Tiểu đường 33. Bệnh bao tử thuộc hư chứng gây ung thư

Nơi giúp đỡ lẫn nhau trau giồi kiến thức.

Tiểu đường 33. Bệnh bao tử thuộc hư chứng gây ung thư

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 12 03, 2019 2:05 pm

Tiểu đường 33. Bệnh bao tử thuộc hư chứng gây ung thư

Video bài giảng : https://youtu.be/peZ1Esbdp8Y

I-Định nghĩa bệnh bao tử hư chứng theo đông y :

Theo đông y cơ quan tạng phủ nào cũng có 2 loại bệnh chính là bệnh về cơ sở vật chất thuộc âm, và chức năng hoạt động của cơ sở đó thuộc dương. Cả trong hai loại bệnh thuộc âm hay dương khi bị bệnh thì phải biết phân biệt bệnh thuộc hư chứng hay thực chứng.
Thí dụ dễ hiểu về bệnh cơ sở và bệnh chức năng :
Một đồn cảnh sát khu vực nguy nga đồ sộ tốt đẹp, không hư hại cơ sở vật chất, nhưng những cảnh sát trong đồn không hoạt động đúng chức năng bảo vệ an ninh cho dân chúng trong vùng là chức năng hư hỏng, cơ sở vật chất tốt. Ngược lại dân chúng trong khu vực rất an ninh là chức năng của cảnh sát tốt, nhưng nơi nhà ở của cảnh sát hư hỏng dột nát là cơ sở hư hỏng.
Con người cũng vậy, cơ sở vật chất là thân thể ốm yếu bệnh, nhưng trách nhiệm làm việc vẫn tốt. Ngược lại cơ thể con người khỏe mạnh, nhưng lười, chức năng làm việc không có kết quả.

Như vậy các cơ quan tạng phủ trong con người cũng có 2 loại bệnh này, nếu thầy thuốc đông y không học kinh mạch châm cứu thì không phân biệt được bệnh hư hay thực ở cơ sở hay ở chức năng, đôi khi lúng tụng không biết trả lời ra sao khi có người hỏi những câu hỏi tương tự như sau :
Chúng ta có 1 cái bao tử, thầy đông y bắt mạch nói bệnh bao tử của tôi hư là cơ sở bao tử hư hay chức năng hư, hay cả hai đều hư.
Câu hỏi này cũng đặt ra cho các bác sĩ tây y khi có rối loạn tiêu hóa và đau bao tử. Tây y sẽ cho đi siêu ăm, chụp hình xem có tổn thương bao tử, thì xác nhận cơ sở bao tử bị hư, còn cơ sở không tổn thương nhưng có vi khuẩn trong bao tử là chức năng bao tử hư, chức năng bao tử hư thì không cắt mổ, còn cơ sở hư hỏng thì cắt mổ.

Còn chúng ta không cần chụp hình hay xét nghiệm máu, chỉ cần nhờ cách khám bằng huyệt Lệ Đoài thuộc kinh Vị ở 2 góc móng ngón chân thứ 2, phía ngón bên trái và bên phải có cảm giác khác nhau như :

Day vào huyệt Lệ Đoài ngón chân bên trái không có cảm giác đau là cơ sở bao tử hư, nếu có cảm giác đau nhiều là cơ sở bệnh thực.
Day vào huyệt Lệ Đoài ngón chân bên phải không có cảm giác đau là chức năng hư, nếu có đau nhiều là chức năng thực.
Nếu thầy thuốc đông y không biết đến huyệt mà nói bao tử hư hay thực, bệnh nhân sẽ hỏi ngược lại, thầy nói bao tử tôi hư hay thực thì tại sao huyệt bao tử của tôi bên này đau mà bên kia không đau, vì thầy đông y không học kinh mạch châm cứu nên không biết mỗi cơ quan tạng phủ đều có 2 đường kinh một bên chỉ cơ sở là phía bên đường kinh ấy có tạng phủ, bên kia không có tạng phủ là chức năng.

