũng chủ trương chỉ giúp không cho người mù và người nghèo; có thể đàng hoàng nhận tiền của người bệnh khá giả, giàu có để mở rộng Chương trình cho người mù và giúp đỡ những người quá nghèo. Không có sự tự định, đặt giá nào cả. Tất cả dựa vào sự tự giác của mọi người.
Thật buồn là những người có lòng hiếm như sao ban ngày. Bằng ấy năm, chỉ vài người khỏi bệnh hiểm nghèo chi ra dăm ba triệu đồng. Số người ủng hộ không điều kiện đếm trên đầu ngón tay. Nghe nói các thầy khí công, thầy nhân điện kiếm tiền rất dễ; có người còn giàu có. Không hiểu họ làm cách nào.
Tôi đã bước sang tuổi ba mươi vẫn phải ăn bám mẹ. Đó là một trong những điều ấm ức tôi chưa có cách gỡ. Đôi khi tôi mong Thầy đừng quá khắt khe trong việc nhận những đồng tiền xứng đáng với công sức bỏ ra. Chỉ cần lấy ước chừng một nửa hoặc một phần ba phần tư khoản chi phí người bệnh phải bỏ ra nếu điều trị Tây y hoặc Đông y, cả thầy cả trò đều ung dung, không phải lo lắng miếng ăn hàng ngày. Hầu hết những người tìm đến học đều mắc bệnh nan y. Không ít trường hợp bệnh viện đã từ chối điều trị. Nghĩ thì dễ, nói ra thật khó. Tôi gợi ý riêng với Thầy. Thầy cũng lúng túng, lắc đầu: “Đành phải vậy thôi, Tú ạ. Thế nào ta cũng gặp những người biết nghĩ”. Cái người biết nghĩ thầy trò tôi chờ đến nay vẫn chưa thấy đâu…
Cuối cùng thì hai gia đình ở Yên Bái cũng tìm đến được với Chương trình. Ở ngay thị xã có em Phạm Tú Vinh, 17 tuổi, bị mù bẩm sinh. Vinh có anh trai bọ hỏng một mắt do tai nạn, cùng đến xin học. Em Nguyễn Thị Liên ngoài 20 tuổi bị bệnh viện điều trị nhầm thuốc, hỏng cả hai mắt. Họ đến vào dịp có đợt đi Côn Sơn, được đi luôn. Chuyến Côn Sơn này còn có bé Huy 5 tuổi, mù do đẻ non, bà Nguyên bà Tĩnh ở Hà Tây, mắt hỏng đã bốn, năm chục năm.
Côn Sơn tháng 10 năm 2005 khẳng định một lần nữa những kết quả tưởng như tình cờ rải rác trong mấy năm trước. Cả năm người mù đều có kết quả tại chỗ, ở nhiều mức độ khác nhau. Bà Nguyên, Bà Tĩnh, cô Liên đều thấy được ánh sáng, hình vật tuy còn khá mờ. Tú Vinh mấy ngày đầu dường như rất kém, đến gần giữa đợt có thể một mình đi buông khắp các ngõ ngách của khách sạn, tự tìm đến người quen ở các buồng trong những hành lang ngang đọc.
Bé Huy nổi trội hơn cả. Đôi mắt của bé bị khô, teo lép. Trước khi đi Côn Sơn, bố mẹ đưa bé đến nhà tôi xin học. Chỉ ba ngày sau, Huy đã thấp thoáng nhìn thấy. Không thể gọi Huy là học trò được. Từ lúc đến cho tới khi về, nó luôn chân luôn tay luôn mồm. Bắt đầu nhìn thấy thấp thoáng, nó đi như chạy ra ngõ. Dù bố hoặc mẹ nhắc nhở, chưa buổi nào Huy chịu ngồi yên một chỗ lấy vài phút. Sau khi ở Côn Sơn về, tuần nào Huy cũng có người đưa đến “học” ở nhà tôi. Nó tiến bộ hàng ngày. Rất đặc biệt là tuy bị mù bẩm sinh, Huy nhận ra màu sắc khá hơn tất cả những người khác.
Cũng như Vinh, bé Huy được gia đình chiều chuộng quá mức, có thói quen không nghe lời bất cứ ai. Huy có cả một buồng riêng để chật đồ chơi, toàn những thứ đắt tiền của người ngoài. Trí nhớ của Huy khá đặc biệt. Tất cả số điện thoại của những người quen biết bố, me, các khách hàng rất đông, chỉ đọc một lần là Huy nhớ. Lâu dần, Huy trở thành cuốn danh bạ sống cho cả nhà. Bố mẹ mua cho Huy một chiếc điện thoại di động, cho dùng thoải mái. Có tháng cậu bé lên năm chi gần hết một triệu đồng cho gọi điện thoại chơi!
