Phóng Sự Điều Tra Về Thuốc Tây: Bán Bệnh

Phóng Sự Điều Tra Về Thuốc Tây: Bán Bệnh

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 2 Tháng 9 29, 2014 10:30 pm

Monday, 29 September 2014
Phóng Sự Điều Tra Về Thuốc Tây: Bán Bệnh - Bs Nguyễn Thượng Chánh

“Les vendeurs de maladies” là một tựa đề trong thiên phóng sự Cash Investigation do nhà báo Pháp Elise Lucet, TV France 2 thực hiện và được trình chiếu năm 2012 và 2013.(tại Canada, đài TV5).

Phóng sự điều tra (journal d'enquête) tố cáo một số đại công ty dược phẩm cố tình “tạo bệnh mới” để bán thuốc.

Người gõ xin phỏng dịch ra những ý chánh trong cuốn phim.

Video: LES VENDEURS DE MALADIES - FR2 (1.31 hrs)-nói tiếng Pháp http://www.youtube.com/watch?v=fgbz8LM0Zbo

Nguồn tham khảo chánh: TV France 2 và báo Le Nouvel Observateur

LES VENDEURS DE MALADIES - FR2

Play video http://www.youtube.com/watch?v=fgbz8LM0Zbo

Pharmaceutical Industry Profile(Canada)
http://www.ic.gc.ca/eic/site/lsg-pdsv.n ... 01703.html


Các nhà bào chế cố tình “tạo ra” ra một bệnh lý (pathologie) phù hợp với phân tử (molécule) mà họ vừa tìm ra được mặc dù đôi khi món thuốc mới nầy có những phản ứng phụ không thể tránh khỏi được.

Ròng rã trong thời gian 6 tháng, nhóm Cash Investigation đã điều tra về lề lối làm ăn của một số nhà tài phiệt lớn trong ngành dược phẩm và họ đã phải giật mình trước những điều khám phá ra: “Từ 15 năm qua, các nhà bào chế lớn đã tạo (façonner) ra nhiều bệnh mới để bán thêm được nhiều thuốc”.

Bệnh lý giả tạo, hội chứng tưởng tượng…Lề lối làm ăn vô lương tâm kiểu nầy có hại vô cùng cho sức khoẻ bệnh nhân. Thuốc mới chứa đầy phản ứng phụ nguy hiểm mà nhà sản xuất cố tình lờ đi.

Đây là một cuộc điều tra vô tiền khoáng hậu của các nhà báo Pháp. Họ đã dám vuốt râu hùm để tìm sự thật và gom góp chứng cớ tại Pháp cũng như tại nhiều quốc gia khác chẳng hạn như Hoa Kỳ và Canada.

Từ 15 năm qua, các nhà bào chế tạo ra bệnh nhằm mục đích để bán thuốc.

(Phỏng dịch từ: Psychologies.com/seniors/ les vendeurs de maladies)
http://forum.psychologies.com/psycholog ... 3972_1.htm

Các bệnh mới không ngớt ra đời, lấy thí dụ như “Hội chứng biến dưỡng” (Syndrome métabolique) hay còn gọi lại Hội chứng thùng nước lèo hay bụng bự (Syndrome de la bédaine). Công ty dược phẩm Sanofi(Pháp) tuyên bố rầm rộ về sự ra đời của một món thuốc mới: Acomplia (Ribonabant) và tung ra một chiến dịch nhồi sọ quảng cáo trên khấp thế giới.

Ngày nay, nhiều nhà chuyên môn trong y khoa quả quyết rằng tất cả đều trên là bịa đặt, sai bét hết.

Hội chứng biến dưỡng thật sự ra không có. Nhưng đó là bốn loại bệnh đã được biết từ trước rồi: áp huyết cao, cholesterol, tiểu đường, và dư cân (hypertension, cholesterol, diabète et surpoids) kết hợp lại chung với nhau trong một bao bì mới (nouvel emballage) hay nói một cách khác là bình cũ nhưng rượu mới. (fait du neuf avec du vieux).

Thuốc Acomplia cho thấy đã gây phản ứng phụ cho trên 1000 bệnh nhân tại Pháp (xáo trộn tâm thần nặng, troubles psychiatriques graves). Có 10 người chết trong số nầy có 4 người tự tử…

Một năm rưởi sau ngày có mặt trên thị trường, Acomplia bị cấm bán tại Pháp và sau đó thuốc cũng bị cấm trên cả thế giới.

Hơn nữa, qua thí nghiệm lâm sàng trước khi thuốc được phép bán,công ty Sanofi hơn ai hết đã biết rất rõ tầm quan trọng của các phản ứng phụ…

Cơ quan quản lý dược phẩm Liên Âu (Agence européenne du médicament) đã quyết định cho phép bán Acomplia sau khi họ cân nhắc “ lợi nhiều nhiều hơn hại” (bénéfice supérieur au risque).

Thiên phóng sự đã cho chúng ta thấy có mối liên hệ tài chánh giữa cty Sanofi và một số bác sĩ specialists “chuyên môn” về “bệnh” đó.(chẳng hạng như Gs Després tại Canada hay Bs Boris Hansel tại Pháp.)

Riêng tại Pháp, có thể nói rằng 90% dân chúng rất tín nhiệm bác sĩ gia đình của họ. Nhưng sau những scandales về thuốc men lòng tín nhiệm của người bệnh đối với bác sĩ cũng bị sứt mẻ đi rất nhiều.

Được biết là các nhà bào chế chi 25 000 euros/ mỗi năm/cho mỗi bác sĩ để tạo ảnh hưởng tốt đẹp cho sản phẩm mới. (rapport IGAS, inspections générales des affaires sociales).

Để nhắm vào một thị trường càng rộng lớn càng tốt, các nhà bào chế quảng cáo khuyến mãi những loại bệnh mà hầu như ai cũng có thể mắc phải hết. Họ thu lợi rất nhiều qua việc sản xuất những món thuốc để trị những căn bệnh phổ thông hơn là sản xuất thuốc dể chữa trị những bệnh hiếm thấy hơn mà ít người mắc phải.

Nói chung, đó là những bệnh không rõ ràng thường hay thấy xãy ra ở những người bình thường. Cuối cùng nhà bào chế thành công trong việc làm cho một số lớn quần chúng tin là họ đang mắc phải bệnh đó. Thị trường dược phẩm nở rộng ra. Đôi khi họ tạo ra những “bệnh dỏm”, đôi khi họ cho mở rộng thêm chu vi của căn bệnh.

Bằng cách nào? Nhà bào chế cho hạ ngạch số định bệnh (baisse le seuil de diagnostic) để có thể trị được một số lớn bện nhân, càng nhiều, càng lâu, càng tốt.

Một khảo cứu Hoa Kỳ cho biết chỉ cần thay đổi dấu chấm, hay thay đổi cái dấu phết trên ngạch số của một bệnh là sẽ có thêm được một số lượng lớn bệnh nhân mới.($$$$).

Bênh tiểu đường type II.

Ngày xưa được xác định là đường huyết phải trên mức 140mg/dL.
Năm 1997, ngạch mức trên bị Cơ quan y tế thế giới OMS rút xuống còn 126 mg/dL (7mmol/L)…Lập tức có thêm 1 700 000 người Mỹ được xếp vào danh sách bệnh nhân tiểu đường (suốt đời!)

Cholestérol. Năm 1998.ngạch mức từ 240mg/dL bị rút xuống còn 200mg/dL. Lâp tức xã hội Hoa Kỳ có thêm 42 600 000 bệnh nhân có cholesterol cao trong máu…Các nhà bào chế có thêm được 86% khách hàng mới.

“Trên thế giới, chỉ có hai nhóm người: nhóm người đã bệnh rồi và nhóm người chưa biết họ bệnh.” Đó là mục tiêu của các nhà bào chế dược phẩm.

«Dans le monde, il ny a plus que 2 groupes de gens: ceux qui sont malades… et ceux qui ne le savent pas encore… et ça, cest l'objectif des firmes pharmaceutiques.»

