PHẦN HAI :
BÀI TẬP THỰC HÀNH CHỮA GỐC NHỮNG BỆNH PHỨC TẠP
KINH NGHIỆM KHÁM BỆNH CÁC LOẠI
BẰNG MÁY ĐO ÁP HUYẾT , NHIỆT KẾ, ĐO ĐƯỜNG
CÁC THẦY ĐÔNG Y CẦN BIẾT BÀI NÀY ĐỂ PHÂN BIỆT BỆNH CHÚNG KHÁC NHAU, CÁCH CHỮA C̃ŨNG KHÁC NHAU, MÀ ĐA SỐ CÁC THẦY ĐÔNG Y CHỮA SAI GỐC BỆNH
S̃Ẽ GIỐNG NHƯ TÂY Y CHỮA NGỌN TỪNG DẤU HIỆU BỆNH, NÊN GÂY HỌA VỀ SAU.
Dưới đây là bảng tiêu chuẩn áp huyết theo loại tuổi theo kinh nghiệm của khí công y đạo
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60-120 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5-12 tuổi)
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 60-70 là áp huyết ởtuổi thiếu niên (13–17 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Chúng ta chọn áp huyết theo tiêu chuẩn lão niên để làm thí dụ trong các bệnh, và cách chữa là Đối chúng trị liệu, con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con, hàn cho hết hàn, nhiệt cho hết nhiệt, hư làm cho hết hư, thực làm cho hết thực, bằng cách ăn uống, tập khí công.
Bệnh 1 : Trúng phong chứng âm bế.
Là huyết ứ tắc làm tâm trương cao 2 tay, do phong là khí lực cao 2 tay, nhiệt là mạch cao, là mạch sác, có dấu hiệu té hôn mê, răng nghiến chặt, đờm chặn họng.
Áp huyết 2 bên : 170-190/100-110mmHg mạch 110-120, trường hợp này cứu kịp, châm nặn máu 10 đầu ngón tay chân, khi tỉnh cho ngồi uống 1 ly nước chanh giải nhiệt hạ áp huyết.
Chứng dương bế, như âm bế nhưng có thêm hiện tượng dương nhiệt làm mất âm, tâm trương thấp, chỉ còn khí lực cao, trở thành bệnh tai biến stroke.
Bệnh 2 : Nhiễm trùng huyết, đông y gọi là âm-dương độc.
Do cảm nhiểm trùng trong họng xâm nhập vào trong máu tạo ra 2 loại bệnh, âm độc, dương độc.
Âm độc :
Mặt và mắt hiện mầu xám, cuống họng đau, thân thể đau như bị đánh, nhiệt độ tay chân lạnh là nhịp mạch đo áp huyết ở tay và chân thấp dưới 50-60, đau cuống họng là nội nhiệt âm hư huyết lực thiếu, thì do thiếu máu, âm hư nội nhiệt,
Cách chữa :
Sát trùng cổ họng bằng 1 ly nước nóng pha 1 thìa canh mật ong, 1 thìa canh dấm tào, xúc họng rồi nhổ ra, xong uống 1 ly nước chanh đường, tập bào Vỗ Tay 4 Nhịp 300 lần. Cho thông khí phổi tăng oxy tăng hồng cầu, giải nhiệt.
Dương độc :
Mặt nổi vết ban vằn vện như gấm, đau cổ họng, ói ra máu mủ do nhiệt độc ứ tắc ở phần
trên. Khám nhiệt độ ở tay chân không có cảm giác lạnh.
Nguyên nhân, áp huyết đo bên gan, khí lực không thay đổi là ứ đọng, máu trong gan là tâm trương cao sẽ bị ứ huyết, tim nóng thì tay chân không lạnh, nhiệt bao tử xông lên họng làm viêm họng.
Cách chữa :
Xông cổ họng như trên, uống nước chanh đường, và tập bài Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng 300 lần thông khí toàn thân, giúp khí lực bên gan và bao tử co bóp thay đổi nhiệt trong gan và bao tử trở lại bình thường.
Bệnh 3 : Sốt nhiệt tạo ra chứng âm-dương giao nguy hiểm.
Là loại chứng bệnh nguy hiểm do chữa sai lầm ở bệnh sốt nhiệt chưa tìm được nguyên nhân mà cho phát hãn, xuất mồ hôi làm mất tân dịch khiến dương tà lấn vào phần âm làm tiêu hao âm khí, phát sinh nói mê sảng, ăn không được.
Sốt nhiệt do nhịp mạch 2 tay quá cao gây mê sảng, ăn không được do khí lực tâm thu bên bao tử quá cao, mất tân dịch là làm hạ mất tâm trương bên tay phải là máu bị tụt thấp.
Cách chữa :
Đắp khăn ướt trên trán, ấn đè thở bụng giảm nhiệt trong tim hết mê sảng, làm hạ khí lực bên bao tử, miệng bệnh nhân thổi khí nhiệt trong phổi ra làm hạ thân nhiệt mà không bị mất mồ hôi
Bệnh 4 : Chứng âm hư là mất máu thiếu máu.
Áp huyết tâm trương bên gan thấp dần, tùy theo thiếu máu trong tạng nào gây bệnh cho tạng đó.
Dấu hiệu chung của bệnh : lòng bàn tay, chân nóng, sốt cơn về chiều, miệng khô, môi đỏ, chất lưỡi đỏ nhạt, táo bón, tiểu vàng.
Cách chữa gốc bệnh :
Đối chứng trị liệu : bổ máu bằng bột proteim loại sport, 1 muỗng pha 2 thìa đường uống với nước nóng, làm tăng lượng máu, thức ăn phải có chất bổ máu có củ sen làm mát tim, ngủ ngon, uống nước chanh đường giải nhiệt, tập bài Kéo Ép Gối 300 lần, ngày 3-4 lần, thông khí toàn thân, thông khí 5 tạng.
a-Tâm âm hư:
Hồi hộp, hay quên, mất ngủ hay mê, chất lưỡi đỏ nhợt, rêu ít.
b-Can âm hư:
Ðau đầu, choáng váng,ù tai,tê dại, run rẩy,quáng gà, chất lưỡi đỏ khô, rêu ít.
c-Phế âm hư:
Khí nghịch, ho đờm dẻo dính lẫn máu, gò má đỏ, sốt nhẹ về chiều, mồ hôi trộm, miệng khô, họng ráo, khàn tiếng, ngủ không ngon, chất lưỡi đỏ, rêu ít.
Bệnh để lâu không chữa kịp thành bệnh lao phổi.
d-Thận âm hư :
Lưng gối mỏi đau, di tinh, ù tai, váng đầu, ngủ kém, hay quên, khô miệng, chất lưỡi đỏ, rêu ít.
Bệnh 5 : Chứng dương hư là không đủ khí lực
Tạo ra 3 loại bệnh tâm dương hư, tỳ dương hư, thận dương hư.
Dấu hiệu chung của bệnh :
Sắc mặt trắng nhợt, chân tay không ấm, môi nhợt, miệng nhạt, tiểu nhiều, trong, phân loãng, chất lưỡi nhạt, rêu trắng trơn, và có dấu hiệu riêng của tạng bị hư, nguyên nhân do nhịp mạch quá thấp do thiếu đường chuyển hóa thức ăn.
Cách chữa :
Uống đường tập bài tăng áp huyết :
https://youtu.be/heBTiuF3Otk
Bệnh 6 : Chứng dương hư âm thịnh
Đo áp huyết bên gan, khí lực thấp, huyết lực cao hơn tiêu chuẩn tuổi.
Thí dụ 110/100mmHg mạch 70
Đo áp huyết thận, khí lực thấp gọi là thận dương hư làm chức năng khí hóa của tạng phủ suy giảm không duy trì được thân nhiệt, xuất hiện chứng âm thực hàn là huyết lực cao nhịp mạch thấp dưới tiêu chuẩn 50-60, chân tay lạnh, sợ lạnh, tiêu chảy, phù thủng.
Th́i dụ 100/100mmHg mạch50-60
Cách chữa đối chứng :
Gan hư bổ mẹ là thận, phải làm tăng áp huyết khí lực cho thận và gan, trước khi tập bài Hất gối lên ngực cùng lúc vỗ 2 tay lên trời làm tăng áp huyết tâm thu, nhưng phải uống đường nhiều cho đường chuển hóa thức ăn cho tiêu hóa thức ăn thì huyết lực giảm, và tập xong khí lực tăng cả gan, cả thận, huyết lực giảm, mạch tăng lên 70-80.
Bệnh 7 : Chứng âm-dương lưỡng hư.
Là bệnh nghiêm trọng, âm tổn hại liên lụy đến dương hoặc dương tổn haị liên lụy đến âm sẽ xuất hiện cùng lúc những dấu hiệu lâm sàng của âm hư và dương hư.
áp huyết cả tâm thu, tâm trương đều thấp, dương hư thì thiếu khí lực, mất sức, âm hư thì thiếu máu sinh nội nhiệt ngoại hàn, thì mạch vừa trì bên ngoài biểu, vừa mạch sác trong lý.
