TRẦM CẢM, TỰ KỶ

Nơi giúp đỡ lẫn nhau trau giồi kiến thức.

TRẦM CẢM, TỰ KỶ

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 2 25, 2025 11:55 am

TRẦM CẢM, TỰ KỶ

Nguyên nhân bệnh Trầm cảm
Triệu chứng bệnh Trầm cảm
Đối tượng nguy cơ bệnh Trầm cảm
Phòng ngừa bệnh Trầm cảm
Các biện pháp điều trị bệnh Trầm cảm



Các biện pháp chẩn đoán bệnh Trầm cảm
Bệnh tự kỷ (tiếng Anh là autism) là sự rối loạn phức tạp trong quá trình phát triển tự nhiên của con người.[1] Có rất nhiều nguyên nhân của bệnh được đưa ra nhưng nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Cơ chế di truyền đóng góp khoảng 90% khả năng gây bệnh tự kỷ phát triển ở trẻ em nhưng việc di truyền của bệnh tự kỷ rất phức tạp và thông thường được chỉ ra các gen tương ứng.[2][3] Một số trường hợp hiếm, bệnh tự kỷ liên quan đến các tác nhân về những khiếm khuyết khi sinh.[4] Ngoài ra, rất nhiều trường hợp cho rằng bệnh tự kỷ là do tác hại của việc tiêm vắc xin; những đề xuất này gây tranh luận và giả thiết về vắc xin không có sức thuyết phục về mặt khoa học.[5]
Tự kỷ và những rối loạn liên quan[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Tự kỷ
Tự kỷ liên quan sự phát triển bất thường của não bộ và hành vi biểu hiện trước khi đứa trẻ 3 tuổi và có quá trình tiến triển không suy giảm. Nó đặc trưng bởi sự suy giảm trong giao tiếp và phản xạ xã hội, cũng như hạn chế và cư xử lặp đi lặp lại; đặc tính là sự độc lập của bất kỳ khiếm khuyết thần kinh dưới mức bình thường. Nó là một phần của lớp lớn hơn gọi là sự rối loạn bao trùm tự kỷ (ASD) và sự rối loạn phát triển rộng khắp (PDD), nó có mối quan hệ gần gũi với PDD-NOS. Bài viết này dùng "tự kỷ" để chỉ lớp các rối loạn tự kỷ và ASD để ký hiệu họ rộng hơn. Các nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa đầy đủ. Nguyên nhân thông thường là do gen, liên quan đến nhận thức và mức độ hệ thần kinh của bệnh nhân tự kỷ là ba triệu chứng. Tuy nhiên, có nghiên cứu cho rằng tự kỷ không có nguyên nhân đơn lẻ mà là sự tổng hợp các rối loạn với một tập hợp các bộ phận chủ yếu các nguyên nhân riêng biệt. Nghĩa là, sự hoạt động khác thường của não dẫn đến giả thiết về triệu chứng của tự kỷ, vấn đề khác biệt của não dẫn đến kết quả chậm phát triển tâm thần. Thuật ngữ "tự kỷ" hoặc "ASDs" thể hiện một miền rộng lớn các quá trình bệnh đang được nghiên cứu. Mặc dù những nguyên nhân riêng biệt này được giả thiết xảy ra đồng thời, nhưng nó cũng nêu ra sự tương quan giữa nguyên nhân gây bệnh được cường điệu hóa. Số người mắc bệnh tự kỷ tăng một cách đáng kinh ngạc từ những năm 1980, ít nhất là phần thấy được trong thực tế chẩn đoán; Liệu rằng sự phổ biến này có tăng lên nữa là điều chưa sáng tỏ. Sự gia tăng này trực tiếp đưa đến nhiều chú ý và quỹ tài trợ hướng về cải thiện các tác nhân môi trường thay vì tiếp tục hướng tâm điểm về di truyền học.
Sự nhất trí giữa các nhà nghiên cứu cho rằng tự kỷ có căn nguyên từ gen chiếm đa số, nhưng một số nhà nghiên cứu ẩn danh cho rằng "các nhà di truyền học đang chạy đua để chỉ ra điều này và bỏ qua khía cạnh môi trường. Tác nhân môi trường được cho là có gây ra tự kỷ hoặc làm trầm trọng hơn triệu chứng tự kỷ, hoặc có thể quan trọng xem xét nghiên cứu trong tương lai, bao gồm các thức ăn đã biết, bệnh truyền nhiễm, các kim loại nặng, dung môi, khí thải động cơ diesel, PCBs, phe-nol sử dụng trong sản xuất nhựa, thuốc trừ sâu, cồn, hút thuốc, thuốc trái phép và vắc xin. Trong các tác nhân đó, vắc xin được thu hút được nhiều sự chú ý, vì cha mẹ có thể là người đầu tiên nhận thấy các triệu chứng của tự kỷ ở những đữa con họ quanh thời điểm tiêm chủng, và sự liên quan của vắc xin dẫn tới sự giảm thông minh của sự miễm dịch thời nhỏ và tăng giống như sự bộc phát bệnh sởi. Tuy nhiên, mô tả về thủy ngân và vắc xin MMR dưới đây, có thể chôn vùi những bằng cớ khoa học chỉ ra không có nguyên nhân liên kết giữa vắc xin sởi-quai bị-rubella và tự kỷ, và không có bằng cớ khoa học rằng bảo quản vắc xin dẫn tới tự kỷ.
Vào năm 2007, Viện y tế quốc gia thông báo về Trung tâm chuyên sâu về tự kỷ (ACE) nghiên cứu chương trình để tìm ra nguyên nhân gây bệnh và xác định những phương pháp điều trị mới cho sự rối loạn này. Ban đầu, hướng nghiên cứu về tác nhân gen, ảnh não bộ, các chức năng và hóa học của não bao gồm các nơ ron thần kinh nhỏ, ảnh hưởng tới cách ứng xử của gia đình trẻ về tự kỷ và học chứng tự kỷ ở trẻ.
Di truyền học[sửa | sửa mã nguồn]
Tác nhân di truyền là nguyên nhân quan trọng nhất cho rối loạn phổ biến của tự kỷ, Những nghiên cứu đầu tiên của cặp đôi ước tính tính di truyền trên 90% các trường hợp, nghĩa là di truyền học giải thích trên 90% có hay không đứa trẻ phát triển tự kỷ. Đây có thể là sự đánh giá quá cao; những dữ liệu ghép đôi và các mẫu với cấu trúc biến dị gen là cần thiết. Với anh chị em ruột có rủi ro có một hoặc nhiều đặc tính rộng lớn kiểu hình tự kỷ ở mức cao là 30%. Sự di truyền của bệnh tự kỷ là phức tạp. Sự phân tích liên kết không dẫn đến kết luận cuối cùng; rất nhiều phân tích kết hợp có sức mạnh không thích đáng. Hơn một gen có thể gây ra, những gen khác nhau có thể liên quan trong những cá thể khác nhau và các gen có thể tác động qua lại lẫn nhau hoặc kết hợp với tác nhân môi trường. Một vài gen ứng viên được tìm thấy nhưng đột biến gen tăng rủi ro bị tự kỷ không được xác định cho hầu hết các gen ứng viên. Một phần nhỏ chắc chắn có thể có di truyền cao nhưng không được kế thừa: nghĩa là, đột biến gen là nguyên nhân gây tự kỷ không có mặt trong bộ gen của bố mẹ. Một giả thuyết là tự kỷ trong một vài giác quan hoàn toàn đối lập với chứng tâm thần phân liệt, và tự kỷ liên quan đến tăng ảnh hưởng qua bộ gen hòa đồng của bên nội biểu lộ các gen mà điều chỉnh tăng trưởng quá mức trong não, trong khi tâm thần phân liệt liên quan đến các gen về bên ngoại và chậm tăng trưởng. Mặc dù các tác nhân gen của tự kỷ giải thích hầu hết các rủi ro của tự kỷ, nhưng chúng không giải thích cho tất cả các trường hợp. Một giả thuyết phổ biến rằng tự kỷ gây nên bởi ảnh hưởng qua lại giữa khuynh hướng về gen và tổn thương môi trường trong thời kỳ đầu. Một vài lý thuyết dựa trên tác nhân môi trường được đề xuất tới địa chỉ rủi ro tồn tại. Một vài lý thuyết khác hướng tiêu điểm tới tác nhân môi trường trước khi sinh, như là các tác nhân gây ra khiếm khuyết khi sinh; hoặc tiêu điểm về môi trường sau sinh như là chế độ ăn uống của trẻ.
Tác nhân nguy hiểm của bệnh tự kỷ bao gồm đặc tính thuộc về cha mẹ như là tuổi cha và mẹ cao. Sự rủi ro tăng lên khi tuổi cha mẹ cao. Một giả thuyết là tinh trùng già có sự đột biến cao hơn; người đàn ông mà mang nguy cơ về gen có đặc tính của tự kỷ và vì vậy cưới vợ và có những đứa con. Hai giả thiết này không loại trừ lẫn nhau.Bên cạnh đó bệnh tự kỉ cũng do môi trường sống tác động đến chủ thể làm cho chủ thế bị mắc bệnh.
Môi trường trước khi sinh đẻ[sửa | sửa mã nguồn]
Nguy cơ mắc tự kỷ liên quan tới vài tác nhân nguy cơ trước sinh. Tự kỷ được liên kết với những tác nhân gây khiếm khuyết trong suốt 8 tuần đầu của kỳ thai nghén, mặc dù những trường hợp này hiếm. Các tác nhân môi trường trước sinh tiềm ẩn không có tính thuyết phục về bằng chứng khoa học.