Đi vào chi tiết bệnh thì hư chứng hay thực chứng phải biết rõ là hư hàn hay hư nhiệt, hoặc thực chứng hàn hay thực chứng nhiệt, hay hàn giả nhiệt, hoặc nhiệt giả hàn. Thầy thuốc đông y phải biết bắt mạch :
Mạch phù là để tay vào vị trí cổ tay mạch chạy nổi lên là thực, mạch chìm xuống gọi mạch trầm là hư, thầy thuốc đông y còn phải đếm mạch đập bao nhiêu cái trong 1 phút, Nếu mạch đập nhanh trên 80 nhịp/ phút thì gọi là mạch sác hay nhiệt, càng cao càng bị nhiệt, theo tây y nhịp cao 120 nhịp là đang bị sốt nhiễm trùng, mạch chạy chậm dưới 70 nhịp là mạ̣ch trì, là người lạnh.
Nhưng cạch bắt mạch đông y đôi khi sai vì nó lệ thuộc vào sức khỏe của thầy thuốc, vì đôi khi thầy thuốc cũng đang có bệnh, do đó cần phải đo bằng máy móc y khoa của tây y bằng máy đo áp huyết 2 tay, 2 chân, và nhiệt kế, trước khi ăn và sau khi ăn, đo đường huyết trước sau khi ăn, chúng ta thấy kết qủa bằng con số chính xác của bệnh là cơ sở hay chức năng, là hư hay thực, là nhiệt hay hàn...

2-Cách khám tìm nguyên nhân gốc bệnh đông tây y kết hợp :

Tuy nhiên đông y khác tây y là nhờ có tích lũy kinh nghiệm hàng ngàn năm về dấu hiệu triệu chứng lâm sàng của từng trường hợp bệnh bao tử khác nhau. Nên hôm nay chúng ta cũng cần phải học thuộc phương pháp tứ chẩn là vọng, văn, vấn, thiết để biết hư thực, hàn, nhiệt.
Vọng : Là nhìn sắc mặt, mầu sắc da, vị trí bệnh trên mặt, nhìn lưỡi, tướng đi, cử động... ,
Văn : Nghe gíọng nói, hơi thở
Vấn : Dựa vào kinh nghiệm dấu hiệu triệu chứng lâm sàng học, khi còn nghi ngờ thỉ cần phải hỏi thêm,
về ăn uống như thích uống nước nóng hay lạnh, đi cầu tiêu chảy hay bón, nước tiểu trắng hay vàng đậm, để biết cơ thể hàn hay nhiệt, khi đau xoa bóp thấy dễ chịu là hư, hay đau hơn là thực, thèm ăn hay chán ăn, ngủ ngon giấc hay mất ngủ...;

Từ đó chúng ta đối chiếu với các chứng bệnh có dấu hiệu triệu chứng lâm sàng trong đông y để phân biệt thuộc loại bệnh chứng nào như dưới đây
:
Đây là dấu hiệu triệu chứng lâm sàng học của đông y do tôi soạn có đánh số bệnh, trích trong link này :http://khicongydaotailieu.blogspot.com/2010/11/sach-ly-thuyet-ong-y.html

Thí dụ mẫu :
Nếu : Chứng Vị hư : (244)

Bụng no, ợ hơi, sôi ruột, không thích ăn, vì ăn vào không tiêu sẽ bị tiêu chảy, mặt sưng húp, khô môi miệng,tân dịch khô, huyết kiệt gây nấc cục, nghẹn, sợ lạnh, chân lạnh, người nặng nề dễ mệt, lưỡi nhạt, rêu ít, giữa lưỡi rách nứt.

