Phân biệt lợi hại khác nhau về Điển Quang và Nhân Điện

Phân biệt lợi hại khác nhau về Điển Quang và Nhân Điện

Gửi bàigửi bởi admin » Chủ nhật Tháng 11 24, 2013 12:52 am

Phân biệt lợi hại khác nhau về Điển Quang và Nhân Điện

Nhiều người đã email hỏi tôi về vấn đề này đang thịnh hành trong công đồng mạng không biết lợi hay hại khác nhau như thế nào. Tôi xin trình bầy về hai vấn đền này trên quan điểm y học nó tác động thay đổi tốt xấu thế nào đối với sức khỏe qua 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần:

A-Về Nhân Điện :

Trong cơ thể mọi người, ai cũng có khí huyết tuần hoàn tạo ra năng lượng bảo vệ cơ thể khi 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần đầy đủ, được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết, máy đo đường, và máy Masimo đo chỉ số bơm máu ra đầu ngón tay chân.
Kết qủa máy đo áp huyết cho ra 3 con số mà tây y gọi là :
Tâm thu/tâm trương/nhịp tim,
Đổi sang tiêu chuẩn ngành Y Học Bổ Sung gọi là :
Khí lực/lượng máu qua tim/ nồng độ đường trong máu.

Nếu một cơ thể khỏe mạnh thì 3 trị số này phải nằm trong tiêu chuẩn tuổi theo Khí Công Y Đạo :

90-95 (1 tuổi đến 5 tuổi) mạch nhanh không chính xác.
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.(6 tuổi-12 tuổi)
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi-17 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)

Thí dụ chúng ta lấy tiêu chuẩn tuổi trung niên :

120-130/70-80mmHg nhịp tim 70-75,

Có nghĩa là khí lực 120-130mmHg là tốt, lượng máu qua tim 70-80mmHg là cơ van tim điều hòa lượng máu qua tim dúng tiêu chuẩn, nhịp tim 70-75 là nồng độ đường trong máu đúng và đủ làm nhịp tim đập đúng tiêu chuẩn không nhanh không chậm, nếu thiếu đường thì máu lạnh tuần hoàn chậm, dư đường trong máu làm máu nóng sẽ tuần hoàn nhanh..

Nhờ vào 3 yếu tố khí lực/ lượng máu tuần hoàn qua tim/ nồng độ đường trong máu trong cơ thể một người đã sẵn có trước khi có tác động thêm năng lượng bên ngoài vào cơ thể bắt buộc nó phải thay đổi xấu hơn hay tốt hơn.

Thầy chữa bệnh bằng Nhân Điện phải biết rõ lý thuyết này, như vậy muốn làm thầy chữa bệnh bằng nhân điện, trước hết thầy phải biết tự chữa cho mình sao cho 3 con số lọt vào tiêu chuẩn như thí dụ của thầy chữa thuộc tuổi trung niên 120-130/70-80mmHg nhịp tim
70-75.

Nhưng từ khi có phong trào chữa bệnh bằng nhân điện, chưa có thầy nào kiểm chứng sức khỏe của mình, và cũng không biết mình cũng đang có bệnh, nên mình đã vô tình truyển bệnh sang cho người khác đã làm thay đổi khí huyết của bệnh nhân, lúc tốt hơn, lúc tệ hơn không được kiểm chứng, và cũng không hiểu gì vế năng lượng mang tính âm dương, truyền năng lượng thế nào là âm dương, truyền thế nào là điện tiếp điện như bình thông nhau, hay điện với từ trường, hay từ trường với từ trường, và mình không có đủ năng lượng tích lũy để truyền năng lượng từ xa, như vậy là tự mình lừa dối mình, sau đó cả thầy chữa và bệnh nhân càng ngày càng nặng thêm, vẫn phải nhờ đến cách chữa của tây y là dùng thuốc hay mổ xẻ.
(Xin xem quyển : Khí Công Y Đạo đã xuất bản ở VN và có bán tại Nhà Sách Tự Lực, California)

Nếu cả thầy thuốc hay bệnh nhân còn tin vào khả năng chữa bệnh bằng nhân điện thì hãy tự mình kiểm chứng bằng 3 máy, máy đo áp huyết, máy đo đường, máy Masimo cho cả thầy chữa và cho cả người bệnh trước và sau khi chữa để so sánh sẽ thấy ngay con số cụ thể chứ không phải cảm nhận hoang tưởng, và từ trước đến nay chưa có ai đem khả năng nhân điện của mình cho ngành y khoa kiểm chứng trong các ca chữa bệnh trong bệnh viện, mà chỉ có viện nghiện cứu năng lượng nhưng chưa nơi đâu có đúc kết nào được ngành y công nhận thành hệ thống chữa bệnh song song với ngành y khoa chính thống.

Duy chỉ có một loại nhân điện nhờ tu tập thiền hay tĩnh tâm để tự chữa bệnh, trong nhà đạo gọi là tu tánh luyện mạng, bên Phật Giáo từ Ấn Dộ truyền sang phía Bắc đến Trung Hoa là tổ thứ 28 Đạt Ma Tổ Sư là sơ tổ, truyền cho ngài Thần Quang là nhị tổ đến lục tổ Huệ Năng.
Tổ Đạt Ma dạy tu tánh tức là học hiểu đạo, triết lý giáo pháp Phật Giáo, luyện mạng tức là tập võ thuật tăng cường nội lực cường thân kiện thể bảo vệ sức khỏe để song tu, hầu đủ sức khỏe không bệnh tật mà hoằng dương đạo pháp, lúc tập võ là luyện khí, lúc thiền là luyện thần, quán tưởng lý nhân qủa duyên khởi làm sao con người khổ, làm sao thoát khổ sanh tử để giải thoát…
Khi phối hợp cả hai trong một ngày tu, vừa ngồi thiền vừa luyện võ mới không đau lựng tê chân mỏi gối, không bị cao áp huyết hay tiểu đường, hay dư cholesterol trong máu, nên đường tu tánh không bị trở ngại vì bệnh hoạn.

Ngày nay chia 2 ngành riêng biệt, có người chỉ tu tánh mà không luyện mạng, còn học võ thuật để cường thân kiện thể mà không muốn tu tánh, nên chư tổ cảnh cáo rằng :
Tu tánh mà không luyện mạng là tu hành bệnh hoạn.
Tu mạng mà không tu tánh thì kiếp kiếp không thành Phật

Như vậy tánh mạng song tu giúp cho con người tự biết thu nạp năng lượng, thì nhân điện của các vị này luôn luôn quân bình nhưng có khả năng thu nhận qua các luân xa để cho người khác mà không ảnh hưởng đến quân bình năng lượng của mình. Những vị này mới chính là thầy dạy cách tu tập để có năng lượng, do đó những tu sĩ Tích Lan cũng từ Phật Giáo bên Ấn Độ truyền xuống phương Nam trở thành Phật Giáo nguyên thủy Nam Tông, và thiền sư Dasira Narada là 1 thiền sư đã truyền phương pháp tu này cho giới cư sĩ để tự tu học, chứ không phải ngài gọi nó là Nhân Điện để truyền dạy chữa bệnh trục lợi, rồi lại bắt ngài phải mang danh là Tổ Sư Nhân Điện, bao nhiêu tội lỗi của những kẻ tham danh trục lợi, có ăn thì mình hưởng, có tội thì Tổ mang họa, chớ thật ra các vị tu sĩ nào theo phương pháp tánh mạng song tu theo Phật Giáo đều trở thành Tổ Sư Nhân Điện được cả.