Những chiến lược thường được các công ty bào chế áp dụng

1 - Cho giảm ngạch số định bệnh (réduire le seul de diagnostic):

Đây là chiến lược nhằm thổi phồng lên một cách giả tạo số bệnh nhân cần phải được điều trị. Lấy thí dụ bệnh tiểu đường type 2.

Như vậy số người cần phải uống thuốc gia tăng thêm lên mặc dù nguy cơ tiểu đưởng rất ư là thấp. Nay họ lại phải bị bắt buộc chịu đựng thêm nguy cơ phản ứng phụ từ những loại thuốc uống vào.

Réduire le seuil de diagnostic: il sagit dune stratégie destinée à gonfler artificiellement le nombre de gens à traiter. On peut prendre par exemple le cas du diabète de type 2. Bien que garder un niveau faible de glucose dans le sang na pas de réel impact pour la majorité des patients, le seuil de glucose à partir duquel le diabète est diagnostiqué ne cesse de baisser. Ainsi, le nombre de gens médiqués augmente, et les personnes avec un risque diabétique très faible sont soumis aux risques dus aux effets secondaires des médicaments quon leur fait prendre

2 - Phóng đại sự hiệu nghiệm (Exagérer lefficacité); tạo cho bệnh nhân ấn tượng thuốc có hiệu nghiệm rất lớn nhằm thống lĩnh thêm thị trường. Theo các nhà chuyên môn, chiến lược nầy rất thường được áp dụng nhưng cũng chỉ là để hổ trợ cho những chiến lược khác mà thôi.

Exagérer lefficacité: de la même façon, faire croire à une plus grande efficacité permet de conquérir de nouveaux marché. Daprès les auteurs, cette stratégie est fréquente mais nest quun complément aux autres stratégies.

3 - Tạo ra những bệnh mới (créer de nouvelle maladie): Có gì hay hơn là tạo nên được một thị trường mới. Người ta chứng kiến sự ra đời của những bệnh lý mới, chẳng hạn như tiền tiểu đường (Pre-diabète) và tiền cao máu (Pré-hypertension) Đồng thời với việc giảm ngạch mức định bệnh,( baisser seuil de diagnostic) hoặc áp dụng những sự thay thế (utilisation de substituts). Người ta có thể nghĩ đến chứng ostéopénie nghĩa là những xương có mật độ thấp (faible densité) nhưng chưa đủ để phải bị liệt vào trường bệnh loãng xương ostéoporose.

Ngày nay, ostéopénie được công tuy dược phẩm nhồi vào đầu bệnh nhân và nó trở thành một bệnh mới và chiếm một số bệnh nhân nhiều hơn là số bệnh nhân của bệnh loãng xương ostéoporose thật sự gấp bội. Nhà bào chế tha hồ mà bán ra thuốc Fosamax (bisphosphonate) là thuốc đặc trị do bs kê toa trong trường hợp các bà bị loãng xương.

“Laccueil réservé à la ménopause, somme toute normale, en dit long lui aussi sur lamplitude du désastre. Comme le racontait, en 2005, Jưrg Blech, journaliste scientifique au "Spiegel", dans son livre d'enquête "les Inventeurs de maladies" (Actes Sud), les fabricants sont parvenus à ancrer dans les esprits que lostéoporose (dont la définition ne cesse de sétendre avec lostéopénie ) est une fatalité”.

Được biết thuốc bisphosphonate mặc dù có hiệu quả trong việc giảm thiểu bệnh loãng xương nhưng thuốc có thể có phản ứng phụ làm osteonecrosis hư mục xương hàm (osteonecrosis), nhưng cũng rất hiếm thấy.



BỆNH HOẠN, MỘT THỊ TRƯỜNG BÉO BỞ

Rf Anne Crignon –Le Nouvel Observateur -La maladie, un marché juteux


Dịch từ báo Nouvel Observateur:

Thông tin y học láo khoét

Năm 2005, phóng viên khoa học Jorg Blech của báo Spiegel (Đức Quốc) trong tác phẩm điều tra của ông dưới tựa đề là “ Những người sáng chế ra bệnh” cho biết các nhà bào chế đã thành công trong việc nhồi sọ dân chúng ý niệm loãng xương ostéoporose (mà định nghĩa của nó không ngừng được mở rộng thêm ra với hiện tượng thiếu xương ostéopénie) là một định mệnh (fatalité). Chính sự sợ hãi của dân chúng đã giúp các xí nghiệp dược phẩm thống trị được một thị trường to tát về việc phòng ngừa loãng xương và nhờ đó mà họ thu được hằng tỷ dollars và euros. Láo khoét càng to tát chừng nào thì khó phát hiện chừng đó.

Từ lúc ngạch mức chẩn đoán cholesterol được người ta cố tình hạ xuống thì số bệnh nhân lúc trước là 6 triệu người phải uống thuốc suốt đời, nay thì tăng lên 36 triệu người. Như vậy có biết bao là những người có sức khỏe bình thường nay thì trở thành nạn nhân của một khảo cứu thiên vị (biasé) và bắt buộc họ phải uống thuốc hết. John Abramson, là bác sĩ và tác giả của quyển:

Overdosed America - John Abramson M.D.- the Dove.us

Theo Bs John Abramson, kỹ nghê dược phẩm tập trung việc phòng ngừa bệnh tim mạch qua việc làm hạ cholestérol bằng thuốc statines trong khi các khảo cứu minh chứng là việc phòng ngừa bệnh tim mạch tốt nhứt là thực phẩm dinh dưỡng và vận động thể dục thể thao.

Đọc cho biết tin mới nhứt: Bệnh tự kỷ không phải do thuốc chủng MMR gây ra.

Năm 1998 tạp chí y học nổi tiếng thế giới Lancet có đăng bài “đính chánh” (a now retracted study) khảo cứu của Gs Andrew Wakefield liên hệ đến nguyên nhân bệnh của bệnh tự kỷ (autism) liên quan đến thuốc chủng ngừa MMR (measles, mump, rubella) tức là sởi, quai bị và sởi Đức. Bs Wakefield bị treo bằng sau đó.

Vừa qua, July 1, 2014, tập chí y khoa Pediatrics cho biết nhiều khảo cứu liên quan đến “Sự liên hệ của vaccine MMR và bệnh tự kỷ” đã đưa ra kết luận là Vaccin MMR không có gậy ra “ hội chứng phổ tự kỷ” (autism spectrum disorders).

Video: Journal questions validity of autism and vaccine study

By Debra Goldschmidt, CNN august 28/2014
http://www.cnn.com/2014/08/27/health/ir ... ?hpt=hp_c2


Vaccine MMR là gì?
http://www.healthlinkbc.ca/healthfiles/ ... se/hfil::4Â1::-V.pdf

Đọc thêm

video:Maladies inventées:un juteux marché
http://www.youtube.com/watch?v=3EQ2nn3Jx7o

Video:Overdosed America - John Abramson M.D.- the Dove.us
http://www.youtube.com/watch?v=OYBrXcsDzhI

(44phút) –nói tiếng Anh

(Các bạn nên xem đoạn video của 1 bs Mỹ dám nói lên sự thật về thuốc men, FDA và kỹ nghệ dược phẩm!)