Sau lần đi Côn Sơn về, cả Huy, anh em nhà Vinh và mấy người khác tiếp tục học lớp dài hạn ở nhà tôi. Khoảng nửa năm sau, được thưởng một chiếc ô tô chạy bằng ắc quy, Huy đã có thể tự lái ra ngoài ngõ đông người, đôi khi còn cho cả các anh lớn tuổi lần lượt ngồi lên xe. Vinh gần như không nhúc nhích. Hắn quen sống dựa dẫm, ỷ lại, đến quần áo cá nhân cũng không tự giặt được. Thế mà khi ở Côn Sơn, sểnh ra một chút anh chàng lại tự mò đến chỗ các chị tiếp tân của khách sạn, cầm tay, đặt tay chỗ này chỗ khác để chữa bệnh! Trong khi hắn không được học lấy một buổi nào, không có chút khái niệm nào về bệnh.
Tôi cứ lo mãi về Huy và Vinh. Ngay bố Vinh cũng nhận xét: “cái thằng này mà nhìn được, không biết nó thành thứ gì”. Cũng như tôi đã từng lo cho một vài người mù khác. Khi nhìn được, lại có một số khả năng đặc biệt hiếm, những người chỉ biết nghĩ đến mình, lại đầy ham hố, thèm khát tranh đoạt tiền bạc, danh vọng sẽ ra sao. Liệu họ có sống một cuộc đời bình thường ,lương thiện như mọi người khác.
Gần đây (đầu năm 2006), Vinh có khá hơn, Vinh đang có những chuyển biết rất đáng mừng.
Hồi Thu Trang ở Cầu Giấy vượt lên, tôi rất phấn khởi. Bây giờ lại đến Quang Huy. Bé cũng nhìn được khá thường xuyên như Trang. Nhưng có sự khác nhau: Quang Huy chưa đến tuổi đi học, lại không hề tập luyện một buổi nào.
Xin hãy nhớ lại trường hợp của cháu Giang, ông Hoan, bà Vin ở quê cụ Nhung. Và ông Thiệu ở Cầu Giấy. Đó là những người mù hoàn toàn, cũng không hề tập dưỡng sinh phục hồi chức năng mà thấy lại được ánh sáng. Dự cảm của thầy trò tôi về một CƠ CHẾ TỰ ĐỘNG của Chương trình ÁNH SÁNG CỦA NGƯỜI MÙ có vẻ đúng.
***
Trong năm 2005, tôi gặp khá nhiều người lạ.
Mở đầu là mấy chị biên tập, phát thanh viên đài Truyền hình thủ đô. Đọc báo, các chị tìm đến dưỡng sinh, tìm hiểu Phương pháp. Tiếp đó là một nữ bác sỹ ở bệnh viện Xanh Pon, đi cùng với một bác sỹ người Pháp. Ông người Pháp làm việc ở tổ chức phi chính phủ, sang khảo sát để giúp trang thiết bị y tế cho một bệnh viện ở Hà Nội và mấy tỉnh thành khác. Nghe nói về một phương pháp lạ, ông muốn tìm hiểu và nếu có thể, tham gia trắc nghiệm kết quả. Thầy trò tôi lên lịch, hẹn bác sỹ ở Côn Sơn gần nhất. Lâu, chắc gặp trục trặc gì đó, không thấy ông ta hồi âm.
Riêng buổi gặp mặt, toạ đàm với toà soạn báo khoa học và đời sống, Thầy bảo tôi ở nhà. Cụ Bạo đi cùng Thầy.
Rồi đến nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải. Thấy Đài truyền hình Việt Nam gọi ông như thế, còn ông nghiên cứu gì không được giới thiệu. Qua mấy lần điện thoại, ông đến nhà gặp tôi, thuyết phục tôi đồng ý ghi hình để giới thiệu trong mục chuyện lạ Việt Nam. Ông rất kiên trì. Nhưng tôi kiên quyết từ chối. Tôi không tiện nói thẳng: Công việc thầy trò tôi làm không phải dể biểu diễn mua vui cho những kẻ tò mò.