Nếu những truyền nhân được ngài truyền dạy, những người tu đúng thì phải giữ giới cho tánh sáng tâm khai, thân không uế trược, không tửu sắc, không dâm dục, thân tâm thanh tịnh, đúng theo nguyên tắc tu đạo tánh mạng song tu là Tinh sạch, Khí bền, Thần diệu dụng thì từ ông LMĐ trở xuống đã phạm giới, không còn xứng đáng là học trò của Tổ nữa, do đó năng lượng trong những người này càng uế trược, thì ngành Nhân Điện càng ngày càng bị mang tiếng xấu.

Khi những vị nào tự xưng là Thầy Nhân Điện mở khóa dạy Nhân điện, chúng ta muốn theo học nhưng để tránh bị các thầy không có khả năng mà lửa bịp vụ lợi “bán điện trời lấy tiền” thì trước khi mình ghi tên theo học, qúy vị cứ mạnh dạn nói : Xin qúy thầy cho chúng con thử đo áp huyết và đường cho qúy thầy xem sức khỏe qúy thầy có tốt không, trước khi dạy hay truyền năng lượng cho chúng con.

Tóm lại năng lượng Trường Sinh Nhân Điện ai cũng có tốt hay xấu, tốt đối với các thầy tu chân chính, khổ công tu học, giúp người vô vụ lợi, dạy người tự tu học, tự biết cách chữa bệnh bằng năng lượng do mình thiền định, hít thở, dạy cho người bệnh cũng tự học tự tu luyện để tự chữa bệnh, đó là hạnh nguyện của các vị tổ đang thực hiện hạnh nguyện bồ tát, phương pháp của các ngài lại bị lợi dụng cách này để buôn bán trao đổi bằng tiến bạc, để cho các tà thần mượn xác đưa điện ô trược vào cơ thể những luồng năng lượng tham, sân, si, ái dục, để sau này linh hồn mình bị qủy thần sử dụng làm tay sai làm loạn trật tự thế gian.

B-Về Điển Quang :

Điển quang cũng là một dạng năng lương có nhiều tần số khác nhau gọi chung là năng lượng vũ trụ, nhưng thật ra theo Phật Giáo và khoa học thì không gian có nhiều giải ngân hà, nhiều qủa địa cầu khác nhau, nên Phật mới nói có tam thiên đại thiên thế giới, nhưng những cõi thế giới tiếp cận với con người theo Phật Giáo có nhiều cõi, cõi gần nhầt là lục đạo luân hồi, thâp nhất là cõi Địa ngục, Súc Sanh, Nga Qủy. A tu La, cõi Nhân Thiên (cõi người và cõi trời) vì những chúng sanh trong cõi này còn tái sanh. Những cõi cao hơn không tái sanh mà do hạnh nguyện vào lục đạo độ đời sau khi tu học tiến hóa cao hơn, thấp thì tính từ hàng bồ tát, trên bậc A La Hán, qua thập địa bồ tát đến bồ tát bổ xứ thành Phật.

Những người khi chết thành thần nằm trong cõi A Tu La, có thần thông, tính thẳng thắn trung trực, trung hiếu tiết nghĩa có công với đất nước được phong làm thần nhưng còn sân giận, ăn mặn, sát sanh, từ cấp này họ có năng lượng siêu hình, năng lượng này cao hơn nhân điện có thể tác động vào con người qua luân xa xâm nhập vào thân-khẩu-ý của mình, người ta gọi là Điển.

Trong cõi người, lúc còn sống nhờ tu luyện lên tứ thiền thành bậc A la Hán cũng có điển, có thần thông.
Trong cỏi thiên là nơi các bậc thánh tiên ở, cũng thường hay giáng phàm bằng luồng điển muợn qua 1 thân người, qua thân-khẩu-ý khi ta thức, hay hiện bằng hình ảnh trước mặt ta khi ta ngủ hay khi ngồi thiền định hoặc hiện bằng hào quang, hay giáng cơ bút.....tùy theo tần số và trình độ tâm linh của mỗi người khác nhau, hay một nhóm người cùng trình độ tu học cùng một tần số, nên có người này thấy nghe được còn người khác không thấy không nghe được...trong những loại điển này có nhiều tần số khác nhau, thanh nhẹ hay nặng trược phù hợp với những căn cơ mỗi người khác nhau, nếu ta không làm chủ được tâm ta để phân biệt tốt xấu đúng sai mà nhận những vị này làm thầy thì mình sẽ đi theo con đường của họ, để thực hiện ý định của họ trở thành tà đạo.

Ở cơ thể con người, trên một vị trí luân xa, lớp ngoài là luân xa Phách được khai mở thì thân thể khỏe mạnh không bệnh tật, lớp sâu bên trong là luân xa Vía, làm cho thân thể cử động linh hoạt, nhanh nhẹn tuổi già hóa trẻ, luân xa cao hơn là luân xa Trí được khai mở thì trí óc sáng suốt, thông minh.

Nhựng người do công phu tu tập, tâm tốt mới có luân xa trí phát triển sẽ được thanh điển của các vị thầy đến chỉ dạy trong lúc ngủ, hay thiền định thông qua những cách truyền năng lượng qua thân-khẩu-ý, như về thân thì tay chân cử động bắt ấn, qua miệng tự nhiên đọc chú, qua ý nêu những thắc mắc câu hỏi trong đầu tự nhiên có câu trả lời làm mình được khai ngộ...
Thí dụ như tôi làm thầy chữa thân bệnh tâm bệnh có hạnh nguyện cứu độ người vô vụ lợi, căn cơ thiện lành biết tu tánh luyện mạng, được nhận những năng lượng siêu hình chỉ dạy qua luân xa Trí. Nếu khi tôi có một giấc ngủ sâu như vào đại định gặp chân sư để tiếp tục học đạo cứu người ở một cảnh giới khác cao hơn, khi học xong trở về nhập vào thân xác thì mới biết mình không còn thân do gia đình đã chôn mất thân xác thì thân vía và thân ý vẫn còn ở cảnh giới thiên, muốn tiếp tục giữ hạnh nguyện cứu đời, sẽ lại tìm những người thầy chữa bệnh từ thiện nào đó trong cõi ta bà này để độ cho họ bằng cách dạy cho họ trong những giấc mơ, hay truyền năng lượng cho họ khi họ chữa bệnh, ...đó cũng là một loại điển.