Nguyễn Thượng Chánh & Nguyễn Ngọc Lan:

- Bên trong kỹ nghệ thuốc Tây
http://khoahocnet.com/2012/07/23/duoc-s ... thuoc-tay/


- Bệnh loãng xương, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược
http://nguoivietboston.com/?p=23694

Ngày xưa, khi còn ở bên nhà thì có ai nói đến bệnh loãng xương đâu. Già cả, xương yếu, lưng còng, đi đứng lụm cụm không vững, cần phải chống gậy hoặc nhờ con cháu dẫn dắt là chuyện rất bình thường mà thôi. Người già, lỡ có té ngã, gãy tay gãy chân thì chuyện cũng thường thấy trong xã hội.
Ngày nay Y học không xem tình trạng loãng xương là một định mệnh (fatalité) của tuổi già nữa. Các bác sĩ tài ba (và kỹ nghệ dược phẩm) có cả lố phương tiện để giúp cho các cụ có thể sống một cách “bình thường có chất lượng” cho tới ngày ra đi.
Chú thích: Tác giả không phải là Bs y khoa – Đây chỉ là một tập hợp các thông tin tổng quát về vấn đề loãng xương. Mọi thắc mắc và nghi vấn xin các bạn hãy trực tiếp tham khảo với bác sĩ gia đình (NTC).



Ngày xưa, khi còn ở bên nhà thì có ai nói đến bệnh loãng xương đâu. Già cả, xương yếu, lưng còng, đi đứng lụm cụm không vững, cần phải chống gậy hoặc nhờ con cháu dẫn dắt là chuyện rất bình thường mà thôi. Người già, lỡ có té ngã, gãy tay gãy chân thì chuyện cũng thường thấy trong xã hội.
Ngày nay Y học không xem tình trạng loãng xương là một định mệnh (fatalité) của tuổi già nữa. Các bác sĩ tài ba (và kỹ nghệ dược phẩm) có cả lố phương tiện để giúp cho các cụ có thể sống một cách “bình thường có chất lượng” cho tới ngày ra đi.
Chú thích: Tác giả không phải là Bs y khoa – Đây chỉ là một tập hợp các thông tin tổng quát về vấn đề loãng xương. Mọi thắc mắc và nghi vấn xin các bạn hãy trực tiếp tham khảo với bác sĩ gia đình (NTC).

Bệnh loãng xương là gì?
Đây là bệnh xảy ra khi xương thiếu chất Calcium nên trở nên xốp, yếu và có thể dễ gãy mỗi khi bị té ngã. Bệnh thường xảy ra ở những người lớn tuổi. Thống kê cho biết cứ 1 trên 4 người đàn bà trong thời kỳ mãn kinh, và 1 trên 8 người đàn ông tuổi trên 55 đều bị bệnh loãng xương ở những mức độ khác nhau. Tuổi càng già càng dễ bị bệnh loãng xương.
Bệnh thường hay thấy xảy ra ở các dân tộc da trắng, và ở các sắc dân Á Châu, mà đặc biệt nhất là ở những người có tầm vóc nhỏ con.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh loãng xương như dinh dưỡng thiếu chất Calcium, thiếu hormone estrogen ở phụ nử trong thời kỳ mãn kinh. Ngoài ra yếu tố di truyền, một vài loại dược phẩm và một số bệnh tật cũng có thể đưa đến bệnh loãng xương.
Bệnh nhân thường hay cảm thấy đau lưng khi khom xuống để bưng đồ vật nặng.

Xương cổ tay, và cổ xương đùi (col du fémur) là hai nơi dễ bị gãy mổi khi té ngã. Lâu ngày, lưng bị còm, bị gù và chiều cao vì lẻ đó bị giảm đi, trường hợp nặng bệnh nhân có thể trở thành tàn phế.
Theo thống kê, tại Hoa Kỳ hằng năm có từ 15-20 triệu bà bị bệnh loãng xương, kéo theo trên 1 triệu tường hợp gãy xương mà trong số nầy phải kể 250.000 ca gãy cổ xương đùi (hip fracture) và làm thiệt mạng 50.000 cụ bà vì biến chứng của tai nạn trên

Trống đánh xuôi

Tại hải ngoại bệnh loãng xương (ostéoporosis) cần phải đựợc theo dõi để phòng ngừa hoặc chữa trị nếu kết quả xét nghiệm mật độ xương quá kém (osteodensitometry) và rơi vào “một giới hạng nào đó” (căn cứ trên T score và Z score). Thông thưòng, tùy theo nặng nhẹ, bác sĩ sẽ kê toa calcium vitamin D, hay thuốc nhóm Bisphosphonate (Fosamax, Bonefost,Didronel, Didrocal, Actonel…) hoặc các loại thuốc khác. Uống liên tục trong một thời gian nhiều năm liền, sau đó thì thẩm định lại.
Năm 2001, FDA Hoa kỳ có chấp thuận một loại thuốc tổng hợp dùng để tiêm có tên là Teriperatide (Forteo) do Công ty dược phẩm Lilly sản xuất. Thuốc chỉ dành cho các trường hợp loãng xương nặng, nguy cơ gãy xương cao, hoặc đã bị gãy xương rồi. Bất tiện là thuốc phải được tiêm dưới da (subcutaneous) mỗi ngày, liên tục và không được quá hai năm. Giá thuốc, 700-800$ cho một tháng.

Tại Québec, Canada, Forteo là thuốc đặc biệt và ngoại lệ nên cần phải xin phép sử dụng của chính phủ và sẽ được Régie d’Assurance Maladie trả tiền thuốc. (Demande d’autorisation de paiement – Médicaments d’exception)
http://www.forteo.com/Pages/index.aspx

Phản ứng phụ của thuốc làm mọi người e dè ngần ngại

Cho dù thuốc uống hay thuốc chích thì trở ngại chính là chúng đều có quá nhiều phản ứng phụ nguy hiểm.
Nhóm thuốc uống Bisphosphonate (Fosamax, Fosavance v,v…) có thể làm loét thực quản và bao tử ngoài ra cũng có thể mục xương hàm (osteonecrosis) nơi chổ răng bị nhổ hay nơi gắn implant, rất đau đớn và phiền phức lắm.
Xương hàm có thể bị mục do phản ứng phụ của việc uống Fosamax trong thời gian lâu dài
Video: abc news- Drug Investigation: The Serious Side Effects of Fosamax
http://www.youtube.com/watch?v=Ndous_h5_4U
Thuốc Forteo thì có thể gây ra ung thư ác tính osteosarcoma ở xương. Đa số phản hồi, của bệnh nhân nói chung đều rất tiêu cực…và làm chúng ta lo nghĩ… (Mời bạn đọc xem các phản hồi trong mục tham khảo về Forteo ở cuối bài)

Làm sao phòng bệnh loãng xương?

1. Nên nhớ là nhu cầu Calcium tăng theo các giai đoạn tăng trưởng, tình trạng mang thai, có cho con bú hay không?…
2. Nên sử dụng thức ăn thức uống đa dạng giàu Calcium. Nên uống thêm supplement Calcium nếu thiếu chất vôi trong dinh dưỡng thường ngày.
3. Cần uống kèm theo vitamin D nếu uống Calcium. Có nhiều loại supplement Calcium bán trên thị trường có chứa vitamin D.
4. Một số bệnh có thể làm thất thoát Calcium từ xương, và có thể gây ra bệnh loãng xương thứ cấp (secondary osteoporosis) chẳng hạn: bệnh xơ gan, bệnh Crohn (1 loại bệnh đường ruột), bệnh viêm khớp tự miễn (rheumatoid arthritis), bệnh suy các tuyến sinh dục (hypogonadism), bệnh cường giáp trạng (hyperthyroidism), bệnh cường phó giáp trạng ( hyperparathyroidism), bệnh suy thận mạn tính, trường hợp ghép bộ phận ( transplantation) và tình trạng nằm bất động lâu ngày.
5. Một số thuốc Tây nếu xài thường xuyên trong một thời gian lâu dài (4-5 tháng) cũng làm mất Calcium của xương, chẳng hạn thuốc trị kinh phong co giật Dilantin, thuốc kháng đông heparine, hormone tuyến giáp trạng Synthroid, các thuốc trị cancer (antineoplasic), các thuốc làm giảm acid dạ dầy hay antacids có chứa chất nhôm aluminum, các thuốc nhóm corticosteroids như thuốc Dexamethasone (VN gọi là Đề Xa), Prednisone, các loại thuốc GnRH (gonadotropin releasinghormones).
6. Để phòng ngừa bệnh loãng xương, ngoài việc ăn uống một khẩu phần giàu Calcium chúng ta cũng cần chú trọng đến việc tập thể dục thường xuyên, bớt rượu, bớt trà, bớt cà phê và bỏ thuốc lá.
7. Phụ nữ trong thời gian mãn kinh nên đi khám bác sĩ dể được xét nghiệm và đo mật độ xương (osteodensitometry), và nếu cần Bs sẽ kê toa cho thuốc trị liệu.
8. Cẩn thận khi sử dụng một số thuốc trong một thời gian lâu dài, thí dụ các thuốc nhóm corticosteroids.

