NGÔN HẠNH CAO ĐẸP CỦA MƯỜI BA VỊ TỔ LIÊN TÔNG.

NGÔN HẠNH CAO ĐẸP CỦA MƯỜI BA VỊ TỔ LIÊN TÔNG.

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 8 06, 2013 11:03 am

NGÔN HẠNH CAO ĐẸP CỦA MƯỜI BA VỊ TỔ LIÊN TÔNG. 
Nguyên tác: Lương Vĩnh Khang, Việt dịch: Thích Nguyên An
 
I. LỜI NÓI ĐẦU 
Thuở xưa, đức Thích Tôn nói kinh Vô lượng thọ tại núi Kì-xà-quật, nói kinh Quán vô lượng thọ tại thành Vương-xá và nói kinh A-di-đà tại vườn Kì Thọ Cấp-cô-độc, đều nhằm chỉ bày nhân quả của cõi Tịnh độ A-di-đà, nói rõ pháp môn Vãng sanh Tây phương. Nền tảng của Tịnh độ tông do đây được định hình.
 Cõi Tịnh độ không có các khổ, hoàn toàn chỉ có sự an lạc, luôn chỉ dạy người xả bỏ tư tưởng nhơ uế, cầu sự thanh tịnh; muôn chim, cỏ hoa, ao hồ, vườn nhà đều bằng bảy báu an lạc; ở đây ai cũng vui thích chứng đạo xuất thế. Với lòng từ bi, trí tuệ thiện xảo, đức Phật chỉ dạy pháp môn trì danh hiệu Phật. Pháp môn ấy thật là vi diệu đặc biệt, công đức của nó không thể nghĩ bàn. Những lời giáo huấn quí báu này tuy bắt nguồn từ Ấn Độ, song rất thích hợp với hầu hết mọi căn cơ người dân Trung Hoa, nên nó đã thâm nhập một cách thịnh hành trong nhân gian. Mãi đến nay, những lời giáo huấn quí báu ấy vẫn xuôi về Đông độ, ngài Viễn Công khai sáng, các bậc thạc đức của Liên tông truyền thừa lớp lớp cho đến đại sư Ấn Quang, cả thảy là mười ba vị tổ, đều hoằng dương thịnh hành, người đời sau rất tôn sùng.
 Nói tóm lại, mười ba vị Tổ Liên tông, mỗi ngài có mỗi công hạnh đặc biệt khác nhau, như ngài Huệ Viễn mở hội niệm Phật, khai sáng Liên tông. Ngài Thiện Đạo hành đạo Bát-chu, hộ trì phẩm giới. Ngài Thừa Viễn với thân hình ốm yếu, khuôn mặt dị kì. Năm hội niệm Phật của ngài Pháp Chiếu bay khắp muôn phương, giác tỉnh cung cấm. Ngài Thiểu Khang xin tiền cho lũ trẻ, tiếng niệm Phật vang khắp các nẻo đường. Pháp Thiền-Tịnh song tu của ngài Vĩnh Minh đề xướng, như hổ thêm sừng. Ngài Tỉnh Thường chích thân lấy máu chép kinh, thanh danh động cả đất trời. Ngài Liên Trì tụng kinh, mãnh hổ qui phục, niệm Phật mưa khắp đồng khô. Ngài Ngẫu Ích xem tạng, thông luật, trước thuật, làm cho tông môn một đời hưng long. Bằng thanh kiếm tuệ thiên trường, ngài Tiệt Lưu chém sạch ma phiền não. Ngài Tỉnh Am thấu triệt tánh tướng, làm văn Phát Bồ-đề tâm. Ngài Triệt Ngộ hoằng pháp ở Hồng Loa, tông phong cực thịnh. Ngài Ấn Quang lấy luân thường đạo lí làm gốc, không câu nệ hình thức.
Cả mười ba vị tổ, không vị nào là không kiện toàn trí đức. Các ngài đồng có chung một sở trường đặc biệt là khuyến khích tất cả các hạng căn cơ, nhất là hạng độn căn nên phát tâm nhàm chán cõi ngũ trược nhơ uế này, sanh tâm ưa thích Tịnh độ. Với sự hướng đạo của các ngài, khiến cho người trí biết được các nỗi khổ, theo pháp thoát li. Những lời nói tốt đẹp và hạnh đáng kính của các ngài, đến cả pháp sư còn phải trịnh trọng nương theo đó để toát yếu, ghi thành sách, tin nhận mà tự sách tấn mình.
 
1. ĐẠI SƯ HUỆ VIỄN - Tổ Liên tông thứ nhất-đời Tấn 
Sư họ Giả, người Nhạn Môn, thuở nhỏ đã bát lãm Lục kinh và học thuyết Lão, Trang.
Năm mười một tuổi, nghe pháp sư Đạo An giảng kinh Bát-nhã, sư liễu ngộ mà xuất gia, lấy việc hoằng pháp lợi sanh làm nghĩa vụ trọng yếu.
Sau khi vào Lô Sơn, thấy phong cảnh đẹp đẽ nhàn tịch, sư bèn kết cỏ tranh làm nhà, giảng kinh Niết-bàn. Kính phục tài đức của sư, Quan Thứ sử Hoàn Y tâu lên vua, xin lập một ngôi Phật tự. Lòng chí thành của ông cảm đến long thiên, giông tố nổi lên, chuyển cây đến dựng chùa Đông Lâm, đào ao trồng sen, nên gọi là Liên xã. Sư tập hợp chúng, sáu thời niệm Phật cầu sanh Tây phương. Đây là sự khởi đầu hình thành Liên tông ở Trung Quốc.
 Ở trên núi hơn ba mươi năm, tuy được vua triệu thỉnh nhưng sư cũng không xuống. Song, khi nghe ngài Cưu-ma-la-thập nhập Quan (Quan Trung), sư liền viết thư hỏi đạo, hai ngài thảo luận với nhau rất tâm đắc, đạo phong ngày càng cao viễn, người người đều hướng về. Lúc sư mới kết xã niệm Phật, có một trăm hai mươi ba vị tham gia, đều là những bậc long tượng và các nhà Nho. Sư sai Lưu Di Dân làm văn thệ nguyện khắc lên bia đá.
Vào cuối đời của Viễn Công, những người nhập Liên xã tu Tịnh nghiệp được vãng sanh rất nhiều. Từ đó, chùa Đông Lâm trở thành trung tâm Phật giáo phương Nam, vườn Tiêu Dao của ngài Cưu-ma-la-thập ở Trường An phương Bắc cũng vang lừng khắp nơi. Năm thứ mười hai niên hiệu Nghĩa Hi, ngài Viễn Công thấy Phật xuất hiện, liền đoan tọa nhập diệt, thọ tám mươi ba tuổi. 
Sư nói: “Thế nào là niệm Phật tam-muội? Niệm Phật tam-muội là ý chuyên nhất, tưởng vắng lặng. Ý chuyên nhất thì tâm không tán loạn, tưởng vắng lặng thì thần sáng, khí nhẹ. Khí nhẹ thì thân tâm khinh an, thần sáng thì không gì không thấu triệt. Đây chính là diệu dụng tự nhiên của định-tuệ hợp nhất.” 
Đối với chỗ chính yếu trong sự tu tập, sư dạy: “Người phụng hành pháp của bậc hiền Thánh, nên tư duy cho hợp với lẽ phải. Luôn nghĩ thời gian qua mau mà lo tích tụ các công đức, thường phải tẩy rửa thân tâm cho được thanh tịnh, ngày đêm chuyên cần, thậm chí quên cả ngủ nghỉ; có vậy công đức mới được viên dung, thông suốt ba thừa, vượt qua tất cả, có khả năng dẫn dắt kẻ yếu đuối tinh tấn tu tập, làm chỗ nương cho người đời sau.”
Trong Tri môn sùng hành lục nói: “Vào đời Tấn, Huệ Vĩnh và Viễn Công ở Lô sơn. Nhân (Tấn An Đế) tập trận qua Hổ Khê, Trấn nam tướng quân Hà Vô Kỵ giữ Tầm Dương thỉnh ngài Huệ Vĩnh và ngài Viễn Công (ra nghinh đón nhưng Huệ Viễn cáo bệnh). Số người nghinh đón ông ta có hơn trăm người, đứng trang nghiêm thứ tự”.
Lại chuyện, Tống Chu Hy1 đến chùa Đông Lâm, thấy hình tượng Viễn Công, nói với người cùng đi: “Ngài Viễn Công nếu không xuất gia, thì không làm quan lớn, ắc cũng làm tướng cướp.” (ý nói tướng quí ngài Huệ Viễn không làm được việc lớn cũng làm được việc nhỏ) (trích Châu tử ngữ lục).