Cách chữa :
Ưu tiên bổ máu uống bột bổ prtein pha 2-3 thìa đường, tập bài thông khí tăng áp huyết.
Hất gối lên ngực cùng lúc 2 tay vỗ lên trời.
Bệnh 8 : Chứng lưỡng dương tương huân trước.
Là bệnh dương phát nhiệt bên trong, lại bị chữa lầm bằng xông, đốt ngải cứu cho ra mồ hôi thành ngoại nhiệt hợp nội nhiệt công phạt hóa hỏa làm tổn thương mất tân dịch khiến bệnh nặng thêm.
áp huyết dương nhiệt thì khí lực cao, mạch sác
Đốt ngải cứu làm mạch sác, tăng thêm nhiệt xuất thêm mồ hôi là mất máu, mất nước, là do chữa sai 2 lần.
Cách chữa :
Đối chứng trị liệu: Thối dương, tiềm âm :
Uống nước chanh gừng đường, chanh giải nhiệt hạ áp huyết, gừng đường liễm mồ hôi, đường cho năng lượng tập khí công bài Vỗ Tay 4 Nhịp 200 lần.
Bệnh 9 : Chứng âm hư dương cang.
Là tân dịch tinh huyết kém, bị suy tổn không giữ quân bình được dương, bệnh biến hóa thành cang thịnh (dương vượt trội lên ) làm nên cơn nóng, gò má đỏ, mồ hôi trộm, lòng bàn chân, bàn tay nóng, ho ra máu, gầy còm, mất ngủ, phiền toái, dễ giận, di tinh, chất lưỡi đỏ khô.
Áp huyết bên gan khí lực cao, huyết lực thấp, mạch sác là huyết hư nhiệt
Áp huyết chân khí lực thấp, huyết lực thấp, mạch sác, nóng trong ống xương.
Cách chữa đối chứng :
Ăn thức ăn bổ máu, uống bột bổ máu protein pha 3 thìa đường, uống nhiều nước, tập bài thông khí toàn thân Kéo Ép Gối Làm Mềm Bụng 300 lần để điều chỉnh áp huyết và thân nhiệt, bổ thận và gan.
Bệnh 10 : Chứng âm hư hầu tiền.
Là thận âm suy, hư hỏa bốc lên làm âm phế tổn thương có dấu hiệu niêm mạc họng loét nát gồ ghề, mầu sạm tối, đau, khó nuốt, âm hư sinh nội nhiệt, sốt về chiều, ra mồ hôi, gầy yếu, thường gặp trong bệnh lao phổi.
áp huyết tay trái : khí lực thấp, huyết lực thấp, mạch sác, khí hàn, huyết nhiệt
áp huyết 2 chân cũng khí hàn, huyết nhiệt, mạch sác.
Cách chữa đối chứng :
3 kinh liền nhau bệnh, tỳ không sinh huyết làm phế âm hư, sinh thận hư. Phải bổ máu cho tỳ vị, phải ăn thức ăn bổ máu, uống bột bổ protein pha 4 thìa đường bổ tỳ vị chuyển hoá thức ân thành chất bổ, bổ khí tăng khí lực cho pổi và thận bằng bài tập : Hất gối lên ngực vỗ 2 tay lên trời.
Bệnh 11: Chứng âm nhiệt :
Mạn tính có dấu hiệu sốt nhẹ làm tiêu hao sức khỏe, hoặc trong bệnh cấp tính âm bị tiêu hao thành âm hư phát nhiệt, sốt cao.
Áp huyết bên gan : Huyết lực thấp, mạch sác
Cách chữa đối chứng :
Bệnh 12 : Chứng âm hư phát nhiệt :
Là chứng sốt nóng bởi âm hư sinh nội nhiệt do âm dịch bị hao tổn làm sốt từng cơn, sốt về đêm, lòng bàn tay bàn chân nóng, ra mồ hôi trộm, miệng khô, lưỡi đỏ khô, giống như chứng âm hư dương cang.
Bệnh 13 : Chứng dương hư phát nhiệt.
Nội thương phát nhiệt do tỳ vị hư nhược, dương khí vượt ra ngoài, có dấu hiệu, sợ gió, phát sốt nhiệt phần nhiều vào buổi sáng, tự ra mồ hôi, mệt mỏi, ít nói, kém ăn.
Do âm hàn nội thịnh, hư dương bị ngăn cách bên ngoài nên xuất hiện phù nhiệt nóng a lớp da, sốt nhẹ, ố hàn, mệt mỏi, chi lạnh, iả lỏng.
Bệnh 14 : Chứng dương hư ngoại hàn.
Dương hư do khí hư hoặc mệnh môn hỏa kém làm chức năng khí hoá của lục phủ ngũ tạng kém như tỳ thận dương hư không đủ khả năng biến đổi tinh chất nuôi dưỡng vinh vệ khí của tạng phủ, sự tuần hoàn khí và huyết suy sẽ có dấu hiệu lạnh bên ngoài, chân tay lạnh, sợ lạnh, sắc mặt trắng, dễ bị nhiễm cảm mạo.
Bệnh 15 : Chứng âm hư phế táo.
Phế sợ hỏa đốt, nếu phế thận âm hư sinh nội nhiệt, hư hỏa đốt làm phổi càng khô nên âm phế càng hư, có dấu hiệu ho khan không đờm, hoặc có đờm lẫn máu, họng đau, thở khò khè, lưỡi đỏ bệu, ít rêu, thường gặp trong bệnh lao phổi, viêm họng mạn tính, bạch hầu, giãn phế quản...
Bệnh 16 : Chứng âm táo .
Là chứng phiền táo, bức rứt thần chí không yên do âm hàn cực thịnh hay âm thịnh cách dương có dấu hiệu tứ chi quyết nghịch, toát mồ hôi lạnh, thường gặp ở bệnh choáng, suy tim, urê niệu cao.
Bệnh 17 : Chứng âm hư thất nạp.
Là chứng huyết hư không còn khả năng thu nạp, thống nhiếp huyết, huyết không đi theo kinh mạch mà tràn ra ngoài làm xuất huyết.
Bệnh 18 :Chứng thoát âm.
Chân âm can thận hao tổn làm thị lực đột nhiên giảm sút nghiêm trọng, mắt mờ, thường gặp ở thời kỳ cuối bệnh nhiệt cấp tính, nhiệt mạn tính, kém dinh dưỡng.
Bệnh 19 : Chứng thoát dương.
Là hao tổn dương khí nghiêm trọng trong hai trường hợp :
Âm hàn nội thịnh :
Dương khí bị tổn thương làm thần khí không nơi nương tựa sinh ảo giác, loạn thị, bệnh tâm thần nói năng lung tung, vã mồ hôi đầm đìa, thường gặp ở bệnh viêm thận mãn, urê niệu cao.
Thoát tinh không ngừng sau khi giao hợp.
Bệnh 20 : Chứng thương âm
Chân âm ở can thận tổn thương sau bệnh cảm nhiễm ôn nhiệt, có dấu hiệu sốt nhẹ, lòng bàn tay bàn chân nóng rát, mỏi mệt gầy còm, miệng khô ,đau họng, gò má đỏ, lưỡi đỏ tiá khô.
Bệnh 21 : Chứng thương dương.
Dương khí bị tổn thương có dấu hiệu hồi hộp, sợ sệt, hoảng hốt, mất ngủ, do nhiều nguyên nhân :
Như hàn tà xâm nhập tam âm, hoặc bệnh ôn nhiệt dùng thuốc hàn lương qúa đáng, hoặc cho phát hãn, cho tả hạ, hoặc bệnh cực nhiệt, hoặc thử thấp ứ đọng, hoặc mừng qúa khiến tâm thần qúa hưng phấn làm hao tán dương khí .
Bệnh 22 : Chứng âm kết, dương thoát hay vong âm.
Bệnh nghiêm trọng, âm dương mất hổ trợ mà ly cách nhau thành vong âm (mất âm ) như chảy ra nhiều máu, nhiều mồ hôi, tiêu chảy ra nước không ngừng làm mất nước, khi mất âm thì dương thoát ra theo, có dấu hiệu mình nóng, sốt cao, ra mồ hôi không ngừng, tiêu chảy không ngừng, phiền táo không yên, thở hổn hển, chân tay ấm, môi lưỡi đỏ khô, thích ăn uống chất mát.
Bệnh 23 : Chứng vong dương.
Vong dương thường do vong âm trước, thoát mồ hôi lạnh, chân tay lạnh, môi tím tái, sắc mặt trắng nhợt, thở yếu.
Bệnh 24 : Chứng âm kết.
Ðại tiện bí kết do tỳ thận hư hàn, người hư nhược, mà bụng không đầy trướng, có ý mót đại tiện nhưng phân không ra, chân tay không ấm, tiểu nhiều, trong, chất lưỡi nhạt, rêu trắng mỏng.
Bệnh 25 : Chứng âm thủy.
Phù thủng do tỳ thận hư không còn khả năng dẫn thủy và hóa thủy, chân bị phù trước, mầu sắc trắng nhạt hoặc sạm, nhạt miệng, đại tiện nhão,thuộc hư chứng, mạn tính.
