Ác quỷ y khoa thế kỷ 21 VÀ NGÀNH DƯỢC

Nơi giúp đỡ lẫn nhau trau giồi kiến thức.

Ác quỷ y khoa thế kỷ 21 VÀ NGÀNH DƯỢC

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 6 Tháng 6 24, 2022 10:19 am

Ác quỷ y khoa thế kỷ 21 VÀ NGÀNH DƯỢC

Đây được coi là quỷ đội lốt người thầy ạ!

Farid Fata
Là giám đốc chuỗi phòng khám, bệnh viện điều trị ung thư và các bệnh lý về máu lớn nhất bang Michigan với số lượng bệnh nhân lên đến 17.000 người, nhưng dưới sự phù phép của Tiến sĩ Farid Fata, ngoại trừ 1 người duy nhất thực sự mắc bệnh, những người còn lại đều bị Farid Fata biến thành 'ung thư' rồi điều trị dài ngày bằng hóa chất để trục lợi tiền bảo hiểm y tế…
Dấu hiệu đầu tiên của một tội ác y học

Vụ việc bắt đầu hé lộ vào tháng 1-2010 khi y tá Angela Swantek, người đã có 19 năm kinh nghiệm trong việc chăm sóc bệnh nhân ung thư đến Bệnh viện điều trị ung thư và các bệnh lý về máu Michigan, Mỹ (Michigan Hematology Oncology - viết tắt là MHO) để phỏng vấn xin việc làm.

Sau này lúc trả lời câu hỏi của tờ The Detroit News, Angela nói: “Trong khi đợi gặp tiến sĩ Fata, giám đốc MHO, tôi đi xem một số khoa phòng. Tại khoa điều trị ung thư, tôi thấy có khoảng 70 bệnh nhân đang được truyền dịch. Một y tá ở đây cho tôi biết tất cả đều bị ung thư tuyến giáp, ung thư tụy, gan, đại tràng, vòm họng, máu và một số loại ung thư khác”.

Vẫn theo y tá Angela, trong quá trình quan sát cô nhận thấy có nhiều điểm khiến cô nghi ngờ. Ấy là một số bệnh nhân được truyền dung dịch IVIG - là loại dùng cho người suy giảm miễn dịch, vốn không được chỉ định trong điều trị ung thư vì nó có thể gây sốc phản vệ, hay như một bệnh nhân khác lúc vừa được truyền xong hóa chất 5FU thì lập tức y tá cho truyền tiếp dung dịch Neulasta thay vì phải đợi sau 24 tiếng.

Nói với tờ The Detroit News, Angela cho biết bất kỳ một nhân viên y tế nào đã được đào tạo bài bản về chăm sóc bệnh nhân ung thư đều hiểu rằng quy trình điều trị của MHO không phù hợp, thậm chí là nguy hiểm. Nhưng khi cô nêu vấn đề này với một số y tá trong khoa, câu trả lời mà cô nhận được là: “Chúng tôi thực hiện theo y lệnh của tiến sĩ Fata. Ở đây trước giờ đều như thế”.



Một trong những cơ sở của MHO bị niêm phong sau khi FBI bắt Fata.



Và thế là thay vì gặp tiến sĩ Fata, Angela bỏ về. Suốt 3 tháng sau đó, cô nhiều lần trở lại MHO trong vai tìm người nhà để thu thập thêm chứng cứ. Đầu tháng 3, Angela gửi một báo cáo cho Văn phòng Y tế bang Michigan, nêu lên những nghi ngờ của mình về phương pháp điều trị ung thư ở MHO nhưng mãi đến tháng 5-2011, cô mới nhận được thư trả lời của Cục Điều tiết và cấp phép y tế (LARA) bang Michigan, nội dung cho biết: “Qua kiểm tra, LARA và Văn phòng Y tế bang Michigan không phát hiện bất cứ một sai trái nào của MHO và tiến sĩ Fata”.

Trong cuộc phỏng vấn của tờ The Detroit News, Angela nói: “Họ kết luận mà không hề gặp tôi để tìm hiểu những gì tôi đã nêu trong báo cáo”. Ban biên tập của tờ The Detroit News cũng cho biết Văn phòng Y tế bang Michigan từ chối tiết lộ chi tiết của cuộc điều tra vì Luật bảo mật không cho phép tiết lộ bất kỳ thông tin nào liên quan đến nhân thân người bệnh”.

Với bác sĩ Soe Maunglay, ông bắt đầu làm việc cho MHO vào giữa năm 2012. Và cũng như y tá Angela, bác sĩ Soe sớm nhận ra những bất thường trong điều trị. Khi phản ánh nhưng việc này với tiến sĩ Fata, ông bị Fata chuyển sang một cơ sở khác cũng thuộc chuỗi MHO nhưng tại nơi này, Soe không còn được tiếp cận với các bệnh nhân ung thư nữa. Mối nghi ngờ của Soe càng tăng lên khi tháng 6-2013, Tiến sĩ Fata tuyên bố MHO đã được Bộ Y tế Mỹ cấp chứng chỉ “Sáng kiến thực hành chất lượng trong điều trị ung thư” nhưng khi nhờ một số bạn bè có quan hệ với Bộ Y tế kiểm tra, Soe biết Fata nói láo!

Cuối tháng 6, bác sĩ Soe dự định sẽ nộp đơn nghỉ việc ở MHO nhưng ngày 1-7, trong lúc tiến sĩ Fata về thăm quê nhà ở Li băng, Soe tình cờ gặp một bệnh nhân là Monica Flagg 54 tuổi, bị gãy chân sau đợt hóa trị đầu tiên để chữa bệnh đa u tủy - là bệnh ung thư buộc phải áp dụng phương pháp hóa trị liệu suốt đời. Tuy nhiên khi đọc kết quả xét nghiệm máu của Monica, bác sĩ Soe vô cùng sửng sốt khi thấy các chỉ số của bà đều nằm trong giới hạn bình thường.

Soe nói: “Hôm sau, tôi đến Phòng Hồ sơ để xem bệnh án. Nếu quả thực bà ấy bị đa u tủy thì hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu phải có những thay đổi - dù rất nhỏ nhưng cũng đủ để một bác sĩ chuyên khoa nhận ra nhưng bệnh án của bà không ghi nhận bất kỳ một khác thường nào. Vì thế trong trường hợp này, khi được Tiến sĩ Fata kết luận là ung thư, cứ mỗi lần hóa trị thì số tiền bảo hiểm y tế của bà Monica sẽ được chuyển vào tài khoản của MHO cho đến hết cuộc đời bà ấy”.