Lại trong Cao tăng truyện nói: “Ngài Viễn Công thần sắc nghiêm dung, tiếng nói êm diệu, khuôn mặt vuông vắn, cương nghị, ai trông thấy cũng kính sợ.”
Một bậc cái thế như vậy, ai cũng kính phục, chẳng phải là người phàm thường, chắc chắn cuộc đời của ngài rất đặc biệt, thật xứng đáng để chúng ta noi theo.
Cuộc Đời-Tư Tưởng Niệm Phật Của Đại Sư Huệ Viễn




Viết bởi Tuệ Dũng   
Pháp môn Tịnh độ là một trong muôn vàn pháp môn tu tập của giáo lý Phật đà. Nó được xem là pháp môn phương tiện thù thắng nhất mà đức Phật đã khéo léo mở bày đúng theo căn cơ của chúng sanh trong thế giới Ta bà. Chỉ cần niềm tin vững chắc, ước nguyện thành khẩn và nương theo giáo pháp thực hành thì nhất định sẽ được sự lợi ích sanh về thế giới Cực lạc. Cũng vì lẽ đó mà tông phái Tịnh độ đặc biệt được thịnh hành ở Trung Quốc.
Bàn đến tư tưởng Tịnh độ, không cần phải nói cũng biết giáo thuyết này xuất phát từ kinh điển Đại thừa. Cõi Tịnh độ vốn được kinh sách bàn đến rất nhiều, nhưng cõi Tịnh độ của riêng một đức Phật được thể loại kinh đặc biệt bàn luận, cũng như lời mọi người thường nói, thì chỉ có các cõi nước thanh tịnh của đức Phật A-súc, đức Phật Dược Sư và đức Phật A-di-đà.
Như nói cõi Tịnh độ của đức Phật A-súc thì có kinh A-súc Phật quốc; cõi Tịnh độ của đức Phật Dược sư thì có kinh Dược Sư Như Lai bổn nguyện. Nói đến cõi Cực lạc của đức Phật A-di-đà thì có kinh A-di-đà v.v…
Trong đó, những kinh giới thiệu về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà chiếm số lượng nhiều nhất. Điều này cũng dễ hiểu, vì những người tu theo pháp môn Tịnh độ ở Trung Quốc rất tôn sùng cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà ở phương Tây và vô cùng khát ngưỡng được vãng sanh về thế giới Cực lạc này.
Trong ba kinh Tịnh độ trên, đức Phật tuy giới thiệu cho mọi người cõi Cực lạc phương Tây nhưng nơi xây dựng cho tư tưởng Tịnh độ thành một tông phái độc lập, thì đó là ở Trung Hoa chứ không phải là Ấn Độ. Người tu pháp môn Tịnh độ thời nay điều biết đại sư Huệ Viễn ở núi Lô Sơn là người đầu tiên sáng lập ra đạo tràng Liên xã, để cầu nguyện vãng sanh Cực lạc. Nhưng theo sự ghi chép của sách cổ thì người đầu tiên cầu sanh Cực lạc là Khuyết Công Tắc đời Tây Tấn, rồi sau mới đến ngài Huệ Viễn ở triều đại Đông Tấn. Tuy nhiên, Khuyết Công Tắc chỉ là một người chuyên tu chứ chưa đem tư tưởng Tịnh độ quảng bá vào quần chúng. Người có tầm ảnh hưởng đến quần chúng và cùng tu tập pháp môn Tịnh độ với mọi người, đó là đại sư Huệ Viễn.
Những điều trên đây không ngoài việc giúp những người tu trì pháp môn niệm Phật hiểu rõ về vị đã sáng lập ra Liên tông. Phần dưới đây xin giới thiệu những nét đặc trưng về tư tưởng niệm Phật cũng như sự tích của đại sư Huệ Viễn để làm gương cho mọi người noi theo. 
***
Đại sư Huệ Viễn là người sống ở triều đại Đông Tấn, nhằm vào đời vua Thành Đế niên hiệu Hàm hoà năm thứ chín (Tây Lịch 334). Ngài sinh ở Nhạn Môn huyện Lâu Phiền (tức huyện Quách, Đại Châu, tỉnh Sơn Tây). Thuở nhỏ rất ham đọc sách, năm mười ba tuổi, ngài bắt đầu đến Hứa Châu tỉnh Hà Nam du học. Với bẩm tánh thông minh lanh lẹ, chẳng bao lâu đại sư đã làu thông Lục kinh và rất tâm đắc về giáo học của Lão Trang. Các bạn đồng học thời bấy giờ không những đối xử với đại sư một cách đặc biệt như bậc anh tú của Nho học, mà còn rất quý trọng và xem ngài là một người thành tựu rực rỡ nhất. Lúc hai mươi mốt tuổi, ngài muốn du hành đến Giang Đông tìm các bậc học giả nổi tiếng để nâng thêm tầm hiểu biết của mình, nhưng vì lúc ấy Trung Nguyên đang có nạn binh đao, giao thông ách tắc nên ngài không xuống phía nam được và đành ở lại Trung Nguyên. Tuy vậy, lòng thao thức đến việc học hỏi, cầu đạo của đại sư vẫn không suy giảm. Ngài luôn luôn mong ngóng gặp được một bậc minh sư để thỏa ước nguyện của mình. Đang lúc như thế thì ngài nghe đâu đại sư Đạo An đang xây dựng tự viện và giảng pháp ở Hằng Sơn, Thái Hành (tức châu Hỗn Nguyên, phủ Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây) nên vui mừng đến nơi ấy và bắt đầu theo học với đại sư. Gặp lúc thầy Đạo An đang giảng kinh Bát-nhã cho đại chúng, ngài Huệ Viễn vừa nghe xong liền có chút sở ngộ, và từ đó xin phát tâm xuất gia làm đệ tử đại sư. Sau khi xuất gia, ngài thường ước mong thấu đạt cương yếu của Phật pháp và xem đại pháp như là trách nhiệm của chính mình. Do đó, ngài luôn tinh tấn hành đạo, chẳng chút trễ nãi biếng nhác. Đại sư Đạo an thấy ngài có đầy đủ túc căn, lại hết lòng vì đạo pháp nên thường khen ngợi rằng: “Khiến cho Phật pháp lưu truyền rạng rỡ ở nước Đông (Đông Tấn) ấy chẳng phải là Huệ Viễn đó sao?”. Chỉ một lời này thôi chúng ta cũng có thể tưởng tượng tài đức của ngài như thế nào rồi.
Về sau, khi ở Tương Dương, đại sư Đạo An đã cho đệ tử của mình đi khắp nơi xiển dương Phật pháp. Mỗi khi một người đệ tử nào đó ra đi, đại sư cũng ân cần dạy những lời thiết thực: Bảo vị ấy phải truyền bá giáo pháp như thế nào, độ người ra sao v.v… Nhưng riêng ngài Huệ Viễn thì đại sư không dạy một lời nào, điều này khiến ngài Huệ Viễn cảm thấy rất buồn. Như tự cho mình là người không xứng đáng được thầy dạy bảo nên ngài buồn lo đến trước đại sư quì xuống thưa rằng: “Đệ tử đợi mãi mà không nghe thầy nhắn nhủ điều gì cả…, phải chăng đệ tử chẳng đủ khả năng để được thầy giao phó?”. Khi xa rời bậc thầy kính yêu của mình mà không nghe thầy dạy một lời nào thì đương nhiên có cảm nghĩ như trên. Nhưng đại sư Đạo An có xem ngài Huệ Viễn là một người không xứng đáng để dạy không? Chắc chắn là không. Đại sư hiểu đệ tử mình rất rõ, thấy học trò là một người nhiệt tâm vì đạo pháp, tinh tấn tu học nên không cần dạy thêm điều gì nữa, hễ gặp chuyện thì tự nhiên hoàn thành công việc tốt đẹp. Cho nên đại sư trả lời ngài Huệ Viễn rằng: “Người như thầy đây thì Lão Tăng còn gì để lo lắng nữa… ta cũng không còn gì để nói cho thầy! Từ nay về sau nhất định thầy sẽ làm rạng rỡ Phật pháp. Thôi! Thầy hãy đi đi, gắng giữ gìn sức khỏe! Rất nhiều Phật sự đang chờ thầy hoàn thành”. Nghe thầy mình nói như thế, ngài rất an lòng cùng khoảng mười đệ tử hướng phía nam đến Kinh Châu và dừng chân tại chùa Thượng Minh. Kế đó, ngài lại muốn dời đến núi La Phù nhưng khi đi qua Lô Sơn, thấy cảnh vật núi này thanh tịnh rất thích hợp cho việc tu tập và hành đạo của mình, nên quyết định ở lại tinh xá Long Tuyền.