Phật giáo chỉ dạy cho ta biết có nhiều cõi, nhiều cảnh giới khác nhau, nhưng 3 cõi gần con người và hay tiếp xúc với con người bằng điển là cõi Dục Giới (ham muốn của thân), Cõi Sắc Giới (ham muốn của cảnh, của Ỳ), và cõi Vô Sắc Giới (không còn ham muốn của thân của ý). Còn những vị tu cao vượt ra khỏi tam giới để tu thành Phật thì mình không có cơ hội để gặp thì dễ gì mình gặp Phật nếu không phải là người tu đắc đạo.

Như vậy trong cõi nhân-thiên có nhiều thánh thần mà con người có duyên gặp rất nhiều luồng điển xấu tốt tùy theo căn cơ tu học hay không tu học, ăn chay thanh tịnh và giữ ngũ giới hay không, nên có điển thanh, điển trược.

Nhân điện của ông LMĐ từ Tổ Dasira Narada là 1 tu sĩ Phật Giáo, ngài tu thiền định, luồng năng lượng ngài có do năng lượng chư Phật ban cho, ngài phải cầu Phật, quán tưởng Phật niệm hồng danh chư Phật, và ngài cũng dạy cho những đệ tử của ngài tu theo Phật, niệm Phật, quán Phật, cầu Phật, nên có lúc năng lượng của ông LMĐ mạnh nhất làm cho những học viên bị tê liệt theo học 1 khóa là khỏi bệnh đi đứng bình thường, sau này vì tham danh lợi và thần thông đã bị tà thần xâm nhập vô tình thu nhận điển trược cùng tần số tham sân si của các vị thần Ai Cập mới dạy khóa Bộ Óc Người Tiền Sử và Kim Tự Tháp, không phải là giáo lý nhân qủa của Phật, bỏ đạo Phật, nên học trò cũng lại không theo Phật, cho nên các học trò hễ thiếu năng lượng thì lại xúi dại nhau cầu Thầy LMĐ truyền năng lượng hay cầu Sư Tổ truyền năng lượng. Sư Tổ hay thầy LMĐ làm sao cho học trò năng lượng bằng điển quang của chư Phật, mà tại sao không cầu thẳng chư Phật có hơn không ?

Thật ra thiền sư Dasira Narada đã vượt tam giới đâu còn trong tam giới mà giúp cho những kẻ phàm phu còn tham sân si ái dục cầu ngài cho năng lượng, cho nên thờ ngài là để làm bình phong trục lợi mà thôi, những người đã tạo nhân xấu sau này sẽ gặt qủa xấu là lẽ đương nhiên không liên quan đến Sư Tổ.

Giống như cả một tập thể cầu ơn trên chữa bệnh ở một số trung tâm, thầy hay bệnh nhân đọc những câu thần chú mật tông, thế là tầt cả như có luồng điển xâm nhập vào thân-khẩu-ý khiến cho mọi người quơ chân múa tay lễ lạy đi quyền múa võ.... thì đấy cũng là năng lượng cõi vô hình của các chư vị hộ pháp, vì do lời nguyện của chư thần này đã quy y theo Phật, họ nguyện rằng những ai niệm danh hiệu Phật sẽ theo hộ pháp cho những người này để họ tu không bị trở ngại, nên chúng ta thấy trong những pháp hội khi Phật thuyết giảng kinh, đều có các chư thiên đến hộ pháp và họ cho những mật khẩu riêng của họ để cho mình cầu là họ đến, rồi đến các vị bồ tát cũng thương xót chúng sinh, muốn độ cho chúng sinh không bị trở ngại trên đường tu, các ngài cũng cho những mật khẩu riêng của các ngài, thí dụ Bồ Tát Quán Thế Âm cho bài chú cầu ngài là Án Ma Ni Bát Di Hồng (ummanipadmehum)...nhưng không có câu chú mật tông nào đọc lên mà được tất cả chư Phật và các chư hộ pháp đến trợ giúp nhiều nhất bằng danh hiệu A Di Đà Phật là vua của chư Phật.

Như vậy mục đích cầu ơn trên giúp mình khỏi bệnh bằng năng lượng của các chư thần truyền cho để cho có sức khỏe tu tiếp, chứ không phải tài năng của thầy chữa bệnh có năng lượng truyền cho mình biết múa may quay cuồng như thế. Nhưng nếu ông thầy tham danh lợi muốn có năng lượng thần thông như thế mà không chịu tu theo chánh đạo thì các vị hộ pháp bỏ đi và sẽ bị các tà thần đến trợ giúp thần thông cho mình câu chú mà mình chẳng hiểu nghĩa, cứ đọc lên là có hiệu nghiệm, giống như quyền năng của ông LMĐ sau này đã có trong việc trồng cây, làm ra gạo nhân điện, vô tình mình bán linh hồn mình và học trò mình cho qủy Satan kết thành một tập thể hùng mạnh đi phá những kẻ tu hành, làm rối loạn kỷ cương xã hội, giống như thời kỳ phong thần, các vị tà thần xuống thế gian phá phách thì lại có những vị chánh thần xuống thế cứu dân dẹp loạn

Các Trung Tâm treo hình hay tượng của Tổ Sư, lại thỉnh những tượng Phật, mà những người đến không hề muốn tu học hay được tu học niệm Phật, họ chỉ xem là những ông thần linh thiêng ban ơn giúp cho mình khỏi bệnh nên đến xá xá vài cái rồi được thầy chữa bệnh mang danh điển quang, thì chỉ có những người si mê, còn mê tín dị đoan mới đến mà thôi, và khi các vị chánh thần bỏ đi, các vị tà thần đến, mọi người thấy nơi đó vẫn linh thiệng nhưng thật ra nơi này đã trở thành tà đạo vì bản thân người lãnh đạo không hề biết tu giữ giới, giữ thân tâm thanh tịnh thì làm gì có thanh điển mà chỉ có trược điển lại gọi là điển quang thì phạm tội vọng ngữ dối gạt người..
Điển quang là một loại năng lượng của chư Phật gồm âm thanh, ánh sáng, mầu sắc, trước khi mình thấy hiện tượng điển quang này thì tất cả các chư hô pháp đã có mặt hiện diện nơi đó, chúng ta sẽ thấy nơi đó quy tụ những người hiền tài đạo đức tập hợp, khi tất cả cùng nhau tu tập nếu ban đêm người ta sẽ thấy có vùng hào quang tỏa sáng lên. Ngược lại, tự nhiên những người hiền tài bỏ đi, mà nơi đó vẫn linh thiêng thì đã có tà thần đến trấn ngự dành cho những người không biết tu hành là gì, chỉ biết tham-sân-si, aí dục, phạm giới rủ nhau tụ đến mà thôi, thì nơi này biến thành mê tín dị đoan..
Để phân biệt được nơi linh thiêng nào là chánh đạo hay tà đạo thì hãy xem xét đạo đức của người tổ chức có tu hành nghiêm túc, có ăn chay, giữ giới, phát tâm hạnh nguyện bồ tát vô vụ lợi hay không.