Bệnh 26: Chứng âm thịnh cách dương
Khi âm hàn cực thịnh xuất hiện, nội chân hàn ngoại giả nhiệt, có dấu hiệu vật vã không yên, khát nước mà không uống hoặc chỉ uống nước nóng, và thích mặc áo ấm là hiện tượng giả nhiệt.
Bệnh 27 : Chứng âm thịnh dương suy.
Âm hàn thịnh ở trong làm dương khí suy nhược do thủy thấp hại dương hoặc ăn uống nhiều chất hàn làm âm thịnh.
Bệnh 28 : Chứng dương hư âm thịnh.
Thận dương hư không giữ ấm được tạng phủ nên chức năng khí hóa của tạng phủ yếu kém sẽ xuất hiện chứng hàn, chân tay lạnh, sợ lạnh, tiêu chảy, phù thủng.
Bệnh 29 : Chứng dương thịnh.
Là tà nhiệt do ngoại cảm xâm nhập thịnh, cơ thể cũng có nhiệt thịnh sẵn, hai nhiệt khí chống nhau làm thành sốt nên gọi là dương thịnh ngoại nhiệt.
Bệnh 30 : Chứng dương giản.
Bệnh thuộc nhiệt tính, tự nhiên lên cơn nhanh té ngã đột ngột, co giật sùi bọt mép, răng nghiến chặt, mắt trợn ngược, mình nóng.
Bệnh 31 : Chứng bạo thoát.
Do âm dương khí huyết bị tổn thương cực độ có dấu hiệu thoát chứng nguy hiểm tính mạng như mồ hôi tuôn ra nhỏ giọt như hạt châu không ngừng, chân tay lạnh dần, mắt nhắm, miệng há, tay xòe, vãi đái, thường gặp ở bệnh tai biến mạch máu não, loại bệnh trúng phong ra mồ hôi nhiều, loại bệnh chảy mất máu nhiều, loại bệnh ỉa chảy ra nhiều nước không ngừng, thoát tinh nhiều không ngừng,loại bệnh choáng ngất, loại bệnh suy nhược nặng khiến chức năng của ngũ tạng suy kiệt.
Bệnh 32 : Chứng hàn .
Do dương khí suy, âm khí thịnh làm cơ năng trao đổi chất giảm, có dấu hiệu sắc mặt trắng xanh, uể oải, nằm co, sợ lạnh, bụng lạnh đau, không khát, thích uống nước nóng, phân nhão lỏng, tiểu nhiều trong, chất lưỡi nhạt, rêu trắng trơn, thường gặp trong bệnh mạn tính, hàn vào phổi sinh suyễn hàn, hàn ở lồng ngực làm ra bệnh tim mạch, bệnh mạch vành, hàn ở bụng dưới làm đau bụng mỗi kỳ kinh ở phụ nữ.
Bệnh 33 : Chứng nội hàn.
Do dương hư khí yếu công năng tạng phủ suy giảm không đủ nhiệt để thủy hoá khí nên thủy không được vận hoá bị ứ đọng sinh hàn..
Bệnh 34 : Chứng hư phong nội động.
Tình trạng huyết khô, mất máu không nuôi gân hoặc can thận âm không đủ kiềm chế dương làm can dương bốc lên thành hư phong nội động có dấu hiệu choáng váng, co giật, sau khi bị ra mất nhiều máu, mồ hôi, iả ra nước xối xả.., nếu do mất máu gây ra bệnh gọi là huyết hư sinh phong, nếu do âm dịch suy tổn gọi là dịch táo sinh phong.
Bệnh 35 : Chứnh hư thủng.
Chứng thủy thủng thuộc âm thủy hư, hoặc tỳ dương hư, hoặc thận dương hư, có dấu hiệu phù thủng từ từ, sắc mặt ảm đạm, thở yếu, khẽ, mỏi mệt, iả chảy, sợ lạnh, chân tay lạnh.
Bệnh 36 : Chứng hư dương thượng phù.
Do thận dương suy, âm thịnh, dương khí yếu vọt lên mà không có khả năng giữ lại ở dưới để âm dương quân bình được.
Bệnh 37 : Chứng hư hỏa thượng viêm.
Thận âm hư, thủy không khắc được hỏa, hư hỏa sẽ bốc lên trên làm sưng làm sưng đau khô họng, hoa mất chóng mặt, tai ù, tâm phiền, không ngủ được, hay quên. lòng bàn tay chân đều nóng, chất lưỡi đỏ bệu.
Bệnh 38 : Chứng hư thủng.
Chứng thủy thủng thuộc âm thủy hư, hoặc tỳ dương hư, hoặc thận dương hư, có dấu hiệu phù thủng từ từ, sắc mặt ảm đạm, thở khẽ, yếu, mệt mỏi, tiêu chảy, sợ lạnh, chân tay lạnh.
Bệnh 39 : Chứng hư trung giáp thực.
Trong chứng bệnh hư lại có dấu hiệu thực chứng như dấu hiệu hư chứng là gầy ốm, da khô nổi vẩy mốc, lòng bàn tay bàn chân nóng, kém ăn, có thêm dấu hiệu.
thực chứng như chất lưỡi đỏ tiá sậm, rìa lưỡi có điểm ứ tụ huyết, như phụ nữ bị bế kinh....
Bệnh 40 : Chứng thượng hư hạ thực.
Chính khí hư ở trên, tà khí thực ở dưới, có dấu hiệu ở trên như hồi hộp, sợ hãi, tâm thần bất an do tâm huyết hư, nhưng lại có dấu hiệu cảm nhiễm thấp nhiệt làm đau bụng, kiết lỵ đi đại tiện nhiều lần ra phân trắng đỏ lẫn lộn, rêu lưỡi vàng nhớt.
Bệnh 41 : Chứng thượng thực hạ hư :
Tà thực ở trên, chính khí hư ở dưới, như tỳ vị hư yếu lại bị nhiễm cảm hàn tà làm đau bụng, iả lỏng, chân tay lạnh khiến hư càng thêm hư, trong khi đó hàn tà là thực chứng hại phế vị làm đau đầu cổ gáy, sợ lạnh, ho suyễn.
Bệnh 42 : Chứng hàn kết .
Do âm hàn ngưng trệ tạo ra bệnh đại tiện bí kết có dấu hiệu đau hoặc sôi bụng, tiểu trong, môi tái, miệng nhạt, rêu lưỡi trắng trơn.
Bệnh 43 : Chứng hàn tà.
Do nội tạng hư hàn làm bệnh có dấu hiệu đại tiện trong loãng như phân vịt, hoặc ra thức ăn sống sít, bụng sôi đau âm ỉ kéo dài, tiểu trong, rêu lưỡi trắng trơn.
Bệnh 44 : Chứng hàn sán.
Làm đau bụng lạnh cấp tính, quanh rốn đau như thắt, chân tay tê dại, vã mồ hôi lạnh, toàn thân giá lạnh, do tỳ vị hư hàn, hoặc do huyết hư sau khi sanh lại bị cảm phong hàn làm bụng co cứng đau lan sang hai bên sườn, hoặc do kinh can bị hàn khí xâm nhập làm bộ sinh dục lạnh, sưng rắn đau co rút đau.
Bệnh 45 : Chứng hàn thực.
Chính khí không hư mà hàn tà phát sinh do ăn uống kết ở trong có dấu hiệu chân tay lạnh, tiểu tiện trong, đau bụng, bí đại tiện ,lưỡi nhuận, rêu trắng.
Bệnh 46 : Chứng hàn thực kết hung.
Do mắc bệnh thương hàn lại tắm nước lạnh, nhiệt tà bị hàn khí ngăn trở, thủy hàn làm thương phế, hàn khí kết nơi hông sườn làm đau vùng ngực, tâm phiền không khát, không phát nhiệt.
Bệnh 47 : Chứng hàn lật.
Do qúa hàn trong phủ tạng phát sinh run rẩy lập cập, mỗi khi phát hàn, hai hàm răng gõ vào nhau, thường gặp trong bệnh sốt rét, bệnh dịch, hoặc phạm thuốc péniciline.
Cách chữa :
Phạm thuốc péniciline, có tính hàn, tiêm ngay mủi thuốc nước calcium người ấm ngay hết run lập cập.
Bệnh 48 : Chứng hàn quyết.
Do dương khí hư yếu vì nội tạng hư hàn, có dấu hiệu mệt mỏi, sợ lạnh, iả nước trong, chân tay lạnh buốt, lạnh nằm co, không khát, bụng đau, mặt đỏ, móng chân tay thâm xanh, choáng váng, ngã lăn bất tỉnh.
Bệnh 49 : Chứng hàn bao hỏa.
Cơ thể bẩm sinh tích nhiệt bị bệnh cảm lạnh, hàn bao ở bên ngoài khiến nhiệt uất bên trong làm ra bệnh hen suyễn .
Bệnh 50 : Chứng hàn nhiệt thác tạp.
Chứng hàn, chứng nhiệt thay đổi nhau như trên nóng dưới lạnh, trên lạnh dưới nóng, biểu nóng lý lạnh, biểu lạnh lý nóng.