Lúc bấy giờ, có Đạo hữu của ngài là Huệ Vĩnh nói với Thứ sử Hoàn Y rằng: “Thầy Huệ Viễn mới bắt đầu đi hoằng pháp mà đã có rất nhiều đồ chúng theo học, tương lai cứ như vậy phát triển thì lượng người đến tu học sẽ nhiều biết nhường nào! Nếu thầy ấy không có đủ cơ sở tự viện rộng rãi hơn bây giờ thì làm sao hành đạo?” Hoàn Y nghe ngài Huệ Vĩnh nói vậy liền phát tâm ủng hộ thầy Huệ Viễn hết mình. Ông ta cho xây chánh điện và rất nhiều phòng xá ngay bên phía đông núi Lô Sơn, đây là ngôi chùa Đông Lâm nổi tiếng trong lịch sử. Từ đó, ngài Huệ Viễn an tâm hành đạo tại Lô Sơn, đại sư ở đây suốt hơn ba mươi năm và chưa hề ra khỏi vùng này một bước. Gặp lúc cần thiết như đưa tiễn khách quý thì ngài cũng tiễn đến ranh giới (suối) Hổ Khê là cùng, tuyệt nhiên không đi quá Hổ khê nửa bước. Nên trong Phật giáo thường có câu nói: “Tống quân bất quá Hổ khê” (tiễn khách không quá Hổ khê). Do đạo đức của ngài rạng rỡ nên lúc ấy chùa Đông Lâm đã trở thành một trung tâm Phật giáo hùng mạnh nhất ở phương nam. Nếu so với chốn Trường An Phật giáo trăm hoa đua nở thì đúng là thiên hạ đã chia đôi một cách cân xứng cho hai trung tâm này. Cố nhiên chúng xuất gia qui tụ về chùa Đông Lâm ngày một đông thêm, các bậc hiền tài thời bấy giờ đến rất đông, họ thường ở lại y chỉ tu học với ngài. Thế mới biết sự cảm hóa lòng người của đại sư sâu rộng biết dường nào!
***
Công việc hoằng hóa của đại sư Huệ Viễn ngày một phát triển nên chúng Tăng càng đông đúc thêm. Để mọi người vừa khỏi sống nhàn hạ vô ích lại được ích lợi từ giáo pháp giải thoát, nên ngài đã nương theo pháp môn niệm Phật mà đức Thích Tôn đã nói ra, thành lập một đạo tràng niệm Phật cùng phát nguyện sinh về Tây phương. Đây chính là đạo tràng Liên xã rất nổi tiếng ở Lô Sơn, cũng là nơi đầu tiên lập hội niệm Phật. Đại khái đạo tràng được hình thành như vầy: Ngài Huệ Viễn cùng Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông v.v... gồm một trăm hai mươi ba thành viên đến trước tượng Phật A-di-đà ở tinh xá Bát-nhã Vân Đài, cùng lập nguyện sinh về Tây phương Cực lạc và ước mong sau khi lâm chung nhất tề đều được vãng sanh. Văn hiến ghi dấu cho sự việc trọng đại này chính là bài văn phát nguyện của Lưu Di Dân. Nhưng chúng ta nên biết rằng, đạo tràng Liên xã mà ngài Huệ Viễn sáng lập luôn luôn lấy việc niệm Phật tam-muội là chính. Và giáo điển mà hội lập cước chính là kinh Bát-chu tam-muội chứ không phải một trong ba kinh Tịnh độ. Vì kinh Quán vô lượng thọ v.v... thời bấy giờ chưa được lưu truyền sang Trung Hoa. Kinh Bát-chu tam-muội do hai đại sư Chi-sấm và Trúc Phật Sóc dịch vào cuối đời Hán. Nội dung kinh đặt nặng về việc quán Phật Vô Lượng Thọ. Khi tu pháp quán này thành công, đức Phật A-di-đà sẽ hiện rõ trong tam-muội. Cho nên, đây là pháp môn niệm Phật tam-muội chứ không phải là pháp môn niệm Phật đọc nơi miệng được lưu hành rộng rãi như thời nay. Trong kinh nói rằng, lúc tu pháp quán này thành tựu, chư Phật hiện tại đều hiện rõ trước mặt. Hành giả tu theo pháp quán này mục đích được trực tiếp thấy Phật A-di-đà nhưng kết quả lại thấy tất cả chư Phật. Thật ra, điều này cũng giống như ý nghĩa mà kinh Quán vô lượng thọ Phật đã từng nói: “Thấy việc này rồi (thấy Phật) thì cũng có nghĩa là thấy được mười phương chư Phật”.
Theo sự ghi chép trong quyển thứ hai mươi bảy sách “Quảng hoằng minh tập” thì Lưu Di Dân cùng mọi người đã y theo lời chỉ dạy của ngài Huệ Viễn, ngày đêm siêng năng tu niệm Phật tam-muội. Chỉ độ không quá nữa năm thì các vị ấy đã tu thành công phép niệm Phật tam-muội này. Trong Tam-muội, mọi người thường thấy đức Phật thân sắc vàng hiện ra, nên những người ở núi Lô Sơn lập hội niệm Phật để sau khi mạng chung được vãng sanh Cực lạc, cố nhiên là mục tiêu sau cùng của họ, nhưng ngay nơi thân này thấy được Phật lại là một mục tiêu không kém phần quan trọng. Lưu Di Dân thấy Phật trong tam-muội, ngài Huệ Viễn cũng thấy Phật A-di-đà nhưng không nói ra cho mọi người biết.
Theo một truyền thuyết khác thì trong lúc tịnh tu ở núi Lô Sơn, ngài Huệ Viễn rất tinh tấn dõng mãnh, đã ba lần thấy tướng thù thắng của chư Phật và Bồ-tát trong khi nhập vào niệm Phật tam-muội. Nhưng ngài là người thận trọng nên dầu có thấy cũng không bao giờ tùy tiện nói với mọi người. Về sau, lúc ở Đông kham Phật phía đông), Bát-nhã Đài, ngài vừa xuất định thì thấy đức Phật A-di-đà tràn ngập cả hư không, trong hào quang rực rỡ có vô số hóa Phật, có Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí v.v... Đồng thời lại có ngài Huệ Trì, Đàm Thuận, Lưu Di Dân v.v… Lúc đó, đức Phật A-di-đà bảo ngài rằng: “Do bổn nguyện lực nên Ta đến đây hộ niệm cho ông, bảy ngày sau ông sẽ sanh về cõi Cực lạc của Ta”. Đồng thời, Lưu Di Dân và rất nhiều người cùng hiện đến trước ngài Huệ Viễn thưa rằng: “Ngài phát tâm sớm hơn chúng tôi, nhưng sao ngài lại về muộn như thế?”
Từ những việc trên chúng ta biết được rằng, trong lúc nhập vào niệm Phật Tam-muội, ngài không những có thể thấy đức Phật A-di-đà mà còn được đức Phật thân hành đến chỉ dẫn. Do ngài Huệ Viễn thấy một cách rõ ràng các cảnh thù thắng và biết chắc chắn thời điểm vãng sanh Tịnh độ của mình, nên ngài mới nói rõ cho Pháp Tịnh, Huệ Bảo và mọi người, mình thấy được tướng thù thắng như thế nào, lúc nào vãng sanh… quả nhiên đến thời gian ấy thì ngài thâu thần thị tịch.
Nơi quyển trung sách “Đại thừa yếu nghĩa”, ngài Huệ Viễn và ngài Cưu-ma-la-thập đã từng thảo luận về việc thấy Phật trong định. Ban đầu, ngài Huệ Viễn dựa vào việc dẫn dụ về điều mộng mà kinh “Bát-chu tam-muội” thường nhắc đến để đặt nghi vấn. Luận rằng Phật được thấy trong định, giả như nói nó hoàn toàn thuộc về điều mộng thì đó bất quá cũng chỉ là tưởng tượng chủ quan mà thôi, hoàn toàn không phải Phật hiện ra thật. Còn nếu đó là khách quan, Phật từ bên ngoài đến, thì Phật thật hiển hiện một cách chân thực rồi, sao lại có thể lấy mộng làm dụ? 
Ngài Cưu-ma-la-thập đánh đúng vào trọng tâm câu hỏi của ngài Huệ Viễn và trả lời như sau: Hành giả muốn thấy được Phật thì có rất nhiều cách để thấy. Sở dĩ trong kinh lấy mộng để dụ là nhằm đánh tan mối nghi hoặc của mọi người. Vì có người nghi như vầy: Đại Bồ-tát đạt được thần thông thì chuyện đi đến mười phương thế giới, mặt đối diện với Phật Đà chẳng có gì là khó. Còn như hạng người bình thường, đã không biết tu pháp môn Thiền định lại chẳng chứng được thần thông, mà cõi Tây phương Cực lạc của đức Phật A-di-đà xa hơn mười vạn ức Phật độ, thử hỏi làm sao thấy được? Chúng ta đều biết năng lực của mộng rất phi thường, mộng đến đi trong khoảnh khắc. Trong mộng có thể thấy được những vật ở từ rất xa. Việc nhập vào Bát-chu niệm Phật tam-muội có thể xa thấy tất cả chư Phật, thì đó cũng giống như trong mộng thấy được những sự vật. Do đó, đức Phật đặc biệt lấy mộng để dụ.