Calcium có nhiều trong sữa, trong fromage, trong yogurt và nói chung trong các sản phẩm chế biến từ sửa. Trong nhiều loại thức uống bán trong siêu thị, chẳng hạn như sữa đậu nành và nước cam lon cũng thường được nhà sản xuất cho tăng cường thêm chất Calcium và vitamin D.
Calcium còn được thấy hiện diện trong: các loại đậu, hạt hạnh nhân, mè còn vỏ, trong cải broccoli, cải Pok choy, cải Kale, Collards, green turnip, bắp cải, artichaut, trong rau cần Tây, rau dền, rau mồng tơi, trong cá salmon, trong cá mòi sardine còn xương,và trong tôm cua sò hến vv…Một vài loại thức ăn có chứa chất oxalate (rau mồng tơi, rau dền) hoặc chất phytate (có trong cám, trong các ngũ cốc còn nguyên hạt). Hai chất này ngăn cản phần nào sự hấp thụ Calcium chứa đựng trong trong các loại thực phẩm vừa kể. Nên dùng nhiều rau quả đa dạng và sữa.

Các loại supplément calcium

Trong thiên nhiên Calcium thường ở dưới dạng phối hợp với một vài chất khác để cho ra những hổn hợp (compound) Calcium như: Calcium carbonate, Calcium phosphate, Calcium citrate … Nồng độ Calcium hữu dụng chứa trong hổn hợp còn được gọi là élemental calcium. Tùy theo loại hổn hợp mà số lượng elemental calcium có khác nhau.
Khi mua các loại supplement Calcium nhớ đọc kỹ coi nó chứa thật sự bao nhiêu élemental calcium?
Calcium carbonate: chứa 40 % Calcium và được chế biến từ vỏ sò hến. Hấp thụ chậm. Có thể gây sình hơi và táo bón. Nên uống sau bữa ăn. Nguồn Calcium thường được lấy từ vỏ sò hến. Đây là loại Calcium rẻ tiền và rất thông dụng trên thị trường hiện nay.
Calcium citrate: chứa 20 % Calcium, hấp thụ nhanh, có thể uống trước hoặc sau bữa ăn. Đắt tiền.
Calcium lactate: có 13 % Calcium, uống sau khi ăn.
Calcium gluconate: có 9 % Calcium. Uống sau khi ăn.
Dolomite: làm từ bột xương thú vật thu lượm từ lò sát sanh, từ các hổn hợp Calcium magnesium lấy từ nham thạch (limestone). Có thể chứa các chất độc như chì, thủy ngân, arsenic vv… Nên tránh sử dụng.
British Medical Journal cho biết là việc sử dụng calcium trong thời gian lâu dài có thể làm hại tim (calcium đóng trong mạch máu)?

Thực phẩm nào chứa nhiều vitamin D

Rất ít thực phẩm có chứa vitamin D. Vitamin D có thể được thấy trong các loại sữa, trong margarine đã được cho tăng cường thêm chất nầy. Vitamin D cũng thấy trong các loại cá có nhiều mỡ, trong lòng đỏ hột gà, trong cá mòi sardine, trong cá salmon, cá herring,và cá mackerel vv…Phơi nắng 15-20 phút cũng đủ để cho da tạo ra vitamin D. Dưới tác dụng của tia cực tím, của ánh sáng mặt trời chất cholecalciferol ở dưới da được chuyển ra thành vitamin D3 không hoạt tính và sau đó được đưa đến gan để trở thành chất 1,25-dihydroxycholecalciferol, hay là vitamin D thật sự có hoạt tính. Nghiên cứu mới đây tại Quebec (2005) cho biết rằng trong giai doạn mới bắt đầu mãn kinh (perimenopause), Calcium và vitamin D có thể giúp các bà ngừa được phần nào nguy cơ bị cancer vú. Trong thí nghiệm vừa kể, các phim chụp cho thấy mật độ mô vùng vú có vẻ trong sáng hơn ở nhóm người sử dụng thường xuyên các loại thực phẩm giàu Calcium và vitamin D.
Nhu cầu vitamin D ở người lớn là 400- 800 UI / ngày. Có thể chấp nhận nồng độ tối đa 2000 IU vitamin D trong một ngày nhưng người ta khuyên không nên sử dụng liều lượng nầy trong một thời gian lâu dài. Vitamin D là vitamin tan trong chất béo, và nó có thể tích tụ trong cơ thể. Sự thặng dư vitamin D lâu ngày có thể làm nhức đầu, nôn mửa, giảm cân, mỏi mệt và hiếm thấy hơn, nó có thể gây tiêu chảy, gia tăng lượng nước tiểu ( polyuria), làm hại thận và làm tăng nồng độ Calcium trong máu lên nhiều.

Kèn thổi ngược : Huyền thoại về loãng xương-

Tác giả phỏng dịch nguyên văn ba tác phẩm: Huyền thoại về vấn đề loãng xương
1) Le Mythe de l’ostéoporose: Introduction du nouveau livre de Thierry Souccar
http://www.lanutrition.fr/bien-dans-sa- ... uccar.html
“Đề tặng cho tất cả phụ nữ đã và đang phải khổ sở một cách vô ích vì những bệnh do “người ta” tạo ra trọn vẹn, một sự xét nghiệm truy tìm nhưng không tìm ra được gì cả, và những cách chữa trị cũng không trị được gì hết.”
“Nếu bạn hỏi một người đàn bà lớn tuổi, một bác sĩ hay một nhà báo, ostéoporose là gì thì chắc chắn bạn sẽ nghe họ trả lời như sau: Ostéoporose là một loại bệnh và thường là nguyên nhân làm gãy xương khi các cụ bị té ngã. Để phòng ngừa cần phải làm xét nghiệm bằng kỹ thuật đo mật độ xương (osteodensitometry) để xác định những đối tượng có nhiều nguy cơ. Để có thể tránh tai nạn bị gãy xương khi té ngã, các cụ cần phải tiêu thụ nhiều sữa vả sản phẩm của sữa cũng như theo đuổi một chế độ dinh dưỡng giàu chất calciun thậm chí kể luôn việc cần phải uống thuốc Tây.

Tất cả những đều nói trên rất quen thuộc đối với tất cả mọi người trong chúng ta nhưng đây là ý kiến hoàn toàn sai lầm.
Hằng chục triệu người đã bị tập đoàn, gồm có giới bác sĩ, tài phiệt về kỹ nghệ dược phẩm, kỹ nghệ thực phẩm, kỹ nghệ sản xuất máy quang tuyến X nhét vào đầu ý niệm trên. Phải chăng đây là một âm mưu vì quyền lợi hay vì mù quáng mà các bác sĩ và những nhà khảo cứu tài ba đã phục vụ quyền lợi của các đại đại tài phiệt quốc tế mà mục tiêu chính của giới nầy là bán sản phẩm với một giá vô cùng đắt nhưng trị liệu không ra hồn và tạo nguy hiểm cho cả thế hệ baby boomer đang bước vào tuổi già”.
Đo mật độ xương bằng kỹ thuật osteodensitometry là một sáng tạo của kỹ nghệ dược phẩm.
Vâng đúng vậy: loãng xương là một sự thật chớ không phải là một bệnh
Loãng xương thật sự ra chỉ là một yếu tố nguy cơ (facteur de risque) mà thôi, nhưng không nhứt thiết là quan trọng nhứt gây gãy xương, đây mới là điều mới lạ.
Vâng, đúng vậy, loãng xương là một chuyện có thật chớ đây không phải là bệnh.” (Dịch nguyên văn từ Le mythe de l’ostéoporose-tác giả Thierry Souccar)