Những dấu hiệu này phải được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết 2 tay, đường-huyết và nhiột kế, trước và sau khi ăn, để biết cơ sở bị bệnh hay chức năng bị bệnh, hư hay thực, hàn hay nhiệt, nhưng nhờ máy đo áp huyết chúng ta còn xác nhận được bệnh thuộc khí lực hay huyết lực.
Những dấu hiệu bệnh phải phù hợp với kiểm chứng áp huyết 2 tay, đường-huyết và nhiệt kế, trước và sau khi ăn hay ngược lại.
Thí dụ :
Nếu khám bệnh cho người tuổi trung niên, áp huyết tiêu chuẩn tốt phải chênh lệch giữa đói-no là 10 mmHg
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41-59 tuổi)

Phân tích :
Bụng no hơi, ợ hơi, mặt sưng, không thích ăn, ăn vào không tiêu ... thì áp huyết tăm thu tay trái bên bao tử trước và sau khi ăn đều cao hơn tiêu chuẩn tuổi, thì tâm thu trước và sau khi ăn vẫn lớn hơn 130mmHg thuộc khí lực

Khô môi miệng, tân dịch khô, huyết kiệt...thuộc về huyết lực là thiếu máu. Thì gan bên tay phải không chứa đủ máu áp huyết tâm trương bên gan thấp dưới tiêu chuẩn như 60mmHg, Chán ăn thỉ bao tử không chứa được thức ăn thi tâm trương bên bao tử thấp như 55-60mmHg

Nấc cục, nghẹn là áp huyết chuyển hóa nghịch trước và sau khi ăn.
Sợ lạnh, chân lạnh, người nặng nề dễ mệt, lưỡi nhạt, rêu ít..do thiếu đường huyết thấp, máu chạy không thông, thì nhịp tim qúa thấp dưới 60-65

Giữa lưỡi rách nứt là tổn thương bao tử còn thức ăn cũ không tiêu tăng men bao tử tăng acid làm loét bao tử có vết loét.
Kết luận theo định lý thuận từ dấu hiệu:bệnh đo được áp huyết, đường huyết, nhiệt kế, pH, hồng cầu :
Những dữ kiện chẩn đoán đúng theo dấu hiệu triệu chứng bệnh thì phải có áp huyết, đường-huyết, nhiệt kế, pH, hồng cầu.. trước sau khi ăn như sau :
Trước khi ăn : TT 135/68mmHg 66 TP 127/66mmHg 64 đường huyết 80mg/dL nhiệt low
Sau khi ăn : TT 133/60mmHg 66 TP 135/61mmHg 65 đường huyết 85mg/dl nhiệt low, pH 6.5, hồng cầu 5.1

Ngược lại theo định lý đảo, khi có số liệu tương tự như trên, thì chúng ta phải hỏi bệnh nhân hay nói cho bệnh nhân biết có phải dấu hiệu bệnh như trong chứng Vị́ âm hư không, như vậy khi chúng ta đã có kinh nghiệm thì nhìn áp huyết đã biết được bệnh thuộc tạng phủ nào bệnh và thuộc chứng nào.

3-Cách chữa gốc bệnh theo pp Y Học Bổ Sung :

a-Ý nghĩa cách khám tìm bệnh bằng máy đo áp huyết :

Máy đo áp huyết cho kết qủa 3 số mang ý nghĩa tình trạng bệnh hai bên tay khác nhau :
Đo bên tay phải : có nghĩa chỉ về Khí lực gan/Máu+Mỡ+Nước/Đường
Đo bên tay trái : có nghĩa chỉ về Khí lực bao tử/Lượng thức ăn trong bao tử /Đường

Sau khi xác nhận đúng mới là thầy khám bệnh gỉỏi về lý thuyết, nhưng chưa chắc là thầy chữa bệnh giỏi vì cần phải qua nhiều năm kinh nghiệm thực hành có kết qủa chữa khỏi bệnh mợi là thầy chữa bệnh gỉỏi, thì thầy đông y lại không phải là thầy giỏi nếu không chữa đúng vào gốc bệnh là điều chỉnh Tinh-Khí-Thần theo áp huyết đem áp huyết khí lực, huyết lực và thần lực là khí, máu và đường trở về tiêu chuẩn thì khỏi bệnh, nên chúng ta không chữa ngọn, mà chữa gốc bệnh.

b-Ý nghĩa cách chữa bệnh theo Y Học Bổ Sung bằng máy đo áp huyết :

Dựa vào áp huyết bệnh, phải điều chỉnh cho áp huyết lọt vào tiêu chuẩn tuổi chuyển hóa thuận, thì 3 số áp huyết phải chữa là phải điều chỉnh Khí lực/Tinh/Thần, có nghia là :

Tập khí công/Chỉnh thức ăn thuốc uống/và chỉnh lượng đường

Chỉnh áp huyết tâm thu :
Cao thì chọn bài tập làm hạ thấp, ngược lại tâm thu thấp chọn bài tập làm tăng tâm thu lên cao, mục đích cả 2 loại bài tập chỉnh tâm thu về tiêu chuẩn tuổi, gọi là tập khí công chữa bệnh, khác với khí công dưỡng sinh.