Riêng về đạo ông bà thì thờ cha Trời, mẹ Đất, người cao nhất là ông Trời cai quản thế gian chỉ ở 2 cõi dục giới, sắc giới, còn mẹ đất sanh đẻ và nuôi dưỡng mọi vật trong đó có con người, có thuyết cho rằng đó là Phật Mẫu Diêu Trì, mọi con người từ người tu đã đắc đạo cho đến kẻ phàm phu cũng đều là con của Phật Mẫu, nhưng Phật Mẫu lại dưới quyền con của ngài là vị Phật tương lai Di Lặc, mà Phật Di Lạc là vị bồ tát bổ xứ lại thuộc bậc dưới của các vị cổ Phật, trong số các vị cổ Phật mỗi vị chủ quản một phuơng nên gọi là 10 phương chư Phật, thì chỉ có cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà là vua của chư Phật, ai niệm danh hiệu A Di Đà Phật thì được 10 phương chư Phật gia hộ, nên chỉ một danh hiệu A Di Đà Phật kinh sách đã nói là vua của các chú mật tông, vua của các kinh, vua của các chư Phật, nơi nào có tu học trì niệm danh hiệu ngài thỉ nơi đó không có tà thần hay điển trược nào dám đến quấy phá, và nơi đó chỉ chấp nhận những vị tu chân chính hiền tài đức độ đến tụ họp mà thôi..

Sở dĩ tôi viết bài này để qúy vị hiểu việc cầu ơn trên chữa bệnh chỉ là phương tiện mà các thanh điển của các vị hộ pháp trợ giúp cho người tu hành thời mạt pháp được khỏe mạnh không làm trở ngại đường tu của mình.

Vậy nơi nào dùng chữa bệnh bằng điển trược thì nơi đó chỉ là tà đạo quy tụ những người cùng tần số, tổ chức những buổi kỷ niệm giỗ tổ này tổ nọ để có cớ ăn nhậu phạm giới cấm thì mình không nên đến để khỏi bị trở thành lính của nhóm tà thần thi triển pháp thuật thần thông làm rối loạn trật tự xã hội. Những nơi này không bao giờ có điển thanh của các chư thiên hộ pháp huống chi là điển quang.
Bài viết này cũng được thanh điển trợ giúp để qúy vị phân biệt chánh tà.

Nam Mô A Di Đà Phật

Huệ Tâm Hải
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Phân biệt lợi hại khác nhau về Điển Quang và Nhân Điện

Gửi bàigửi bởi hoangthuynam » Chủ nhật Tháng 2 09, 2014 10:14 pm

Nhân điện, Điển quang, Tâm ấn, Pháp luân công - Hỗn độn âm dương
Thứ Bảy, ngày 11 tháng 1 năm 2014


Chào chủ nhà!
Mạt hậu, hậu tiến latuan những tưởng đã đến lúc “rửa tay, gác kiếm”, thoái xuất khỏi giang hồ. Nào ngờ được vài người bạn thương tưởng níu giữ nên chưa thể trở nên là người vô sự, vô vi. Lại có chút duyên lạc vào nhà của thiện tri thức nên tùy thời “cỡi ngựa xem hoa”. Vào rồi thì ra bất chợt lại thấy thương tấm lòng của chủ nhà vì đồng đạo mà mấy lượt “bôn ba, tìm dấu”. Chẳng lẽ đi không rồi lại về không dễ khiến cô phụ tấm lòng bi mẫn của chủ nhà với anh em đồng đạo thôi thì latuan tiện tay viết lấy vài chữ trên tường xem như là Thần tú trình kệ. Nếu được thì xin nhận lấy y bát làm Tổ nhược bằng hãy còn kém thì phiền chủ nhà dùng đế giày xóa dấu tích những lời thừa.
Vì nhận thấy tâm người động nên latuan nói lời vụng. Nếu chủ nhà cũng cho rằng “Chẳng do gió động, cờ động mà do tâm của latuan tôi động” thì hẳn tâm latuan động là thật vậy.
Latuan đường đột đến nhà mà không tự giới thiệu e có điều thất lễ nên xin có đôi lời tác bạch. Latuan xuất thân bần hèn, tự thấy đời là khổ nên tùy thuận học dăm câu kinh, vài lời Phật dạy. Dù vậy do kiến văn hạn hẹp, tri thức nông cạn nên việc góp nhặt của latuan lắm lúc được cái hồ đồ. Học hoài mà cũng không khá lên là mấy, việc đi thi lại có lúc đậu, lúc trượt nên lòng cũng chẳng mấy khi được an suốt. Nghe nói pháp thiền cũng hay hay nên cũng lượm lặt hành trì. Và cách nay hơn 3 năm có lẻ vào một đêm cuối đông chợt thức tỉnh nhận ra tự thân chưa từng sinh ra, đạt sự vô ưu bất tận. Sau một khoảng thời gian đủ lâu nếm trải niềm an lạc làm xác chết, cây khô giữa đồng chợt nghĩ tưởng đến từ bi tâm của Phật Thích Ca nên sinh lòng hổ thẹn “Nếu không chịu sống thì chết đi cho bớt chật đất”. Duy có điều duyên tận chưa đến nên latuan đành lập “am tranh, vách lá” mở cửa tùy duyên tiếp người. Đến nay cũng tạm xem đã không cô phụ Phật Thích Ca.
Thời gian thấm thoát trôi qua latuan cũng nghĩ đã đến lúc dừng lại, lui về sau ngơi nghỉ. Lại nghe Nhân điện - Điển quang - Tâm ấn - Pháp luân và việc náu loạn vô phép của cõi giới vô hình nơi nhân gian khiến latuan thêm một lượt vào đời khất thực.
Nếu bảo latuan vì danh, vì lợi, vì ngã, vì tham, vì sân, vì si, vì mạn,… mà “lòi mặt chuột” thì latuan cũng đành không tự ti, mặc cảm mà khẳng khái nói rằng “Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn”. Dẫu rằng mượn lời của Phật Thích Ca từng thể hiện nhưng latuan tự biết lòng không hổ thẹn.
Nếu chủ nhà thấy chướng về đại ngã của latuan thì hãy giáng cho latuan một gậy cho chết tươi để latuan trở về vô ngã. Nếu được như vậy thì thật đáng quý cho latuan.