Đồng thời cần biết rằng, ngay cả thân Phật còn không có một tướng quyết định nào, vì sao vậy? Bởi trong kinh đã nói rõ cho chúng ta biết: Thân của chư Phật đều do các duyên sanh, mà từ duyên sanh thì tất nhiên không có một tự tánh chân thật, tất cả đều như mộng như hóa, rốt ráo không tịch. Nên hành giả muốn thấy thân chư Phật thì không nên lấy sự hư vọng để nhìn. Nếu cho việc thấy Phật là hư vọng thì đó là do ngộ nhận thân Phật có một tướng quyết định, và do dùng sự tưởng tượng phân biệt để nhìn.
Theo sự đối đáp giữa ngài Cưu-ma-la-thập và đại sư Huệ Viễn, chúng ta có thể biết rõ rằng: Ngài Huệ Viễn không chỉ tu tập pháp môn niệm Phật Tam-muội một cách chín chắn, mà ngay cả nội dung của niệm Phật Tam-muội ngài cũng cứu xét rất tường tận rồi mới đi vào thực tiển tu tập. Chứ không như người tu hành bây giờ, cứ tu một cách mù mù mờ mờ, đến ngay việc mình tu cái gì, vì sao phải tu như vậy, trong quá trình tu có khả năng phát sinh những vấn đề gì, họ đều không để ý tới. Do đó, người tu hành thì nhiều nhưng người được thấy Phật vãng sanh Tịnh độ ít đến mức đáng thương.
Tóm lại, ngài Huệ Viễn là một hành giả tu pháp môn Tịnh độ, là người đầu tiên sáng lập hội Liên xã, điều này chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng người tu pháp môn niệm Phật đời nay cần phải biết một sự thật rằng: Pháp môn mà đại sư Huệ Viễn thực hành chính là hạnh Bát-chu niệm Phật tam-muội. Nó hoàn toàn không phải đơn giản ở một câu niệm “A-di-đà Phật” được thực hành rộng rãi như ngày nay đâu. Nếu cho rằng chỉ có câu “A-di-đà Phật” mới là chơn chánh niệm Phật thì người này không những không có sự thấu hiểu về chân nghĩa của niệm Phật mà đối với đại sư Huệ Viễn, người đầu tiên sáng lập ra hộ Liên xã, họ cũng chưa có một sự hiểu biết chính xác.
Song, xin quý vị hãy chú ý: Tôi (tác giả) nói như vậy cốt ý không phải hoàn toàn phủ định câu “A-di-đà Phật” là phương tiện niệm Phật. Tôi chỉ muốn nói rằng niệm Phật thì không duy nhất ở một câu “Di-đà”, mà thực hành niệm Phật Bát-chu Tam-muội ngay nơi thân này thấy được Phật cũng là một trong số các cách để tu tập.
***
Đại sư Viễn Công sáng lập ra hội Liên xã thì cố nhiên là vị sơ tổ của tông phái Tịnh độ ở Trung Quốc. Nhưng sự cống hiến của đại sư đối với nền Phật giáo Trung Quốc, thì không chỉ ở việc sáng lập tông phái Tịnh độ, ngài còn là người rất tâm huyết trong việc nỗ lực đưa Phật pháp vào nước ta (Trung Quốc). Vì vào thời Đông Tấn, Phật pháp tuy được truyền vào không ngớt nhưng xét một cách toàn diện thì vẫn chưa đạt đến chỗ hoàn bị. Cho nên các Phạm Tăng (Tăng Ấn Độ) cứ không ngớt vào hoằng đạo ở Trung Quốc. Theo sự ghi chép của truyện ký thì ngài Huệ Viễn đã sai các đệ tử như ngài Pháp Tịnh, Pháp Lĩnh v.v... qua Lưu Sa1, vượt dãy núi Tuyết Lĩnh đến một chốn rất xa (Tây Vực) để thỉnh kinh và các đồ đệ của ngài đã thỉnh về rất nhiều bản kinh bằng tiếng Phạn. Do đó, việc ngài Huệ Viễn một mình lập ra trường phiên dịch ở Bát Nhã Đài tại Lô Sơn, một lần nữa nói lên rằng, ngài chính là người đầu tiên trong lịch sử phiên dịch của Trung Quốc đã mở ra Dịch trường.
Đại sư không chỉ sai các đệ tử ra nước ngoài cầu pháp mà ngay như các Tăng sĩ người Ấn đến Trung Quốc, chỉ cần các vị ấy có thể phiên dịch thì bất luận thuộc bộ phái nào, đại sư cũng không quản khó nhọc đến thỉnh các vị ấy về phiên dịch. Sau đây xin nêu một vài ví dụ để làm rõ ý trên:
1. Đại sư Phất-nhã-đa-la đến Trường An vào giữa năm Hoằng Thủy đời Diêu tần, là một học giả tinh thông luật Thập tụng và từng cộng tác với ngài Cưu-ma-la-thập dịch bộ luật này. Nhưng thật bất hạnh, khi mới hoàn thành được hai phần ba thì ngài Phất-nhã-đa-la đã vội về cõi Phật. Những người trọng pháp, nhất là đại sư Huệ Viễn, không khỏi bùi ngùi trước sự tổn thất to lớn này, và tiếc cho đại pháp không thể đến được phương Đông (Đông tấn). Đến năm Hoằng Thủy thứ bảy, ngài Đàm-ma-lưu-chi đến Quan Trung (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây) và đem Luật tạng truyền khắp nơi. Ở Lô Sơn xa xôi, ngài Huệ Viễn vừa nghe được tin này liền tức tốc sai đệ tử Đàm Ung đến nước Tần, đồng thời đích thân viết một lá thư gởi cho ngài Lưu-chi, một lòng thỉnh cầu ngài ấy phát tâm dịch hết phần luật Thập tụng còn lại. Ngài Lưu-chi cảm mến sự nhiệt tâm vì đạo của đại sư Huệ Viễn nên dốc lòng dịch hết phần luật mà ngài Phất-nhã-đa-la chưa kịp dịch. Thế là bộ luật Thập tụng được hoàn thành.
2. Lúc ở Quan Trung, đại sư Đạo An từng mời ngài Đàm-ma-nan-đề đọc và chuyển ngữ bộ luận “A-tỳ-đàm tâm” nhưng do ngài ấy không hiểu hết ngôn ngữ Trung Hoa nên việc dịch thuật chưa thật khả quan lắm. Khiến cho các học giả không hiểu hết nghĩa lý của bộ luận. Đến năm thứ mười sáu niên hiệu Thái Nguyên đời Hậu Tấn, ngài Tăng-già-đề-bà đến Trung Quốc. Đại sư Huệ Viễn biết ngài Đề-bà rất tâm đắc với bộ luận trên mới thỉnh ngài ấy dịch lại bộ “A-tỳ-đàm tâm” và “Tam pháp độ luận”. Hai bộ luận này để lại cho hàng hậu học những lợi ích không phải là ít. “Tâm luận” là bộ sách do luận sư Pháp Thắng viết vào thế kỷ thứ sáu sau Phật nhập Niết-bàn. Nó nổi tiếng là bộ luận rất lô gích và uyên áo. Trước khi bộ luận Câu-xá chưa ra đời thì Tâm luận đã được lưu truyền ở Ấn Độ. Nó được dịch sang tiếng Hán và được nhiều học giả để tâm nghiên cứu. Do vậy, những học giả của nước Trung Quốc học được Tâm luận thì không thể không nhớ đến công lao của đại sư Huệ Viễn.
3. Tam Tạng Cưu-ma-la-thập đến Quan Trung vào thời Diêu Tần, ngài là người dịch và xiển dương học thuyết “Bát-nhã tánh không”. Lúc ấy, học giả quy tụ rất nhiều và nơi này đã trở thành trung tâm của Phật giáo phương bắc. Nhưng ở núi Lô Sơn, đại sư Huệ Viễn không cảm thấy ngài La-thập là mối lấn áp tư tưởng Tịnh độ, mà ngay một chút thái độ phản ứng đại sư cũng không có. Không như người thời nay, họ nghe chút ít lời nói chẳng phải về tư tưởng Tịnh độ thì liền đả kích đối phương là kẻ hủy báng chánh pháp, là tà tri tà kiến; không chỉ vậy, ngài còn viết thư giao hảo, ân cần hỏi han. Đến khi nghe ngài La-thập muốn trở về nước thì đại sư Huệ Viễn cũng không khỏi mang tâm sự buồn rầu tiếc nuối. Tất cả chư vị tổ sư sở dĩ được xem là tổ sư của một thời đại là vì tâm của các ngài đều rộng lượng bao dung như vậy cả. Những hạng người có tâm lượng hẹp hòi thì đâu thể hy vọng có ấn tượng như các ngài.