Sự nhiễm trùng của mẹ[sửa | sửa mã nguồn]
Sự nhiễm trùng virus trước khi sinh là một nguyên nhân gây bệnh tự kỷ không xuất phát từ gen. Tác hại của bệnh sởi Đức và vi rút kích hoạt sự phản ứng của người mẹ và thực sự tăng rủi ro cho tự kỷ. Hội chứng rubella bẩm sinh hầu như có sức thuyết phục về nguyên nhân môi trường. Nhiễm trùng kết hợp với sự việc miễn dịch vào giai đoạn sớm khi sinh có thể ảnh tới sự phát triển tự nhiên hơn sự nhiễm trùng ở giai đoạn sau khi sinh, không chỉ với bệnh tự kỷ mà còn với những rối loạn tâm thần của căn nguyên tiến triển tự nhiên, đáng chú ý nhất là chứng tâm thần phân liệt.
Giả thiết kháng thể của mẹ được glubin miễn dịch G (lgG) trong dòng máu của người mẹ có thể đi vào nhau, vào não của thai nhi, tác động chống lại protein não của bào thai và gây ra tự kỷ. Lý thuyết này liên quan tới giả thiết bệnh tự dị ứng, ngoại trừ chú trọng đến kháng thể của mẹ hơn kháng thể của trẻ. Một nghiên cứu trong 2008 nhận thấy rằng những kháng thể này kẹt trong tế bào não của thai nhi, thông thường hầu như trong bà mẹ với thoái lui của bệnh tự kỷ. Nghiên cứu thấy rằng khỉ nâu Ấn Độ không được bảo vệ trong suốt quá trình thai nghén tới lgG từ mẹ chúng với ASD đã chứng minh kiểu này, một trong ba dấu hiệu chính của tự kỷ.
Bệnh đái tháo đường[sửa | sửa mã nguồn]
Bệnh đái tháo đường của bà mẹ trong suốt thời kỳ thai nghén là nguy cơ quan trọng của tự kỷ; phương pháp phân tích tổng hợp 2009 thấy rằng đái tháo đường tăng gấp đôi nguy cơ bị tự kỷ. Mặc dù nguyên nhân đái tháo đường là sự chuyển hóa và sự dị thường của hóc môn và sự suy yếu của tế bào do quá trình chuyển hóa oxy, không có cơ chế sinh học được biết cho sự kết hợp giữa bệnh đái tháo đường và nguy cơ tự kỷ.
Nhân tố gây quái thai[sửa | sửa mã nguồn]
Quái thai là tác nhân môi trường bởi nguyên nhân khiếm khuyết khi sinh. Vài tác nhân được biết gây ra khiếm khuyết khi sinh cũng thấy liên quan tới nguy cơ mắc tự kỷ. Điều này bao gồm tác hại tới thai nhi của thuốc an thần, axit valproic hoặc thuốc điều trị dạ dày, tá tràng, viêm khớp. Những trường hợp này là hiếm. Các câu hỏi cũng tăng lên liệu rằng e tha non (rượu cồn) tăng nguy cơ mắc tự kỷ, phần của triệu chứng cồn với thai nhi nhưng hiện tại bằng chứng là chưa đủ để xác mịnh liệu nguy cơ tự kỷ thực sự tăng cao với e tha non. Tất cả hiểu biết của tác nhân quái thai xuất hiện thực sự suốt tám tuần hình thành, và mặc dù không loại trự khả năng rằng tự kỷ có thể bắt đầu hoặc ảnh hưởng về sau, thật rõ ràng bằng chứng rằng tự kỷ phát sinh rất nhiều trong thời kỳ đầu phát triển.
Thuốc trừ sâu[sửa | sửa mã nguồn]
Nghiên cứu năm 2007 bởi Khoa sức khỏe công đồng California thấy rằng phụ nữ trong 8 tuần đầu của kỳ thai nghén sống gần nông trang với thuốc trừ sâu có một vài xuất hiện nhiều hơn sinh trẻ với bệnh tự kỷ. Sự liên đới này xuấ hiện tăng với liều lượng và giảm với khoảng cách từ cánh đồng tới nơi cư trú. Sự phát hiện này gợi ý rằng một nhóm 7% trường hợp bị tự kỷ ở Thung lũng trung tâm California phải có thể kết nối với tác hại của thuốc trừ sâu bị rửa trôi vào khu vực dân cư. Nhiều kết quả mở đầu dẫn đến số lượng nhỏ phụ nữ và trẻ em liên quan và thiếu bằng chứng cho những nghiên cứu khác. Thật khó biết những loại thuốc trừ sâu nào gây quái thai ở người, mặc dù thuốc diệt côn trùng gây ảnh hưởng quái thai nghiêm trọng trong phòng thí nghiệm chuột.
Một nghiên cứu năm 2005 chỉ ra bằng chứng không trực tiếp rằng tác hại của thời kỳ mang thai với thuốc trừ sâu chứa phosphat có thể đóng góp tới tự kỷ trong trường hợp tổn thương về mặt di truyền. Một vài nghiên cứu khác giải thích độc tính của những tác nhân liên quan ở mức độ tác hại thấp.
Điều này cũng gợi ý rằng tác hại trong khi mang thai của pyrethin, một thành phần phổ biến trong chất chống bọ chét, có thể gây tự kỷ ở trẻ em. Một nghiên cứu trong quá khứ gợi ý sự liên quan nhưng chưa được xuất bản.
Vấn đề tuyến giáp[sửa | sửa mã nguồn]
Vấn đề về tuyến giáp do sự thiếu hụt tyroxin của người mẹ trong tuần 8 – 12 của kỳ thai nghén được công nhận là sản sinh ra những thay đổi trong não thai nhi dẫn tới tự kỷ. Sự thiếu hụt tyroxin có thể là nguyên nhân gây bởi thiếu Iod trong bữa ăn và bởi tác nhân môi trường nghĩa là sự can thiếp hấp thụ Iod hoặc tác động chống lại hóc môn tyroxin. Tác nhân môi trường có thể gồm flavon trong thức ăn, khói thuốc lá và thuốc diệt cỏ. Đây là giả thuyết chưa được kiểm tra. Một giả thiết quan hệ chưa được xác nhân này là tác hại của thuốc trừ sâu có thể kết hợp với sự thiếu iod trong quá trình thai nghén của người mà và dẫn tới tự kỷ của đứa trẻ.
Axit folic[sửa | sửa mã nguồn]
Một giả thuyết rằng axit folic mang vào trong thời kỳ thai nghén có thể là nguyên nhân gây bệnh tự kỷ bởi sự chuyển đổi thông tin di truyền trong tế bào suốt cơ chế biểu sinh. Giả thiết này chưa được kiểm chứng.
Sự căng thẳng[sửa | sửa mã nguồn]
Sự căng thẳng trước khi sinh bao gồm tác nhân tới sự kiện sống hoặc nhân tố môi trường là sự đau buồn của bà mẹ là một giả thuyết cho bệnh tự kỷ, có thể là một phần của sự ảnh hưởng qua lại giữa gen – môi trường. Tự kỷ được gián tiếp phát hiện có liên quan tới sự căng thẳng trước khi sinh với các nghiên cứu trước đó được kiểm tra các nguyên nhân gây căng thẳng như là mất việc và xích mích trong gia đình và với thí nghiệm liên quan tới tác nhân rối loạn trước sinh; các nghiên cứu trên động vật có kết quả là sự căng thẳng trước sinh có thể làm rối loạn sự phát triển của não và tạo ra những cách ứng xử tương tự các triệu chứng của tự kỷ.
Kích tố dục nam của bào thai[sửa | sửa mã nguồn]
Giả thuyết về kích tố dục nam của bào thai cho rằng với kích tố dục nam cao trong nước ối của người mẹ thúc đẩy sự phát triển của não theo hướng cải thiện khả năng để thấy khuôn mẫu và sự xem xét các hệ thống phức hợp trong khi sự giao tiếp và sự truyền cảm giảm bớt, nhấn mạnh đặc điểm "giống đực" hơn "giống cái", hoặc trong thuật ngữ thuyết E-S, nhấn mạnh "hệ thống hóa" hơn "nhấn mạnh hóa". Một dự án đã xuất bản một vài báo cáo gợi ý rằng kích tố dục nam ở mực cao có thể sản sinh ra cách cư xử liên quan tới những ứng xử được thấy trong tự kỷ. Theo giả định và sự tìm kiếm đang được tranh luận và rất nhiều nghiên cứu mâu thuẫn với ý tưởng là trẻ em trai và gái có phản ứng khác nhau với người và vật.
Sóng siêu âm[sửa | sửa mã nguồn]
Một nghiên cứu năm 2006 cho thấy sự tiếp xúc liên tục của phôi thai chuột với những sóng siêu âm gây ra là nhỏ nhưng thống kê cho ta thấy số tế bào thần kinh bị hỏng thu được vị trí thực sự của chúng trong sự di trú thần kinh. Kết quả này không chắc chắn được nói trực tiếp nguy cơ của bào thai với sóng siêu âm như là thực tế trong đầy đủ trung tâm y khoa. Không có một bằng chứng khoa học cho sự liên hệ giữa sự tiếp xúc với sóng siêu âm trước sinh và tự kỷ,nhưng có rất ít dữ liệu tác hại của bào thai người với chẩn đoán là sóng siêu âm. Môi trường thời kỳ mang thai tháng thứ 5 đến thứ 8.
Tự kỷ có liên quan tới thời kỳ này và tình trạng sức khỏe sinh sản. Một bài báo năm 2007 về những nhân tố rủi ro thấy sự liên kết với tình trạng sức khỏe sinh sản bao gồm thiếu cân và thời gian thai nghén, và sự thiếu oxy trong suốt quá trình sinh đẻ.