Thôi quay lại chính đề liên quan đến bài viết của chủ nhà.
Dựa vào kiến văn dàn trải của chủ nhà thì latuan tôi cạn nghĩ việc học của chủ nhà về tâm linh, tôn giáo cũng vào hạng uyên bác kim cổ, tôi tạm xem chủ nhà là học giả vậy. Vì rõ biết chủ nhà do mến tiếc người đời, sợ e người đời lầm đường, lạc bước sa vào tà đạo mà ảnh hưởng đến nghiệp nhân quả, việc tu hành, đời sống,… nên chủ nhà mới mở lời cảnh tỉnh, bảo ban. Tấm lòng của chủ nhà khiến latuan thật lòng cảm phục.
Nhưng latuan vụng về nói thẳng “Nếu chủ nhà cho rằng việc làm của nhóm người tạo ra nhân điện, điển quang là sai trái, là trục lợi, làm loạn chánh đạo,… những việc làm hoàn toàn sai” thì latuan cũng xin hỏi thẳng “Chủ nhà có dám chắc rằng những lý luận “bắt lỗi” người của chủ nhà là luôn đúng, và việc làm trên của chủ nhà là không hề có sai sót không?”.

Thiết nghĩ, nếu dựa vào việc giúp con người quay về hướng thiện, sống với tình thương bao dung thì không hẳn đã hoàn toàn sai. Dù có sai thì trong sai vốn đã có đúng. Hơn nữa cho dù thầy xấu không hẳn tất cả trò đều hư, hoặc dù trò có hư thì không thể bắt lỗi rằng do họ có người thầy rất xấu.
Con người chẳng phải tiến bộ là do biết hối cải, biết sữa chữa, khắc phục những lỗi lầm?
Dựa vào khả năng học giả trên phương diện tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo để luận việc của hành nhân, hành giả, về các cõi giới, các yếu tố tâm linh vô hình liệu có thể chạm đến điểm tột cùng của sự thật? Việc làm đó liệu có là việc làm chuẩn mực, luôn đúng mà một vị học giả có thể làm tốt không?
Dựa vào lập ngôn của chủ nhà thì latuan cả nghĩ chủ nhà không chỉ là học giả mà còn là một hành nhân, một hành nhân chưa thấu triệt hoàn toàn để làm một Giác giả. Vậy nên một hành nhân chưa hoàn toàn liệu có thể có được cái nhìn đúng thật, khách quan mà không còn trói vào cái tôi - cái bản ngã chủ quan để xét đoán tận cùng việc làm và chân tướng một hành giả bị rơi vào đại ngã không?
Dẫu biết rằng là vì người mà lao tâm, không vì tranh hơn, luận thắng mà biện giải. Tuy nhiên, nếu biện luận đúng mực, chuẩn và dồn người vào đường cùng để người sáng mắt thì thật tốt. Nhưng nếu trưng ra những bằng chứng không chuẩn, thiếu tính thuyết phục phải chăng sẽ tạo ra những tranh cãi không hồi kết và không đi về đâu? Kết quả là tất cả đều nặng nề.
Chủ nhà đã luận về vấn đề tâm linh, về những vấn đề siêu hình,… mà dùng cơ sở khoa học chủ quan ngày nay biện giải thì liệu có đúng mực? Vì sao?
Vì khoa học hiện nay vốn không đội trời chung với vấn đề tâm linh siêu hình.
Phản biện này của latuan xin hỏi chủ nhà có chỗ nào lầm lỗi? Nếu có mong chủ nhà đoái thương “mở mắt” giúp thì thật là có ơn trọng với latuan.
Còn về pháp tu tánh, luyện mạng qua cách luận giải của chủ nhà thật sự đã có lỗi lớn. Pháp tu này kỳ thực chẳng do Sơ Tổ Đạt Ma đem từ Ấn Độ qua Trung Quốc. Theo lời chủ nhà pháp tu được truyền thừa qua 6 đời Tổ, đến đời Lục Tổ Huệ Năng thì được rộng truyền trong chốn tòng lâm là điều không tột lý.
Người học Phật chân chính chỉ cầu giác ngộ, giải thoát hoàn toàn, rời xa luân hồi thường chẳng lấy việc sinh tử làm trọng, tùy thuận sống sót, độ đời thì đâu có lý tham sống nhằm kéo dài mạng huyễn. Việc can thiệp nhân quả của mỗi người càng không thể tùy tiện xen vào, chỉ tùy duyên khai mở trí người mê, giúp người phát khởi bồ đề tâm, dấn thân đường chánh đạo. Thế nên không có việc 6 đời Tổ đam mê luyện tánh, tu mạng hấp thu tinh hoa trời đất nhằm sống thêm lâu.
Thêm một chi tiết bổ sung về Sơ Tổ, Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma vốn không thể là người võ nghệ kinh nhân, điều đó chỉ là ngụy thư, là truyện kiếm hiệp theo kiểu 3 thực, 7 hư và do phim ảnh làm rối mắt nhau. Thực tế là ngay trong chốn tòng lâm thời đó đã có người kỳ thị chủng tộc gọi Sơ Tổ là Tên rợ mắt xanh, và miệt thị là gã què. Sở dĩ Sơ Tổ bị gọi là gã què có thể vì Sơ Tổ ít khi đi lại, ưa thích tọa thiền và hậu quả của 9 năm ngó vách của Sơ Tổ tạo ra một gã què tạm xem còn sáng mắt nơi chốn tòng lâm. Vậy nên càng chẳng nên coi Sơ Tổ là người khai sáng pháp môn tu tánh, luyện mạng.
Pháp tu tánh, luyện mạng thực chất là sự hòa trộn của đạo Phật (Ấn Độ) và đạo Lão - Trang (Trung Hoa). Khi mà người học Phật không còn sáng rõ chánh pháp Phật Thích Ca, lẽ ra là hành chánh pháp nhằm rời xa sinh tử luân hồi kẻ hậu học mắt mù lại đi ham mê sinh tử “dối đời, gạt mình” tạo ra pháp tu tánh, luyện mạng rồi bảo rằng là của báu Phật Thích Ca. Nhưng chính thật là lối tu ngoại đạo, tạo ra tiên cảnh - xuất thế, thoát tục ra khỏi luân hồi 3 cõi kỳ thực là chưa từng thoát ra lưới mộng. Vì sao? Vì còn ham thân, ham sống,… mà còn sống tự khắc là còn chết. Thế nên, bảo pháp tu tánh, luyện mạng là của Phật Thích Ca là có lỗi lớn. Đừng nên trong mộng nói lời mê.
Ngay cả Tinh - Khí - Thần cũng không là sản phẩm của Phật Thích Ca. Dù vậy cũng không thể nói Tinh - Khí - Thần không thuộc đạo Phật nên là sai thì lại vấp lỗi lớn, là đại vọng ngữ. Phàm việc gì làm lợi ích cho người thì không thể tùy tiện nói là làm sai, vì trong sai vốn có đúng, trong đúng vốn có sai vậy.
Vía, phách, Phật mẫu,… cũng là sản phẩm của ngoại đạo và có lẽ ngoại đạo chưa từng chỉ rõ lối thoát cho vía, phách rời xa 3 cõi nên dùng vía phách làm cơ sở biện luận càng thêm rối trí người.