3) S.O.S.os, Des os solides à tout âge

Par Jean-Yves Dionne, pharmacien et auteur
http://www.infonaturel.ca/Menus/GuideAc ... sosos.aspx
Một bộ xương chắc bất luận tuổi tác
“Mặc dù có nhiều khám phá gần đây, loãng xương vẫn còn được đa số bác sĩ và dược sĩ xem như là một thứ bệnh có thể kéo theo nhiều biến chứng, như gãy xương và dứt khoác nó phải được chữa trị bằng thuốc men (nhóm biphosphonates như Fosamax). Ngoài thuốc ra, người ta còn khuyên bệnh nhân phải uống thêm calcium (1500mg/ngày) kèm theo vitamin D (800 UI).
Tôi cảm thấy cần phải nhắc lại với quý vị cho rõ là loãng xương không phải là bệnh, không khác gì hơn tình trạng mãn kinh hay giai đoạn thanh niên choai choai. Đây là một điều kiện, một trạng thái thuận nghịch suy yếu của bộ xương, một yếu tố nguy cơ có thể kéo theo sự gãy xương. Tin vui là chúng ta có trong tay tất cả công cụ giúp giảm hay ngăn ngừa sự yếu xương và biến chứng của nó hầu có được một cuộc sống tốt hơn.
Sau khi đọc qua quyển sách S.O.S OS các bạn sẽ hiểu tại sao thuốc men không phải là món trị bách bệnh như người ta muốn mình tin như thế. Thuốc chỉ là một sự chọn lựa cuối cùng dùng cho các ca nặng, khi không còn cách nào tốt đẹp hơn nữa. Sức khỏe đâu phải cần vỏn vẹn chỉ có một viên thuốc không thôi đâu. (page 33).
Một sự lựa chon đơn giản:
“Cuối cùng, câu hỏi thật sự liên quan đến thuốc và loãng xương phải là như thế nầy: Tại sao phải cần đến thuốc với nguy cơ phản ứng phụ kèm theo giá cả ngoài sức tưởng tượng trong khi một sự tiếp cận theo lối thiên nhiên, chỉ pha trộn dinh dưỡng, và thể dục mà thôi cũng đủ loại trừ tình trạng loãng xương và tăng chất lượng cuộc sống của chúng ta lên”.
“Trong tác phẩm S.O.S os Ds Jean Yves Dionne cho biết trong việc phòng ngừa vấn đề loãng xương không phải chỉ có duy nhất chất calcium của sữa và các sản phẩm được sản xuất từ sũa không đâu. Chúng ta còn phải cần đến các loại rau quả đủ màu sắc vì chúng chứa những chất dinh dưỡng cần thiết như lycopène (trong cà tomate).
Chính trong thực phẩm mà chúng ta có thể tìm ra đủ vũ khí hữu hiệu để phòng trị loãng xương.”

-----------

- Psychologies.com-Seniors /Les vendeurs de maladies
http://forum.psychologies.com/psycholog ... 3972_1.htm

- Le Nouvel Observateur- Anne Crignon-Maladie,un marché juteux
http://tempsreel.nouvelobs.com/societe/ ... uteux.html

Montreal 2014

-------------

Dược sĩ Nguyễn Ngọc Lan & Bác sĩ Thú Y Nguyễn Thượng Chánh – BÊN TRONG KỸ NGHỆ THUỐC TÂY

Đây là một bài tổng hợp các thông tin từ báo chí ngoại quốc nói về mặt trái của kỹ nghệ dược phẩm. Một vấn đề nhạy cảm, tế nhị và rất dễ đụng chạm… nhưng nói có sách mách có chứng.
Ngày nay, thuốc men dính liền với đời sống của chúng ta, tuy vậy ít có người biết được sự thật bên trong của ngành sản xuất dược phẩm là như thế nào.

http://www.inexplique-endebat.com/artic ... ments.html

Giáo sư Jean Claude St-Ongeđã phát họa ra một hình ảnh không mấy sáng sủa cho ngành kỹ nghệ thuốc tây hay kỹ nghệ dược phẩm.

Đây là tiếng chuông báo động dư luận về sự làm mưa làm gió của một ngành kỹ nghệ có nhiều quyền lực trên thế giới nầy.

Từ nhiều thập niên qua, mọi người đều phải nhìn nhận rằng, đầu tư trong thị trường chứng khoán về dược phẩm chắc chắn là một lối kinh doanh an toàn và rất có lợi.

Thị trường thuốc tây được ước lượng trên 400 tỉ dollars/năm, và nằm trong tay của 15 tài phiệt quốc tế về kỹ nghệ dược phẩm.

Các nhà bào chế quan trọng nhất có mặt tại Montréal là: AstraZeneca, GSK Bio, Merck Frosst, Boerhinger Ingelheim, Johnson & Johnson, Bristol Myers Squibb, Laboratoire Abbott, Pfizer, Wyeth, vân vân.

Thu hồi và cảnh báo không ngớt gia tăng

Gần đây, những sự thu hồi và cảnh báo một số thuốc thông thường đã làm cho người tiêu thụ hơi hoang mang. Họ hoài nghi về phương pháp xét nghiệm tính chất an toàn của một loại thuốc trước khi nó được cơ quan Santé Canada chính thức chấp thuận cho phép bán ra.

Theo Giáo Sư Jean Claude St-Onge, rất nhiều loại dược phẩm đã cho thấy có vấn đề trước khi chúng được cho phép bán ra!

Các loại thuốc chống viêm sưng anti-inflammatoires non stéroidiens (AINS) là những thuốc được bác sĩ kê toa nhiều nhất để trị viêm khớp, đau lưng, đau lúc hành kinh, vân vân.

Đây là những loại thuốc quá phổ thông, cho nên chúng ta thường có ý nghĩ là chúng rất an toàn. Nhưng thực tế lại khác hẳn!

Trong những năm 1990, người ta ước đoán là có vào khoảng từ 3.000 đến 4.000 tử vong liên quan đến nhóm thuốc AINS tại Anh Quốc. Cũng trong thời điểm nầy, sự tiêu thụ thuốc AINS tại Hoa Kỳ đã làm cho 70.000 người phải nằm bệnh viện, và trong số đó có 7.000 người chết…

Và AINS lại nằm trong nhóm thuốc thường bị thu hồi nhiều hơn hết!

Các nhóm thuốc khác cũng nằm trong danh sách bị thu hồi là: thuốc kháng sinh, thuốc chống đau nhức (antalgiques) và thuốc trị trầm cảm (antidépresseurs).

Canada đứng hạng thứ 7 về thị trường thuốc men trên thế giới.

Mỗi năm, kỹ nghệ dược phẩm đã sử dụng trên 1.300 người như cobayes để tests cho các loại thuốc mới

Cũng theo Giáo sư St-Onge, đây chẳng qua là một lối khuyến mại trá hình, nhằm mục đích khuyến khích bác sĩ kê toa cho một loại thuốc mới, dĩ nhiên là bác sĩ sẽ được đền ơn hậu hĩ bằng nhiều cách…

Và sau đó là người bệnh sẽ phải tiêu thụ loại thuốc nầy trong nhiều năm liền kế tiếp.

Nhưng phần lớn thì các tests thường chỉ được thực hiện trên lớp người trẻ tuổi, là lớp người mà các phản ứng phụ bất lợi của thuốc khó có thể xảy ra.

Còn phụ nữ trong lớp tuổi sinh sản cũng như trẻ em nhỏ tuổi và các cụ già, tuy rằng họ là lớp người sẽ phải sử dụng thuốc nói trên trong tương lai, nhưng họ lại bị…loại ra khỏi nhóm cobayes thí nghiệm (vì trong thực tế, các phản ứng phụ lại thường hay xảy ra ở những lớp người vừa kể trên).