Autism Spectrum Disorder: Symptoms, Causes, Treatments, and Natural Approaches
Rối loạn phổ tự kỷ: Triệu chứng, nguyên nhân, phương pháp điều trị và cách tiếp cận tự nhiên
Tại Hoa Kỳ, cứ 36 trẻ em và 45 người lớn thì có một trẻ mắc chứng tự kỷ, trong đó nam giới có khả năng mắc bệnh cao gấp bốn lần.
Rối loạn phổ tự kỷ (ASD), hay còn gọi là tự kỷ, là một tình trạng thần kinh và phát triển ảnh hưởng đến tương tác xã hội, giao tiếp, học tập và hành vi. Nó bao gồm một loạt các tình trạng liên quan đến sự phát triển của não bộ.

Trên toàn cầu, khoảng 1 phần trăm trẻ em mắc chứng tự kỷ. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ, cứ 36 trẻ em và 45 người lớn thì có một trẻ mắc chứng tự kỷ, trong đó tình trạng này ảnh hưởng đến khoảng 4 phần trăm trẻ em trai và 1 phần trăm trẻ em gái. Tỷ lệ mắc bệnh đã tăng từ một trong 44 vào năm 2020 và đã tăng gần gấp ba lần kể từ năm 2000 khi tỷ lệ này là một trong 150.
Các triệu chứng và dấu hiệu sớm của bệnh tự kỷ là gì?
"Trên phổ" ám chỉ những cá nhân có chung các đặc điểm cốt lõi của bệnh tự kỷ trong khi nhận ra rằng trải nghiệm tự kỷ của mỗi người là duy nhất, phức tạp và có thể thay đổi theo thời gian.
Việc nghĩ về bệnh tự kỷ như một phổ tuyến tính có thể gây hiểu lầm, vì nó cho rằng một người có thể mắc bệnh tự kỷ "nhiều hơn" hoặc "ít hơn", dẫn đến các nhãn hiệu đơn giản hóa quá mức như "hoạt động cao hơn" hoặc "hoạt động thấp hơn". Thay vào đó, bệnh tự kỷ được hiểu tốt hơn là một loạt các đặc điểm, điểm mạnh và thách thức đa dạng khác nhau đối với mỗi cá nhân.
Dấu hiệu sớm
Các dấu hiệu đầu tiên của bệnh tự kỷ thường xuất hiện ở thời thơ ấu và có thể được phát hiện thông qua sàng lọc ở trẻ em từ 12 tháng tuổi hoặc 24 tháng tuổi. Tuy nhiên, tình trạng này có thể bị bỏ qua cho đến tận sau này.
Các dấu hiệu sớm của ASD theo độ tuổi bao gồm:
6 đến 12 tháng: Hạn chế cười, giao tiếp bằng mắt hoặc tương tác xã hội qua lại; ít bi bô hoặc cử chỉ; và phản ứng giảm khi được gọi tên
9 đến 12 tháng: Hành vi lặp đi lặp lại (ví dụ: quay và xếp hàng các đồ vật) và chơi bất thường (tập trung cao độ vào các đặc điểm thị giác hoặc xúc giác của đồ chơi)
12 đến 18 tháng: Thiếu các từ đơn lẻ, cử chỉ bù trừ (ví dụ: chỉ tay) và chơi giả vờ; và sự chú ý chung hạn chế (khởi xướng và chia sẻ sở thích)
15 đến 24 tháng: Ít hoặc không có cụm từ hai từ tự phát
Dấu hiệu và triệu chứng
Sau đây là những hành vi phổ biến được quan sát thấy ở những người mắc ASD. Mặc dù không phải tất cả những người mắc chứng tự kỷ đều biểu hiện mọi hành vi, nhưng hầu hết sẽ biểu hiện một số đặc điểm. Một số hành vi này cũng có thể xảy ra ở những người không mắc ASD.
Tương tác xã hội:
Giao tiếp bằng mắt với người khác rất ít hoặc không nhất quán
Có vẻ thờ ơ hoặc không chú ý khi người khác đang nói
Hiếm khi chia sẻ sự nhiệt tình hoặc cảm xúc về đồ vật hoặc hoạt động
Tránh tình cảm thể xác và thích chơi một mình, thường thu mình vào thế giới riêng
Không phản ứng hoặc mất nhiều thời gian để phản ứng khi được gọi tên
Nói hạn chế hoặc chậm hoặc mất các từ đã học trước đó
Vật lộn với khía cạnh cho và nhận trong các cuộc trò chuyện
Lặp lại các từ hoặc cụm từ mà không nắm bắt được ý nghĩa của chúng
Gặp khó khăn trong việc hiểu các câu hỏi hoặc hướng dẫn cơ bản
Dựa vào lời nói đã ghi nhớ thay vì sử dụng ngôn ngữ tự phát
Sử dụng đại từ không đúng cách, chẳng hạn như nói "bạn" thay vì "tôi" hoặc "tôi" khi nói về bản thân
Nói nhiều về các chủ đề cụ thể mà không nhận ra sự thờ ơ của người khác hoặc không cho phép họ đóng góp
Sử dụng biểu cảm khuôn mặt và cử chỉ không nhất quán với thông điệp bằng lời của họ
Thể hiện chất lượng giọng nói bất thường, chẳng hạn như hát nhép hoặc giọng đều đều
Vật lộn để nắm bắt quan điểm của người khác hoặc dự đoán hành vi của họ
Thể hiện ít biểu cảm cảm xúc và có vẻ không biết cảm xúc của người khác hoặc thể hiện biểu hiện bất thường của sự đồng cảm
Khó hiểu các tín hiệu phi ngôn ngữ như ngôn ngữ cơ thể hoặc giọng điệu
Không phát triển các mối quan hệ cá nhân gần gũi, đặc biệt là bên ngoài gia đình
Thiếu khả năng nói, trong những trường hợp nghiêm trọng
Hiểu mọi thứ theo nghĩa đen, chẳng hạn như không hiểu lời mỉa mai hoặc các biểu hiện như "trời mưa như trút nước"
Hành vi hạn chế hoặc lặp đi lặp lại:
Kích thích (hành vi tự kích thích), bao gồm các chuyển động cơ thể lặp đi lặp lại hoặc thao túng các đồ vật. Mặc dù phổ biến ở những người tự kỷ, nhưng đây là hành vi mà hầu như mọi người đều thể hiện dưới một hình thức nào đó, chẳng hạn như cắn móng tay. Đối với những người tự kỷ, kích thích đôi khi có thể ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày hoặc gây hại nhưng thường đóng vai trò là cơ chế đối phó để kiểm soát tình trạng quá tải cảm giác hoặc các tình huống căng thẳng.
Thiết lập các thói quen hoặc nghi lễ cứng nhắc và trở nên khó chịu ngay cả với những thay đổi nhỏ.
Gặp phải các vấn đề về phối hợp hoặc thể hiện các kiểu chuyển động bất thường, chẳng hạn như vụng về, đi bằng ngón chân hoặc ngôn ngữ cơ thể cường điệu.
Thể hiện cơn giận dữ nghiêm trọng hoặc bộc phát cảm xúc.
Tập trung vào một chủ đề hoặc hoạt động duy nhất hoặc duy trì sự quan tâm sâu sắc, lâu dài đối với các chủ đề cụ thể như số liệu hoặc sự kiện.
Thể hiện khả năng tập trung hạn chế.
Ăn uống kén chọn, chẳng hạn như chỉ thích một vài loại thực phẩm hoặc tránh một số kết cấu nhất định.
Thể hiện độ nhạy cảm cao hoặc giảm đối với các kích thích giác quan như ánh sáng, âm thanh, quần áo hoặc nhiệt độ.
Phát triển sự gắn bó mãnh liệt với các vật thể vô tri cụ thể.
Có sở thích rất chuyên biệt và đôi khi khác thường (ví dụ: sự say mê mãnh liệt với máy hút bụi).
Những người mắc chứng tự kỷ thường có những điểm mạnh đáng chú ý, chẳng hạn như khả năng học và ghi nhớ thông tin chi tiết, kỹ năng học tập thị giác và thính giác mạnh mẽ và sự xuất sắc trong trí nhớ, toán học, khoa học, âm nhạc hoặc nghệ thuật. Họ cũng có thể nhận thấy các chi tiết, hoa văn, mùi hoặc âm thanh tinh tế mà người khác có thể bỏ qua.
Dấu hiệu tự kỷ ở nữ giới
Các triệu chứng tự kỷ ở phụ nữ và trẻ em gái có thể khác với nam giới. Theo DSM-5-TR, phụ nữ tự kỷ có thể biểu hiện:
Kỹ năng giao tiếp qua lại được cải thiện
Hiểu biết tốt hơn về giao tiếp bằng lời nói và không lời
Khả năng điều chỉnh hành vi của mình theo các tình huống khác nhau tốt hơn
Ít hành vi lặp đi lặp lại đáng chú ý hơn
Sở thích đặc biệt được xã hội chấp nhận nhiều hơn (ví dụ: người nổi tiếng)
Nghiên cứu chỉ ra rằng phụ nữ có nhiều khả năng che giấu các triệu chứng tự kỷ của mình để hòa nhập hơn nam giới. Họ có thể ở gần bạn bè và tham gia và rời khỏi các hoạt động, bất kể tình trạng tham gia.
Nguyên nhân gây ra tự kỷ là gì?
Nghiên cứu chỉ ra rằng tự kỷ phát sinh từ sự kết hợp của các yếu tố di truyền và môi trường, cũng như sự phát triển bất thường của não.
Di truyền
Các yếu tố di truyền được cho là góp phần gây ra 40 đến 80 phần trăm nguy cơ mắc tự kỷ. Hơn 1.000 gen có liên quan đến ASD, mặc dù nhiều mối liên quan vẫn chưa được xác nhận. Các biến thể gen phổ biến có thể làm tăng nguy cơ mắc ASD, nhưng hầu hết đều có tác động nhỏ đến từng cá nhân và không phải ai có những biến thể này cũng mắc ASD.
Trong khoảng 2 đến 4 phần trăm các trường hợp, đột biến gen hiếm hoặc bất thường nhiễm sắc thể là nguyên nhân trực tiếp, như hội chứng ADNP, còn được gọi là hội chứng Helsmoortel-Van der Aa (HVDAS). Một số gen khác có đột biến hiếm liên quan đến chứng tự kỷ bao gồm ARID1B, ASH1L, CHD2, CHD8, DYRK1A, POGZ, SHANK3 và SYNGAP1. Nhiều gen liên quan đến ASD đóng vai trò trong quá trình phát triển não bộ hoặc điều chỉnh các gen hoặc protein khác.