Tiến sỹ khoa học Phan Đăng Nhật lên tận Côn Sơn tham gia tập luyện. Ông muốn tìm hiểu sâu về Phương pháp. Tiến sỹ đang làm việc ở Trung tâm bảo tồn văn hoá và kỹ thuật truyền thống. Ông cho biết Trung tâm đã có hai ba héc-ta trên đất Thái Nguyên để đặt trụ sở và đã quy tụ được gần một chục ngôi nhà sàn cổ của nhiều dân tộc thiểu số. Là nhà khoa học thực nghiệm, ông rất thận trọng khi tiếp cận với Phương pháp. Trước khi lên Côn Sơn, ông đã làm việc riêng với Thầy tôi. Cuộc trao đổi có ghi âm. Sau đó ít ngày, trong buổi làm việc khác, ông nhận xét với Thầy: “Hình như ông còn điều gì chưa nói hết với tôi”.
Thắc mắc của ông tiến sỹ cũng là thắc mắc của nhiều người.
Đấy cũng là cái khó khi muốn phổ biến rông rãi Phương pháp. Thầy tôi đã mấy lần viết tài liệu ở mức đơn giản nhất về nguyên lý cơ bản, nội dung, các bước tập dưỡng sinh. Nhưng không lần nào cụ ưng ý. Tôi biết Thầy không hề muốn giữ bí mật. Dường như việc làm cho mọi người hiểu đúng Phương pháp là điều không thể. Tiến sỹ Phan Đăng Nhật chỉ ở Côn Sơn với thầy trò tôi có ít ngày. Trước khi về, ông ngỏ ý sẵn sang giúp đỡ Chương trình trong phạm vi khả năng của mình. Trước mắt, thầy trò có thể đưa nhóm lên tập ở Thái Nguyên, đỡ được môt khoản tiền thuê khách sạn. Ông rất kín đáo, không có nhận xét gì về công việc đang tìm hiểu.
Có một ông tìm đến thầy trò tôi với mục đích khá lạ lùng. Ông xin được góp một tay để làm cho người mù nhìn ổn định, nghĩa là sinh hoạt bình thường như người sáng mắt. Mấy lần bị Thầy từ chối, ông đi cửa sau, đến thuyết phục tôi. Ông hứa sẽ nhờ đấng nọ đấng kia làm nốt cái phần thầy trò tôi chưa làm được. Ông còn mời hai thầy trò cùng cộng tác với ông mang lại ánh sáng cho mấy chục người mù ông đang thường xuyên giúp đỡ. Lớp học đó sẽ được đặt tên dưới sự bảo trợ của các tổ chức có uy tín, trong đó có UNICEF ở Việt Nam. Công trình ÁNH SÁNG CỦA NGƯỜI MÙ sẽ được đăng ký chính thức. Tương lai rất sáng sủa. Tôi lễ phép đề nghị ông dùng khả năng đặc biệt làm cho người mù ông quen biết có kết quả thật cao. Thầy trò tôi còn đang mò đường, đành kiên tâm theo đuổi đến cùng công việc đã bắt đầu hơn mười năm.
***
Ông tốt bụng vừa kể trên đã đánh trúng vào ao ước cồn cào bao năm của tôi. Quả bây giờ tôi đã là cô Tú khác hẳn với cô Tú mù hơn mười năm trước. Tôi không còn hoàn toàn mù và có khả năng giúp đỡ nhiều người khác. Mỗi lần nghe tôi lên lớp, hướng dẫn, giảng giải cho học viên, mẹ tôi trầm trồ khen với Thầy: “Con bé thật chững chạc, thông thái, đâu ra đấy”.
Nhưng tôi vẫn chưa có kết quả cuối cùng.
Nó ở đâu, cái kết quả ấy?
Tôi biết, công việc thầy trò tôi theo đuổi, dù có mất vài chục năm, cả đời người hay vài thế hệ mà có kết quả mong muốn, cũng chưa phải là quá dài. Song hàng ngày phải đối mặt với những lúc còn tăm tối, va quệt, quờ quạng, sống theo trì trệ của người mù làm tôi đau đớn. Sự đau đớn cả thể chất, cả tinh thần rình rập, trở đi trở lại. Tôi vẫn phải quằn quại vượt qua mình mỗi ngày, mỗi giờ.
Cuối cùng rồi tôi cũng tìm được lối thoát: Phải biết chờ đợi. Tôi đã không mất hy vọng tìm lại ánh sang, giờ tôi đã có nó. Tôi biết chờ đợi trong công việc, trở thành người có nhiều để cho, tôi sẽ có kết quả mong muốn.
Bạn có chia sẻ niềm tin ấy với tôi không?
Bạn có chia sẻ rằng tôi còn là người mù?
Làng Láng
Tháng 5 / 2001 — tháng 2 / 2006
Nguyễn Thanh Tú