4. Khi ở phương bắc, Tam tạng pháp sư Giác Hiền tuy là người rất uyên bác nhưng tư tưởng lại không dung thông với ngài Cưu-ma-la-thập. Đại sư Huệ Viễn hiểu điều ấy nên sai đệ tử Đàm Ung đến Quan Trung hòa giải. Bởi ngài Giác Hiền không muốn trở lại phương bắc nên về trú ở núi Lô Sơn. Sau đó, tại chùa Đạo Tràng đất Kiến Khang (kinh đô nhà Đông Tấn), ngài Giác hiền chuyển dịch kinh Hoa nghiêm thành sáu mươi cuốn, là tác phẩm mà Pháp Lĩnh, đệ tử ngài Huệ Viễn được tiếp thu, và bộ luật Tăng-kỳ mà Pháp Hiển tiếp thụ cũng do ngài Giác Hiền dịch ra. Tông phong Hoa nghiêm được thực sự truyền bá kể từ khi ngài Giác Hiền xuống phương nam. Do đó, việc ngài Giác Hiền xuống phương nam và đóng góp cho nền Phật giáo nước nhà là do công lao của đại sư Huệ Viễn. Giả như đại sư không có tâm bao dung thì dẫu ngài Giác Hiền có tâm huyết cho đại pháp mà không nơi để phát huy thì chẳng phải phí bỏ đó sao!
Từ những việc trên ta có thể thấy rằng, đại sư Huệ Viễn tuy là người thực hành pháp môn niệm Phật nhưng không vì vậy mà yếm thế bỏ đời. Đối với những pháp môn trọng yếu, nhất là những việc có liên hệ đến sự nghiệp hoằng truyền giáo pháp, thì ngài đều lấy tinh thần tích cực để phụng sự, tuyệt nhiên không có tâm chán chường hay sợ gánh vác trách nhiệm. Tinh thần vì pháp của đại sư thật đáng để hàng giáo đồ Phật giáo thời nay, nhất là những người thực hành pháp môn Tịnh độ, kính phục và học hỏi.
***
Đại sư Huệ Viễn chí bền hơn đá, đạo hạnh cao vời, quyền thế chẳng thể uy hiếp mà vinh hoa nào cám dỗ được ngài. Ngài chỉ làm những điều mà một người Tăng sĩ phải làm, không hề lấy lòng mọi người, cũng không lui tới nhà quyền quý. Ở thời đại chuyên chế, quyền uy của đế vương là cao tột nhất, chẳng một ai dám trái lệnh. Nếu vua đến đâu thì quan dân ở đó nhất định phải xuống đường tung hô “vạn tuế” ba lần. Nhưng ngài Huệ Viễn thì không làm như vậy, như lúc vua Tấn An Đế từ Giang Lăng về kinh đô, quan Phụ quốc Hà Vô Kị bảo ngài đến bờ sông nghinh giá nhưng ngài cáo bệnh không đi. Mà kể cũng lạ! Vua An Đế không những không xem chuyện này là phạm thượng với mình, trái lại còn viết thư đến vấn an đại sư Huệ Viễn, vua viết: “Nghe đại sư bệnh nặng chưa khỏi, trẫm rất băn khoăn!… đại sư ẩn mình tu học ở chốn núi rừng lại mắc bệnh nặng, đường sá xa xôi trẫm không đến thăm được, chắc đại sư trách trẫm lắm!”. Khi tể tướng Hoàn Huyền đi đánh dẹp Ân Trọng Kham, nhân hành quân ngang núi Lô Sơn, ông ta yêu cầu ngài Huệ Viễn ra khỏi Hổ Khê để gặp mặt. Thiết nghĩ một người quyền cao chức trọng lẫy lừng như Hoàn Huyền thì ai dám từ chối không đến bái kiến! Song ngài Huệ Viễn đã thoái thác đang bệnh không thể đến được, chớ không phá lệ để ra Hổ khê đón khách. Kết quả là Hoàn Huyền tự động lên núi. Ban đầu ông ta kiêu ngạo không hành lễ đại sư, đâu hay vừa thấy phong thái thanh thoát trang nghiêm của đại sư, ông ấy bất giác cúi chào ngài rất cung kính. Lúc lên núi, trong thâm tâm ông ta muốn đưa ra nhiều câu hỏi để vấn nạn, nhưng mới đàm luận với đại sư được một lúc thì ông chẳng dám đưa ra một câu hỏi nào. Chỉ cảm thấy đại sư sao quá vĩ đại còn mình thì bé nhỏ, hạn hẹp. Do đó sau khi xuống núi, ông đã nói với mọi người rằng: “Người như đại sư Huệ Viễn thật từ thuở cha sanh mẹ đẻ đến giờ ta chưa từng gặp qua, ngài đúng là một bậc cao tăng thạc đức!”
Về sau, tể tướng Hoàn Huyền ra lệnh sa thải Tăng chúng nhưng ông cẩn thận dặn quan sở thuộc rằng: “Những Sa-môn làu thông kinh điển, bàn luận thao thao nghĩa lý hoặc trai giới thanh tịnh thì giữ lại cho hành đạo; những vị nào không đủ các điều trên thì cho hoàn tục. Riêng Lô Sơn là nơi hội tụ các vị đạo hạnh siêu thoát thì không nằm trong quy định trục xuất đề ra này!”. Đại sư cảm hóa mọi người một cách sâu xa, thế mới biết, một bậc xuất gia có đầy đủ đạo lực thì phong thái của vị đó chắc chắn không giống với hạng người tầm thường, và dung mạo trang nghiêm từ hòa hiện ra bên ngoài cũng lan xa.
Theo truyện ký thì pháp sư Huệ Nghĩa là một người cương trực, không kiêng dè bất cứ điều gì, ông không tin đại sư Huệ Viễn có đạo phong và tiếng tăm như vậy nên đã đến xem thử ngài Huệ Viễn là người thế nào. Ông ấy bảo với Huệ Bảo, đệ tử ngài Huệ Viễn rằng: “Các ông đều là hạng người tầm thường nên mới dốc lòng bái phục đại sư Huệ Viễn. Còn ta thế nào nhỉ? Ồ! Chắc chắn ta không hành sự như các ông đâu!”. Nói thì nói vậy, chớ khi đến Lô Sơn, gặp lúc đại sư đang giảng kinh Pháp hoa, mấy lần ông định vấn nạn nhưng cuối cùng vì trong lòng quá run sợ nên một câu cũng chẳng dám hỏi. Câu chuyện ngài Huệ Nghĩa khâm phục đại sư Huệ Viễn là như vậy đó. Nhìn vào phong thái của ngài Huệ Viễn, không khỏi khiến người ta bùi ngùi hổ thẹn khi nghĩ đến Tăng chúng thời nay.
***
Ngài Huệ Viễn ở Lô Sơn hơn ba mươi năm nhưng bóng dáng của ngài không lúc nào ra khỏi núi, và bước chân cũng chưa từng in dấu nơi chốn phàm tục; ngài chỉ tiển khách đến Hổ Khê là dừng lại. Trong hơn mấy mươi năm ấy, ngài trước sau cố nhiên không bao giờ xao nhãng việc hoằng dương Phật pháp. Đối với sự tu trì của bản thân ngài cũng không để gián đoạn trể nải. Nhưng sanh già bệnh chết nào nhẹ tay cho ai trên cuộc đời này vẫn rõ ràng lời Phật dạy, ngài Huệ Viễn cũng không ngoài lẽ thường tình kia. Do đó, đến tháng tám năm thứ mười hai niên hiệu Nghĩa Hy đời Tấn (Tây Lịch 416), ngài có bệnh nhẹ, mọi người thỉnh ngài dùng rượu Cổ (Cổ tửu ?) và cháo lỏng, ngài từ chối. Đại chúng tha thiết xin ngài dùng mật đặc thì đại sư bảo phải kiểm tra trong luật xem có đúng với luật không. Nếu không trái luật thì uống, trái thì không uống. Nào hay luật chưa kiểm tra xong thì ngài đã thâu thần về cõi Cực lạc. Ngài nhẹ bước ra đi lúc tám mươi ba tuổi, nhục thân được nhập tháp ở phía Tây núi Lô Sơn, Tạ Linh Vận khắc văn bia. Bậc thầy của một đời đến đây đã quay gót Ta bà, cao miền Cực lạc.