Bệnh 51 : Chứng nhiệt kết bàng lưu.
Có dấu hiệu đại trường thực nhiệt đi cầu táo bón không thông, khó đi nhưng chỉ ra nước chứ không ra phân cục như táo bón thông thường.
Bệnh 52 : Chứng nhiệt kết hạ tiêu.
Nhiệt kết vùng đại tiểu trường, thận, bàng quang khiến sự khí hóa của tạng phủ hạ tiêu trở ngại làm bụng dưới trướng đau, đại tiện bí, tiểu tiện tắc buốt hoặc tiểu ra máu.
Bệnh 53 : Chứng nhiệt thịnh khí phận.
Có dấu hiệu sốt cao, mặt đỏ,tâm phiền, vã mồ hôi, khát, rêu lưỡi vàng khô. Nếu nhiệt kết thực chứng nặng sẽ sốt cao về chiều, thậm chí hôn mê, đau bụng, bí đại tiện, rêu lưỡi vàng dầy khô.
Bệnh 54 : Chứng nhiệt vào huyết phận.
Huyết phận là nơi sâu nhất trong cơ thể bị nhiệt tà truyền vào nên thường sốt cao về đêm, tinh thần ủ rũ, trằn trọc, co giật, đặc biệt nổi vết ban chẩn là huyết bị hại nhiễm độc, lưỡi đỏ bầm nổi hột.
Bệnh 55 : Chứng nhiệt vào tâm bao.
Là tà nhiệt truyền vào doanh phận làm tổn thương thần kinh gây hôn mê kéo dài không tỉnh, thường đi đôi với đờm gây biến chứng, dễ bị di chứng bại liệt, mất trí.
Bệnh 56 : Chứng nhiệt cực sinh phong.
Do thực nhiệt thịnh tổn thương vinh huyết, can huyết, làm huyết nhiễm độc gây ra bệnh viêm não, sốt cao co giật, kiết lỵ máu, bại huyết.
Bệnh 57 : Chứng nhiệt thương cân mạch.
(hỏa thiêu gân)
Do sốt cao kéo dài làm âm suy kiệt, gân cốt mất nuôi dưỡng khiến gân co quắp, bại liệt.
Bệnh 58 : Chứng nhiệt uất.
Khí uất do giận kết lại trong gan hóa nhiệt làm đau đầu, miệng khô đắng, ngực sườn đầy tức, nôn ợ chua, bí đại tiểu tiện, nước tiểu đỏ ra ít , ù tai, tính nóng nẩy, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.
Bệnh 59 : Chứng thượng hàn hạ nhiệt.
Là bệnh hàn nhiệt lẫn lộn, nhiệt tà ở dưới làm trướng bụng, tiện bí, tiểu sẻn đỏ, trên nhiễm hàn tà làm lợm giọng, nôn mửa, ho suyễn, đờm ẩm, rêu trắng.
Bệnh 60 : Chứng thượng nhiệt hạ hàn.
Là bệnh hàn nhiệt lẫn lộn do khí của âm dương làm bệnh trong trường hợp ngoại cảm dùng công hạ sinh iả chảy không ngừng, tân dịch tiêu hao, nhiệt tà thừa cơ xung nghịch lên khiến họng đau, khạc ra đờm vàng dính lẫn máu, hàn tà ở dưới sinh iả lỏng nát, tứ chi lạnh.
Bệnh 61 : Chứng triều nhiệt.
Phát sốt từng cơn có định kỳ vào thời gian nhất định, đa số về chiều thuộc âm gọi là âm hư triều nhiệt do
3 nguyên nhân :
Âm dịch suy kém:
Cứ tối đến là phát sốt ra mồ hôi trộm, gọi là âm hư triều nhiệt.
Dương khí bị thấp tà lấn át:
Gây bệnh sốt về chiều gọi là thấp ôn triều nhiệt.
Nhiệt tà kết ở ruột :
Phát sốt mỗi buổi chiều gọi là nhật bộ trào nhiệt.
Ngoài ra nếu sốt nhiệt do ôn bệnh truyền vào doanh phận hay huyết phận, không thuộc triều nhiệt.
Bệnh 62 : Chứng biểu hàn.
Do sau khi nhiễm cảm phong hàn, có dấu hiệu phát nóng ớn lạnh, không có mồ hôi, đau đầu, gáy cứng, nhức xương khớp, rêu lưỡi trắng mỏng ướt.
Bệnh 63 : Chứng lý hàn
Có dấu hiệu sợ lạnh, không khát, ói mửa, tiêu chảy, ăn buồn nôn, tứ chi lạnh, lưỡi nhạt rêu trắng.
Bệnh 64 : Chứng biểu nhiệt.
Do sau khi nhiễm cảm phong nhiệt, có dấu hiệu sợ gió, phát sốt mình nóng, có mồ hôi hoặc không, khát nước, đầu lưỡi và bìa lưỡi đỏ, rêu trắng mỏng hoặc hơi vàng.
Bệnh 65 : Chứng lý nhiệt
Có dấu hiệu phát nóng, miệng khát, ít nước miếng, mắt và môi đỏ, tâm phiền, lưỡi đỏ rêu vàng.
Bệnh 66 :Chứng biểu hư.
Do vệ khí yếu khiến cơ bắp, da lông không bền chặt, lỗ chân lông mở, có dấu hiệu tự ra mồ hôi, sợ gió, lưỡi nhạt, rêu trắng.
Bệnh 67 : Chứng lý hư.
Có dấu hiệu yếu sức, ít nói, chi lạnh, iả lỏng, mệt mỏi, hồi hộp,tối tăm mặt mày, lưỡi non béo, rêu trắng nhạt.
Bệnh 68 : Chứng biểu thực .
Sau khi ngoại tà xâm nhập, dương khí tụ tập ở cơ biểu để chống lại tà khí, lỗ chân lông đóng kín không cho tà khí xâm nhập thêm nên có dấu hiệu da lông không mồ hôi, đau đầu, đau mình, lưỡi đầy rêu trắng.
Bệnh 69 : Chứng lý thực.
Có dấu hiệu thở to, nói nhỏ, tâm phiền muộn bức rứt, táo bón,bụng đầy căng, lưỡi cứng sượng, rêu vàng khô.
Bệnh 70 : Chứng biểu giải lý chưa hòa.
Do biến chứng của bệnh thương hàn đã giải nhưng lý phận còn chứng thủy ẩm, đờm dãi, thực trệ, ứ huyết chưa được tiêu trừ, âm dịch vẫn còn sút kém chưa được khôi phục.
Bệnh 71 : Chứng biểu hàn lý nhiệt.
Do hàn nhiệt lẫn lộn như bệnh nhân vẫn bị nội nhiệt, thêm cảm nhiễm phong hàn, hoặc bệnh phong hàn truyền vào lý hóa nhiệt có dấu hiệu sợ lạnh, phát sốt, không mồ hôi, đau đầu mình, thở suyễn của cảm hàn thêm dấu hiệu phiền táo, khát nước, tiểu tiện vàng, táo bón là dấu hiệu của lý nhiệt.
Bệnh 72 : Chứng biểu nhiệt lý hàn.
Do tỳ vị sẵn hư hàn lại bị nhiễm cảm nhiệt, hoặc do ngoại tà nhiệt chưa khỏi lại ăn uống nhiều thứ mát lạnh khiến dương khí tỳ vị suy kém, có dấu hiệu phát sốt đau đầu, sợ gió của biểu nhiệt lại thêm dấu hiệu của lý hàn như tiêu chảy, tiểu nước trong, chân tay lạnh, không khát nước.
Bệnh 73 : Chứng biểu tà nội hãm.
Biến chứng của bệnh do chính khí hư tà khí thịnh, hoặc điều trị sai, làm tà khí ở biểu không ra được bị hãm vào trong lý phận tùy vào chứng thuộc kinh nào sẽ có dấu hiệu lâm sàng riêng.
Bệnh 74 : Chứng biểu thực lý hư.
Do tà khí thực, chính khí hư, do trung khí bất túc, bị cảm nhiễm hàn, có dấu hiệu biểu thực như sợ lạnh, phát sốt không mồ hôi thêm dấu hiệu của lý hư như tinh thần ủy mị, yếu đuối, kém ăn.
Bệnh 75 : Chứng biểu hư lý thực.
Khi vệ khí suy bị nhiễm cảm, tà khí lấn sâu vào lý phận, hoặc do điều trị biểu chứng chưa khỏi gây nên biến chứng biểu hư có dấu hiệu sợ gió, ra mồ hôi, phát sốt, có thêm lý chứng bị thực như đau bụng, táo bón.
Bệnh 76 : Chứng biểu lý đều hàn.
Bị ngoại cảm hàn bên ngoài, lại ăn các thứ sống lạnh hàn trệ bên trong, hoặc tỳ vị hư hàn sẵn bên trong lại bị cảm hàn bên ngoài, có các dấu hiệu của biểu hàn sợ lạnh không ra mồ hôi, đau đầu mình và có dấu hiệu của lý hàn như đau bụng tiêu chảy, chân tay giá lạnh.