Và thay vì nghỉ việc, bác sĩ Soe quyết định ở lại để vạch trần sự trục lợi bỉ ổi của tiến sĩ Fata, người mà ông gọi là “ác quỷ y khoa”. Soe nói: “Từ trường hợp của bà Monica, tôi bí mật tìm hiểu thêm hồ sơ của các bệnh nhân khác. Do không có thời gian, tôi chỉ xác minh được hơn 1.000 trường hợp mà trong đó, chẳng ai có một dấu hiệu gì về bệnh ung thư nhưng tất cả đều được Fata chỉ định hóa trị. Riêng với 553 bệnh nhân, Fata đã hóa trị cho mỗi người ít nhất 12 liều, mỗi liều cách nhau 6 tuần lễ!”.



Người biểu tình mang theo di ảnh thân nhân họ và hàng chữ “45 năm tù là chưa đủ” sau khi tòa tuyên án Fata.

Sự ra đời của MHO và sự trục lợi trên nền tảng dối trá

Farid Fata sinh năm 1965 ở Liban. Sau khi lấy bằng bác sĩ tại Đại học Y khoa Beirut, ông ta di cư đến Mỹ rồi bắt đầu sự nghiệp bằng vai trò bác sĩ nội trú thuộc Trung tâm Y tế Maimonides ở Brooklyn, New York. Tiếp theo, Fata làm việc ở Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering, Manhattan cho đến năm 1999. Từ năm 2000 đến 2003, ông ta là bác sĩ điều trị ở Trung tâm Y tế Geisinger, bang Pennsylvania.

Cuối năm 2003, Fata nghỉ việc rồi thành lập Bệnh viện Điều trị ung thư và các bệnh lý về máu Michigan (MHO), cơ sở đặt tại Rochester Hill, thành phố Detroit, bang Michigan. 10 năm sau, MHO phát triển thành 7 cơ sở, là chuỗi bệnh viện điều trị ung thư lớn nhất bang. Bên cạnh đó, Fata còn sở hữu 3 phòng thí nghiệm, 20 nhà thuốc và 1 khu điều trị bức xạ, trong đó ông ta mạnh dạn đầu tư nhiều loại thiết bị tối tân, đắt tiền như máy chụp cắt lớp phát xạ positron.

Về điều trị, nhằm trục lợi tối đa tiền bảo hiểm y tế của những bệnh nhân bị Fata kết luận là “ung thư”, ông ta chỉ định khá nhiều những loại thuốc đắt tiền nhưng hoàn toàn không cần thiết, chẳng hạn như thuốc tăng trưởng tạo máu, muối sắt và gamma globulin tiêm tĩnh mạch (IVIG).

Chưa hết, Fata còn nhồi nhét cho người bệnh vô số các loại vitamin và thực phẩm chức năng. Các quyết toán của các đơn vị bảo hiểm như Medicare, Blue Cross, Blue Shield… cho thấy cứ một lần hóa trị, trung bình mỗi đơn vị bảo hiểm phải chi cho mỗi người bệnh là 40.000 USD!

Năm 2007, thủ đoạn gian dối của tiến sĩ Fata suýt nữa thì bại lộ. Một bệnh nhân là bà Maggie Dorsey khởi kiện Fata với lý do “chẩn đoán sai về bệnh ung thư gây thiệt hại nặng nề về sức khỏe sau 7 tháng điều trị bằng hóa chất”. Tuy nhiên, bằng các mối quan hệ của mình, Fata được tòa án thành phố Detroit, bang Michigan đồng ý cho ông ta tiến hành hòa giải.

Rút kinh nghiệm từ vụ việc này, Fata tổ chức lại MHO một cách kín kẽ hơn. Các phòng xét nghiệm được đặt xa nơi điều trị và kỹ thuật viên thực hiện xét nghiệm phải cam kết “không tiết lộ kết quả xét nghiệm cho bất kỳ ai ngoài tiến sĩ Fata theo Luật bảo mật Y khoa”.

Bác sĩ Soe nói: “Bằng cách ấy, các kỹ thuật viên chẳng hề biết rằng các xét nghiệm do họ thực hiện với kết quả bình thường lại được Fata thông báo với bệnh nhân là họ bị… ung thư! Điều tàn ác nhất của Fata là dù biết bệnh nhân không bị bệnh nhưng ông ta vẫn chỉ định truyền hóa chất bởi lẽ cứ mỗi lọ hóa chất do chính chuỗi nhà thuốc của MHO cung cấp, bảo hiểm y tế sẽ thanh toán lại cho ông ta…”.

Việc điều trị của Fata đã dẫn đến nhiều bi kịch. Ông Steinbeck được Fata chẩn đoán là ung thư tuyến giáp rồi được điều trị bằng axit zoledronic kéo dài suốt 3 năm đã khiến xương hàm ông bị hoại tử với một lỗ rò chạy sâu vào xoang hàm khiến răng ông rụng hết. Trong lúc những xét nghiệm thực hiện sau khi Fata bị bắt đã chứng minh ông không hề bị ung thư. Hay như ông Brown, được Fata chẩn đoán là ung thư máu rồi được đa hóa trị liệu trong suốt 1 năm.

Kết quả là đến nay, ông vẫn phải chạy thận nhân tạo vì biến chứng của hóa chất đã khiến ông suy thận mãn, chưa kể còn hàng trăm người khác, người thì tử vong bởi những loại thuốc điều trị căn bệnh mà mình không hề mắc phải, người thì sống dở chết dở do những phản ứng phụ của thuốc gây ra.

Tội ác phải bị trừng phạt

Sau khi thu thập xong những chứng cứ quan trọng, bác sĩ Soe tìm cách đưa vụ việc ra trước ánh sáng công lý. Soe nói: “Tôi liên lạc với George Karadsheh, phụ trách quản lý thực hành của MHO. Kinh hoàng trước những tài liệu mà tôi nêu ra, George Karadsheh hứa sẽ làm tất cả mọi điều có thể”.

Ngày 21-9-2013, tiến sĩ Fata bị Cục Điều tra liên bang (FBI) bắt giữ. Kết quả xác minh cho thấy trong suốt những năm điều hành MHO, có 17.000 bệnh nhân được ông ta kết luận là ung thư nhưng chỉ duy nhất 1 người là có bệnh thật! 553 trong số những người này bị biến chứng do hóa chất dẫn đến không thể tự chăm sóc bản thân. Số còn lại bị tổn hại sức khỏe và tâm lý từ trung bình đến nặng.

Tổng số tiền mà các đơn vị bảo hiểm y tế phải trả cho Fata là 34 triệu USD. Ngoài ra Fata còn nhận 18 triệu USD từ hai công ty bảo hiểm địa phương và một công ty bảo hiểm tư nhân, trả cho các phòng xét nghiệm chẩn đoán của chính ông ta để thực hiện những xét nghiệm không cần thiết.