Tất cả các tests lâm sàng (essais cliniques) thường được sắp xếp và tổ chức sao cho có kết quả thuận lợi như sự mong đợi của kỹ nghệ dược phẩm.

Tạp chí New England Journal of Medicine cho biết, trong quá khứ có nhiều trường hợp mà kết quả thí nghiệm lâm sàng đã được sắp xếp xào nấu lại từ trước để có thể cho ra một kết quả như ý muốn của các nhà sản xuất.

Nói trắng ra, là phải làm nổi bật hoặc tô đậm lên những đặc điểm tốt của món thuốc, và lờ đi những phản ứng phụ bất lợi, hoặc bỏ đi những kết quả xấu có được từ các kết quả của thử nghiệm lâm sàng.

Vì tiền hay vì sức khỏe của nhân loại?

Tại Québec, công ty Anapharm, một chi nhánh của SFBC International, chuyên đảm trách tất cả các giai đoạn thử thuốc trước khi đệ nạp hồ sơ lên Santé Canada để được duyệt xét và tung món thuốc đó ra thị trường.

Anapharm thường đăng quảng cáo tuyển dụng tìm người vào nhóm thử thuốc, hay nói rõ ra là làm cobayes cho họ, lẽ dĩ nhiên là những người nầy đều được nhận tiền thù lao, ít thì đôi ba trăm đô, còn nhiều thì có thể lên đến 3.000 – 4.000$ cho một vụ… Giá càng cao thì mức độ nguy hiểm cho sức khỏe càng nhiều. Có nguy hiểm hay không? Thì chỉ có các nhà chuyên môn của Anapharm mới biết được mà thôi.

Trong quá khứ cũng đã từng xảy ra vài tai nạn cho cobayes rồi.

Anapharm thì cam đoan và bảo đảm các phương pháp thí nghiệm của họ rất khoa học, rất an toàn và chả cần phải lo lắng chi cả.

Đây là điều cũng dễ hiểu mà thôi!

Anapharm làm việc cho kỹ nghệ dược phẩm. Tất cả các quy trình, nghi thức thí nghiệm, tests lâm sàng đều do Anapharm qui hoạch, và phải thực hiện như thế nào để cho có được kết quả “hoàn hảo” như sự mong đợi của công ty dược phẩm sẽ sản xuất ra món thuốc đó

/ Vioxx, thuốc chống đau nhức thuộc nhóm AINS được nhà bào chế Merck tung ra thị trường năm 1999 để mong cạnh tranh với thuốc Celebrex của Pfizer.

Trong lúc làm thí nghiệm lâm sàng, Vioxx cho thấy có nhiều phản ứng phụ rất quan trọng ở một số nhỏ bệnh nhân, nhưng người ta vẫn cứ lờ đi.

Với một ngân sách khuyến mãi trên 500 triệu dollars, Vioxx được quảng cáo như là một sản phẩm cách mạng.

Hậu quả là có từ 88.000 đến 130.000 bệnh nhân sử dụng Vioxx bị vấn đề về tim, trong số nầy có từ 30% – 40% có thể nguy đến tính mạng.
Vioxx sau đó bị cấm bán từ năm 2004!

Thuốc trị trầm cảm của nhà bào chế Glaxo.

Tạp chí Journal de l’Association Médicale Canadienne đã có được một tài liệu nội bộ của Glaxo, là chỉ thị nhân viên trách nhiệm của họ phải cất giữ nghiêm nhặt các tài liệu đã nghiên cứu cho thấy Paxil chẳng có ích lợi gì cho giới thiếu niên cả.

Được biết có trên 3 triệu trẻ em sử dụng Paxil tại Canada!

*/ Tin mới nhất ngày 2 July/2012 Paxil chấp thuận trả tiền phạt 3 tỷ $ về các tội gian dối liên quan đến các thuốc Paxil, Wellbutrin và Avandia.

Video: Công ty GSK(Glaxo) chịu bồi thường 1.1 tỷ $ về vụ Paxil

http://www.droitshumains.ca/nouvelles/p ... gsk-glaxo/

Công ty Merck còn bị rắc rối về thuốc Fosamax trị loãng xương (osteoporosis) ở các bà sau thời mãn kinh. Thuốc có thể gây biến chứng mục xương hàm (osteonecrosis).

Vấn đề duyệt xét một loại thuốc mới

Tại Canada, ngược lại với Hoa Kỳ, phương cách duyệt xét (homologation) dược phẩm do Santé Canada thực hiện trong phòng kín với lý do để bảo mật thương mại.

Không một ai có quyền biết được chi tiết của biên bản của ủy ban duyệt xét.

Bí mật hoàn toàn!
Chỉ sau khi một món thuốc được chấp nhận, nhà bào chế mới cho in một tờ chỉ dẫn trong đó có tóm tắt những ích lợi của món thuốc, những điều cấm kỵ, phản ứng phụ, sự nguy hiểm cũng như liều lượng sử dụng v.v.

Vấn đề khó nghĩ ở đây là một phần ngân sách điều hành của ủy ban duyệt xét dược phẩm của nhà nước đều do kỹ nghệ dược phẩm tài trợ, thí dụ như trong năm 2003-2004 là 40,7 triệu dollars.

Ngoài ra, những nghi vấn về vấn đề lem nhem có thể xảy ra giữa giới chức cao cấp trách nhiệm duyệt xét thuốc và giới kỹ nghệ dược phẩm đôi khi cũng được xầm xì trong dân chúng.

Tại Québec, để khuyến khích và thu hút các nhà kỹ nghệ dược phẩm, chính phủ (tỉnh bang và liên bang) cho giới nầy được hưởng những đặc miễn thuế vụ (crédit d’impôt) rất hậu hĩ… Cứ 100$ bỏ ra đầu tư trong khảo cứu và phát triển thì có 80,50$ được miễn thuế.

Mặc dù có những đặc ân như vậy, nhưng kỹ nghệ dược phẩm vẫn tự cho phép mình cái quyền được tăng giá thuốc cao vút theo ý họ muốn. Giá bán của món thuốc không căn cứ trên sở phí thật sự (coũt réel) của việc khảo cứu, mà được ấn định trên giá trị món thuốc có thể phòng hay trị được một bệnh tật nào đó

Trong quá khứ, đã có nhiều ủy ban điều tra Canada cho biết là có vài loại thuốc được bán ra với gíá đắt cả vài trăm lần hơn giá vốn sản xuất, chẳng hạn như 1mg Vincristine, một loại thuốc đặc trị cancer máu (leucémie), bán cả chục lần đắt hơn tại Peru so với Amsterdam/Hòa Lan.

Thay tên thuốc đổi tên bệnh
Năm 1987 và 1994, theo tài liệu của Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, có thể ví như là một loại thánh kinh của các bác sĩ tâm thần ở Hoa kỳ, đã cho bổ sung thêm 77 loại bệnh tâm thần mới…

Để có thể làm được việc nầy, họ chỉ cần thay đổi lại định nghĩa của một số bệnh mà thôi!

Ngày nay, chỉ cần có một cảm giác lạ nào đó là bị gán ngay cho một loại bệnh và dĩ nhiên mỗi loại bệnh thì phải có một loại thuốc riêng để trị.