Vậy nên dùng luận thuyết của chủ nhà “điểm chỉ” nhân điện, điển quang cơ hồ… tựa như bị vô hiệu.
Đối với điển quang, nhân điện,… latuan tôi vốn không mấy quan tâm nhưng vì đi đường bị vướng dây nên thôi cũng tiện tay dọn dẹp.
Muốn động đến nhân điện, điển quang thì vô hình chung latuan lại phải chạm đến những vị hành giả cao niên. Thiết nghĩ những năm gần đây, sợi dây vô hình nơi thế giới tâm linh bị người đời vô trí giành giật lung tung khiến cho lũ chúng sinh nơi cõi giới vô hình phóng túng làm càn,… gây rối loạn 3 cõi. Thật là đáng tiếc!
Nào là thiền vô vi, điển quang, nhân điện, pháp luân công, rồi tâm ấn cách không thủ,… nghe cứ như là phong thần truyền kỳ tái xuất giang hồ. Nếu bảo điển quang, nhân điện là có thì Tâm ấn cách không thủ, Pháp luân thường chiếu đâu dễ bảo rằng không. Lý giải điển quang, nhân điện như trên thì định nghĩa pháp luân, tâm ấn sẽ là gì cho hợp tai, phải lẽ? Phải chăng rối càng thêm rối? Rồi mai này lại có thêm một vài sản phẩm Phong thần tiếp tục ra đời chỉ e người trí cũng hóa khùng.
Thật ra các món trên vốn chỉ có một nguồn gốc từ vô hình mà khoa học nhúng mũi vào gọi là năng lượng vũ trụ cùng trường sinh học cá nhân. Bảo chúng là 1 cũng không đúng, bảo chúng là 2 cũng chẳng phải. Do vậy trong người luyện nhân điện vốn có điển quang, trong người luyện điển quang vốn có nhân điện. Thật sự không có sự tách rời hoàn toàn và riêng biệt, điển quang - nhân điện chỉ do cách dùng và tâm phân biệt mà có sự khác nhau.
Khi hợp nhất thì năng lượng vũ trụ và trường sinh học con người làm sao mà phân biệt? Đều là những thứ vô hình và phân biệt làm gì cho mệt óc?
Chỉ nên dựa vào mục đích sử dụng mà tạm phân tà chính cũng như việc theo và không theo. Một số người dùng điển quang, nhân điện chân chính dựa vào sự cộng hợp trường sinh học giúp người hết bệnh thì cũng như việc chủ nhà lập môn quy dùng khí công y đạo cứu người. Việc này dường như không có lỗi. Còn việc mà môn đồ hay tông chủ làm sai chánh pháp, rơi vào hám danh, trục lợi thì cũng là lẽ thường. Chủ nhà có dám khẳng định rằng sau này số môn đệ của chủ nhà không rơi vào đường tà, lối rẽ, “dối trên, lừa dưới”, gồm thâu lợi dưỡng, lợi danh. Nếu không thể khẳng định thì việc bắt lỗi người nên chăng hãy xét lại nơi tự kỷ.
Đưa người đành đưa qua sông
Tiễn Phật cũng nên tiễn tới miền cực lạc.
Muốn hạ bệ nhân điện, điển quang với latuan là việc úp bàn tay, ngửa bàn tay. Tuy nhiên, việc làm phải khế hợp, tùy thuận.
Xét lại các vị Tông chủ của nhân điện, điển quang, Pháp luân công, Tâm ấn,… họ là ai, mục đích và việc làm của họ cần nghiêm túc mổ xẻ, đánh giá.
Tông chỉ và điểm đến của pháp hành ở các pháp tu cần phải rõ ràng. Cứu người hay lợi mình cần phải rạch ròi. Thật không thể lờ đờ nước đục.
Có lẽ khó thể nhận biết mục đích của các trường phái nhân điện, điển quang, pháp luân công, Tâm ấn,… là gì? Vì lẽ nếu bảo là tôn giáo thì không đúng, bảo con đường tu đạo tìm sự giải thoát thì tựa hồ chẳng phải, là một tổ chức xã hội, một tổ chức từ thiện, một tổ chức thiện nguyện cứu giúp người,… cũng lại chẳng thật giống…
Một hệ thống làm việc mà không rõ tông chỉ, mục đích,… thì kết quả sẽ là sự tan rã. Và thực tế là đã có sự va đập, đổ vỡ,…
Có vẻ như cả 4 trường phái trên cùng lấy mục tiêu tình yêu thương, tiến tu làm chiêu bài hành pháp. Và dường như cũng có rất đông những người theo học, việc dùng năng lượng vô hình cũng phát huy những hiệu quả thiết thực. Vậy nên hiển nhiên đây là điều có thật, nằm ngoài sự hiểu biết tạm thời của khoa học hiện tại. Vì lẽ đó nên Tông chủ của 4 pháp tu này vốn là một hành giả. Tuy nhiên, hành giả lại có nhiều cấp độ. Có không ít hành giả chỉ là hành nhân, có người trội hơn 1 ít nhưng để đạt đến hành giả chuẩn thì dường như tất cả đều không đạt.
Vì sao?
Vì việc làm của họ đều vướng nơi Đại ngã, tâm còn lắm mong cầu. Vậy nên họ không thể là 1 vị hành giả đúng mực hay nói đúng hơn họ chưa bao giờ là một vị Giác giả hoàn toàn.
Thoạt nhìn thì có vẻ như Pháp luân, Tâm ấn, Điển quang, Nhân điện,… là rất khác nhau. Cụ thể là nhân điện nói đến việc ban phát tình thương thánh thiện, điển quang nói đến pháp tu vô vi, Pháp luân công thì nói về Chân Thiện Mỹ, Tâm ấn với tốt đời, đẹp đạo… Cách hành pháp, mục đích ra đời bộc lộ ra bên ngoài ở các hệ thống tổ chức trên đều thể hiện tiêu chí vì người và dường như có rất nhiều sự sai khác giữa các tổ chức. Nhưng kỳ thực đều ẩn tàng mục đích tối hậu là tìm về sự giải thoát cho chính học viên và Tông chủ. Vai trò của Tông chủ được đặt lên cao tột, nhằm tạo ra hấp lực tín tâm. Thượng đế được đặt ở vị trí tối cao và vị Tông chủ là người có khả năng gắn kết cùng truyền dẫn tín hiệu. Dường như có một thực chiêu được che giấu trong dụng tâm của một vài vị Tông chủ đó là chiêu “Mượn hoa dâng Phật” nhưng Phật không có giá trị sử dụng đối với các vị Tông chủ nên đây chính thật là kỳ chiêu “Mượn hoa dâng Thượng đế”. Một vài vị Tông chủ lại có dụng tâm “mượn đạo, tạo đời” gồm thâu lợi dưỡng, lợi danh,… Sở dĩ họ làm như vậy là vì họ tin rằng họ đang đi đúng hướng, đang rất tiến hóa, không thể lui sụt và đã gần kề với sự giải thoát hoàn toàn. Với những vị Tông chủ có bụng dạ như thế bạn sẽ dễ dàng nhận ra chân tướng thông qua việc gom góp tài sản, của cải, bạc tiền và người tình,… Vì sao? Vì đã gần đến sự giải thoát rồi mà còn tích lũy tài vật, gia sản để mà làm gì về nơi giải thoát hoàn toàn làm sao mà xài được.
Điểm qua giáo lý của 4 vị và cả cách hành của Tông chủ cùng đội ngũ kế thừa thì bạn sẽ dễ dàng nhận ra chúng gần như có chung một nguồn cội. Một sự góp nhặt chấp vá, giáo lý kinh điển của các tôn giáo truyền thống thừa nhận có Phật, có Thượng đế và Thượng đế là Đấng Tối Cao. Đây là yếu điểm chết người của những vị hành giả. Điều này giúp latuan nhận diện được họ ở tiền kiếp hoặc việc họ đang kế thừa là công việc của lực lượng, thành phần tôn giáo lâu xa nào trong quá khứ. Do vậy họ có thể là những người đã tu tiên của pháp tu Tánh mạng song tu với nguyện lực phổ độ chúng sinh của dòng tu Lão - Trang (Trung Hoa), Cao Đài và Hòa Hảo (Việt Nam), họ đã trở lại và theo đuổi pháp tu ngày trước dù rằng họ không ý thức được điều đó. Hoặc là họ đã “bắt” tín hiệu với thành phần vô hình ở các nhóm Tu Tiên. Mộng trường sinh bất tử, mộng tiên cảnh nên họ cả tin Thượng đế là Đấng Tối Cao. Do có “ân oán” từ trước nên việc chạm đến vô hình được khai mở nhưng điều đó không đồng nghĩa với trí tuệ được khai mở, họ vẫn tiếp tục đi theo đường tà, lối cũ cùng nguyện lực phổ độ.
Tại sao tôi lập ngôn cho rằng họ chưa được khai mở tuệ giác?
Vì nếu thật sự khai mở tuệ giác họ đã không đặt Phật cùng Thượng đế chung 1 mâm và Thượng đế sẽ không thể là Đấng quyền năng tối thượng. Phật vốn là giả danh, vốn chẳng thật có vì đã giải thoát hoàn toàn thì sao có thể cùng Thượng đế phân ngôi cao thấp. Thật chẳng tột lý! Thế nên họ thật chưa chạm đến sự giác ngộ tận cùng, chỉ là hành nhân tỏ ngộ được chút ít.
Do được trợ giúp từ nguồn lực vô hình nên họ cả tin chính Thượng đế đã tương trợ và Thượng đế là cao nhất. Cảnh do tâm sinh nên cõi giới vô hình đã giả danh xác lập điều đó khiến họ càng thêm tin tưởng tín tâm. Việc làm cứu người là việc tốt nên họ đã gia tăng định lực và phổ truyền sự tín tâm đến chúng học viên và tạo ra hợp lực trường sinh học. Nhưng vì tâm ý học viên không đồng, dụng tâm lại có khác nên dẫn đến cảnh nồi da, xáo thịt. Đại ngã của Tông chủ cũng được chúng học viên kế thừa, phát huy. Cùng với việc nhúng mũi làm càn của lực lượng vô hình dính mắc tác động vào hệ tư tưởng, tinh thần của những học viên đã khiến cho các hệ thống tổ chức ô hợp, manh múng trên càng thêm hỗn loạn, rối ren.
Tin rằng chính những vị Tông chủ ở trên thật sự không liễu nghĩa từ Giác Ngộ và việc Giải thoát hoàn toàn. Họ thật sự vẫn còn quẩn quanh chưa rời xa Tam giới và họ đang cố níu giữ một thành quả đã được gửi gắm nơi các môn đồ. Nhưng sự níu kéo này sẽ là vô ích, đại ngã nơi môn đồ sẽ sớm thoát thai một môn đồ, thậm chí chỉ là một đồ tôn “diệt Sư, khinh Tổ” không chóng thì chầy. Vì vậy họ không thăng thì cũng có lúc phải siêu.
Thật đáng tiếc! Nếu mãi hoài nuối tiếc thì làm sao có thể siêu thăng, đúng không các vị Tông chủ?