Trước tòa, Fata bị cáo buộc 23 tội danh, bao gồm gian lận trong chăm sóc sức khỏe, gian lận bảo hiểm, rửa tiền, gây tổn hại nghiêm trọng đến tính mạng người khác, nhập tịch bất hợp pháp... Phía công tố đề nghị tòa tuyên phạt Fata 175 năm tù giam đồng thời thu hồi 9 triệu USD tài sản bất minh và quốc tịch Mỹ của ông ta.

Cũng tại phiên tòa, luật sư của Fata đề nghị bồi thẩm đoàn cho phép ông ta được tại ngoại với số tiền thế chân là 170.000 USD nhưng sau khi xem xét, bồi thẩm đoàn quyết định nâng tiền thế chân lên 9 triệu USD, bằng với giá trị của tài sản bất minh. Tuy nhiên ngay khi thấy Fata bị bắt, vợ ông ta đã nhanh chóng thu gom tiền bạc, nộp đơn ly dị rồi bỏ về Liban nên việc tại ngoại của Fata bất thành.

Ngày 3-7-2015, tòa án bang Michigan tổ chức buổi điều trần trước khi tuyên án. Trong buổi điều trần, hàng trăm nạn nhân của Fata đã kể lại những phương pháp điều trị của ông ta, trong đó có người được Fata hóa trị đến 177 lần nên khi xuất hiện ở tòa, người này vẫn phải đeo trên người hai cái túi đựng phân và nước tiểu.

7 ngày sau, Fata bị tòa kết án 45 năm tù giam không ân xá vì các tội danh nêu trên. Nói lời cuối cùng, Fata bày tỏ sự hối hận sâu sắc vì đã để lòng tham chế ngự: “Tôi đã lạm dụng tài năng của mình vì quyền lực và đồng tiền. Chính những điều đó đã hủy hoại bản thân tôi. Tôi vô cùng ăn năn và xấu hổ. Tôi đã cầu nguyện hàng ngày để những người vì tôi mà tổn hại sức khỏe, tha thứ cho tôi…”

Vũ Cao (Theo Medical Daily
-------------------
CÂU CHUYỆN AT-A-GLANCE
Cho đến nay, tất cả các loại thuốc được phát triển chống lại COVID-19 đều là thảm họa theo cách này hay cách khác. Remdesivir, cho đến ngày nay là loại thuốc COVID chính được chấp thuận sử dụng trong các bệnh viện Hoa Kỳ, thường gây tổn thương nội tạng nghiêm trọng và thường là tử vong


Mặc dù vậy, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt remdesivir để sử dụng trong bệnh viện và ngoại trú ở trẻ em dưới 1 tháng tuổi


Một loại thuốc COVID khác, Paxlovid, trong một số trường hợp sẽ khiến nhiễm trùng bùng phát trở lại khi rút thuốc


Molnupiravir (được bán dưới thương hiệu Lagevrio) cũng có những lo ngại nghiêm trọng về an toàn. Nó không chỉ góp phần gây ra ung thư và dị tật bẩm sinh mà còn có thể làm tăng tốc độ vi rút đột biến bên trong bệnh nhân, dẫn đến các biến thể mới hơn và kháng thuốc hơn.


Thực tế là các cơ quan y tế Hoa Kỳ đã tập trung vào những loại thuốc này để loại trừ tất cả những loại khác, bao gồm cả những loại thuốc cũ hơn với tỷ lệ hiệu quả cao và tính an toàn vượt trội, gửi đi một thông điệp rất đáng lo ngại. Về cơ bản, họ đã trở thành phần mở rộng của ngành công nghiệp dược phẩm, bảo vệ lợi ích của ngành công nghiệp thuốc với cái giá phải trả là sức khỏe cộng đồng


Cho đến nay, tất cả các loại thuốc được phát triển chống lại COVID-19 đều là thảm họa theo cách này hay cách khác. Ví dụ:

Remdesivir, cho đến ngày nay là loại thuốc COVID chính được chấp thuận sử dụng trong các bệnh viện Hoa Kỳ, thường xuyên gây tổn thương cơ quan nghiêm trọng và thường là tử vong.


Bất chấp thành tích khủng khiếp của nó, chính phủ Hoa Kỳ thực sự trả cho các bệnh viện khoản phụ phí 20% nếu tuân thủ giao thức remdesivir, cộng với một khoản tiền thưởng bổ sung. Các bệnh viện cũng phải sử dụng remdesivir nếu họ muốn bảo vệ trách nhiệm pháp lý.


Những khuyến khích như thế này đã biến các bệnh viện Hoa Kỳ thành những cái bẫy chết thực sự, vì các loại thuốc hiệu quả hơn và an toàn hơn không được phép sử dụng và các bệnh viện về cơ bản buộc phải tuân theo các khuyến nghị của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ.


Theo báo cáo của phóng viên khoa học Forbes, JV Chamary vào tháng 1 năm 2021, trong một bài báo có tiêu đề, “Câu chuyện kỳ lạ của Remdesivir, một loại thuốc COVID không hoạt động”:
“Remdesivir là một loại thuốc thử nghiệm được phát triển bởi công ty công nghệ sinh học Gilead Sciences (dưới tên thương hiệu Veklury) phối hợp với Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ và Viện Nghiên cứu Y tế Quân đội về các Bệnh Truyền nhiễm ...
Loại thuốc này tỏ ra không hiệu quả trong việc chống lại vi rút Ebola ... nhưng sau đó vẫn được sử dụng lại cho vi rút SARS-CoV-2. Các phương tiện truyền thông báo chí đưa tin sớm rằng bệnh nhân đã đáp ứng với điều trị.


Nhưng dữ liệu được công bố sau đó cho thấy rằng 'remdesivir không liên quan đến lợi ích lâm sàng có ý nghĩa thống kê [và] việc giảm số lượng về thời gian cải thiện lâm sàng ở những người được điều trị sớm hơn cần được xác nhận trong các nghiên cứu lớn hơn' ...


Điều kỳ lạ về remdesivir là nó không được tuân theo các tiêu chuẩn giống như các ứng cử viên thuốc khác. Thông thường, một loại thuốc chỉ được chấp thuận sử dụng bởi cơ quan quản lý như Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ nếu nó đáp ứng hai tiêu chí về an toàn và hiệu quả.


Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 2020, remdesivir đã được FDA chấp thuận dựa trên dữ liệu đầy hứa hẹn từ các thử nghiệm tương đối nhỏ với khoảng 1.000 người tham gia. Một phân tích quy mô lớn của nhóm thử nghiệm Đoàn kết của Tổ chức Y tế Thế giới đã làm sáng tỏ sự nhầm lẫn.
Dựa trên kết quả tạm thời từ nghiên cứu hơn 5.000 người tham gia, nghiên cứu quốc tế kết luận rằng remdesivir 'có ít hoặc không ảnh hưởng đến bệnh nhân nhập viện với COVID-19, như được chỉ ra bởi tỷ lệ tử vong tổng thể, thời gian bắt đầu thở máy và thời gian nằm viện.' Hậu quả là hầu hết không có hiệu quả, WHO khuyến cáo không nên sử dụng remdesivir ở bệnh nhân COVID-19. ”
Thật đáng kinh ngạc, Hoa Kỳ chấp thuận Remdesivir cho trẻ sơ sinh

Thật kỳ lạ, trong khi Big Tech - được hỗ trợ và tiếp tay bởi chính phủ Hoa Kỳ - đã dành hai năm qua để kiểm duyệt và cấm bất kỳ thông tin nào không phù hợp với ý kiến của WHO, thì chính phủ Hoa Kỳ đã hoàn toàn phớt lờ khuyến nghị của WHO đối với remdesivir.

Trên thực tế, vào cuối tháng 4 năm 2022, FDA đã phê duyệt remdesivir là phương pháp điều trị COVID-19 đầu tiên và duy nhất cho trẻ em dưới 12 tuổi, bao gồm cả trẻ sơ sinh 28 ngày, 12 tuổi dường như vượt quá Orwellian và điên rồ khi coi đó là điều tồi tệ nhất của cả hai thế giới: không hiệu quả VÀ có tác dụng phụ nghiêm trọng.


Tệ hơn nữa, loại thuốc này cũng được chấp thuận để sử dụng ngoại trú ở trẻ em, đây là loại thuốc đầu tiên. Trong một bài đăng trên blog ngày 30 tháng 4 năm 2022, Tiến sĩ Meryl Nass đã bày tỏ mối quan ngại của mình về việc FDA chấp thuận dùng remdesivir cho bệnh nhân ngoại trú ở trẻ sơ sinh, nêu rõ:
“Remdesivir đã nhận được giấy phép sớm của EUA (ngày 1 tháng 5 năm 2020) và sau đó là giấy phép rất sớm (ngày 22 tháng 10 năm 2020) mặc dù có rất ít bằng chứng cho thấy nó thực sự hữu ích trong môi trường bệnh viện. Một loạt các vấn đề có thể phát sinh thứ phát khi sử dụng nó, bao gồm viêm gan, suy thận và suy thận...
WHO đã khuyến cáo chống lại loại thuốc này vào ngày 20 tháng 11 năm 2020. Rất ít nếu có quốc gia nào khác sử dụng nó cho COVID ngoài Hoa Kỳ. Một thử nghiệm lớn ở châu Âu ở người lớn không tìm thấy lợi ích. Các nhà điều tra cảm thấy 3 trường hợp tử vong là do remdesivir (0,7% đối tượng được sử dụng). Tuy nhiên, vào ngày 22 tháng 4 năm 2022, WHO đã khuyến nghị loại thuốc này cho một cách sử dụng mới: điều trị ngoại trú sớm ở những bệnh nhân có nguy cơ cao bị COVID kém. ”


Remdesivir - Một sự lựa chọn liều lĩnh cho trẻ em


Nass tiếp tục kể lại việc các trung tâm điều trị bằng kháng thể đơn dòng đã được biến thành trung tâm điều trị ngoại trú bằng cách sử dụng remdesivir để thay thế, nhưng chúng tôi vẫn không có nhiều dữ liệu về hiệu quả của nó trong điều trị sớm. Cô ấy tiếp tục:


“FDA vừa cấp phép cho Remdesivir cho trẻ dưới một tháng tuổi. Cả trẻ em nhập viện và bệnh nhân ngoại trú đều có thể nhận được. Thuốc có thể có tác dụng với bệnh nhân ngoại trú, nhưng đại đa số trẻ em có nguy cơ tử vong do COVID rất thấp

.
Nếu 7 ca tử vong trên 1.000 ca tử vong do ma túy, như các nhà điều tra châu Âu đã nghĩ trong nghiên cứu về người lớn được trích dẫn ở trên, thì có khả năng nó sẽ gây hại hoặc giết nhiều trẻ em hơn là cứu được.

Liệu FDA có nên chờ đợi lâu hơn để xem điều trị ngoại trú sớm đã làm được gì cho những người lớn tuổi hơn không? Hay đã nghiên cứu một nhóm trẻ em lớn hơn nhiều? Rất ít được xuất bản về trẻ em và remdesivir ...

Khi nhìn vào thông cáo báo chí do Gilead phát hành, chúng tôi biết được sự chấp thuận dựa trên phiên bản thử nghiệm một cánh tay trên nhãn mở, ở 53 trẻ em, 3 trong số đó đã chết (6% trong số này đã chết); 72% có một sự kiện bất lợi và 21% có một sự kiện bất lợi nghiêm trọng. ”


Nhìn chung, remdesivir dường như là một lựa chọn điều trị đặc biệt rủi ro cho trẻ nhỏ. Chắc chắn, có những phác đồ điều trị sớm an toàn hơn mà rất hiệu quả. Hai loại thuốc COVID khác, Paxlovid và Molnupiravir, cũng có những lo ngại nghiêm trọng về an toàn.


Phục hồi COVID hậu Paxlovid


Theo báo cáo của Bloomberg, 18 bệnh nhân COVID được điều trị bằng Paxlovid kéo dài 5 ngày đôi khi bị phục hồi nghiêm trọng khi thuốc được thu hồi. 2 nhiễm trùng để phục hồi, và liệu một phác đồ dài hơn có thể ngăn ngừa được nó hay không.


Bloomberg mô tả sự phục hồi hậu Paxlovid của David Ho, một nhà virus học tại Trung tâm Nghiên cứu AIDS Aaron Diamond tại Đại học Columbia:


“Ho cho biết anh ấy đã dùng COVID vào ngày 6 tháng 4 ... Bác sĩ kê đơn thuốc Paxlovid, và trong vòng vài ngày kể từ khi dùng thuốc, các triệu chứng của anh ấy biến mất và các xét nghiệm chuyển sang âm tính. Nhưng 10 ngày sau khi bị bệnh lần đầu tiên, các triệu chứng trở lại và xét nghiệm của anh ấy chuyển sang dương tính trong hai ngày nữa.


Ho cho biết anh đã giải trình tự vi rút của chính mình và phát hiện ra rằng cả hai trường hợp lây nhiễm đều thuộc cùng một chủng, xác nhận rằng vi rút không bị đột biến và trở nên kháng Paxlovid. Một thành viên thứ hai trong gia đình cũng mắc bệnh cùng thời điểm cũng có các triệu chứng và vi rút sau Paxlovid bùng phát trở lại, Ho nói.