Chỉnh áp huyết tâm trương :
Cao là cao máu cao mỡ thì thay đổi cách ăn uống cho giảm, như ăn gạo lức muối mè, thuốc tiêu mỡ, ít ăn chất béo, ít ăn thức ăn khó tiêu, nên ăn nhiều rau...Hoặc ngược lại thiêu máu, thiếu mỡ phải thay đổi ăn uống phải cho tăng máu như ăn phở chay hay mặn, uông 1-2 ly sữa đặc Ông Thọ xay chung với 2 trái bơ bằng máy xay sinh tố ăn như kem thay bữa cưm để giảm mập nhưng có chất lượng tăng mỡ tốt, tăng lượng máu, mục đích cũng điều chỉnh tâm trương lọt vào tiêu chuẩn tuổi.

Chỉnh lượng đường huyết:
Sao cho nhịp tim về tiêu chuẩn 70-80 phù hợp với nhiệt khế đo đầu ngón tay út nằm trong tiêu chuẩn 36-37 độ, và pH nằm trong tiêu chuẩn 7-8.

Nếu đường huyết cao từ 200-500mg/dl mà nhiệt độ chỉ thấp low bàn tay chân lạnh, pH dưới 7 là đường trong các tế bào mô cơ bí rút ra để bảo vệ tim tuần hoàn máu, nên tế bào mất đường làm teo cơ, loãng xương, môn Y Học Bổ Sung gọi là đường âm, nên tế bào cơ thể đang thiếu đường dương là đường cát vàng tiếp tế từ bên ngoài vào cơ thể, phải uống thêm đường, cứ 10 thìa cà phê đường dương vào cơ thể, sau khi tập bài khí công chyển hóa đường, thì đo đường huyết không tăng mà lại giảm. Cứ uống thêm đường rồi tập bài Lăn Người, cho đến khi xuất mồ hôi, đo lại đường xuống thì nhiệt kế tăng, pH tăng, cho đến khi đường huyết lọt vào tiêu chuẩn đói 100-140mg/dL hay 6-8mmol/l, nhiệt kế đo nơi đầu ngón tay út lọt vào tiêu chuẩn, nhịp tim lọt vào tiêu chuẩn, là chỉ số đường đó hợp với cơ thể mình, mà không căn cứ vào tiêu chuẩn hạ đường huyết của tây y như ngày nay, vì đường giống như cơm ăn hàng ngày, ăn xong sau 4-5 tiếng sau lại đói, thì đường ăn xong nó cao, sau 4-5 tiống đường được chuyển hóa cùng với cơm thành năng lượng thì đường huyết lại tụt thập về tiêu chuẩn đói. Chỉ những người chán ăn, không biết đói, có nghĩa là cơm và đường còn trong bao tử khêng được con người hoạt động đổ chuyển hóa thì đường huyết dương biến thành đường huyết ăm thì đo đường huyết lúc nào cũng cao, mà tế bào trong cơ thể vẫn bị bỏ đói không được tiếp tế đường dương theo bữa ăn nên tế bào mợ́́i bị bệnh rối loạn tiêu hóa là rối loạn đường huyết..
Nếu người nhiêt, thiếu máu thiếu đường, thì thay đường bằng nước mía vừa tăng đường vừa giải nhiệt, cũng chỉnh lượng đường, nhịp tim, nhiệt kế lọt vào tiêu chuẩn.