***
Niệm Phật được sanh về Tịnh độ mà đức Thế Tôn đã chỉ cho chúng ta là chuyện không còn gì để nghi ngờ nữa. Nhưng làm thế nào để được vãng sanh, đó mới là chuyện đáng để chúng ta bàn luận. Tôi cho rằng, một người niệm Phật nếu muốn cầu sanh Cực lạc một cách chân chính thì điều kiện tối thiểu là không được quên mất đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni của mình. Nghĩa là trước mỗi lúc niệm Phật, chúng ta niệm danh hiệu bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ba lần, sau đó liên tục niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà. Khi công phu niệm Phật được chín muồi, đến lúc lâm chung tự nhiên sẽ được đức Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc.
Tôi cho rằng, những lời dặn dò lúc lâm chung của Lưu Di Dân, một trong mười tám vị hiền nhân cùng tu với ngài Huệ Viễn, đáng làm mẫu mực cho những người tu Tịnh độ thời nay. Truyện chép rằng: “Trước lúc lâm chung, đối trước Phật đài đốt hương lễ Phật chúc tán rằng: đệ tử nương theo lời di giáo của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nên nay mới biết có đức Phật A-di-đà. Nén hương lòng này trước dâng lên cúng dường đấng Từ phụ Thích Ca Mâu Ni, cúng dường đức Phật A-di-đà và kinh Diệu pháp liên hoa. Chúng sanh được sinh Tịnh độ là do công đức của kinh này. Nguyện tất cả chúng sanh đồng sinh về cõi Tịnh độ”.
Lời nói trên muốn nhắc nhở chúng ta rằng: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ của chúng ta, là bậc thầy của mọi loài. Đức Phật A-di-đà là bậc đạo sư tiếp dẫn và Đại thừa kinh điển là hành trang vô cùng quý báu để chúng ta sanh về cõi Phật. Phải tâm nguyện như vậy mới khả dĩ sanh về Cực lạc. Nhưng một số người bây giờ đi ngược lại điều đó, họ chỉ biết duy nhất đức Phật A-di-đà, họ không để ý đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trước sau cũng chỉ một câu niệm Phật, họ nào biết đọc tụng kinh điển. Thậm chí còn hô hào “Bổn sư” A-di-đà Phật, hoặc nói gì là đọc tụng Tâm kinh, công đức niệm Phật đều là không tưởng và cũng chẳng có hy vọng để sanh về Tây phương! Không biết họ căn cứ vào kinh luận nào mà dám nói như vậy. Tôi hổ thẹn vì đọc kinh luận không nhiều, nhưng tôi thấy trong kinh luận chỉ ghi là Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà không ghi là Bổn sư A-di-đà Phật. Chỉ nói rằng đọc tụng kinh điển Đại thừa thời có thể sanh lên Thượng phẩm thượng sanh, chớ không nói công đức đọc tụng Tâm kinh và niệm Phật là rỗng không, cũng không nói không thể vãng sanh Cực lạc. Đương nhiên lúc sanh về thế giới Cực lạc phương Tây thì Phật A-di-đà là Bổn sư của chúng ta, nói Bổn sư A-di-đà Phật cũng không có gì là không được. Nhưng trước khi chưa sanh Cực lạc thì chúng ta vẫn là một chúng sanh của thế giới Ta bà này, vẫn là đệ tử của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta đừng bao giờ quên đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Bổn sư của chúng ta!
Hôm nay là ngày kỷ niệm ngài Huệ Viễn sáng lập đạo tràng niệm Phật ở núi Lô Sơn. Chúng ta sum họp về đây cùng niệm Phật là để ghi nhớ rằng, ngày này chính là một ngày trọng đại. Đây là một việc đáng để chúng ta vui mừng. Cuối cùng, tôi (Tác giả) mong sau khi hiểu rõ tinh thần vĩ đại của ngài Huệ Viễn, mọi người sẽ lấy đó để bắt chước học hỏi. Mong rằng ngoài việc tu tập cho bản thân, quý vị sẽ làm nhiều việc lợi ích thiết thực cho xã hội, tích tập vô biên căn lành để làm tăng thượng duyên tối thắng cho việc sinh lên Thượng phẩm thượng sanh. Được vậy, tức chúng ta đã không phụ hoài tâm nguyện phát tâm niệm Phật A-di-đà của mình!
Trích: Luận Sử Tông Tịnh Độ
Cuộc Đời và Tư Tưởng Niệm Phật Của Đại Sư Huệ Viễn
 Nguyên tác: Đại sư Diễn Bồi
Việt dịch: Thích Quảng Mẫn


2. ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO - Tổ Liên tông thứ hai-đời Đường 
Sư người Lâm Truy, giữa niên hiệu Trinh Quán đời Đường, sư đến chùa Huyền Trung ở Tây Hà, yết kiến ngài Đạo Xước. Sau khi đến Đạo tràng Tịnh độ cửu phẩm, nghe giảng kinh Quán vô lượng thọ, sư tinh cần khổ hạnh, phát tâm niệm Phật. Sau đó đến Kinh đô, sư khuyến khích, sách tấn bốn chúng, thuyết pháp ở chùa Quang Minh, chép hơn mười vạn quyển kinh A-di-đaø, họa hơn ba trăm bức tranh Tây phương Thánh cảnh, cảm hóa vô số Tăng tục, người được tam-muội vãng sanh Tịnh độ rất nhiều. Mỗi một tiếng niệm Phật của sư đều có một luồng hào quang từ miệng phóng ra, nên thế gian tôn xưng là đại sư Quang Minh. 
Một hôm, sư leo lên cây liễu, nhìn về phía Tây, thầm nguyện: Xin đức Phật tiếp dẫn con vãng sanh Tịnh độ, rồi thả mình mà tịch, thọ sáu mươi chín tuổi. Sư có trước tác Quán kinh sớ, Vãng sanh lễ tán…
Trong Di tông nói rằng: “Bậc Đại Thánh từ bi khuyên người chuyên niệm danh hiệu Phật, chính vì việc xưng danh hiệu dễ sanh niệm nhiếp tâm tương tục. Nếu ai có khả năng niệm niệm liên tục thì khi mạng chung mười người vãng sanh hết mười, trăm người vãng sanh hết trăm. Vì sao? Vì chánh niệm không tạp duyên, cùng tương ưng với bổn nguyện của Phật, làm theo lời Phật dạy, không làm trái với lời nguyện của mình. Nếu bỏ chuyên niệm mà theo tạp niệm thì trong trăm người may ra được một, hai người; trong ngàn người thì hy hữu lắm được ba, bốn người vãng sanh ở hạ phẩm.”
Lại trong Lâm thụy nhập quán lễ tưởng phát nguyện văn có ghi lời phát nguyện của sư như sau: “Đệ tử chúng con là kẻ phàm phu sanh tử, tội chướng sâu dầy, luân hồi sáu nẻo, khổ không thể nói, nay gặp bậc tri thức, được nghe danh hiệu và bổn nguyện của đức Phật A-di-đà, nhất tâm xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh, nguyện Phật từ bi tiếp độ, thương xót cứu vớt. Đệ tử chúng con chẳng biết tướng hảo quang minh của thân Phật, xin Ngài thị hiện cho chúng con được thấy, và xin được thấy đức Quan Âm, Thế Chí, các chúng Bồ-tát và tướng vi diệu quang minh trang nghiêm thanh tịnh trong thế giới này.”
Theo Long thư tịnh độ nói: “Mỗi khi vào Phật đường, sư chắp tay quỳ thẳng, nhất tâm niệm Phật, chưa kiệt sức thì không nghỉ, tuy trời rét lạnh nhưng áo sư vẫn ướt đẫm mồ hôi. Sư luôn hết lòng dạy pháp môn Tịnh độ cho đại chúng, không lúc nào mà không làm lợi ích cho chúng sanh. Hơn ba mươi năm, sư lưng không dính chiếu, hành đạo Bát-chu, lễ Phật mười phương, cho đây là nhiệm vụ của mình. Sư nghiêm trì tịnh giới, một lỗi nhỏ cũng không để phạm, mắt chưa từng liếc nhìn người nữ, dứt tuyệt danh lợi, tránh xa các nơi đàm luận hý tiếu. Được cúng dường y phục, vật thực hảo hạng, sư đều đem bố thí, cúng lại cho đại chúng, còn mình thì ăn đồ thô dở, giới hạnh của sư ai cũng ngưỡng mộ.”