“Điều đó làm tôi ngạc nhiên,” anh nói. “Cho đến thời điểm đó, tôi chưa nghe nói về những trường hợp như vậy ở những nơi khác.” Trong khi lý do cho sự bùng phát trở lại vẫn chưa rõ ràng, Ho đưa ra giả thuyết rằng nó có thể xảy ra khi một phần nhỏ các tế bào bị nhiễm vi rút có thể sống sót và tiếp tục bơm ra các thế hệ con cháu của vi rút một lần. việc điều trị ngừng lại ”.


Giám đốc lâm sàng của Bộ phận Bệnh truyền nhiễm tại Bệnh viện Brigham và Phụ nữ, Tiến sĩ Paul Sax, nói với Bloomberg:


“Các nhà cung cấp sẽ kê đơn thuốc này nên biết rằng hiện tượng này xảy ra và nếu mọi người có các triệu chứng tồi tệ hơn sau khi dùng Paxlovid, thì có thể đó vẫn là COVID. Vấn đề lớn là khi loại thuốc này được phát hành, thông tin này không được bao gồm [trên nhãn]. ”


Pfizer bảo vệ Paxlovid


Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng họ đang “đánh giá các báo cáo về sự phục hồi của tải lượng vi-rút sau khi hoàn thành điều trị Paxlovid và sẽ chia sẻ các khuyến nghị nếu thích hợp.” Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ vẫn chưa bình luận về kết quả nghiên cứu.


Trong khi đó, Pfizer khẳng định sự gia tăng tải lượng vi-rút sau điều trị “không có khả năng liên quan đến Paxlovid” vì sự bùng phát trở lại của vi-rút được tìm thấy ở “một số lượng nhỏ” của cả nhóm điều trị và nhóm giả dược trong nghiên cứu giai đoạn cuối của Pfizer.

Clifford Lane , Phó giám đốc nghiên cứu lâm sàng tại Viện Quốc gia về Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm (NIAID), nói với Bloomberg rằng một số người có thể chỉ đơn giản là “cần dùng thuốc Pfizer lâu hơn so với tiêu chuẩn năm ngày”.


Ông nói: “Có hai thứ ngăn chặn vi rút: thuốc và phản ứng miễn dịch của vật chủ. “Nếu bạn ngừng thuốc trước khi phản ứng miễn dịch của vật chủ có cơ hội hoạt động, bạn có thể thấy vi rút quay trở lại.”


Molnupiravir Supercharges đột biến virut


Molnupiravir (được bán dưới thương hiệu Lagevrio) cũng có những lo ngại nghiêm trọng về an toàn. Thuốc này được phát triển bởi Merck and Ridgeback Therapeutics và được FDA chấp thuận sử dụng khẩn cấp vào ngày 23 tháng 12 năm 2021, cho những bệnh nhân có nguy cơ cao với các triệu chứng COVID từ nhẹ đến trung bình.


Tuy nhiên, nó không chỉ có thể góp phần gây ra ung thư và dị tật bẩm sinh mà còn có thể làm tăng tốc độ vi rút đột biến bên trong bệnh nhân, dẫn đến các biến thể mới hơn và kháng hơn. Trường Y, William Haseltine, Ph.D.:


“... Tôi tin rằng FDA cần phải kiểm tra rất cẩn thận với molnupiravir, thuốc kháng vi-rút hiện tại trước khi họ phê duyệt. Sự nghi ngờ của tôi dựa trên hai mối quan tâm chính.


Thứ nhất là khả năng gây đột biến của thuốc và khả năng việc sử dụng thuốc có thể dẫn đến dị tật bẩm sinh hoặc khối u ung thư.

Thứ hai là mối nguy hiểm lớn hơn nhiều và có khả năng gây tử vong cao hơn rất nhiều: khả năng của thuốc làm siêu nạp các đột biến SARS-CoV-2 và giải phóng một biến thể độc hại hơn trên thế giới ...


Mối quan tâm của tôi với molnupiravir là do cơ chế hoạt động của loại thuốc đặc biệt này. Molnupiravir hoạt động như một chất kháng vi-rút bằng cách lừa vi-rút sử dụng thuốc để sao chép, sau đó chèn các lỗi vào mã di truyền của vi-rút khi quá trình sao chép đang diễn ra. Khi xảy ra đủ lỗi sao chép, vi rút về cơ bản đã bị tiêu diệt, không thể tái tạo thêm nữa ...


Nhưng mối quan tâm lớn nhất của tôi với loại thuốc này là khả năng của ... molnupiravir trong việc tạo ra các đột biến cho chính vi rút, đủ đáng kể để thay đổi cách thức hoạt động của vi rút, nhưng không quá mạnh để ngăn nó tái tạo và trở thành biến thể thống trị tiếp theo. "


Haseltine trích dẫn các thí nghiệm trước đại dịch cho thấy MERS-CoV và virus viêm gan chuột (MHV) đều phát triển khả năng kháng thuốc, nhờ vào các đột biến đã xảy ra. Mặc dù ý tưởng chính đằng sau loại thuốc này là các lỗi di truyền cuối cùng sẽ giết chết vi rút, nhưng các thí nghiệm này cho thấy vi rút trên thực tế có thể tồn tại và nhân lên với hiệu giá cao mặc dù có một số lượng lớn các đột biến trong bộ gen của chúng.


Thuốc đã làm chậm quá trình sao chép, nhưng theo lưu ý của Haseltine, “bên ngoài phòng thí nghiệm, vì thuốc được cung cấp cho hàng triệu người bị nhiễm trùng đang hoạt động, nhược điểm này có thể nhanh chóng biến mất vì chúng tôi có thể sẽ cung cấp một môi trường lựa chọn chính để cải thiện thể chất của vi-rút." Nguy cơ này có thể đặc biệt cao nếu bạn không dùng hết các liều lượng theo quy định (thường là 800 miligam hai lần một ngày trong năm ngày).


Một trong những thành viên hội đồng FDA đã thực sự bỏ phiếu chống lại sự chấp thuận của molnupiravir, James Hildreth, chủ tịch của Trường Cao đẳng Y tế Meharry ở Tennessee, muốn Merck làm tốt hơn việc định lượng nguy cơ đột biến trước khi phê duyệt. Trong cuộc họp ban hội thẩm, ông lưu ý rằng:


“Ngay cả khi xác suất rất thấp, 1 trên 10.000 hoặc 100.000, rằng loại thuốc này có thể tạo ra một dị nhân bỏ trốn mà các loại vắc-xin chúng ta chưa có, thì điều đó sẽ là thảm họa cho toàn thế giới.”