4-Cách áp dụng thực hành tự chữa bệnh theo Y Học Bổ Sung :

Giai đoạn 1:
Trước khi ăn thấy áp huyết sai phải chỉnh ngay :

Trước khi ăn : TT 135/68mmHg 66 TP 127/66mmHg 64 đường huyết 80mg/dL nhiệt kế chỉ low
Đầu tiên phải chỉnh đường huyết, uống đường cho tăng 180mg/dL, uống dần mỗi lần 4-5 thìa cà phê đường cát vàng, cho đến khi bàn tay ấm nóng, nhiệt kế đo trên ngọn tay út 36 độ c

Giai đoạn 2 :
Tập bài Lăn Người cho thức ăn cũ ói ra, đo lại áp huyết thấy áp huyết hạ thấp và chuyển hóa thuận là trước khi ăn tay trái thấp 120, tay phải cao 130mmHg, mới cho ăn. Nếu vẫn còn cao thì nên bỏ bữa ăn, hay ăn nhẹ chỉ ăn nhiều rau , để làm tiêu thức ăn cũ.

Giại đoạn 3 :
Cho ăn thức ăn bổ máu, như ăn phở chay hay mặn, ăn không được thì xay phở ra nước để uống, ăn không được nữa thì pha 1-2 ly sữa đặc Ông Thọ với nước sôi, bỏ vào trong máy sinh tố xay chung với 1-2 trái bơ, thành thuốc bổ máu vì trại bơ có nhiều protein, chất béo tốt HDL và đường trong sữa làm tăng lượng máu, ăn canh cà chua trứng bổ máu.
Sau khi ăn xong đo áp huyết 2 tay và đường, còn thiếu máu thiếu đường thì uống thêm đường lên 180mg/dL, đợi 30 phút thì tập khi công 3 bài chuyển hóa thức ăn và đường và làm hạ áp huyết hay làm tăng áp huyết tùy theo số đo áp huyết.

Giai đoạn 4 :
Sau khi tập, đo lại áp huyết, đường huyết, nếu thiếu thì uống đường lên 130mg/dL thì nghỉ, áp huyết còn cao hay còn thấp thì uống thêm đường tập tiếp, rồi đo lại áp huyết 2 tay, đo đường, nhiệt kế, pH, khi hồng cầu tăng lên 9, lọt vào tiêu chuẩn thì bệnh mau khỏi, khi khỏi thì không cần uống thuốc, vì thức ăn và đường mới là thuốc chữa bệnh vừa làm tăng cân, vừa cho năng lượng sức khỏe chứ không phải là thuốc ,

5-Bài tập cách khám bệnh bao tử hư chứng bằng máy đo áp huyết, đo đường, nhiệt kế, pH, hồng cầu, cholesterol toàn phần..

Như thí dụ trên chỉ có bao tử bị bệnh, không ảnh hưởng đến các tạng phủ khác, nếu có ảnh hưởng đến các tạng phủ khác chúng ta phải vẽ bảng vòng tròn ngũ hành.

Bài mẩu 1 : Chứng vị âm hư : (245)
Tỳ có thấp nhiệt làm tổn thương âm chất do vị hỏa thịnh làm vị âm bất túc gọi là vị âm hư khiến môi miệng khô ráo, ăn không biết ngon hoặc đói bụng mà không muốn ăn, oẹ khan và nấc, đại tiện táo, tiểu sẻn, có sốt nhẹ, giữa lưỡi đỏ khô, rêu ít, do bệnh nhiễm trùng, sốt làm tổn thương tân dịch sinh ra vị khí yếu, thường gặp ở bệnh viêm phổi, viêm dạ dầy mạn tính, rối loạn tiêu hoá, bệnh tiểu đường.

Nhưng nếu thầy giỏi, học kỹ bài phân tích này thì không cần dựa theo sách, mà chỉ cần nghe bệnh nhân khai bệnh, mình thắc mắc nghi ngờ thì hỏi bệnh như trong phần tứ chẩn ở trên, và tự đo áp huyết 2 tay, đo đường, nhiệt kế, trước khi ăn và sau khi ăn 30 phút phải đo lại để chẩn đoán bệnh và chữa bệnh theo 4 giai đoạn trên.