Bệnh 77 : Chứng biểu lý đều nhiệt.
Bị cảm nhiệt bên ngoài mà trong cơ thể bị nội nhiệt do tỳ vị nhiệt sẵn hoặc do ăn uống thức ăn chiên xào cay nóng, hoặc trái cây có tính nhiệt (nhãn, xoài, chôm chôm, mít, sầu riêng..), có dấu hiệu của biểu do cảm nhiệt, thêm dấu hiệu của lý nhiệt như mặt đỏ, đau đầu, sợ nhiệt, họng khô khát nước,tâm phiền, nói sảng, lưỡi đỏ khô.
Bệnh 78 : Chứng bán biểu bán lý.
Là bệnh ngoại cảm lục dâm trước đã xâm nhập phần biểu qua đường kinh Thái dương Bàng quang ở phần vệ đi sâu dần vào trong cơ thể, không còn ở phần biểu, nhưng chưa vào được kinh Dương minh vị thuộc phần lý mà còn ở giữa thuộc kinh Thiếu dương Ðam và Tam tiêu, ở nơi này, chính khí và tà khí đang chống nhau,
nếu chính khí thắng sẽ đẩy tà khí ra phần biểu, nếu chính khí suy, tà khí thắng sẽ nhập sâu vào phần lý để làm hại huyết và làm tổn thương tạng phủ. Cho nên ở bán biểu bán lý có dấu hiệu nóng rét qua lại, ngực sườn đầy đau, tâm phiền muốn nôn, ọe khan, miệng đắng, ăn không được, hoa mắt.
Bệnh 79 : Chứng phong bí.
Có dấu hiệu bón, kèm theo trướng bụng, chóng mặt, thường gặp ở bệnh cảm phong nhiệt làm đại trường kết táo, ở bệnh trúng phong tích nhiệt trường vị.
Bệnh 80 : Chứng phong chẩn mề đay.
Do thời tiết là ngoại phong cùng với chức năng khí hoá của gan làm ra và do ăn uống các chất hại gan tạo nên chứng phong chẩn, có dấu hiệu dị ứng nổi mề đay như hạt vừng thành mảng, do phong nhiệt thì mảng mề đay hơi đỏ, ngực khó chịu, chân tay mỏi nặng nề, rêu lưỡi đầy nhớt, bệnh tái đi tái lại nhiều năm không hồi phục là do khí huyết hư.
Bệnh 81 : Chứng phong giản.
Có hai nguyên nhân :
Do ngoại cảm phong tà thuộc lục dâm làm bệnh, đem theo nhiệt vào kinh can bốc hỏa làm cơn co giật bất tỉnh, mắt trợn ngược, cứng gáy, hàm răng nghiến chặt.
Do nội phong ở kinh can tích nhiệt gây nên thường xuyên, mỗi khi lên cơn, mắt trợn ngược, gáy cứng, bất tỉnh, hai hàm răng nghiến chặt.
Bệnh 82 : Chứng phong hàn cảm mạo.
Có dấu hiệu phát nhiệt lẫn hàn, sốt sợ lạnh, đau đầu, không mồ hôi, nghẹt và chảy nước mũi, tiếng nói bị nghẹt nặng, ngứa cổ ho, gặp gió thì ho nhiều, đờm trắng loãng trong, không khát,đau nhức khớp xương, sắc lưỡi đỏ nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, thường gặp trong bệnh viêm phế quản do lạnh, bệnh nổi mề đay do lạnh, bệnh sâu răng bị đau do lạnh.
Bệnh 83 : Chứng phong nhiệt cảm mạo.
Ðau đầu, phát sốt, hơi sợ gió lạnh, mũi nghẹt không chảy nước mũi, tự ra mồ hôi, cổ họng đỏ đau, ho khạc đờm vàng dính, khát nước, chất lưỡi đỏ, rêu trắng vàng mỏng.
Bệnh 84 : Chứng phong hàn thấp.
Cả 3 loại phong, hàn, thấp, hợp lại làm đau gọi là chứng tý. Khi xâm nhập vào biểu từ da lông vào kinh mạch làm tắc sưng đau mỏi, tê dại bắp thịt, gân, xương.
Khi tà vào lý làm gù lưng, suyễn, hồi hộp, và tùy theo tỷ lệ của 3 tà khí (phong, hàn, thấp) vào tạng phủ nào sẽ có dấu hiệu bệnh riêng khác nhau.
Bệnh 85 : Chứng phong thừa phế
Làm ra bệnh cảm phong hàn có dấu hiệu tắc mũi, chảy nước mũi, khan tiếng, hắt hơi, ho khạc đờm loãng trong, đau đầu, sợ lạnh, hoặc sốt không mồ hôi, rêu lưỡi trắng mỏng.
Bệnh 86 : Chứng phong méo miệng .
Là chứng miệng méo mắt xếch do kinh Tỳ Vị khí hư sẵn, mới bị ngoại phong tà xâm nhập làm trở ngại khí hoá của kinh Vị, có đường dây thần kinh chạy ở nửa bên đầu mặt bị co rút liệt, tạo ra chứng trúng phong méo miệng..
Bệnh 87 : Chứng phong hỏa tương phiên.
Do nhiệt cực sinh phong di động hại vinh vệ khí của cơ thể, gặp trong bệnh truyền nhiễm cấp tính do môi trường sinh hoạt bị ô nhiễm là ngoại phong hợp với tâm và can thực nhiệt làm ra hỏa sinh nội phong gây ra chứng phong hỏa, thường gặp trong bệnh não như viêm hoặc xuất huyết não.
Bệnh 88 : Chứng phong nhiệt.
Có dấu hiệu sốt, phát nhiệt nặng, ố hàn nhẹ, sợ gió, ho có đờm đặc dính, họng khô đau, khát nước, thậm chí mắt đỏ, chảy máu cam, ven lưỡi đỏ, rêu lưỡi hơi vàng thường gặp trong bệnh viêm phế quản do nhiệt, nếu phong nhiệt vào thận gọi là thận phong gây bệnh mặt, phù nề, tiểu ít, mầu vàng, thỉnh thoảng đau hông, thường gặp trong bệnh viêm thận cấp tính, dị ứng nổi mề đay do nóng, bệnh đau răng do gan nóng.
Bệnh 89 : Chứng phong chẩn.
Phong tà nhiệt phạm vệ khí của phế phát bệnh ở bì phu mọc ra những nốt đỏ ngứa thường gặp ở trẻ em, có ho nhẹ, vết đỏ mọc toàn thân trong 24 giờ, sau hai ba ngày bệnh tự khỏi không để lại dấu vết.
Bệnh 90: Chứng phong nhiệt nhãn.
Là viêm kết mạc cấp tính do ngoại phong nhiệt độc xâm phạm vào can phế, hai mắt đau ngứa như cát bụi bay vào mắt, chảy ghèn, sáng ngủ dậy mí mắt dính ma không ra, nặng làm đau đầu sốt.
Bệnh 91 : Chứng phong lỵ.
Do phong tà còn ẩn náu trong cơ thể gây tổn thương tỳ vị làm ra bệnh đau bụng, trước tiên tiêu chảy sau kiết lỵ ra máu tươi, hậu môn căng tức. (giống như bệnh danh y học hiện đại ăn trúng thực nhiễm trùng đường ruột).
Bệnh 92 : Chứng phong ôn.
Là bệnh nhiễm cảm nhiệt cấp tính thường vào mùa xuân, tà khí vào phế hại vệ khí làm phát sốt ố hàn, khát nước, ho, đau đầu. Khi bệnh phát triển sẽ truyền nghịch tâm bào làm hôn mê, nói nhảm, phát ban chẩn.
Bệnh 93 : Chứng phong táo.
Là bệnh cảm nhiệt do hai loại tà khí phong và táo vào mùa thu, có dấu hiệu phát sốt, đau đầu, sợ lạnh, tắc nghẹt mũi, môi khô, họng ráo, không mồ hôi, ho khan, ngực đầy, sườn đau, da khô ráp, rêu lưỡi trắng mỏng khô.
Bệnh 94 : Chứng phong thấp.
Phong và thấp tà cùng xâm nhập qua biểu vào gân xương, nếu còn ở biểu thì cơ thể đau nhức không xoay trở được, nếu vào tới gân, khớp, làm đau nhức co giật khó co động, đụng vào đau.
Bệnh 95 : Chứng phong thủy thủng.
Phát bệnh nhanh do cơ thể yếu không hợp với môi trường ở nơi sơn lam chướng khí làm ra bệnh khớp xương đau, phát nhiệt lẫn phong làm mặt phù, do tỳ khí hư, phế mất chức năng giáng khí để giúp thận khí hóa nên thủy tắc làm ra phù thủng.
Bệnh 96 : Chứng âm thử.
Do hóng gió mát hoặc uống nước lạnh nhiều vào mùa hè oi bức nóng nực, nếu trung khí bị hư yếu sẵn bên trong nên thử và phong tà thừa cơ xâm nhập từ từ không có phản ứng cấp tính thành bệnh ngay mà phản ứng âm thầm gọi là âm thử, sau có dấu hiệu sốt nóng, sợ lạnh, không có mồ hôi, mình đau mỏi, nặng nề, tinh thần mệt mỏi, chất lưỡi nhạt, rêu vàng.