Các chuyên gia đặt câu hỏi về tính hữu dụng của Molnupiravir


Gần đây hơn, trong một bài báo ngày 10 tháng 1 năm 2022, Newsweek đã trích dẫn những lo ngại của giáo sư Michael Lin của Đại học Stanford: 27


“'Tôi rất lo ngại về những hậu quả có thể xảy ra khi molnupiravir đã được phê duyệt ... Sẽ chỉ là vấn đề thời gian, có lẽ là một thời gian rất ngắn, trước khi một loạt đột biến may mắn xảy ra để tạo ra một biến thể dễ lây truyền hơn hoặc miễn dịch ...


Thuốc chỉ đơn giản là tăng tốc quá trình tự nhiên đó. Hy vọng là trong thời gian đủ ngày, tất cả các bản sao của virus sẽ có nhiều đột biến đến nỗi không bản sao nào có thể hoạt động được. ' dùng molnupiravir cho một cá nhân khác, với lý do hiệu quả tương đối khiêm tốn của thuốc.


‘Đối với những trường hợp trở nên tồi tệ hơn đến mức mọi người phải đến bệnh viện, loại thuốc này chỉ ngăn chặn điều đó xảy ra 30% thời gian. Điều đó có nghĩa là 70% trường hợp vi-rút không bị loại bỏ đủ nhanh để tạo ra sự khác biệt. Và chúng tôi biết bệnh nhân COVID đến bệnh viện rất dễ lây lan. "

Lin cho biết rủi ro có thể tăng cao khi bệnh nhân không tuân thủ chính xác lịch dùng thuốc ... 'Trong bất kỳ tình huống nào đó, vi rút sẽ chọn một số đột biến nhưng không đủ để tiêu diệt tất cả các bản sao vi rút', ông nói. . 'Những người sống sót hiện đã bị đột biến, có lẽ đã bị xâm lấn miễn dịch, và có thể tiếp tục lây nhiễm cho những người khác' ...


Theo Lin, 'chỉ riêng hiệu quả rất thấp' đã khiến thuốc bị loại khỏi phê duyệt ... "Ngay cả khi loại thuốc tuyệt vời, chúng tôi sẽ không chấp nhận rủi ro như vậy, nhưng loại thuốc này tệ hơn bất kỳ loại thuốc nào khác được phê duyệt. COVID-19. Nó hoàn toàn không đáng. "


Haseltine cũng nói với Newsweek rằng, "Trong tất cả các loại thuốc kháng vi-rút mà tôi từng thấy, cho đến nay đây là loại thuốc có khả năng nguy hiểm nhất" và "Càng nhiều người dùng nó, nó càng nguy hiểm.



Chính phủ đã bán hết cho Big Pharma


Sử dụng rộng rãi một loại thuốc làm tăng đột biến của một loại vi-rút đã biến đổi nhanh chóng có lẽ không phải là chiến lược khôn ngoan nhất. Tương tự như vậy, việc sử dụng các loại thuốc gây ra tỷ lệ suy nội tạng cao, như remdesivir và các loại thuốc khiến vi rút bùng phát trở lại với ý định báo thù, như Paxlovid, dường như cũng không vì lợi ích tốt nhất của sức khỏe cộng đồng

.
Thực tế là các cơ quan y tế Hoa Kỳ đã tập trung vào những loại thuốc này để loại trừ tất cả những loại khác, bao gồm cả những loại thuốc cũ hơn với tỷ lệ hiệu quả cao và tính an toàn vượt trội, gửi đi một thông điệp rất đáng lo ngại.


Về cơ bản, họ đã trở thành phần mở rộng của ngành công nghiệp dược phẩm và đã từ bỏ mục đích ban đầu là bảo vệ sức khỏe cộng đồng - bằng cách đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của thuốc, trong trường hợp của FDA, 30 tuổi và bằng cách tiến hành phân tích dữ liệu và khoa học quan trọng trong trường hợp của CDC.


Thay vào đó, họ dường như đang làm mọi cách để bảo vệ lợi nhuận của Big Pharma, ngay cả khi bạn phải trả giá bằng mạng sống. Ví dụ: Remdesivir là một loại thuốc cực kỳ đắt tiền, có giá từ 2.340 đô la đến 3.120 đô la tùy thuộc vào bảo hiểm của bạn.


Trong khi đó, Ivermectin - đã rất hiệu quả với COVID và cho thấy hiệu quả tốt hơn ít nhất 10 loại thuốc khác, bao gồm Paxlovid - có giá từ 4834 USD đến 9435 USD cho 20 viên thuốc tùy thuộc vào cơ địa của bạn. Chi phí trung bình được cho là khoảng $ 58 cho mỗi lần điều trị.


Paxlovid có giá 529 đô la cho mỗi đợt điều trị 5 ngày, và molnupiravir là khoảng 700,38 đô la. Riêng Paxlovid đã tiêu tốn của người nộp thuế Mỹ 5,29 tỷ USD. Chỉ cần tưởng tượng hàng tỷ chúng ta có thể đã tiết kiệm được nếu chúng ta lãnh đạo tốt hơn.


Vì không thể tin cậy được FDA và CDC, bạn bắt buộc phải chịu trách nhiệm về sức khỏe của chính mình. Thực hiện nghiên cứu của riêng bạn và làm theo lương tâm và niềm tin của riêng bạn. Hãy nhớ rằng, khi nói đến COVID-19, điều trị sớm là rất quan trọng và các phác đồ hiệu quả luôn sẵn có - không phải từ FDA, CDC hay thậm chí hầu hết các bệnh viện.


Để có thêm thông tin mới, hãy xem cuộc phỏng vấn của Tiến sĩ Pierre Kory với Chris Martenson. Bạn cũng có thể tìm thấy nhiều bài báo khác mô tả các quy trình điều trị sớm bằng cách tìm kiếm trong kho lưu trữ Substack của tôi.


----------------------



STORY AT-A-GLANCE

So far, all of the drugs developed against COVID-19 have been disastrous in one way or another. Remdesivir, which to this day is the primary COVID drug approved for use in U.S. hospitals, routinely causes severe organ damage and, often, death

Despite that, the U.S. Food and Drug Administration has approved remdesivir for in-hospital and outpatient use in children as young as 1 month old

Another COVID drug, Paxlovid, will in some cases cause the infection to rebound when the medication is withdrawn

Molnupiravir (sold under the brand name Lagevrio) also has serious safety concerns. Not only might it contribute to cancer and birth defects, it may also supercharge the rate at which the virus mutates inside the patient, resulting in newer and more resistant variants

The fact that U.S. health authorities have focused on these drugs to the exclusion of all others, including older drugs with high rates of effectiveness and superior safety profiles, sends a very disturbing message. They’ve basically become extensions of the drug industry, protecting the drug industry’s interests at the cost of public health


So far, all of the drugs developed against COVID-19 have been disastrous in one way or another. Remdesivir, for example, which to this day is the primary COVID drug approved for use in U.S. hospitals,1 routinely causes severe organ damage2,3,4,5 and, often, death.