Phân tích : Vị âm hư
Tỳ có thấp nhiệt...tỳ là âm huyết, thấp là khí đọng lại không thay đổi để chuyển hóa đường, nhiệt là nhịp tim cao và đường huyết cao trên 250mg/dl làm bao tử nóng .
Vị âm bất túc hay vị ăm hư...là cơ sở bao tử hư, có tổn thương bao tử.
Ví hỏa thịnh, môi miệng khô ráo, giữa lưỡi đỏ khô, nhiễm trùng, đại tiện táo, tiểu ít một ... là nhịp tim cao gây sốt khoảmg 110-120
Vị khi ́ yếu...là tâm thu thấp hơn tiêu chuẩn

Bao tử là thổ bệnh, là mẹ bệnh, viêm bao tử mạn tính làm rối loạn tiêu hóa do thiếu khí, thì con là phổi bị viêm phổi là hậu quả, không cần chữa phổi, vì đông y chữa theo ngũ hành, con hư bổ mẹ, nên chữa khỏi bệnh bao tử thì bệnh phổi sẽ tự khỏi là chữa vào gốc bệnh.

Những chi tiết bệnh trên đây sẽ có áp huyết 2 tay và đường huyết như thế nào thì thầy KCYĐ không cần phải đoán mò mà đo áp huyết thực tế cho bệnh nhân ngay tại chỗ ở 1 trong 2 thời điểm trước khi ăn hay sau khi ăn, để hướng dẫn bệnh nhân uống đường và tập sao cho áp huyết 2 tay chuyển hóa thuận, đường lọt vào tiêu chuẩn đói, nhiệt kế và nhịp tim đúng tiêu chuẩn.
Các bài tập mà bệnh nhân tập có kết qủa thì chính là thuốc chữa bệnh, dặn bệnh nhân phải biết cách đo áp huyết 2 tay đo đường trước và sau khi ăn, biết cách chỉnh đường, chỉnh thức ăn và sau đó là phải tập chuyển hóa đường và thức ăn thành năng lượng và làm cho áp huyết lọt vào tiêu chuẩn tuổi thì các bệnh đều khỏi

Bài mẫu 2 : Chứng vị khí hư : (246)
Chức năng thu nạp và chuyển hoá kém, ăn vào đầy bụng, muốn ăn nhưng nuốt không vào làm mất sức, đại tiện lỏng, môi trắng nhạt, sắc lưỡi nhạt.

Phân tích :
Là tâm thu thấp, thiếu đường làm vị khí chuyển hóa nghích ăn không tiêu, không hấp thụ chất bổ máu làm mất sức, thiếu máu
Áp huyết trước khi ăn, thí dụ TT 105/79mmHg 65, TP 100/70mmHg 67, đường huyết 5.0mmol/l, nhiệt kế low, hồng cầu 5.2, Cholesterol toàn phần 220mg/dL
Sau khi ăn, thí dụ 100/65mmHg 66, TP 102/67mmHg 67, đường huyết 6mmol/l, nhiệt kế low, hồng cầu 5.1, CHO toàn phần 250mg/dL.

Bài mẫu 3 : Chứng Vị khí không giáng (247)
Vị khí giáng là thuận, nhưng vị do ăn uống làm tổn thương có nhiều hoả khí hoặc có nhiều đờm thấp ngăn trở không giáng được có khi thượng nghịch lên tâm, có dấu hiệu chán ăn, vị đầy trướng, ợ hơi, nấc nghẹn, ói.

Phân tích :
Vị khí không giáng, thượng nghịch lên tâm....là áp huyết chuyển hóa nghịch.
Vị đầy trướng, ợ hơi, nấc nghẹn, ói....là tâm thu tay trái cao trước và sau khi ăn là trào ngược thực quản
Có nhiều đờm thấp, chán ăn, ....là thiếu đường, thức ăn trong môi trường bao tử lạnh, không đủ nhiệt cho bao tử co bóp chuyển hóa thành máu mà thành đàm, và chuyển hóa nghịch lên họng thì có đàm trong cổ họng

Nếu có bệnh nhân khai bệnh như trên, phải đo áp huyết thực tế tại chỗ để điều chỉnh cho áp huyết, đường, nhiệt kế lọt vào tiêu chuẩn tuổi

6-Xem bài giải mẫu cho một bệnh nhân :

Kính thầy,
Áp huyết con lúc trưa. Trước ăn 30 ‘
Tay trái: 127/73/69, Tay phải: 124/82/68, Đường: 5.2 mmol/L
Sau ăn 30’
Tay trái: 136/79/65, Tay phải: 147/83/67, Đường: 9.2 mmol/L
Con đang bị ợ hơi. Men gan con bị cao phải không thầy?
Xin thầy hướng dẫn giúp con.
Xin cám ơn thầy.