Can thiệp trực tiếp vào nhân duyên nghiệp quả của chúng sinh khác là điều mà hành giả, học nhân,… chẳng nên làm. Nhất là đối với những nẻo giới vô hình. Đó không phải là từ bi tâm, là tình thương mà là việc làm chạm vào lý nhân quả khách quan, công bằng. Việc làm dễ thường rước khổ não, tham sân si, nghiệp lực,… Đối với quy luật nhân quả khách quan thì người hành giả chỉ nên xử sự tùy thuận, khách quan và gián tiếp. Cụ thể là chỉ bằng vào việc khuyên giải, hướng dẫn, chỉ bày lối đi còn việc đi con đường nào thì phải do mỗi người, mỗi chúng sinh tự chọn lựa lấy.
Với những người học viên Nhân điện, Điển quang, Pháp luân công, Tâm ấn,… latuan mong rằng các bạn sẽ được tham khảo bài viết bên trên của chủ nhà, cũng như ít lời latuan bộc bạch ở bên dưới nhằm sáng rõ con đường mình sẽ đi sau này. Sống vì tình thương, vì từ bi tâm nhưng cũng cần đến trí tuệ sáng suốt để không đi vào đường cùng, lối rẽ. Hãy nên xác định sáng rõ, minh bạch mục đích và điểm đến sau cùng.
Hãy làm việc ban trải tình thương một cách thánh thiện, không vụ lợi. Hãy nên sống tĩnh tâm, buông xả, đừng để pháp trói sẽ dễ rơi vào ma đạo. Cũng đừng quyết liệt thoát ly, phần vô hình đang dính mắc vốn chẳng dễ dàng buông sẽ nắm bắt được tâm ý thoát ly và ra sức gây rối, làm phiền do vậy nên cứ thong dong, thư thả. Thời gian sẽ làm định lực của nẻo vô hình phò trợ phai nhạt, phát chán những học viên lười. Thế là … tự dưng lấy lại được sự tự chủ, an lạc.
Hãy hành trì quay về sự rỗng lặng, an tịnh của thiền định nhưng cũng đừng nên khổ luyện dụng công mọi việc làm cứ thư thả, tự nhiên.
Sống và ban phát tình thương - Thật là một cách sống đẹp rất nên được gìn giữ và tùy thuận. Người học nhân muốn đạt được sự giải thoát hoàn toàn, thanh thản, an lạc rất nên lưu tâm pháp xả. Phàm việc gì cũng có thể cầm lên được và buông xuống được đó là việc mà học nhân nên hành trì, tập buông bỏ dần những dính mắc, cột trói.
Việc giải thoát hoàn toàn bảo dễ thì thật không dễ, bảo khó thì cũng không khó. Điều cốt yếu là có rõ con đường, lối đi hay không mà thôi. Nếu rơi vào đại ngã và chấp giữ thì việc giải thoát sẽ chướng ngại, khó vượt. Nếu biết sống tùy thuận, hành trì buông bỏ Tham sân si mạn nghi, vì người quên mình thì việc giải thoát hoàn toàn cũng dễ dàng như hoa rơi, lá rụng,… Nếu sáng rõ lối đi và giữ vững chánh định thì sẽ có lúc hoát nhiên đại ngộ, tự biết đã qua sông dù còn bôn ba nơi hiện kiếp.