Bệnh 97 : Chứng thử khái.
Do cảm nhiễm nhiệt mùa hè làm hại phổi phát sinh ho, có đờm hoặc không, mình nóng, khát nước, tâm phiền, ngực khó chịu, đau sườn, nước tiểu đỏ.
Bệnh 98 : Chứng thử lỵ.
Khí thử nhiệt của mùa hè xâm nhập trường-vị gây tích trệ tiêu hoá làm đau thắt bụng, phát sốt, đi ra chất trắng đỏ lẫn lộn, phiền khát, nấc nghịch, mặt như bẩn ra mồ hôi, phiền khát, tiểu khó.
Bệnh 99 : Chứng thử nhiệt.
Loài bệnh sốt nhiệt của trẻ em về mùa hè, sốt kéo dài, hoặc sáng mát, chiều sốt, khát nước, tiểu nhiều, không hoặc có mồ hôi, thường gặp ở những trẻ em có thể chất yếu đuối âm dương khí đều yếu không chịu được khí hậu viêm nhiệt của mùa hè.
Bệnh 100 : Chứng thử quyết.
Người bị trúng nắng té hôn mê, bị co rút lạnh từ đầu gối đến chân, và từ khuỷu tay đến bàn tay.
Bệnh 101 : Chứng thử thấp .
Nắng nóng kèm ẩm thấp xâm nhập vào cơ thể làm ngực bụng đầy tức, tâm phiền, mình nóng sốt, rêu lưỡi vàng nhớt. Nếu cả hai xâm nhập vào trung tiêu làm sốt cao, khát nước, tiểu ít mà ra nhiều mồ hôi, ngực bụng đầy, mình nặng nề. Nếu tràn khắp tam tiêu làm ho, có khi khạc đờm ra máu, sốt cao, mặt đỏ, ngực bụng đầy nghẽn, tiểu ít nước tiểu đỏ, phân hôi thối. Nếu vừa có thử thấp bên trong lại nhiễm thêm cảm gió lạnh sẽ bị đau
đầu, sốt, sợ lạnh, không mồ hôi, ngực bức rứt ,tâm phiền, rêu lưỡi trắng nhớt.
Bệnh 102 : Chứng thử uế.
Khí thử thấp ở môi trường độc xâm nhập, bệnh phát nhanh, đầu căng đau, tức ngực, phiền táo, lợm giọng, nôn moa, phát sốt có mồ hôi, nặng hơn thì mê man, tai điếc.
Bệnh 103 : Chứng thấp
Thuộc âm tà, tính chất khí nặng đục ngăn trở khí hóa của Tỳ làm hại Tỳ gây ra bệnh THƯƠNG THẤP do cảm nhiễm vào mùa mưa, do nơi ẩm ướt, hoặc lội nước
Dầm mưa, hoặc đang ra mồ hôi lại mặc áo ướt... tạo ra các bệnh của chứng thấp là ngoại thấp dính nhớt có dấu hiệu chung như thân thể nặng nề, chân tay lưng nhức mỏi, đau thịt đau xương ở một nơi nhất định. Thấp tà của ngoại cảm lục dâm xâm phạm vào trường vị làm ăn không biết ngon, ngực đầy khó chịu, tiểu không thông, đại tiện lỏng.
Các bệnh nội thấp của tỳ vị do ăn uống làm bệnh không phải là bệnh của chứng thấp lục dâm.
Bệnh 104 : Chứng thấp ôn.
Thấp nhiệt ở mùa trường hạ xâm nhập vào cơ thể, nếu cơ thể có sẵn thấp trệ tiêu hóa ở trường vị sẽ nung nấu thành chứng thấp ôn, có dấu hiệu mình nóng bức rứt, đau mỏi nặng nề, đầy ngực khó chịu, sắc mặt vàng, bệnh kéo dài dai dẳng nằm ở khí phận có hai trường hợp khác nhau tùy theo tình trạng suy yếu của lục phủ ngũ tạng có thể bệnh nghiêng về nhiệt hơn thấp hoặc ngược lại, khi chữa không khỏi, tà khí từ khí phận lấn vào doanh phận làm thành bệnh nặng hơn, tà khí vào huyết phận sẽ đi đại tiện ra máu, hoặc làm thành chứng quyết (bất tỉnh co cứng) thường gặp ở bệnh thương hàn.
Bệnh 105 : Chứng thấp đàm lưu trú.
Bị sưng mủ do tà độc lưu trú, do chính khí của Tỳ suy yếu, thấp đờm nghẽn ở trong lại bị thêm cảm nhiễm bên ngoài làm trở ngại khí hoá phần cơ nhục, doanh vệ, có dấu hiệu cơ nhục bị đau ở một chỗ, sưng mềm không có đầu ngòi, không thay đổi mầu da nơi có tà độc, kèm theo nóng, rét, đau nhức toàn thân, thường phát bệnh vào mùa hè thu.
Bệnh 106 : Chứng thương thấp.
Khí ẩm thấp nhiễm vào cơ thể làm thân thể nặng nề, xương khớp đau nhức mỏi, có khi phát sốt sợ lạnh, ưa rịn mồ hôi.
Bệnh 107 : Chứng thấp thử lưu trú.
Là chứng sưng mủ do tà độc xâm phạm vào cơ nhục do tỳ hư khí yếu bên trong lại cảm nhiễm ẩm thấp bên ngoài vào thời tiết hè thu tạo ra mụn sưng mềm đau nhức, không có ngòi, mầu da không thay đổi, gây nóng lạnh, đau các khớp, khi thành mủ sưng to, đau nhức làm sốt vã mồ hôi, khi mụn vỡ mủ thì khỏi .
Nếu bệnh giống dấu hiệu trên mà không do thời tiết được gọi là chứng thấp đờm lưu trú là bệnh thuộc tạng phủ.
Bệnh 108 : Chứng thắp tý.
Da thịt tê dại, xương khớp nặng nề, đau nhức cố định ở một chỗ do khí phong, hàn, thấp, xâm nhập lâu ngày.
KHÍ-HUYẾT-ĐÀM
Bệnh 109 : Chứng khí phận..
Bệnh ôn nhiệt ở giai đoạn hóa nhiệt làm hại vệ khí gây sốt nhiệt cao, không ố hàn, miệng khô khát, xuất mồ hôi, mặt đỏ, tha hổn hển như suyễn, tiểu sẻn vàng đỏ, rêu lưỡi vàng. Trên lâm sàng có thể gặp thấp và nhiệt cùng xuất hiện như thấp tà xâm phạm trường vị làm hại trường vị, nhiệt tà xâm nhập vào phế làm phế uất nhiệt,
hoặc thấp nhiệt làm độc. Chứng khí phận phát triển mạnh sẽ truyền vào doanh phận làm hại vinh khí và vào huyết phận làm bại huyết.
Bệnh 110 : Chứng khí hư hay khí hư hạ hãm.
Thường gặp ở bệnh phế, tỳ, có dấu hiệu hơi tha ngắn, mệt mỏi, sắc mặt trắng bệch, choáng váng, ù tai, hồi hộp, tiếng nói nhỏ, tự ra mồ hôi, ăn uống kém, không sức, gân chùng, sa sinh dục, thoát vị bẹn, sa xệ trường vị, trĩ, đái són ít một. Nếu khí hư không giữ được huyết, huyết sẽ không theo kinh mạch tuần hoàn làm xuất huyết ra mũi, ra theo phân, và làm băng lậu.
Nguyên nhân do chức năng khí hóa của cơ thể yếu kém ở các bệnh mạn tính, người già và người bệnh mới hồi phục.
Bệnh 111 : Chứng khí khiếp.
Ðởm khí không đủ hoặc trung khí hư yếu xuất hiện chứng đoản khí, mệt mỏi, nói yếu, tâm bất an dễ sợ hãi.
Bệnh 112 : Chứng khí lâm.
Bụng dưới và âm nang sưng trướng, tiểu khó, đau buốt do khí trệ ở bàng quang, nếu bệnh kéo dài không khỏi hại tỳ, thận khí hư thêm thì bụng dưới nặng đau, tiểu khó, tiểu ra không gọn mà vung vãi nhỏ giọt.
Bệnh 113 : Chứng khí hư trung mãn.
Tỳ vị khí hư làm vùng bụng đầy trướng lúc nặng lúc nhẹ, ấn vào không đau, ưa chườm ấm, sắc mặt trắng, môi nhợt nhạt, rêu lưỡi trắng trơn.
Bệnh 114 : Chứng khí hữu dư sinh hỏa.
Sự thiên thịnh dương khí do âm dịch không đủ, hư hỏa sẽ bốc lên như thận âm bất túc làm tâm hỏa vượng một bên, hoặc chức năng khí hóa của một tạng phủ nào mất điều hòa làm dương khí uất kết hóa hỏa như can hỏa, đờm hỏa, vị hoả...
Bệnh 115 : Chứng khí đoản.