Ở một số trẻ em, chứng tự kỷ có thể liên quan đến tình trạng di truyền như hội chứng X mỏng manh hoặc hội chứng Down.
Phát triển não bộ
Nghiên cứu cho thấy trong quá trình phát triển não bộ, những người mắc ASD có thể có quá nhiều tế bào thần kinh và phát triển quá mức ở một số phần của lớp ngoài của não, vỏ não. Ngoài ra, có những vùng không đều, nơi cấu trúc điển hình của vỏ não bị phá vỡ. Vỏ não thường có sáu lớp, được hình thành trước khi sinh, mỗi lớp có các tế bào thần kinh và kết nối chuyên biệt. Những bất thường này được nhìn thấy ở thùy trán và thùy thái dương, các vùng liên quan đến cảm xúc, hành vi xã hội và ngôn ngữ. Những khác biệt này được cho là góp phần gây ra những thách thức về mặt xã hội, giao tiếp và nhận thức liên quan đến chứng tự kỷ.
Các bộ phận khác của não tự kỷ biểu hiện bất thường bao gồm tiểu não và hạch hạnh nhân. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu những thay đổi về não này có thúc đẩy chứng tự kỷ hay ngược lại hay không.
Các yếu tố môi trường
Các yếu tố môi trường có thể bao gồm từ nhiễm trùng và bệnh tật đến độc tố và sức khỏe của bà mẹ trong thời kỳ mang thai. Chúng bao gồm:
Một số bệnh nhất định: Một phân nhóm ASD được gọi là rối loạn phân rã thời thơ ấu có liên quan đến một số bệnh nhất định, đặc biệt là nếu khởi phát muộn, bao gồm viêm não bán cấp (một bệnh nhiễm trùng não mãn tính do dạng vi-rút sởi gây ra), xơ cứng củ (một rối loạn di truyền đặc trưng bởi sự hình thành khối u lành tính trong não và các cơ quan khác), bệnh loạn dưỡng chất trắng (một tình trạng liên quan đến sự phát triển bất thường của bao myelin, dẫn đến sự phân hủy chất trắng trong não) và các bệnh tích tụ lipid (các rối loạn trong đó chất béo tích tụ quá nhiều trong não và hệ thần kinh, gây ra độc tính).
Các bệnh nhiễm trùng trước khi sinh: Ví dụ bao gồm nhiễm trùng rubella và cytomegalovirus.
Tình trạng miễn dịch của mẹ: Tình trạng miễn dịch của mẹ làm tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ ở trẻ em. Một nghiên cứu năm 2020 phát hiện ra rằng hen suyễn ở mẹ là tình trạng được báo cáo thường xuyên nhất ở những bà mẹ có con mắc ASD. Trẻ trai mắc chứng tự kỷ có nhiều khả năng có mẹ có tiền sử mắc các tình trạng miễn dịch hơn trẻ gái mắc ASD.
Tiếp xúc với ô nhiễm không khí trước khi sinh: Tiếp xúc với PM2.5 (các hạt bụi có đường kính từ 2,5 micromet trở xuống) trong hai tam cá nguyệt đầu tiên của thai kỳ có liên quan đến nguy cơ mắc ASD cao hơn ở trẻ em, đặc biệt là trẻ trai.
Tiếp xúc với độc tố trong tử cung: Tiếp xúc với độc tố (ví dụ: kim loại nặng) hoặc thuốc (ví dụ: thuốc chống trầm cảm, axit valproic và thalidomide) khi còn trong tử cung hoặc trong thời thơ ấu có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ.
Nồng độ mangan và kẽm thấp hơn.
Bệnh tiểu đường và béo phì ở mẹ: Bệnh tiểu đường loại 2, loại 1 và bệnh tiểu đường thai kỳ có từ trước ở mẹ được chẩn đoán ở tuần thứ 26 của thai kỳ có liên quan đến nguy cơ mắc ASD cao hơn ở trẻ em. Một nghiên cứu năm 2016 phát hiện ra rằng trẻ em sinh ra từ những phụ nữ béo phì mắc bệnh tiểu đường có khả năng được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ cao gấp ba lần so với trẻ em của những bà mẹ có cân nặng khỏe mạnh và không bị tiểu đường.
Biến chứng khi sinh: Sinh non có thể làm tăng nguy cơ mắc ASD, với nguy cơ cao hơn liên quan đến mức độ sinh non lớn hơn. Những thách thức trong quá trình sinh nở dẫn đến tình trạng não của trẻ bị thiếu oxy cũng có thể làm tăng nguy cơ.
Công nghệ hỗ trợ sinh sản: Một nghiên cứu năm 2017 cho thấy việc sử dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản (ví dụ: thụ tinh trong ống nghiệm) có thể liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ ở trẻ em.
Việc sử dụng cần sa của cha: Một nghiên cứu năm 2019 phát hiện ra rằng một gen liên quan đến chứng tự kỷ, DLGAP2, có thể thay đổi trong tinh trùng của m
Vắc-xin cho trẻ em
Mặc dù các tổ chức có thẩm quyền như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đảm bảo với cha mẹ rằng không có mối liên hệ nào giữa vắc-xin cho trẻ em và chứng tự kỷ, một số nhà khoa học vẫn kêu gọi nghiên cứu thêm.
Một nghiên cứu năm 2011 đã xem xét dữ liệu của tất cả các tiểu bang từ năm 2001 đến năm 2007 và phát hiện ra rằng khi tỷ lệ trẻ em được tiêm vắc-xin theo khuyến nghị cho trẻ em tăng lên, thì tỷ lệ mắc chứng tự kỷ hoặc khiếm khuyết về lời nói và ngôn ngữ cũng tăng theo. Nhà nghiên cứu tuyên bố, "Mặc dù từng loại vắc-xin riêng lẻ đều được thử nghiệm về tính an toàn và hiệu quả, nhưng chưa có nghiên cứu nào từng xem xét tính an toàn của toàn bộ lịch tiêm chủng được CDC khuyến nghị cho trẻ em Hoa Kỳ". Mặc dù tác giả không xác định cụ thể vắc-xin là yếu tố nguy cơ gây chứng tự kỷ, nhưng bà đã đề xuất nghiên cứu thêm về mối liên hệ tiềm ẩn này.
Các loại tự kỷ là gì?
Tự kỷ được gọi là rối loạn "phổ" do nhiều triệu chứng và mức độ nghiêm trọng mà mỗi cá nhân gặp phải.
Theo Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, Phiên bản thứ tư (DSM-4) do Hiệp hội tâm thần Hoa Kỳ (APA) xuất bản, năm phân nhóm trước đây đã được chẩn đoán riêng biệt, bao gồm rối loạn Asperger và hội chứng Rett.
Vào năm 2013, tất cả các chẩn đoán phân nhóm tự kỷ đã được hợp nhất thành chẩn đoán rộng hơn về ASD theo DSM-5, hiện được cập nhật là DSM-5-TR. Hiện tại, các dấu hiệu và triệu chứng được xem xét trên một chuỗi các đặc điểm tự kỷ.