Thí dụ một vài vấn đề và được định bệnh như sau:
-/ Tính e thẹn nhút nhát (timidité) được gán cho là bệnh sợ xã hội, bệnh sợ đông người (phobie sociale);

-/ Cháu bé bị ọc sữa tự nhiên (naturelle régurgitation) đã trở thành bệnh trào ngược thực quản (reflux oesophagien pathologique);

-/ Bị stress buồn chán vì…vé số trật và trở thành bệnh traumatisme du billet perdant;

-/ Lo âu (anxiété);

-/ Hội chứng tiền kinh nguyệt (syndrome prémenstruel);

-/ Tình trạng áp huyết hơi cao một tí (préhypertension);

-/ Tình trạng thoái hóa tự nhiên của não bộ vì tuổi già (sénescence naturelle);

-/ Những bệnh đàn bà thí dụ như: Phụ nữ mãn kinh và hormone trị liệu (ménopause et hormonothérapie) – Viễn ảnh của tình trạng loãng xương (ostéoporose) – Tình trạng lạnh cảmcủa các bà (dysfonction sexuelle chez les femmes)…

Chỉ riêng vấn đề chót nầy, nếu các bà chỉ cần trả lời yes cho 1 câu trong số các câu hỏi dưới đây thì kể như đã bị bệnh rồi:

Các câu hỏi có thể là: -1) Năm rồi bà có cảm thấy tình trạng mất hứng xảy ra trong thời gian 2 tháng hoặc lâu hơn hay không? -2) Có giảm ham muốn tình dục libido không? -3) Có lo sợ bà không đạt được thành tích với ông xã? -4)Tình trạng lá đa khó trơn difficultés de lubrification? v.v…(Journal of the American Medical Association, 1991).

Giáo sư Jean Claude St-Onge còn cho biết, chỉ có từ 3% đến 8% thuốc mới tung ra thị trường mới thật sự được xem như là một tiến bộ trong vấn đề trị liệu mà thôi.

Các thuốc còn lại thường chỉ là thuốc nhái lại của những thuốc cũ đã có từ trước.

Quảng cáo đáng nghi ngờ

-/ Có quảng cáo về giai đoạn mãn kinh của các bà, cho thấy như là một sự suy giảm hormone cần phải được trị liệu để cải thiện cuộc sống được tốt đẹp hơn và để mình cảm thấy mình là phụ nữ féminine hơn nữa (?)

-/ Có quảng cáo về thuốc an thần anxiolytique, cho thấy một thiếu nữ bước vào ngưỡng cửa đại học với câu: «Tất cả một thế giới mới…lo âu đang mở rộng phía trước» (?)

-/ Có quảng cáo làm cho người tiêu thụ nghĩ rằng, nếu họ mua thuốc nầy thì họ sẽ mua được tuổi trẻ cũng như sắc đẹp và luôn cả sự cường tráng về tình dục nữa (?)

Hình ảnh mặt trái của kỹ nghệ thuốc tây

+ Tự cho rằng mình là người tiên phuông sáng tạo ra thuốc mới. Nhưng thật sự, «thuốc mới» là những copies hơi thay đổi của những thuốc đã có từ trước;

+ Hướng dẫn dư luận để làm lùi bước chính phủ khi quyết định của nhà nước có vẻ bất lợi cho kỹ nghệ dược phẩm;

+ Sẵn sàng chi ra những số tiền khổng lồ để quảng cáo cho một loại thuốc mới;

+ Tung ra những thông tin đáng nghi ngờ nhằm thuyết phục công chúng tiêu thụ thêm thuốc;

+ Khuyến mại một sản phẩm mà họ biết chắc chắn là nó không có hiệu quả (hoặc chỉ có rất ít hiệu quả) so với các thuốc khác;

+ Hủy bỏ các kết quả thí nghiệm gây bất lợi cho họ, bằng không thì cũng tìm cách giảm thiểu tác động của các phản ứng phụ của món thuốc đang được xét nghiệm.

Hù cho thiên hạ sợ: phải chăng là một mánh khóe khuyến mãi?

Edouard Reinach – «Le marketing de la peur»
http://www.lorgane.org/Contenu/Archives ... de-la-peur

Theo tác giả E.Reinach, thì trước khi sáng chế ra một loại thuốc mới, công ty dược phẩm đã sử dụng nhiều kỹ thuật như làm thay đổi những ngạch mức (seuil) cho phép, tăng cường thêm các thí nghiệm labo, tăng cường thêm các tests xét nghiệm, vân vân.

Mục đích chính là để làm cho người ta thấy mình bệnh và cần phải uống thuốc.

Thí dụ: bên Pháp trước kia hàm lượng cholestérol có thể chấp nhận là 260mg/dl, nay thì họ cho kéo nó xuống còn 200mg/dl.

Các labo cho biết là mỗi một test xét nghiệm như thế hình như đã làm tăng thêm 5% số người trong diện nguy hiểm (à risque) đối với một loại bệnh nào đó, nên số thuốc tiêu thụ nhờ vậy mà cũng được tăng thêm lên.

Theo David Healy, tiến sĩ tâm lý học thì ‘việc hù thiên hạ làm cho họ sợ bị bệnh’ là mánh khóe marketing rất hữu hiệu… Đó là trường hợp các bệnh rối loạn tâm thần, như rối loạn lưỡng cực trouble bipolaire, bệnh hưng trầm cảm maniaco dépressive...

Theo Dr Joel Lexchin, kỹ nghệ dược phẩm thường hay cho…xác định lại ranh giới giữa tình trạng bệnh và tình trạng sức khỏe bình thường!

Thí dụ như Labo Pfizer cho định nghĩa lại vấn đề rối loạn cương dương ở các cụ nình ông với mục đích là để bán Viagra… Thằng nhỏ khó dạy, thì đi lấy toa mua Viagra về mà uống (chỉ có 15$/1 viên).

Trớ trêu thay, thuốc mới để trị bệnh mới thì cũng kéo theo phản ứng phụ mới, gây ra một thứ bệnh mới khác, và rồi cũng lại phải cần thêm thuốc trị bệnh mới khác nữa.

Rõ ràng là một cái vòng lẩn quẩn!

Tao là sếp sòng

Nancy Olivieri, một nữ bác sĩ tài ba chuyên về nhi khoa tại bệnh viện nhi đồng Toronto Canada. Bệnh nhân của bác sĩ là những cháu bé đang nằm điều trị một căn bệnh di truyền thuộc về máu có tên là Thalassémie.

Đó là vào năm 1993. Thuở đó, có một phân tử có tên là défériprone vừa được các nhà bác học tìm ra dùng để trị bệnh Thalassémie. Bác sĩ Olivieri liền ký với công ty dược phẩm Apotex Research Inc. một nghi thức protocole nghiên cứu về loại thuốc vừa nêu trên.

Sau một vài thí nghiệm lâm sàng, bác sĩ thấy kết quả có vẻ khích lệ, nhưng đồng thời bác sĩ Olivieri cũng lo sợ tác dụng phụ của thuốc có thể làm cho gan bị xơ hóa (fibrose hépatique).

Là một nhà khoa học có lương tâm, bác sĩ Olivieri liền báo cáo sự kiện trên cho các các cấp chỉ huy của bà ta…

Lập tức, Apotex Research Inc. chấm dứt ngay hợp đồng nghiên cứu của bác sĩ Olivieri, và họ cho chuyển protocole nghiên cứu được tiếp tục tại một nơi khác mà chẳng màng tới lời cảnh báo của bác sĩ Olivieri…

Apotex Research Inc. còn hăm he sẽ lôi bà ta ra toà nếu bà ta không tôn trọng thỏa ước bảo mật confidentialité đã ký trước đó. Bất chấp lời đe dọa, bác sĩ Olivieri đã đem trình bày kết quả nghiên cứu của mình trước một cuộc hội thảo về y khoa.

Hậu quả là bà ta phải trả một giá rất đắt!

Trong 6 năm liền sau đó, không biết có bao nhiêu trận chiến pháp lý đã làm bà ta vô cùng khốn đốn, và đồng thời cũng gây sự chú ý của các nhà khoa học khắp mọi nơi trên thế giới… Đau xót và chua cay nhất là trong cơn hoạn nạn nầy, bác sĩ Olivieri bị cấp chỉ huy hành chánh của bệnh viện Toronto bỏ rơi. Họ từ chối việc bênh vực và bào chữa cho bà. Lý do thầm kín là bệnh viện nhi đồng nầy là một chi nhánh của đại học Toronto, và đại học nổi tiếng nầy thì đang chờ đón để nhận món quà béo bỡ $20 triệu của Apotex Research Inc. để xây cất một giảng đường mới.