Latuan này không từng luyện qua điển quang, nhân điện,… nhưng do có ý vạch rõ sự chân ngụy nơi nẻo giới vô hình đã bị các vị ở cõi vô hình “bắt” được tín hiệu và đến “hỏi thăm” làm khó. Tuy nhiên, latuan xử sự khách quan, tùy thuận chánh pháp mà ra chiêu cùng với việc mở lời biện giải nên có không ít vị chấp nhận quay đầu, số không phục bỏ đi vì rõ biết không thể, không dễ làm khó latuan. Đây là lời thật latuan chẳng ham dùng huyền bí dối gạt 3 cõi mà thêm nhọc lòng latuan về sau. Cũng mong rằng những người mới đừng vì thế mà cuồng tin, mê tín.
Chạm vào vô hình, can thiệp tâm linh vốn chẳng có gì hay, chẳng do tài giỏi, không phải là việc đáng làm. Latuan không ít lần “đối mặt” với cõi giới này nhưng ít khi chủ động, đa phần chỉ do họ tự tìm đến mà ra sự việc huyền vi.
Không phải là latuan không thể tìm đến họ, nhưng latuan thấy “Tìm đến họ không đáng, không để làm gì” nên không tìm. Thế nên Latuan tùy khách đến đi mà tiếp, việc tiếp khách cũng đã mấy phen thời may là chưa đến nỗi bị mất mặt. Trước đã thế, sau này vẫn vậy với cõi giới vô hình latuan không móng cầu tìm gặp thường làm chủ tiếp người, ít làm khách viếng thăm người. Mọi sự tùy duyên.

Latuan đã nhiều lời nông nổi. Mong rằng chủ nhà thức tỉnh và đoái thương dòm qua latuan 1 cái xem thử latuan là Đống Phân Bò hay là người bạn khó chơi tham lam.

Nếu rõ biết tự thân còn nơi lưới mộng thì mong chủ nhà nghĩ đến câu “Quay đầu là bờ”, coi chừng và kiểm soát cái đại ngã nơi Thân - Khẩu - Ý.
Nếu những điều latuan nói là lời bẩn thì cảm phiền chủ nhà tùy tiện xóa sạch. Nhược bằng là liều thuốc đắng đáng uống thì chủ nhà cũng nên đề bút sám hối, việc làm giúp cho latuan học hỏi và bạn đồng đạo một phen được cởi mở tấm lòng. Mong rằng chủ nhà không vì giận, buồn mà xóa bài viết chính.
Latuan tùy duyên lạc lối nên nhiều lời e rằng sau này cũng ít dịp ghé sang làm phiền não chủ nhà. Latuan xin từ tạ. Chúc chủ nhà năm mới an lạc, khỏe mạnh, hạnh phúc và tinh tấn bồ đề tâm.
Nếu latuan vì muốn tranh hơn với chủ nhà, làm việc vì tư tâm thì latuan nguyện đọa địa ngục vô gián. Cũng xin chủ nhà đừng vì lời này mà cho rằng latuan hành theo hạnh nguyện của Địa tạng vương Bồ tát. Bởi do một mai nếu còn gặp Địa tạng vương bồ tát latuan sẽ tiếp tục hóa độ ông ta như đã từng hóa độ rất nhiều vị Phật, bồ tát vào niết bàn tịch diệt.

Đi như vầy nhiều khi khiến chủ nhà hờn giận, phiền não mà không có chỗ xả nên latuan sẽ viết lại địa chỉ am tranh để khi cần chủ nhà còn biết chỗ đặng hỏi tội kẻ xấc xược, doavouu.blogspot.com là chồi lá của tiểu bối hậu học.
Nếu latuan có chỗ đắc tội thì chủ nhà cứ sang tệ xá mà đòi lẽ công bằng. Nếu latuan tội nghiệp sâu nặng thì chủ nhà cứ việc đốt trụi am tranh, mái lá. Có khi nhờ am tranh bị hủy mà latuan được giải thoát cũng nên. Thế đôi khi lại thành hay - Trong họa được phúc.
Cảm ơn bài viết của chủ nhà! Bởi do bài viết của chủ nhà cùng 1 số tài liệu liên quan đến điển quang, nhân điện, tâm ấn, pháp luân công,… góp nhặt khiến latuan phải phát cuồng khai khẩu cho ra đời một bài viết không đầu mà lại có đuôi - Nhân điện, Điển quang, Tâm ấn, Pháp luân công - Hỗn độn âm dương

------------------------------


Thưa Thầy,
Một người quen của em muốn post bài này mà không vào được nick, nên em mạo muội làm thay. Đúng sai hay dở thế nào em không dám bàn, nếu có gì gọi là bất nhã kính mong Thầy thông cảm ạ. Năm mới em kính chúc Thầy cùng gia đình được vạn sự như ý, chúc Khí công Y đạo ngày càng lớn mạnh.
TB: Em sơ xuất post bài bị lỗi, xin sửa lại cho đúng nguyên bản. Xin cảm ơn Thầy.
Sửa lần cuối bởi hoangthuynam vào ngày Thứ 3 Tháng 2 11, 2014 7:20 am với 1 lần sửa trong tổng số.
hoangthuynam
 
Bài viết: 282
Ngày tham gia: Thứ 5 Tháng 12 22, 2011 1:10 pm

Re: Phân biệt lợi hại khác nhau về Điển Quang và Nhân Điện

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 2 Tháng 2 10, 2014 12:17 am

Xin chân thành cảm ơn hành giả latuan đã khai ngộ, mong nhận được sự lưu tâm và chỉ giáo thêm của hành giả cho hàng hậu học

A Di Đà Phật
Huê Tâm Hải
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am


Quay về Tâm Linh / Tôn Giáo

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến7 khách