Sư đã để lại bài kệ khuyến hóa như sau:            
Già nua dần đến
Tóc bạc, da nhăn
Đi đứng khó khăn
Nói năng lẫm cẫm.
Dù tiền như núi
Vàng bạc đầy kho
Cũng khó thoát ra
Cửa già bệnh chết.
Kẻ ngu chẳng biết
Mặc ý hưởng lạc
Khi chết đến nơi
Lòng đầy lo sợ.
Người trí liễu ngộ
Nổ lực cần tu
Tỉnh niệm nhất tâm
A-di-đà Phật.   
Lời cảnh tỉnh của sư thật thâm thúy, như tiếng chuông ngân giữa đêm trường thanh vắng.

SỰ TÍCH VÀ HỌC THUYẾT CỦA ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO 
Nguyên Tác: Lý Thế Kiệt, Việt dịch: Thích Tâm Đại
I. Sự Tích: 
Đại sư Thiện Đạo là người Tứ Châu, tỉnh An Huy, sanh vào năm thứ chín, niên hiệu Đại Nghiệp đời nhà Tuỳ (theo Tây Lịch là năm 613). Ngài xuất gia từ thời niên thiếu và xem thấy bức tranh cảnh Tây phương quá cảm mến, nên ước mong sớm vãng sanh về cảnh Tịnh độ. Sau khi thọ giới với luật sư Diệu Khai, ngài cung kính đọc kinh Quán vô lượng thọ, biết được cửa ngõ của kinh này là pháp giải thoát sanh tử. Giữa năm Trinh Quán đời nhà Đường, ngài đến Tinh Châu (huyện Dương Khúc, tỉnh Sơn Tây) lễ bái yết kiến đại sư Đạo Xước, cầu học pháp môn niệm Phật vãng sanh. Sau đó ngài vào Trường An, độ khắp dân chúng, viết hết hàng vạn quyển kinh A-di-đà, vẽ ba trăm bức tranh cõi Cực lạc Tịnh độ. Ban đầu, ngài ở núi Chung Nam (huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây), luôn luôn đến chùa Quang Minh để thuyết pháp. Lúc tuổi già, Ngài ở chùa Thật Tế (huyện Trường An), đồng thời quản lý kiến tạo hang động ở chùa Phụng Tiên tại núi Long Môn. Đại sư là một con người hộ trì giới pháp, chưa từng đưa mắt dòm người nữ, tâm không nghĩ về danh lợi. Hàng ngày, ngài khất thực để sống, mặc áo xấu ăn cơm hẩm, tu hành phạm hạnh. Còn đối với mọi người, ngài luôn mở lòng từ bi, thương yêu tha thứ. Về chính mình thì lòng tin vững chắc bất thối chuyển. Lúc ở chùa Tây Kinh, ngài cùng pháp sư Kim Cang bàn luận hơn kém của việc niệm Phật. Ngài Thiện Đạo nói: “Niệm Phật vãng sanh, nếu quả lời nói chân thật thì các tượng Phật trong nhà phải phóng hào quang; giả như là lời nói hư vọng thì tôi đọa vào địa ngục”. Khi ấy, các tượng Phật trong nhà phóng hào quang, sự việc này trở nên rất nổi tiếng. Cả trung tâm Trường An, mọi người đều được ngài cảm hoá nhiều không kể. Trong số đó, có người nhìn tranh mà được xả thân vãng sanh, cũng có người leo lên trên cây liễu trước chùa nhảy xuống rồi vãng sanh. Đây là sự việc mà lúc đó ngài Đạo Tuyên đã gần gũi nghe biết. Trong truyện Tân tu vãng sanh cũng dẫn chứng: “Tăng, Ni ở các châu trong nước Trung Hoa, có người từ đỉnh núi cao nhảy xuống, có người nhảy vào suối sâu, có người từ trên cây cao rớt xuống, có người đốt thân cúng dường … Đây là số ít người trong số hơn một trăm người”. Lúc đó, sự cuồng nhiệt của tín ngưỡng do đây có thể thấy được. Về sự nhập diệt của Ngài có hai thuyết: một thuyết là xả thân vãng sanh (tộc họ, nơi sanh đều không rõ); một thuyết nói ngài là người Lâm Truy, viên tịch vào ngày 14 tháng 3, năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Long, đời Đường Cao Tông (Tây Lịch 682), hưởng thọ 69 tuổi. Theo thuyết trước, ngài Thiện Đạo hoá thân, theo thuyết sau chính là ngài Thiện Đạo. Sau khi ngài Thiện Đạo viên tịch, Hoài Uẩn xây dựng Bảo tháp của ngài ở phía nam thành Trường An, bên cạnh tháp là một ngôi Già Lam, xung quanh tháp có trồng những cây thơm cỏ lạ và tứ sự cúng dường luôn luôn đầy đủ.
      Các loại sách mà đại sư trước tác, hiện còn có sáu bộ mười quyển, chính là: bốn quyển Quán kinh sơù, một quyển Vãng sanh lễ tán ký, hai quyển Pháp sự tán, một quyển Bát-chu tán, một quyển Quán niệm pháp môn, một quyển Y kinh minh ngũ chủng tăng thượng duyên nghĩa v.v… . Trong này, Quán kinh sớ có một tên gọi nữa là Tứ thiếp sớ, quyển này do bốn quyển: Huyền nghĩa, Tự phần, Định thiện, Tán thiện mà hợp thành. Huyền nghĩa là nói rõ đề kinh và giáo tướng của sự xem kinh, ba quyển từ Tự phần trở xuống là giải thích lời văn của kinh. Quán kinh sớ là phần giải nghĩa, còn bốn bộ sách khác là phần hành nghĩa.
 
II. Học Thuyết: 
Từ triều đại nhà Tuỳ trở về sau, luận thuyết về Tịnh độ Di-đà đại khái không vượt ra ba loại tư tưởng:
Thứ nhất, là lấy Tịnh độ làm cõi Tịnh, Thô để dung chứa phàm phu vãng sanh, đây là các chủ xướng của ngài Huệ Viễn, Trí Khải, Cát Tạng v.v…
Thứ hai, là lấy Tịnh độ làm Báo độ, mà cự tuyệt sự vãng sanh của phàm phu, đây là chủ trương của luận sư Nhiếp luận tông.
Thứ ba, là lấy Tịnh độ chia ra làm hai thứ Báo độ và Hoá độ. Thánh nhơn chứng từ bực Sơ địa trở lên thì sanh vào Báo độ. Hàng phàm phu, Nhị thừa thì sanh vào Hoá độ, đây là sự sáng lập của đại sư Ca Tài, Đạo Thế, Nguyên Hiểu v.v… Do đây mà thấy được sự vãng sanh vào Báo độ của phàm phu thì cả ba thuyết trên đều không có nhận định về việc này, đây là căn cứ nơi Tịnh độ mà kết luận về việc kiến giải nghiệp cảm của tự thân. Tịnh độ chúng sanh của ngài Huệ Viễn … tuỳ theo mỗi nghiệp chiêu cảm mà sanh vào cõi Tịnh độ đẹp hay xấu, đối với việc này có một vài kiến giải. Còn đại sư Thiện Đạo thì kiên quyết chủ xướng phàm phu vào hết cõi Báo độ. Vì vậy ngài phát huy hết bổn chỉ của lập giáo Tịnh độ, ngài dùng Tịnh độ Tây phương làm hạnh nguyện để chứng đắc vào quả vị Phật. Vì ngài xây dựng chủ nghĩa hoàn toàn không chứa nghiệp cảm của tự thân chúng sanh, Thánh phàm thiện ác đều có thể nhập vào Báo độ nhứt muội. Còn sức bổn nguyện của Như Lai thì rất mạnh mẽ, vì Phật nguyện làm duyên lớn (lấy cái này làm Tăng thượng duyên) nên hàng Ngũ thừa đều có thể vào Báo độ. Do tư tưởng này mà tất cả chúng sanh đều có hy vọng. Vì đức A-di-đà sẽ cứu độ tất cả đối tượng phàm phu tội ác. Đối với người phàm phu tội ác thì đức Di-đà dùng sức nguyện lực rất lớn cứu độ họ. Cho nên phàm phu nhờ nguyện lực dõng mãnh của đức Phật, được thâu nhiếp vào hào quang nguyện lực của ngài. Đây mới là bổn chỉ của sự tha lực. Ngài lại nói: “Phật đã nói tám mươi bốn ngàn pháp môn là thích hợp với giáo nghĩa của thời đại chánh pháp và tượng pháp. Ở trong hiện tại thời đại mạt pháp, rất thích hợp với phương pháp Niệm Phật vãng sanh, đây là pháp môn cần thiết cho hàng phàm phu trong đời ác ngũ trược”. Tịnh độ giáo là pháp môn Thời giáo tương ứng1, đề xướng hai điểm phàm phu nhập Báo độ và Thời giáo tương ưng, là cơ sở giáo hoá tinh thần của ngài Thiện Đạo.