Despite its horrible track record, the U.S. government actually pays hospitals a 20% upcharge for sticking to the remdesivir protocol, plus an additional bonus.6,7,8 Hospitals must also use remdesivir if they want liability protection.

Incentives like these have turned U.S. hospitals into veritable death traps, as more effective and far safer drugs are not allowed, and hospitals are essentially forced to follow the recommendations of the U.S. Centers for Disease Control and Prevention. As reported by Forbes science reporter JV Chamary back in January 2021, in an article titled, “The Strange Story of Remdesivir, a COVID Drug That Doesn’t Work”:9

“Remdesivir is an experimental drug developed by biotech company Gilead Sciences (under the brand name Veklury) in collaboration with the US Centers for Disease Control and Army Medical Research Institute of Infectious Diseases ...
The drug proved ineffective against the Ebola virus ... yet was still subsequently repurposed for SARS-CoV-2 coronavirus. News media prematurely reported that patients were responding to treatment.
But the published data10 later showed that ‘remdesivir was not associated with statistically significant clinical benefits [and] the numerical reduction in time to clinical improvement in those treated earlier requires confirmation in larger studies’ ...
What's weird about remdesivir is that it hasn't been held to the same standards as other drug candidates. Normally, a drug is only approved for use by a regulatory body like the U.S. Food and Drug Administration if it meets the two criteria for safety and efficacy.
Nonetheless, in October 2020, remdesivir was granted approval by FDA based on promising data from relatively small trials with about 1,000 participants. A large-scale analysis11 by the World Health Organization's Solidarity trial consortium has cleared-up the confusion.
Based on interim results from studying more than 5,000 participants, the international study concluded that remdesivir ‘had little or no effect on hospitalized patients with COVID-19, as indicated by overall mortality, initiation of ventilation, and duration of hospital stay.’ As a consequence of being mostly ineffective, WHO recommends against the use of remdesivir in COVID-19 patients.”
Shockingly, US Approves Remdesivir for Babies
Curiously, while Big Tech — aided and abetted by the U.S. government — has spent the last two years censoring and banning any information that doesn’t jibe with the opinions of the WHO, the U.S. government has completely ignored the WHO’s recommendation against remdesivir.

In fact, in late April 2022, the FDA approved remdesivir as the first and only COVID-19 treatment for children under 12, including babies as young as 28 days,12 which seems beyond Orwellian and crazy considering it’s the worst of both worlds: It’s ineffective AND has serious side effects.

What’s worse, the drug is also approved for outpatient use in children, which is a first. In an April 30, 2022, blog post,13 Dr. Meryl Nass expressed her concerns about the FDA’s approval of remdesivir for outpatient use in babies, stating:

“Remdesivir received an early EUA (May 1, 2020) and then a very early license (October 22, 2020) despite a paucity of evidence that it actually was helpful in the hospital setting. A variety of problems can arise secondary its use, including liver inflammation, renal insufficiency and renal failure14 ...
WHO recommended against the drug on November 20, 2020. Few if any other countries used it for COVID apart from the US. A large European trial15 in adults found no benefit. The investigators felt 3 deaths were due to remdesivir (0.7% of subjects who received it.) However, on April 22, 2022 the WHO recommended the drug for a new use: early outpatient therapy in patients at high risk of a poor COVID outcome.”

Remdesivir — A Reckless Choice for Children
Nass goes on to recount how monoclonal antibody treatment centers have been turned into outpatient treatment centers using remdesivir instead, but we still don’t have a lot of data on its effectiveness in early treatment. She continues:16

“The FDA just licensed Remdesivir for children as young as one month old. Both hospitalized children and outpatients may receive it. The drug might work in outpatients, but the vast majority of children have a very low risk of dying from COVID.
If 7 deaths per 1,000 result from the drug, as the European investigators thought in the study of adults cited above, it is possible it will harm or kill more children than it saves.
Shouldn’t the FDA have waited longer to see what early outpatient treatment did for older ages? Or studied a much larger group of children? Very little has been published on children and remdesivir ...
When we look at the press release17 issued by Gilead, we learn the approval was based on an open label, single arm trial in 53 children, 3 of whom died (6% of these children died); 72% had an adverse event, and 21% had a serious adverse event.”
Overall, remdesivir appears to be an exceptionally risky treatment choice for young children. Certainly, there are safer early treatment protocols that are very effective. Two other COVID drugs, Paxlovid and Molnupiravir, also have serious safety concerns.

Post-Paxlovid COVID Rebound

As reported by Bloomberg,18 COVID patients treated with a five-day course of Paxlovid sometimes experience severe rebound when the medication is withdrawn.19 U.S. government researchers are now planning to study the rate and extent to which the drug is causing SARS-CoV-2 infection to rebound, and whether a longer regimen might prevent it.

Bloomberg describes the post-Paxlovid rebound of David Ho, a virologist at the Aaron Diamond AIDS Research Center at Columbia University:20

“Ho said he came down with COVID on April 6 ... His doctor prescribed Paxlovid, and within days of taking it, his symptoms dissipated and tests turned negative. But 10 days after first getting sick, the symptoms returned and his tests turned positive for another two days.
Ho said he sequenced his own virus and found that both infections were from the same strain, confirming that the virus had not mutated and become resistant to Paxlovid. A second family member who also got sick around the same time also had post-Paxlovid rebound in symptoms and virus, Ho says.
‘It surprised the heck out of me,’ he said. ‘Up until that point I had not heard of such cases elsewhere.’ While the reasons for the rebound are still unclear, Ho theorizes that it may occur when a small proportion of virus-infected cells may remain viable and resume pumping out viral progeny once treatment stops.”
Clinical Director of the Division of Infectious Diseases at Brigham and Women’s Hospital, Dr. Paul Sax, told Bloomberg:21

“Providers who are going to be prescribing this should be aware that this phenomenon occurs, and if people have symptoms worsening after Paxlovid, it’s probably still COVID. The big problem is that when this drug was released, this information wasn’t included [on the label].”
Pfizer Defends Paxlovid
The U.S. Food and Drug Administration has stated it is “evaluating the reports of viral load rebound after completing Paxlovid treatment and will share recommendations if appropriate.” The U.S. Centers for Disease Control and Prevention has not yet commented on the findings.