Thở ngắn gấp hụt hơi có hư thực khác nhau :
Thực chứng: Phát bệnh đột ngột, thở thô, ngực bụng trướng đầy do đờm ngăn trở bên trong.
Hư chứng : Bệnh mạn tính, tha yếu, nhẹ, ngắn, mệt mỏi do nguyên khí qúa hư.
Bệnh 116 : Chứng khí nghịch.
Do đờm và khí kết hợp ở phế, hoặc vị hàn, thủy ẩm do thức ăn hàn ứ đọng, hoặc can động do tình chí uất tạo ra khí nghịch, có dấu hiệu riêng như :
Khí nghịch ở phế làm tức ngực, ho hen.
Khí nghịch ở vị gây nôn, mửa, nấc cục, ợ hơi.
Khí nghịch ở gan làm đau sườn ngực, đau thượng vị làm sốt hàn nhiệt vãng lai.
Bệnh 117 : Chứng khí quyết.
Bệnh do khí làm ra, có khí hư khí thực khác nhau :
Khí hư làm ra chứng quyết thì choáng váng té ngã bất tỉnh, tay chân lạnh, sắc mặt trắng nhợt, ra mồ hôi, hơi thở yếu, mạch đập yếu, tương đương với loại hôn quyết do áp huyết xuống thấp hoặc đường huyết xuống thấp.
Khí thực làm ra chứng quyết chỉ khi nào tình chí bất thường nổi lên cáu giận, khí thực nghịch lên làn té ngã bất tỉnh.
Bệnh 118 : Chứng khí âm hư lưỡng thương.
Là dương khí và âm dịch bị tiêu hao trong bệnh nhiệt tính hoặc mạn tính. Mức độ nhẹ gọi là Khí âm bất túc. Mức độ nặng gọi là Khí âm lưỡng hư gặp trong ba trường hợp :
Trường hợp bệnh nhiệt tính cực độ ra mồ hôi nhiều, thở gấp, khát nước, có dấu hiệu hư thoát, lưỡi đỏ tiá khô.
Trường hợp bệnh nhiệt tính giai đoạn cuối, chân âm can thận hư tổn, sốt nhẹ, lòng bàn tay bàn chân nóng rát, tự ra mồ hôi ngày đêm, mệt mỏi, ăn ít, miệng khô lưỡi ráo mầu tía, rêu ít.
Trường hợp bệnh nội thương như lao phổi, tiều đường, có dấu hiệu mệt mỏi, thiếu khí, biếng nói, miệng họng khô khát, ra mồ hôi ngày, đêm, triều nhiệt, khát, lưỡi đỏ không rêu.
Bệnh 119 : Chứng khí cực.
Là một trong sáu loại bệnh chứng lao thương hư tổn. Khí cực thì đoản hơi, suyễn cấp tính. Ngoài khí cực còn có chứng huyết cực, cân cực, nhục cực, cốt cực, tinh cực.
Bệnh 120 : Chứng khí nghịch thượng xung tâm.
Cơ thể tự cảm thấy có luồng khí từ bụng dưới xông lên ngực, do hàn tà ẩn náu ở hạ tiêu và khí của trường vị hoặc hoặc can vị thượng nghịch lên trên.
Bệnh 121 : Chứng khí trệ..
Có dấu hiệu đau sườn ngực, vị quản, trướng bụng nhiều hơn đau, vú căng, đi cầu phải rặn mót.
Nguyên nhân do ăn uống không điều hòa lại bị nhiễm cảm ngoại tà hoặc do tình chí thất thường.
Bệnh 122 : Chứng khí trướng.
Chứng khí trướng đầy vùng bụng do can mất sơ tiết, tỳ mất kiện vận, khí cơ tắc nghẽn làm ra bệnh.
Bệnh 123 : Chứng huyết.
Là chứng huyết dịch không vận hành trong kinh mạch mà tràn ra ngoài như khạc ra máu, thổ huyết, đại tiện ra máu, tiểu tiện ra máu, chảy máu dưới da, chảy máu mũi, băng lậu, nguyên nhân do ngoại thương ,do ăn uống, do tình chí, do nội thương hư tổn.. bệnh hư thực khác nhau.
Bệnh thuộc hư do thương âm, hư hỏa vọng động hoặc khí hư không bảo vệ huyết.
Bệnh thuộc thực do hỏa nhiệt thịnh, huyết nhiệt thịnh lại do khí nghịch đẩy huyết đi gây ra.
Bệnh 124 : Chứng huyết phần.
Là giai đoạn phát triển của ôn bệnh vào sâu đến huyết phần làm thương âm, hao huyết và động huyết, có dấu hiệu sốt cao, đêm sốt nặng hơn, vật vã, mất ngủ, tâm phiền không yên, ban chẩn nổi rõ mầu tiá sậm, chất lưỡi đỏ gắt tái sậm, nói nhảm, phát cuồng, tình chí mê man không tỉnh, co giật, thổ huyết, chảy máu mũi, đại tiện ra máu, thường gặp trong bệnh nhiệt cấp tính thời kỳ cuối hoặc nhiễm độc huyết mưng mủ cấp tính hoặc chứng bại huyết, đã làm tổn thương ba tạng tâm, can, thận.
Bệnh 125 : Chứng huyết cực.
Là một trong sáu loại bệnh lao thương hư tổn, huyết cực làm cho tóc rụng và bệnh hay quên.
Bệnh 126 : Chứng huyết hư .
Do tỳ vị hư nhược không chuyển dưỡng trấp thành huyết, hoặc do mất máu qúa nhiều, có dấu hiệu mặt xanh, môi trắng, chóng mặt hoa mắt, hồi hộp, mất ngủ, chân tay tê.
Bệnh 127 : Chứng huyết lỵ.
Do tỳ vị có thấp nhiệt nung nấu làm hậu môn nóng rát, mót đi đại tiện nhiều lần và phải rặn, tiểu đỏ, rêu vàng nhớt. Nếu thấp nhiệt tà thịnh xâm nhập vào huyết phận làm tổn thương ruột sẽ đi lỵ ra máu hoàn toàn gọi là bệnh xích lỵ.
Bệnh 128 : Chứng huyết lâm.
Làm ra bệnh tiểu ra máu, niệu đạo nóng, đái buốt, bụng dưói đau âm ỉ, căng trướng, do hạ tiêu có thấp nhiệt hoặc huyết do khí đẩy nghịch, nếu cơ thể không nóng thì bệnh thuộc âm hư hỏa động mất khả năng giữ huyết để huyết đi nghịch.
Bệnh 129 : Chứng huyết nhiệt.
Huyết bị nhiệt tà xâm phạm hay huyết phận bị nhiệt có dấu hiệu miệng khô, người nóng, lưỡi đỏ, dễ bị bể mạch xuất huyết, kinh ra huyết nhiều có trước kỳ. Khi xuất huyết phân biệt mầu sắc để biết nguyên nhân như máu đỏ tươi là do huyết nhiệt, máu nhạt chảy không ngừng do tỳ khí hư không giữ huyết, hoặc máu tím đen, bầm, đau đớn là do huyết ứ. Chứng huyết nhiệt cũng được tìm thấy trong bệnh SIDA.
Bệnh 130 : Chứng huyết nhiệt băng lậu.
Là chứng nhiệt thịnh bức huyết vọng hành làm huyết xuất với số lương nhiều qua âm đạo, sắc đậm, đỏ tiá lẫn máu cục, mặt đỏ, phiền táo, dễ nổi nóng, mất ngủ, phát sốt về chiều, nguyên nhân do thể chất vốn dương khí thịnh, hoặc do cảm nhiễm sinh chứng viêm cấp tính nơi bộ sinh dục, hoặc do âm hư làm hai mạch Xung, Nhâm bị nhiệt hại bộ sinh dục viêm nhiễm cục bộ.
Bệnh 131: Chứng huyết phận nhiệt độc.
Là ôn bệnh, tà nhiệt xâm nhập vào huyết phận làm sốt cao, trên da nổi ban chẩn, thần kinh rối loạn, chảy máu cam, thổ huyết, đại tiện ra máu, sắc lưỡi đỏ tía sậm.
Bệnh 132 : Chứng huyết phận ứ nhiệt.
Là chứng nhiệt uất kết ở huyết phận hoặc bệnh sốt do ứ huyết còn đọng lại trong nội tạng gây ra nhiệt.
Bệnh 133 : Chứng huyết quyết.
Bị hôn mê té ngã bất tỉnh do huyết bệnh gây nên, có hư thực khác nhau :
Do hư gây nên thường gặp ở người mất huyết nhiều hoặc bệnh thiếu máu kéo dài, do não thiếu máu đột nhiên ngã lăn ,sắc mặt tái xanh, chân tay quyết lạnh, miệng há, tha chậm, tự ra mồ hôi làm mất tân dịch.
Do thực gây nên thường gặp trong bệnh ứ huyết bít lấp các khiếu,đột nhiên ngã lăn hàm răng nghiến chặt, mặt đỏ, môi tiá.
Bệnh 134 : Chứng huyết tý.