DSM-5 cũng bao gồm xếp hạng mức độ nghiêm trọng của ASD với ba cấp độ:
Cấp độ 1 (cần hỗ trợ): Cá nhân cần được hỗ trợ để tham gia vào các hoạt động xã hội và có thể có những hành vi lặp đi lặp lại làm gián đoạn cuộc sống hàng ngày. Họ gặp khó khăn khi thay đổi khỏi các sở thích cố định của mình.
Cấp độ 2 (cần hỗ trợ đáng kể): Cá nhân phải đối mặt với sự chậm trễ đáng kể trong giao tiếp và có khả năng tương tác xã hội hạn chế. Những sở thích hạn chế đáng chú ý và hành vi lặp đi lặp lại của họ có thể gây ra sự đau khổ và cản trở hoạt động hàng ngày.
Mức độ 3 (yêu cầu hỗ trợ rất đáng kể): Cá nhân gặp phải những khiếm khuyết nghiêm trọng, với tương tác xã hội tối thiểu, giao tiếp bằng lời nói rất hạn chế và những khó khăn đáng kể do bận tâm quá mức và hành vi lặp đi lặp lại. Họ phải vật lộn rất nhiều với hoạt động hàng ngày và thích nghi với sự thay đổi.
Một người có thể được chẩn đoán mắc nhiều tình trạng nếu các dấu hiệu và triệu chứng của họ đáp ứng các tiêu chí của nhiều hơn một rối loạn, chẳng hạn như ASD và rối loạn thiếu chú ý/tăng động (ADHD). Điều này được gọi là một chỉ định.
DSM-5 hiện xác định năm chỉ định ASD, bao gồm những điều sau:
Có hoặc không kèm theo suy giảm trí tuệ
Có hoặc không kèm theo suy giảm ngôn ngữ
Có liên quan đến tình trạng y tế hoặc di truyền hoặc yếu tố môi trường đã biết
Có liên quan đến một rối loạn phát triển thần kinh, tâm thần hoặc hành vi khác
Với chứng mất trương lực cơ (một hội chứng thần kinh tâm thần được đánh dấu bằng các chuyển động, hành vi bất thường và sự thu mình đáng kể)
Ai có nguy cơ mắc chứng tự kỷ?
ASD có thể ảnh hưởng đến trẻ em từ mọi chủng tộc và dân tộc, nhưng một số nhóm nhất định có xu hướng mắc chứng tự kỷ thường xuyên hơn những nhóm khác. Sau đây là các yếu tố nguy cơ mắc chứng tự kỷ:
Giới tính: Chứng tự kỷ được chẩn đoán ở bé trai nhiều hơn khoảng bốn lần so với bé gái.
Chủng tộc: Trong số trẻ em người Châu Á và Thái Bình Dương tại Hoa Kỳ, 3,3 phần trăm mắc chứng tự kỷ. Tỷ lệ mắc chứng tự kỷ ở trẻ em da trắng, da đen và gốc Tây Ban Nha lần lượt là 2,4 phần trăm, 2,9 phần trăm và 3,2 phần trăm.
Tiền sử gia đình: Nguy cơ mắc chứng ASD ở đứa con thứ hai đối với cặp vợ chồng có một đứa con mắc chứng ASD không rõ nguyên nhân ước tính cao hơn khoảng 10 lần. ASD thường di truyền trong gia đình, nhưng mô hình di truyền chính xác vẫn chưa rõ ràng. Những người thừa hưởng những thay đổi di truyền liên quan đến ASD thường có nguy cơ mắc tình trạng này cao hơn thay vì thừa hưởng trực tiếp bản thân ASD.
Tuổi của cha: Mặc dù người ta thường tin rằng việc sinh con ở độ tuổi lớn hơn (tức là 30 tuổi trở lên) làm tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ, nhưng một nghiên cứu năm 2020 trên gần 400 em nhỏ của trẻ tự kỷ không tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ nào cho thấy cha mẹ lớn tuổi có liên quan đến nguy cơ mắc chứng tự kỷ cao hơn ở con cái họ. Tuy nhiên, những người cha dưới 30 tuổi được phát hiện có khả năng sinh con mắc chứng ASD cao hơn 2,83 lần so với những người cha khác. Ngoài ra, khi cả cha và mẹ đều dưới 30 tuổi, con của họ có xu hướng có điểm học tập sớm thấp hơn trong bài kiểm tra phát triển.
Trẻ sinh cực non: Tỷ lệ mắc chứng ASD theo tuổi thai khi sinh là 6,1 phần trăm đối với trẻ sinh cực non (sinh từ 22 đến 27 tuần). Cân nặng khi sinh rất thấp cũng là một yếu tố nguy cơ.
Chẩn đoán tự kỷ như thế nào?
Tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ đã tăng đáng kể trong vài thập kỷ qua. Tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ ở Hoa Kỳ chỉ vào khoảng một trên 2.000 vào những năm 1980. Không rõ liệu sự gia tăng này có phản ánh các phương pháp phát hiện và chẩn đoán tốt hơn, sự gia tăng thực sự về các trường hợp hay sự kết hợp của cả hai. Sự thay đổi trong cách định nghĩa và chẩn đoán ASD cũng có thể góp phần vào sự thay đổi về tỷ lệ mắc bệnh.
Sàng lọc
Mặc dù không có xét nghiệm tự kỷ y khoa, các công cụ sàng lọc có thể giúp xác định các triệu chứng tự kỷ tiềm ẩn ở trẻ em và người lớn. Sàng lọc sớm có thể cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ và hỗ trợ. Tuy nhiên, kết quả dương tính từ công cụ sàng lọc không phải là chẩn đoán; sau đó cần phải có đánh giá đầy đủ từ một chuyên gia đủ tiêu chuẩn. Các công cụ sàng lọc tự kỷ bao gồm:
Danh sách kiểm tra đã sửa đổi cho chứng tự kỷ ở trẻ mới biết đi, đã sửa đổi (M-CHAT-R) (dành cho trẻ từ 16 đến 30 tháng tuổi).
Công cụ giám sát giao tiếp và chú ý xã hội, đã sửa đổi (SACS-R) và SACS-Preschool (SACS-PR) (dành cho trẻ từ 12 đến 60 tháng tuổi).
Bản câu hỏi sàng lọc các thách thức xã hội (SCSQ) (dành cho trẻ em trong độ tuổi đi học).
Bài kiểm tra chỉ số phổ tự kỷ (AQ) (dành cho người lớn). Ngoài ra còn có phiên bản AQ-Child dành cho trẻ từ 4 đến 11 tuổi và phiên bản AQ-Adolescent dành cho trẻ từ 11 đến 18 tuổi.
Chẩn đoán
Bệnh tự kỷ thường có thể chẩn đoán được với độ tin cậy khi trẻ được 2 tuổi. Chẩn đoán trẻ nhỏ thường bao gồm một quy trình gồm hai bước:
Bước 1 (sàng lọc phát triển chung): AAP khuyến nghị sàng lọc tất cả trẻ em để phát hiện chậm phát triển trong các lần khám sức khỏe định kỳ vào tháng thứ 9, 18 và 24 hoặc 30. Các lần sàng lọc cụ thể về chứng tự kỷ nên được thực hiện vào các lần khám 18 và 24 tháng. Có thể cần sàng lọc bổ sung nếu trẻ có nguy cơ mắc chứng tự kỷ hoặc các vấn đề về phát triển cao hơn. Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ đánh giá hành vi của trẻ bằng các câu hỏi, công cụ sàng lọc và quan sát lâm sàng. Nếu phát hiện thấy sự khác biệt về phát triển, trẻ có thể được chuyển đến để đánh giá thêm.
Bước 2 (đánh giá chẩn đoán bổ sung): Một nhóm các chuyên gia giàu kinh nghiệm tiến hành đánh giá chẩn đoán, thường bao gồm các kỳ thi y tế và thần kinh, đánh giá nhận thức, đánh giá ngôn ngữ, quan sát hành vi, thảo luận chi tiết với người chăm sóc về hành vi và sự phát triển của trẻ, và đánh giá các kỹ năng cần thiết cho các hoạt động hàng ngày (ví dụ: mặc quần áo và đi vệ sinh).
Các xét nghiệm máu và thính giác và xét nghiệm DNA để tìm bệnh di truyền cũng có thể được thực hiện.
ASD được chẩn đoán lâm sàng bằng tiêu chuẩn DSM-5-TR. Chẩn đoán đòi hỏi bằng chứng về khó khăn trong tương tác xã hội và giao tiếp, cùng với ít nhất hai hành vi hoặc sở thích hạn chế, lặp đi lặp lại hoặc rập khuôn, như đã đề cập trong phần triệu chứng.

Ngoài tiêu chuẩn DSM, các phương pháp chẩn đoán mới đã cho thấy triển vọng trong những năm gần đây. Ví dụ, một nghiên cứu được công bố vào tháng 7 cho thấy hệ vi sinh vật có vai trò chính trong việc dự đoán ASD.
Chẩn đoán chứng tự kỷ ở người lớn có thể khó khăn hơn ở trẻ em do các triệu chứng chồng chéo với các tình trạng sức khỏe tâm thần khác. Người lớn nghi ngờ mình có thể mắc ASD nên tham khảo ý kiến ​​bác sĩ và yêu cầu giới thiệu để đánh giá ASD, thường bao gồm đánh giá các khó khăn trong tương tác xã hội và giao tiếp, độ nhạy cảm của giác quan, hành vi lặp đi lặp lại, sở thích hạn chế và thu thập thông tin từ các thành viên gia đình về tiền sử phát triển ban đầu của cá nhân. Nhiều người lớn gặp phải các triệu chứng liên quan đến chứng tự kỷ nhưng chưa bao giờ được chẩn đoán chính thức.
Phụ nữ và trẻ em gái mắc chứng tự kỷ, đặc biệt là những người không có khuyết tật trí tuệ hoặc chậm phát triển ngôn ngữ, thường gặp khó khăn trong việc được chẩn đoán do các triệu chứng khó phát hiện hơn. Trung bình, các bé gái được chẩn đoán ở độ tuổi 5,6, so với 4,8 ở các bé trai.