Bài giải :

Bao tử chuyển hóa thuận, AH tay trái trước ăn 127, sau ăn 138, nhưng nhịp tim 69 là thấp không đúng tiêu chuẩn 70-75 nên bao tử lạnh, đó là lý thuyết, nhưng thực tế đo đường còn thấp 5.2mmol/l trong khi tiêu chuẩn khi đói từ 6-8mmol/l, sau khi ăn nhịp tim lại thấp còn 65 thì thức ăn lạnh làm bao tử lạnh không đủ nhiệt lượng làm chín thức ăn, còn đường cao là do thức ăn cũ còn trong bao tử bị thức ăn mới tống xuống ruột non vào máu làm đường tăng 9.2mmol/l, còn thức ăn mới không có đường nên sau khi ăn nhịp tim bao tử hạ thấp từ 69 còn 65, thì thức ăn này không đủ đường chuyển hóa sẽ bị lên men.
Áp huyết bên gan chuyển hóa nghịch, là tới giờ ăn mà không biết đói vì gan không làm việc, tâm thu tuy cao 136mmHg, nhưng sau khi ăn gan mới làm việc lại cao 147mmHg, là gan bệnh cả chức năng cả cơ sở là gan to nhiễm mỡ.
Nhịp tim bên gan trước ăn 68 sau ăn lại tụt xuống 67 là gan lạnh là gan nhiễm mỡ, gan khí cao 147, tâm trương 83 cao hơn tiêu chuẩn, nên gan bị to, nguyên nhân không chịu tập ở giai đoán 1 trước khi ăn thấy sai là phải sửa chữa ngay, do thiếu đường thì phải uống đủ đường lên 10mmol/l rồi tập bài Lăn Người và bài làm hạ áp huyết cho xuất mồ hôi, cho lọt vào tiêu chuẩn đ̣ói 120mmHg cho bao tử và 130mmHg cho gan.
Khi điều chỉnh cho áp huyết xuống tiêu chuẩn đói xong, mới được ăn, nếu điểu chỉnh áp huyết không trở về tiêu chuẩn đói, thì thức ăn cũ vẫn còn trong bao tử càng ăn thêm càng bệnh thì chỉ pha 2 thìa canh sữa đặc Ông Thọ với 1 ly nước sôi bỏ vào máy xay sinh tố xay chung với 1-2 trái bơ là loại thức ăn nhẹ nhưng vừa bổ máu, bổ đường, tiêu hóa tốt tăng mỡ tốt giảm mỡ xấu.

Sau khi uống sữa trái bơ cũng phải đo lại áp huyết, đường, nhiệt kế, pH, chưa lọt vào tiêu chuẩn thì phải tập bài chuyển hóa thức ăn và đường là 2 bài Lăn Người và Kéo Ép Gối.
Nếu pH là acid thì men gan còn cao, thì phải thử thêm cholesterol toàn phần, dưới 200mg/dL là tốt, cao hơn là xấu, nếu thấp hơn 150mg/dl sẽ bị bệnh mất trí nhớ và da không đủ mỡ da mất bóng láng và trở thành da khô, nhăn nheo..

7-Tự làm bài tập ở nhà dành cho các thầy học cách chữa bệnh theo pp Y Học Bổ Sung.:

Chứng vị hàn : (248)
Là vị dương hư ,trong vị có hàn khí làm ói mửa nước dãi lạnh trong, miệng nhạt, ưa uống nước nóng, tay chân lạnh, vùng trung quản đau kịch liệt ưa xoa nắn, ưa thích chườm nóng, do ăn uống thức ăn có chất hàn lạnh gây ra, mỗi khi ăn thức ăn sống lạnh càng đau nhiều, lưỡi trơn rêu trắng.