Là bệnh nội thương do cục bộ ứ huyết làm tê đau trong cơ thể có tính di chuyển, nguyên nhân do khí huyết hư bên trong làm mệt nhọc, vã mồ hôi, hoặc do bên ngoài như ngủ nơi gió lộng tà khí xâm nhập làm khí huyết bế tắc không thông.
Bệnh 135 : Chứng huyết ứ.
Thường do chấn thương, hàn ngưng khí trệ, nhiệt kết gây nên. Nếu tổn thương biểu bì có dấu hiệu tụ điểm huyết ứ sưng, bầm tím tại chỗ ,nóng, đỏ, đau, thường gặp trong bệnh chấn thương. Nếu tổn thương bên trong cơ thể sẽ có dấu hiệu đau cố định ở một chỗ như kim đâm, ban đêm càng đau hơn, lưỡi có những chấm tụ máu thường gặp trong bệnh nội tạng viêm nhiễm, nhồi máu cơ tim, sung huyết não bể mạch máu...
Bệnh 136: Chứng ứ huyết băng lậu.
Tử cung ra nhiều máu không ngừng do huyết ứ đọng không về kinh, máu ra sắc tối đen có cục, đau bụng dưới lan tỏa tới sườn và ngang lưng , khi máu cục ra được mới giảm đau.
Bệnh 137 : Chứng xuất huyết.
Có ba nguyên nhân như :
Do huyết nhiệt hay nhiệt tà bức huyết thoát qua thành mạch máu ra ngoài.
Do tỳ hư, mầu máu nhạt chảy ra không ngừng.
Do huyết ứ, mầu tím đen gây đau đớn.
Bệnh 138 : Chứng đờm ẩm.
Ðờm do tân dịch biến hóa ra từ thức ăn bao gồm tất cả các chất dính, chất keo, chất mỡ, cholestérol tồn tại khi các tổ chức nội tạng có bệnh khiến dưỡng trấp từ thức ăn không biến thành khí huyết mà biến thành đờm.Tùy theo nguyên nhân bệnh tạo ra 5 loại đờm khác nhau như phong đờm, hàn đờm, nhiệt đờm, táo đờm, thấp đờm.
Khi đờm gây bệnh có 5 chứng khác nhau như đờm ẩm, đờm hạch, đờm ngược, ngoan đờm và phục đờm, đều có liên quan đến hai tạng phế suy, tỳ dương hư yếu ,vì Tỳ là nguồn sinh đờm, phế là vật dụng chứa đờm Ðờm theo khí thăng giáng len lỏi khắp nơi giống như huyết chỗ nào cũng có.
Ðờm gây bệnh gọi là đờm trọc, nó vào tâm khiếu làm hôm mê đìên cuồng, đờm do phong quấy nhiễu làm thành chứng bệnh kinh phong co giật, nó tràn lên họng làm lợm giọng nôn oẹ, nó ứ nơi sườn làm đau tức sườn ngực, suyễn tức khó thở, đờm với hỏa quấn quít nhau sinh ung nhọt, hạch cổ, hạch đờm, đờm làm tắc kinh lạc
gây ra bệnh tê liệt bán thân, đờm đọng lại ở cơ bắp gây nên bướu đờm, nó tắc ở các khớp thành bệnh sưng các khớp gối...
Bệnh 139 : Chứng đởm ẩm.
Là loại bệnh do các chất thủy dịch vận chuyển trong cơ thể không thuận lợi gây nên bệnh, tích chứa ở những khoảng trống trong cơ thể và chân tay, nguyên nhân do phế, tỳ dương và tam tiêu mất chức năng khí hoá, có hư và thực chứng khác nhau:
Hư chứng:
Có dấu hiệu sườn ngực đầy tức, vùng bụng có tiếng óc ách, nôn mửa dãi trong , chóng mặt, hồi hộp, ngắn hơi, thân thể gầy yếu, do Tỳ thận dương không vận hóa được thủy cốc, thủy ẩm tán ra ở trường vị làm thành bệnh giống như bệnh thắt hẹp môn vị do tích nước trong bao tử.
Thực chứng:
Có dấu hiệu vùng vị quản cứng đầy, iả chảy, sau khi phân ra thấy dễ chịu nhưng vị quản lại cứng đầy ngay như cũ, thủy dịch tràn ra khoang ruột kêu óc ách.
Bệnh 140 : Chứng đởm hạch.
Hạch đờm kết khối dưới da do thấp đờm kết tụ nhiều ít khác nhau, không đỏ, không sưng, không đau, không cứng, không di động, không có mủ, thường thấy ở cổ gáy, hàm dưới, chân tay, vai lưng, đờm hạch nổi ở phía trên cơ thể do phong nhiệt, ở phần dưới cơ thể do thấp nhiệt.
Bệnh 141 : Chứng đởm hỏa.
Do hỏa vô hình quấn quít với đờm hữu hình chứa đọng ở phế chưa thành hình, nhưng khi có nhân tố nội thương do ăn uống hoặc ngoại cảm nhiễm vào mới phát bệnh như suyễn, phiền nhiệt, đau ngực, miệng khô, môi ráo, rất khó khạc ra đờm cục.
Nếu nguyên nhân do can hỏa làm đờm uất sẽ nổi hạch vùng cổ hoặc sau tai như chuỗi hạt châu, hoặc kết hạch ở nách, ấn vào thấy cứng chắc, không di chuyển, thêm dấu hiệu lưỡi đỏ, rêu vàng.
Khi đờm hỏa nhiễu tâm làm thần trí rối loạn, nói năng lẫn lộn, cuồng táo, vọng động, đầu lưỡi đỏ, rêu vàng nhớt, thường gặp trong bệnh tinh thần phân liệt, hystérie.
Bệnh 142 : Chứng đờm hỏa nhiễu tâm.
Do thần khí rối loạn, có hai trường hợp :
Ðờm hỏa nhiễu tâm: có dấu hiệu sợ hãi, mất ngủ, cười nói như cuồng.
Ðờm mê tâm khiếu : có dấu hiệu đờm khò khè nhiều trong cổ họng tự nhiên ngã lăn ra, người ngớ ngẩn đần độn.
Bệnh 143 : Chứng đờm ngược.
Làm ra chứng sốt rét khá nặng, lên cơn rét qua lại, nhiệt nhiều, hàn ít,đau đầu chóng mặt, ói ra nhiều đờm, không nôn ọe ra đờm được bệnh thêm nặng làm
hôn mê co giật.
Bệnh 144 : Chứng đởm nhiệt trở phế.
Ðờm nhiệt sinh ho suyễn, phát sốt, ho đờm khò khè, hông ngực đầy, đờm vàng dính, chất lưỡi đỏ, rêu vàng dính, đa số do ngoại tà phạm phế uất lại hóa nhiệt ,dịch chất trong phế đọng lại thành đờm gây ra bệnh hen phế quản cấp tính, viêm phổi, phế khí thủng bội nhiễm..
Bệnh 145 : Chứng ngoan đởm.
Là chứng đờm ngoan cố khó chữa như bệnh suyễn hư tái đi tái lại hoặc chứng đờm ẩm dai dẳng do đờm tích lũy ở vùng hung cách gây nên.
Bệnh 146 : Chứng phục đởm.
Thủy ẩm do nội nhiệt nung nấu thành đờm ứ đọng được phân biệt hai loại phục ẩm và phục đờm.
Phục ẩm phần nhiều ẩn náu ở ngực, bụng, tứ chi giống như phù thủng. Phục đờm ẩn náu ở toàn thân, hình thức bên ngoài là khạc đờm, co giật, điên cuồng, bên trong tạo ra bệnh kết hạch ở tuyến lâm ba, hoặc ở xương khớp.
Bệnh 147 : Chứng đởm trọc hại phế.
Có dấu hiệu ho nhiều đờm trắng loãng, dễ khạc, thở khò khè, tức ngực do thấp khí, thấp đờm làm phế khí không giáng.
Bệnh 148 : Chứng lưu đờm.
Là bệnh lao khớp xương, thường bị ở cột sống, sau mới lan đến hông, gối, cổ chân rồi mới đến khớp vai đến cùi chỏ và cổ tay. Ða số do tiên thiên bất túc hoặc thận âm suy tổn không nuôi cốt tủy đầy đủ, chất xương thưa rỗng, ngoại tà nhân chỗ hư xâm phạm, đờm trọc ngưng tụ hoặc do vấp ngã, không có dấu hiệu nóng đỏ hay thủng, vài tháng sau mới sưng lên hơi cao không cứng rắn, lâu ngày vỡ chảy nước như bã đậu khó liền miệng mà thành lỗ rò kéo theo toàn thân gầy còm, mệt mỏi, triều nhiệt, ra mồ hôi trộm...
Bệnh 149 : Chứng lưu đờm kết chảo.
Do khí huyết hư nhược hay phát ra ở phần sâu cơ bắp kết khối từ từ hoặc ăn thủng từ từ, đơn phát hay đa phát lâu ngày gây mủ, có nhiều tên khác nhau do nhiều nguyên nhân khác nhau như thấp đờm lưu trú, thử thấp lưu trú, ứ huyết lưu trú...
còn tiếp....