Tuy nhiên, chẩn đoán sai là một mối lo ngại và có thể xảy ra thường xuyên hơn chúng ta nghĩ. Tỷ lệ trẻ nhỏ được chẩn đoán sai ASD có thể lên tới 23 đến 47 phần trăm trong số tất cả các trường hợp được chẩn đoán.
Các bệnh đi kèm và biến chứng của chứng tự kỷ là gì?
Một số bệnh đi kèm phổ biến của chứng tự kỷ bao gồm:
Các vấn đề về giấc ngủ.
Rối loạn ăn uống: Các thách thức về ăn uống ảnh hưởng đến 80 phần trăm trẻ tự kỷ, trong đó khoảng 10 phần trăm các trường hợp này kéo dài suốt đời.
Rối loạn tiêu hóa.
Lo lắng.
Trầm cảm.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD).
Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD).
ADHD.
Khuyết tật trí tuệ.
Khuyết tật học tập.
Mất khả năng nói hoàn toàn/một phần.
Các vấn đề về chuyển hóa.
Phản ứng không điển hình với cơn đau (phản ứng thái quá hoặc giảm sút).
Động kinh.
Về biến chứng, những người mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ có tỷ lệ tử vong cao gấp đôi so với dân số nói chung, chủ yếu là do các biến chứng liên quan đến bệnh động kinh. Họ cũng có thể gặp khó khăn trong việc sống tự lập và gặp phải những thách thức trong công việc, cô lập xã hội, bị bắt nạt và bị ngược đãi.
Các phương pháp điều trị bệnh tự kỷ là gì?
Hiện nay, bệnh tự kỷ không thể chữa khỏi. Tuy nhiên, những người mắc chứng ASD vẫn có thể sống trọn vẹn cuộc đời. Việc điều trị sớm bệnh tự kỷ là rất quan trọng vì nó giúp giảm bớt khó khăn, xây dựng sức mạnh và dạy các kỹ năng mới. Vì mỗi người mắc chứng tự kỷ đều có sức mạnh và thách thức riêng, nên các biện pháp can thiệp cần được cá nhân hóa để đáp ứng các nhu cầu cụ thể. Các kế hoạch điều trị phù hợp có thể cải thiện đáng kể kết quả cho trẻ nhỏ. Có một số dịch vụ của chính phủ và cộng đồng có sẵn để giúp đỡ.
Trẻ em dưới 3 tuổi có thể đủ điều kiện nhận các dịch vụ điều trị chứng tự kỷ thông qua chương trình can thiệp sớm của tiểu bang. Các gia đình hợp tác với các chuyên gia để tạo ra một kế hoạch dịch vụ gia đình cá nhân hóa (IFSP). Liệu pháp được cung cấp bởi một nhóm các nhà trị liệu, tại nhà hoặc tại nhà trẻ, cho các gia đình đủ điều kiện.
Trẻ tự kỷ từ 3 đến 5 tuổi đủ điều kiện sẽ được hưởng các dịch vụ mẫu giáo miễn phí do các quận trường học hoặc trung tâm học tập địa phương cung cấp. Các dịch vụ này có thể bao gồm liệu pháp và hỗ trợ học tập tại nhà hoặc trong lớp học. Nếu trẻ đủ điều kiện, một chương trình giáo dục cá nhân hóa (IEP) sẽ được lập ra, nêu rõ các mục tiêu về học tập, hành vi, xã hội và tự chăm sóc. Các dịch vụ giáo dục đặc biệt sẽ được cung cấp cho đến khi trẻ được 21 tuổi. Khi trẻ được 6 tuổi, trẻ sẽ được đánh giá lại để xác định xem trẻ có còn cần IEP hay không.