8-Bài tập chuẩn bị cho lần sau : Những bệnh bao tử thực chứng gây ung thư :

Chứng vị nhiệt : (249)
Do ngoại cảm làm nóng sốt, do vị dương mạnh hoặc do ăn uống nhiều chất táo nhiệt như cay, ngọt, béo nhiều khiến khát nước, ưa uống nước lạnh, miệng lở, trồi răng, chân răng sưng, sưng nướu răng chảy máu, hôi miệng, xót dạ, thành bao tử đau rát, mau đói ngực bụng sợ nóng, đại tiện khô, phân ra từng cục, lưỡi đỏ rêu vàng khô, ít nước miếng.

Chứng vị thực nhiệt : (250)
Bao tử thực nhiệt tích uất lâu ngày ở ruột già làm phân khô kết trong ruột nổi cục đau khiến bí đại tiện, rêu lưỡi vàng dầy khô.

Chứng vị nhiệt ách nghịch : (251)
Giống như nấc cục nhưng phát ra tiếng nhỏ, gặp nóng ít nấc, gặp lạnh nấc nhiều hơn, kém ăn, đại tiện lỏng, tiểu trong nhiều, chân tay không ấm, rêu lưỡi trắng trơn.

Chứng vị nhiệt sát cốc : (252)
Chứng háu đói ăn mau tiêu, vị nhiệt khiến chức năng chuyển hoá thức ăn nhanh nhừ nhuyễn tiêu hoá nhanh, trong bao tử lại trống rỗng thành mau đói.

Chứng vị tiêu : (253)
Do vị có nhiều hỏa ăn mau đói, dễ tiêu nhưng làm hết chất tinh vi của thủy cốc, thương tổn tinh huyết nên vẫn gầy, đại tiện táo kết, tiểu vàng, ít, rêu lưỡi vàng khô.

Chứng vị nhiệt úng thịnh : (254)
Vị bị nhiệt nghiêm trọng sinh phiền khát, thích uống nhiều nước lạnh, miệng lở hôi, sưng chân răng, nóng rát trung quản, tiểu sẻn đại tiện bí, nếu do ngoại cảm sẽ sốt hôn mê nói nhảm, cuồng táo, chất lưỡi đỏ, rêu vàng dầy.

Chứng vị thống : (255)
Là chứng tâm hạ thống, đau vùng vị quản, do ăn uống không điều độ kéo dài, hoặc do thần kinh bị kích thích, làm can vị bất hòa, vị khí uất trệ, từ khí trệ sang huyết ứ trệ, trên lâm sàng chia hai nguyên nhân khác nhau có dấu hiệu lâm sàng khác nhau :
Do can vị bất hòa :
Có dấu hiệu vị quản trướng đầy đau lan đến sườn làm tâm phiền muộn dễ nổi cáu, ứa nước chua, miệng đắng do hỏa uất, nếu ứ huyết đại tiện ra phân đen.
Do tỳ vị hư hàn :
Vị quản đau âm ỉ, ưa xoa bóp, nôn ra nước trong, chân lạnh, phân ra không thành khuôn.

Chứng vị thực : (256)
Do bội thực, do ăn uống không điều độ, trường vị ứ đọng thức ăn, tích nhiệt tổn thương âm làm vị khí ứ trệ, bụng trướng đầy đau, ăn không tiêu, ợ chua, ợ hơi, thở hôi mùi thức ăn, không muốn ăn, bón hoặc tiêu chảy nhiều lần mỗi lần ra ít một có mùi hôi gắt, người nóng không có mồ hôi, khô môi miệng, đau đầu trước trán, sưng đau thấp khớp, ung thư vú, lưỡi khô rêu vàng.

Chứng vị trung táo thực : (257)
Phân kết thành cục trong ruột vì trong vị có nhiều táo khí thực nhiệt.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Quay về Chia xẻ Kinh Nghiệm Chữa Bệnh

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến9 khách