Sự hỗ trợ tinh thần duy nhất mà bác sĩ Olivieri nhận được lại đến từ…Hiệp hội các Giáo-Sư Đại Học.

Buồn thay cho số phận của một bác sĩ có lương-tâm!

Một vài con số tại Pháp

(theo tài liệu Le Nouvel Observateur «Big Pharma en 6 chiffres» page 44, no 25 fev-3 mars 2010)

- Đối với kỹ nghệ dược phẩm, mỗi một công dân Pháp tượng trưng cho 284 euros thương vụ về thuốc men;

- 96% thuốc men giới thiệu bởi các công ty dược phẩm năm 2008 không cải thiện được sức khỏe;

- Tại Pháp, 1/5 số nhân viên của kỹ nghệ dược phẩm là những trình dược viên (visiteurs médicaux);

- Mỗi năm, các bác sĩ gia đình (généralistes) tiếp trung bình 333 lần viếng chào hàng của trình dược viên;

- Kỹ nghệ dược phẩm chi tiêu 24,4% thương vụ vào việc khuyến mãi so với 13,4% dùng cho việc khảo cứu;

- Một bác sĩ có thể làm cố vấn cho một nhà bào chế với tính cách hảo ý (gracieusement) hoặc được nhận 600.000 euros tiền thù lao.

Kỹ nghệ thuốc tây và đại dịch cúm toàn cầu A(H1N1)

Báo humanité Janvier 2010

Kỹ nghệ dược phẩm đã trúng được một vố quá to!

Báo L’Humanité tháng Janvier 2010 có đăng bài:Grippe A: «Ils ont organisé la psychose» (Cúm A: Họ đã tạo ra tình trạng tẩu hỏa nhập ma),tố cáo sự cấu kết giữa kỹ nghệ dược phẩm, Tổ chức Y tế Thế giới OMS và các ủy ban chuyên môn về dịch tể học của các cường quốc Âu Mỹ trong biến cố dịch cúm A(H1N1) năm 2009.

Xin các bạn xem link sau đây :

http://jcoutant.over-blog.com/article-g ... a-psychose–42576083.html

Bác sĩ Wolfgang Wodarg là một nhà dịch tể học épidémiologiste, đã được ủy ban Y tế Âu Châu đề cử để làm sáng tỏ vấn đề lem nhem trong việc chủng ngừa cúm A(H1N1) vừa qua.

Ông ta cho biết, đây là một âm mưu có tính toán trước giữa kỹ nghệ dược phẩm và Tổ chức Y tế

Thế giới OMS, mà bác sĩ Margaret Chan là Chủ tịch…

Klaur Stohr, giám đốc Bộ phận Dịch tể học của OMS, trong thời điểm dịch cúm gà H5N1, đã đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch dự trù ban bố tình trạng pandemy.

Sau đó, ông ta nhảy qua đầu quân cho công ty dược phẩm Novartis.

OMS có 2 ủy ban cố vấn về dịch cúm heo: Groupe H1N1 và SAGE (Strategic Advisory Group of Experts).

Albert Osterhaus vừa là cố vấn cho bộ Y tế Hòa Lan vừa là thành viên của Group H1N1 thuộc OMS. Chính ông ta là chủ chốt tiên đoán ra những con số tử vong phóng đại trong trường hợp xảy ra pandemy. Được biết ông ta còn nắm 10% cổ phần của nhà bào chế Viroclinics Bioscience, chuyên cung cấp dịch vụ cho các labo sản xuất vaccin cúm.

Đây đúng là một trường hợp conflict of interest (xung khắc về quyền lợi).

Bạn ông ta là M.Eskola, một thành viên SAGE của OMS cũng nhận được tài trợ khảo cứu 6,3 triệu euros từ labo GlaxoSmithKline (nhà sàn xuất vaccin H1N1 Pandemrix).

Trong các ủy ban cố vấn chuyên môn (conseillers experts) về dịch cúm A(H1N1) cho các chánh phủ của nhiều quốc gia, thì cũng lòi ra rất nhiều người có liên hệ mật thiết về quyền lợi với các đại tài phiệt dược phẩm.

Khi dịch cúm heo A(H1N1) vừa mới bộc phát tại Mexico vào tháng năm 2009, Tổ chức Y tế Thế giới đã nghĩ đến kế hoạch chủng ngừa đại trà (vaccination de masse) trên thế giới một khi trường hợp họ bắt buộc phải tuyên bố pandemy.

Từ năm 2006 lúc dịch cúm gà H5N1 đang tung hoành Á Châu, thì Hoa Kỳ đã lo xa nên ký thỏa thuận ngầm với nhiều công ty dược phẩm cho phép họ sản xuất ngay lập tức vaccin cúm khi tình trạng pandemy được OMS ban bố ra.

Báo Nouvel Observateur số 25 février 2010 cho biết vào tháng 5/2009, OMS đã cho sửa lại định nghĩa của pandemy như sau «Đại dịch cúm toàn cầu hay pandemy được xác định khi có sự xuất hiện của loại virus mới mà dân chúng chưa có được miễn nhiễm»

Theo định nghĩa mới nầy, thì kỳ lạ thay, số tử vong và số người nhiễm bệnh không được OMS quan tâm đến.

Lúc bấy giờ, 12 nước trong đó có Anh Quốc và Trung Quốc là những quốc gia đã cực lực phản đối việc thay đổi định nghĩa pandemy, nhưng OMS cũng lờ đi.

Juillet 2009, bác sĩ Thomas Jefferson, một nhà dịch tể học lỗi lạc của Anh Quốc đã tuyên bố trong tờ tuần báo Đức Der Spiegel:

«Quyết định của OMS được thúc đẩy bởi lý do tiền bạc, và cho thấy có việc xào nấu lại sự kiện nhằm tạo nên tình trạng lo sợ trong dân chúng.

Rất rõ ràng là OMS đã cố tình đơn giản hóa cái định nghĩa pandemy một thời gian không lâu trước khi đại dịch cúm toàn cầu xuất hiện ra. Người ta có cảm tưởng là kỹ nghệ dược phẩm chỉ chờ có ngày đó mà thôi»


Kết luận

Thực tế cho thấy kỹ nghệ dược phẩm len lỏi và có mặt hầu như ở khắp mọi nơi.

Họ tung tiền không tiếc để tài trợ cho các công trình khảo cứu khoa học, cũng như các buổi hội thảo, các khóa tu nghiệp formations continues hay conférences hoặc séminaires chuyên môn cho các bác sĩ và dược sĩ, đôi khi còn kèm theo quà cáp nầy nọ nữa, vân vân.

Họ có mặt trong các đại học y nha dược, trong các trung tâm khảo cứu, trong các bệnh viện, cũng như trong các phòng mạch và trong các dược phòng…

Họ cấp học bổng, phát giải thưởng bằng hiện kim cho các sinh viên dược khoa ưu tú.

Đôi khi, họ còn cài người vào nắm giữ các chức vụ then chốt trong các guồng máy của chánh phủ như Bộ y tế, Health Canada, FDA v.v.

Nhưng quan trọng và đáng ngại hơn hết, là họ cũng có mặt luôn cả trong cơ quan trách nhiệm trông coi sức khỏe cho cả nhân loại, đó là Tổ chức Y tế Thế giới OMS thuộc Liên Hiệp Quốc.

Nói tóm lại, chung qui cũng chỉ vì tiền và tiền $$$ mà thôi!

------------

Dược sĩ Nguyễn Ngọc Lan & Bác sĩ Thú y Nguyễn Thượng Chánh. Thuốc men những điều mà họ không dám nói ra. Vietbáo. Online

http://vietbao.com/?ppid=45&pid=117&nid=149923
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Quay về Thông Tin Y Tế

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến7 khách

cron