Các lựa chọn điều trị phổ biến bao gồm các lựa chọn được liệt kê dưới đây.
Các can thiệp về hành vi, tâm lý và giáo dục
Bao gồm:
Phân tích hành vi ứng dụng (ABA): Phân tích hành vi ứng dụng là một phương pháp điều trị dạy trẻ em các kỹ năng nhận thức, xã hội, ngôn ngữ, hành vi và tự chăm sóc cụ thể theo từng bước. Những cải thiện nhỏ được củng cố và xây dựng dựa trên đó để giúp phát triển hoặc thay đổi hành vi, đồng thời các hành vi gây rối như hung hăng sẽ được giảm thiểu. Liệu pháp được cá nhân hóa để phù hợp với nhu cầu riêng của từng trẻ.
Mô hình Early Start Denver (ESDM): Liệu pháp hành vi này dành cho trẻ tự kỷ từ 12 đến 48 tháng tuổi và kết hợp các kỹ thuật ABA. Cha mẹ và nhà trị liệu sử dụng trò chơi để thúc đẩy các mối quan hệ tích cực và khuyến khích phát triển ngôn ngữ, kỹ năng xã hội và nhận thức thông qua các hoạt động tương tác.
Floortime: Floortime là liệu pháp dựa trên mối quan hệ, trong đó cha mẹ hoặc người chăm sóc tương tác với trẻ bằng cách xuống sàn để chơi và tương tác ở mức độ của trẻ. Đây là phương pháp thay thế cho liệu pháp ABA và cũng có thể được sử dụng kết hợp với ABA.
Liệu pháp ngôn ngữ - lời nói: Phương pháp này có thể giúp trẻ cải thiện các kỹ năng giao tiếp xã hội, lời nói và phi ngôn ngữ.
Liệu pháp nghề nghiệp: Liệu pháp nghề nghiệp có thể đóng vai trò quan trọng đối với trẻ tự kỷ, vì nhiều trẻ bị chậm phát triển các kỹ năng vận động tinh (ví dụ: viết tay). Ngoài ra, liệu pháp này có thể giúp giải quyết các thách thức về tích hợp cảm giác.
Can thiệp phát triển mối quan hệ (RDI): RDI là liệu pháp hành vi lấy gia đình làm trung tâm được thiết kế để cải thiện các kỹ năng xã hội và cảm xúc ở những người tự kỷ. Liệu pháp này nhấn mạnh vai trò của cha mẹ là nhà trị liệu chính, cung cấp cho họ chương trình đào tạo để giúp con mình phát triển các kỹ năng cốt lõi này.
Thuốc
Liệu pháp dùng thuốc không chữa khỏi chứng tự kỷ nhưng có thể giúp kiểm soát các triệu chứng cụ thể. Đôi khi, người ta sử dụng các loại thuốc sau:
Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI): Fluoxetine, paroxetine và fluvoxamine có hiệu quả trong việc giảm các hành vi nghi lễ ở những người mắc chứng ASD.
Thuốc chống loạn thần: Thuốc chống loạn thần (ví dụ: risperidone) có thể giải quyết các hành vi tự gây thương tích, nhưng có khả năng gây ra các tác dụng phụ.
Thuốc ổn định tâm trạng và thuốc kích thích tâm thần: Những loại thuốc này có thể có lợi cho những người bị mất tập trung, bốc đồng hoặc tăng động.
Tư duy ảnh hưởng đến chứng tự kỷ như thế nào?
Tư duy, dù ở những người mắc chứng tự kỷ hay những người xung quanh, đều có tác động sâu sắc đến việc học tập, sức khỏe cảm xúc và sự phát triển toàn diện. Tư duy phát triển—niềm tin rằng khả năng, kỹ năng và hành vi có thể cải thiện bằng nỗ lực và các chiến lược phù hợp—có thể dẫn đến kết quả tốt hơn bằng cách thúc đẩy việc học tập và tính kiên trì, vì các gia đình và cá nhân có tư duy này cởi mở hơn với việc áp dụng các liệu pháp hành vi, đào tạo kỹ năng xã hội và các biện pháp can thiệp khác.
Tư duy tích cực, được người chăm sóc và nhà giáo dục hỗ trợ, giúp xây dựng sự tự tin, dẫn đến cải thiện các tương tác xã hội, khả năng học tập và điều chỉnh cảm xúc.
Các phương pháp tiếp cận tự nhiên đối với chứng tự kỷ là gì?
Vì cần nghiên cứu thêm về hiệu quả và độ an toàn của các phương pháp tiếp cận tự nhiên sau đây, vui lòng tham khảo ý kiến ​​bác sĩ trước khi thử sử dụng bất kỳ phương pháp nào trong số chúng.
1. Các loại thảo mộc làm thuốc
Các loại thảo mộc sau đây đã cho thấy một số hứa hẹn trong các nghiên cứu trên động vật:
Cam thảo (Glycyrrhiza glabra): Một nghiên cứu năm 2024 phát hiện ra rằng chiết xuất cam thảo, đặc biệt là ở liều 300 miligam trên một kilôgam, đã cải thiện một số hành vi ở những con chuột biểu hiện hành vi giống ASD. Nó thúc đẩy các tương tác xã hội của chuột, khiến chúng hoạt động nhiều hơn, giảm các hành động lặp đi lặp lại và giúp giảm lo lắng của chúng. Chiết xuất này cũng cho thấy lợi ích đối với chức năng nhận thức.
Cờ ngọt (Acorus calamus): Rễ cây cờ ngọt có tác dụng an thần và chống co giật, giảm viêm và tăng cường khả năng miễn dịch trong các nghiên cứu trên động vật và trong ống nghiệm. Trong một nghiên cứu năm 2022, khi những con chuột con có các triệu chứng giống như tự kỷ được điều trị bằng chiết xuất cờ ngọt trong giai đoạn đầu sau sinh, não của chúng ít bị tổn thương hơn so với những con chuột không được điều trị, cho thấy phương pháp điều trị này có thể giúp bảo vệ các tế bào não khỏi chứng tự kỷ.
Nhân sâm đỏ Hàn Quốc: Một nghiên cứu năm 2016 phát hiện ra rằng phương pháp điều trị bằng nhân sâm đỏ Hàn Quốc đã cải thiện mọi hành vi liên quan đến chứng tự kỷ ở chuột ngoại trừ khả năng phối hợp các chuyển động của chúng.
2. Sản phẩm tự nhiên