Pfizer, meanwhile, insists the increase in viral load post-treatment “is unlikely to be related to Paxlovid” because viral rebound was found in “a small number” of both the treatment and placebo groups in Pfizer’s final-stage study.22 Clifford Lane, deputy director for clinical research at the National Institute of Allergy and Infectious Diseases (NIAID), told Bloomberg23 that some people may simply “need longer dosing of Pfizer’s drug than the standard five days.”

“There’s two things that suppress the virus: the drug and the host immune response,” he said. “If you stop the drug before the host immune response has had a chance to kick in, you may see the virus come back.”

Molnupiravir Supercharges Viral Mutation

Molnupiravir (sold under the brand name Lagevrio) also has serious safety concerns. This drug was developed by Merck and Ridgeback Therapeutics and approved for emergency use by the FDA December 23, 2021, for high-risk patients with mild to moderate COVID symptoms.


However, not only might it contribute to cancer and birth defects, it may also supercharge the rate at which the virus mutates inside the patient, resulting in newer and more resistant variants.24 As reported in November 2021 by Forbes contributor and former professor at Harvard Medical School, William Haseltine, Ph.D.:25


“... I believe the FDA needs to tread very carefully with molnupiravir, the antiviral currently before them for approval. My misgivings are founded on two key concerns.


The first is the drug’s potential mutagenicity, and the possibility that its use could lead to birth defects or cancerous tumors. The second is a danger that is far greater and potentially far deadlier: the drug’s potential to supercharge SARS-CoV-2 mutations and unleash a more virulent variant upon the world ...


My concern with molnupiravir is because of the mechanism26 by which this particular drug works. Molnupiravir works as an antiviral by tricking the virus into using the drug for replication, then inserting errors into the virus’ genetic code once replication is underway. When enough copying errors occur, the virus is essentially killed off, unable to replicate any further ...


But my biggest concern with this drug is ... molnupiravir’s ability to introduce mutations to the virus itself that are significant enough to change how the virus functions, but not so powerful as to stop it from replicating and becoming the next dominant variant.”


Haseltine cites prepandemic experiments showing MERS-CoV and the mouse hepatitis virus (MHV) both developed resistance against the drug, thanks to mutations that occurred. While the central idea behind the drug is that the genetic errors will eventually kill the virus, these experiments showed the viruses were in fact able to survive and replicate to high titers despite having large numbers of mutations throughout their genomes.


The drug did slow down replication, but as noted by Haseltine, “outside of the lab, as the drug is given to millions of people with active infections, this disadvantage may quickly disappear as we would likely provide a prime selection environment to improve the fitness of the virus.” This risk may be particularly high if you fail to take all the prescribed doses (typically 800 milligrams twice a day for five days).



Experts Question Usefulness of Molnupiravir

More recently, in a January 10, 2022, article, Newsweek cited concerns by professor Michael Lin of Stanford University:27


“’I am very concerned about the potential consequences now that molnupiravir has been approved ... It would only be a matter of time, perhaps a very short time, before a lucky set of mutations occurs to create a variant that is more transmissible or immunoevasive ...


The drug simply speeds up that natural process. The hope is that over enough days all the viral copies will have so many mutations that none of the copies can function.’ But Lin said he was concerned that in the real world, there is a possibility that a mutated virus could jump from a patient taking molnupiravir to another individual, citing the relatively modest efficacy of the drug.


‘For cases that get worse so that people have to go to the hospital, this drug only prevents that from happening 30%of the time. That means 70% of the time the virus isn't being eliminated quickly enough to make a difference. And we know COVID patients going to hospitals are highly contagious.’


Lin said the risks could be heightened when a patient does not comply exactly with the dosing schedule of the drug ... ‘In any of those situations viruses will have picked up some mutations but not enough to kill all the virus copies,’ he said. ‘The survivors are now mutated, perhaps have picked up immunoevasion, and can go on to infect others’ ...


According to Lin, the ‘very low efficacy alone’ should have disqualified the drug from approval ... ‘Even if the drug were great we wouldn't take such a risk, but this drug is worse than any other drug that's sought approval for COVID-19. It's completely not worth it.’”

One of the FDA panel members who actually voted against the approval of molnupiravir, James Hildreth, president of Meharry Medical College in Tennessee, wanted Merck to do a better job of quantifying the risk of mutations before approval. During the panel meeting, he noted that:29


“Even if the probability is very low, 1 in 10,000 or 100,000, that this drug would induce an escape mutant which the vaccines we have do not cover, that would be catastrophic for the whole world.”


Government Has Sold Out to Big Pharma

Widespread use of a drug that turbocharges mutation of an already rapidly mutating virus probably isn’t the wisest strategy. Likewise, using drugs that cause high rates of organ failure, like remdesivir, and drugs that causes the virus to rebound with a vengeance, like Paxlovid, don’t seem to be in the best interest of public health either.


The fact that U.S. health authorities have focused on these drugs to the exclusion of all others, including older drugs with high rates of effectiveness and superior safety profiles, sends a very disturbing message.


They’ve basically become extensions of the drug industry and have abandoned their original purpose, which is to protect public health — by ensuring the safety and efficacy of drugs, in the case of the FDA,30 and by conducting critical science and data analysis in the case of the CDC.31


Instead, they seem to be doing everything they can to protect Big Pharma profits, even if it costs you your life. Remdesivir, for example, is an extremely expensive drug, costing between $2,340 and $3,120 depending on your insurance.32


Ivermectin, meanwhile — which has been very effective against COVID and shown to outperform at least 10 other drugs, including Paxlovid33 — costs between $4834 and $9435 for 20 pills depending on your location. The average cost is said to be about $58 per treatment.36


Paxlovid costs $529 per five-day course of treatment,37 and molnupiravir is around $700.38 While not quite as expensive as remdesivir, both are still nearly 10 times costlier than ivermectin, which is more effective. Paxlovid alone has cost U.S. taxpayers $5.29 billion. Just imagine the billions we could have saved had we saner leadership.


Since the FDA and CDC cannot be trusted, it’s imperative to take responsibility for your own health. Do your own research and follow your own conscience and conviction. Remember, when it comes to COVID-19, early treatment is crucial, and effective protocols are readily available — just not from the FDA, CDC or even most hospitals.


For a refresher, check out Dr. Pierre Kory’s interview with Chris Martenson. You can also find many other articles describing early treatment protocols by searching through my Substack archive.


Haseltine also told Newsweek28 that, “Of all the antiviral drugs I have ever seen, this is by far the most potentially dangerous,” and “The more people that take it, the more dangerous it will be.”

--
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Quay về Chia xẻ Kinh Nghiệm Chữa Bệnh

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến8 khách

cron