Sữa lạc đà: Sữa lạc đà chứa hàm lượng khoáng chất thiết yếu (ví dụ như canxi, sắt và kẽm) và vitamin cao hơn sữa bò. Trong một nghiên cứu năm 2013, 45 trẻ tự kỷ uống sữa lạc đà thô trong hai tuần đã cho thấy sự cải thiện đáng kể về hành vi liên quan đến chứng tự kỷ của chúng.
Axit béo omega-3: Trong một nghiên cứu năm 2015, sau khi 41 trẻ tự kỷ và thanh thiếu niên được bổ sung axit béo omega-3 trong 12 tuần, chúng đã cho thấy sự cải thiện đáng kể về kỹ năng xã hội, sự chú ý và các vấn đề về hành vi. Những thay đổi về nồng độ axit béo trong máu của chúng có liên quan chặt chẽ đến sự cải thiện các triệu chứng cốt lõi của chứng tự kỷ.
Luteolin và quercetin: Luteolin và quercetin là flavonoid tự nhiên có trong nhiều loại thực phẩm thực vật. Trong một nghiên cứu năm 2011, 37 trẻ tự kỷ được dùng chế phẩm luteolin có chứa quercetin trong bốn tháng đã cải thiện 10 phần trăm khả năng nói, 25 phần trăm khả năng xã hội, 50 phần trăm khả năng giao tiếp bằng mắt và 75 phần trăm khả năng cải thiện các triệu chứng đường tiêu hóa. Trong một thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát năm 2013, 40 trẻ em được bổ sung chế độ ăn uống gồm luteolin và quercetin đã cải thiện đáng kể các triệu chứng tự kỷ.
3. Chế độ ăn
Trẻ em mắc chứng tự kỷ thường có tình trạng dinh dưỡng kém do sở thích ăn uống cụ thể của chúng, thường thích các loại thực phẩm nhiều calo, ít chất dinh dưỡng như thực phẩm giàu tinh bột hơn là trái cây và rau. Những sở thích này thường trở nên rõ rệt hơn theo độ tuổi và có liên quan đến độ nhạy cảm bất thường của giác quan, chẳng hạn như vị giác và khứu giác tăng cao. Những lựa chọn thực phẩm độc đáo này có thể phá vỡ hệ vi khuẩn đường ruột, dẫn đến giảm tính đa dạng của chúng và có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể. Ngoài ra, chế độ ăn hạn chế sự đa dạng của chúng có thể dẫn đến thiếu hụt vitamin và ảnh hưởng đến sự phát triển.
Một số trẻ tự kỷ có thể được hưởng lợi từ chế độ ăn không chứa gluten hoặc không chứa casein. Gluten có trong lúa mì, lúa mạch đen và lúa mạch, trong khi casein có trong các sản phẩm từ sữa như sữa và pho mát. Tuy nhiên, chế độ ăn không chứa gluten và không chứa casein có thể không phù hợp với tất cả mọi người.

Trẻ em mắc ASD được khuyến cáo nên áp dụng chế độ ăn cân bằng, giàu chất dinh dưỡng và chất chống oxy hóa, chẳng hạn như chế độ ăn có thịt, trứng, pho mát tự nhiên, các loại hạt, đậu, rau và trái cây.
4. Châm cứu
Một đánh giá năm 2011 về 31 nghiên cứu về hiệu quả của châm cứu cho thấy tất cả các nghiên cứu này đều báo cáo về sự cải thiện về hành vi hoặc sự phát triển ở trẻ tự kỷ. Một đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp năm 2019 về 11 nghiên cứu cho thấy châm cứu da đầu làm giảm đáng kể điểm số Thang đánh giá tự kỷ ở trẻ em (CARS) ở trẻ em dưới 3 tuổi. Tuy nhiên, cần có nhiều thử nghiệm lâm sàng mạnh mẽ hơn để hỗ trợ hiệu quả và tính an toàn của châm cứu trong điều trị chứng tự kỷ.
5. Liệu pháp âm nhạc
Âm nhạc có thể điều chỉnh sự kích thích và sự chú ý trong não, tác động đến nhiều vùng não ở những người mắc các bệnh lý thần kinh. Liệu pháp âm nhạc có thể cải thiện sự phối hợp vận động và tăng động lực xã hội ở trẻ tự kỷ. Âm nhạc có thể hỗ trợ sự phát triển các tương tác xã hội của trẻ bằng cách kích hoạt các mạng lưới não liên quan đến cả các nhiệm vụ âm nhạc và không liên quan đến âm nhạc. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ tác dụng này có thể kéo dài trong bao lâu.
Một thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên năm 2010 cho thấy hướng dẫn âm nhạc có khả năng tăng cường khả năng nói ở 50 trẻ mắc chứng ASD, cải thiện các lĩnh vực như vốn từ vựng, cách phát âm, cách sử dụng ngôn ngữ xã hội và giọng điệu nói.

Làm thế nào để tôi có thể ngăn ngừa chứng tự kỷ?
Mặc dù không có cách chữa trị hoặc cách chắc chắn nào để ngăn ngừa chứng tự kỷ, cha mẹ có thể thực hiện một số bước nhất định để giảm rủi ro, chẳng hạn như giảm nguy cơ sinh con mắc chứng tự kỷ hoặc sinh non.
Nếu đang có kế hoạch mang thai hoặc đang mang thai, hãy cân nhắc những điều sau:
Tránh hút thuốc, uống rượu và sử dụng cần sa.
Thận trọng với các chất bổ sung vitamin, đặc biệt là kẽm và sắt.
Ăn một chế độ ăn uống lành mạnh giàu thực phẩm nguyên chất và tránh thực phẩm siêu chế biến.
Mặc dù việc duy trì hoạt động là quan trọng, nhưng hãy tránh gắng sức quá mức trong thời kỳ mang thai, điều này có thể dẫn đến sinh non.
Bảo vệ bản thân khỏi ô nhiễm bên ngoài, đặc biệt là ô nhiễm không khí và tránh tiếp xúc với kim loại nặng, hóa chất gây rối loạn nội tiết và các chất độc khác.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7020
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Quay về Chia xẻ Kinh Nghiệm Chữa Bệnh

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến14 khách