Trở lại điểm thứ ba, có một vấn đề cần giải quyết đó là sự vãng sanh vào Báo độ của phàm phu. Do nơi sức bổn nguyện của Như Lai, tuy là có thể được việc ấy nhưng con người phải có đủ điều kiện dựa vào bổn nguyện, chính là nói đầy đủ ba Tâm, Hành khởi và Tác nghiệp mới có thể vãng sanh về Tịnh độ. 
Ba Tâm đó là: An tâm, Thâm tâm và Hồi hướng phát nguyện tâm.
An tâm còn gọi là tâm chí thành, nghĩa là tâm chân thật, tâm không hư vọng. 
Thâm tâm là có niềm tin vững chắc. Tin có hai thứ, đó là tin cơ và tin pháp. Tin cơ, tin mình là hàng phàm phu có tội ác, cũng không vượt ra khỏi ý nghĩ về duyên của con người. Tin pháp có hai thứ là: con người tạo ra niềm tin và thực hành theo niềm tin đó. Con người tạo ra niềm tin là phải tin sâu xa vào đức Phật Di-đà và Phật Thích Ca một cách chắc chắn. Tin bổn nguyện của đức Phật Di-đà, một ý nghĩ cũng không có tâm nghi hoặc. Còn thực hành theo niềm tin đó là đối với việc niệm Phật vãng sanh không bao giờ nghi ngờ, mà phải suy nghĩ chắc chắn vào niềm tin sâu xa. 
Hồi hướng phát nguyện tâm là dùng tất cả thiện căn vào việc thực hành, là ý nghĩa đem tâm hồi hướng nguyện sanh về Tịnh độ. Hồi hướng có hai thứ: Vãng tướng và Hoàn tướng. Vãng tướng có nghĩa là cầu sanh vào Tịnh độ. Hoàn tướng có nghĩa là sau sẽ trở lại giáo hoá chúng sanh.  
Hành khởi là hành động của ba nghiệp thân, khẩu, ý.
Tác nghiệp là giữ theo bốn sự tu tập, thân thì lạy đức Di-đà, miệng thì niệm danh hiệu Di-đà, ý thì tưởng trang nghiêm về đức Phật Di-đà và cõi Tịnh độ.
Hành chia ra làm hai thứ: Chánh hành (lễ bái, tán thán, quán sát, đọc tụng, xưng danh) và Tạp hành (ngoài các thứ đó). Chánh hành gọi là Chánh nghiệp, bốn cái khác là Trợ nghiệp hay còn gọi là Hành bổn nguyện sanh nhân, tên gọi này có ý nghĩa là chuyên niệm và thấy Phật. Tác nghiệp có bốn thứ: Cung kính (là phép lễ bái một cách cung kính, ân trọng), Vô dư (chuyên tu về xưng danh hiệu, chuyên tưởng về cõi Tịnh độ), Vô gián (tâm thực hành liên tục không gián đoạn), Trường thời (tâm thực hành không thối lui, luôn luôn tương tục).
Đây là vấn đề quan trọng mà ngài giảng dạy, nghiên cứu rõ ràng, xin mọi người xem thêm Quán kinh sớ và các sách khác của ngài. Đại sư lấy Tịnh độ giáo làm giáo lý thiết thực phổ biến, cũng tương ứng với Thời giáo, vượt ra khỏi pháp môn giải thoát. Ngài có lòng tin sâu xa vào đại nguyện của Phật mà hoằng hoá cứu độ tất cả chúng sanh. Hàng phàm phu có niềm tin nhập vào Báo độ và có niềm tin sâu xa, tin cơ, tin pháp … đều là do sự hiểu biết trôi chảy, niềm tin mãnh liệt và sự thể nghiệm của ngài. Sự cảm hoá của ngài không phải là việc tầm thường, đồng thời các học thuyết của ngài cũng là giáo lý điển hình thay cho Tịnh độ giáo, có thể nói ở giáo lý và sử sách của Tịnh độ giáo thì ngài là nhân vật cao nhất.
 
Tác giả viết tại Đài Loan ngày 25/8/1943
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: NGÔN HẠNH CAO ĐẸP CỦA MƯỜI BA VỊ TỔ LIÊN TÔNG.

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 8 06, 2013 11:04 am

3. ĐẠI SƯ THỪA VIỄN - Tổ Liên tông thứ ba - đời Đường 
Sư người Miên trúc, tỉnh Tứ Xuyên. Năm hai mươi bốn tuổi, sư đến núi Ngọc Tuyền ở Kinh Châu, xuống tóc học đạo với ngài Huệ Chơn. Vâng lời thầy dạy, sư đến Hành Sơn truyền giáo, số người được sư giáo hóa lên đến cả vạn. Sư chỉ dùng chuyên nhất pháp môn niệm Phật để khai đạo đồ chúng. Hôm ấy, nghe ngài Tuệ Nhựt đến Quảng Châu giáo hóa, sư liền đến cầu giáo. Ngài Tuệ Nhựt không dạy gì khác, chỉ khuyên sư nên y theo kinh Vô lượng thọ mà tu niệm Phật tam-muội để cứu độ quần sanh. Từ đấy, sư dứt hết các duyên, chuyên tu Tịnh độ.
Vào năm đầu niên hiệu Thiên Bảo, sư trở về núi Hành sơn, lập tinh xá lấy hiệu là Di-đà Đài, chỉ an trí kinh tượng. Sư ăn mặc thô sơ, tinh cần tu khổ hạnh, thường thấy Thánh cảnh, lấy việc chuyên trì danh hiệu làm hạnh chính yếu; lấy sự bố thí, trì giới làm hạnh phụ trợ. 
Trong Tịnh nghiệp vựng biên nói: “Sư khắc quyển sách pháp môn chuyên niệm Phật vào vách khe suối, mà chẳng cần một sự giúp đỡ chi viện nào, không cầu mà vẫn đủ, không xin mà vẫn thừa. Tất cả các vật sở hữu của sư, sư đều đem bố thí cho những người nghèo thiếu, bệnh tật; còn mình thì ở dưới hang đá, ăn bùn đất cây cỏ, nên thân hình gầy yếu, má hóp xám sanh tợ như người tiều phu nghèo đốn củi. Thanh danh sư vang lừng khắp nơi, Thiên tử có ý thỉnh cầu sư, song không thể được. Có thể nói, sư là một bậc mô phạm nghiêm minh.”
Bậc cổ đức hành khổ hạnh, thật xứng đáng làm khuôn mẫu cho đời. Vào năm thứ mười tám niên hiệu Trinh Nguyên, Sư viên tịch, thọ chín mươi mốt tuổi. 
Trong Tri môn sùng hành lục tán thán: “Đánh cỏ tranh làm nhà, vua Nghiêu còn ngại thôn xóm gièm pha; mặc y phục thô rách, vua Vũ còn sợ dân dã chê cười; huống nữa Thích tử, kẻ chỉ dùng y bát để nuôi dưỡng thân. Vậy mà thời nay, có lắm người sống đời xa xỉ, chỉ lo tích chứa, trau chuốt thân thể, e rằng người như vậy chẳng tự biết, lại còn dương dương tự đắc, chẳng có tàm quí.” Thành thật mà nói như  vậy!
 
4. ĐẠI SƯ PHÁP CHIẾU - Tổ Liên tông thứ tư - đời Đường 
Sư ở chù Vân Phong huyện Hàønh Châu, là Quốc sư của triều Đường Đại Tông. Tông chỉ sở hành của sư là từ bi, nhẫn nhục, trì giới, thiền định. Sư từng thấy Thánh cảnh Ngũ đài hiện trong bát mình. Sau đó, sư đến Ngũ Đài Sơn, diện kiến đức Văn Thù. Tại Lô Sơn, trong lúc nhập định, sư được nghe pháp môn niệm Phật, thần thức dạo nơi cảnh Cực lạc, thấy ngài Thừa Viễn đứng hầu bên cạnh đức Phật A-di-đà. 
Giữa năm Vĩnh Thái, Sư đến Hành sơn, hầu ngài Thừa Viễn, thọ pháp môn Tịnh độ. 
Theo trong sách “Tịnh độ ngũ hội niệm phật tụng kinh quán hạnh nghi” do sư trước tác, nói: “Ngày mười lăm tháng tư năm thứ hai niên hiệu Vĩnh Thái, tại Di-đà Đài huyện Nam Nhạc, sư phát nguyện rộng lớn, thệ trọn đời này, cứ chín mươi ngày trong mỗi mùa Hạ, là nhập đạo tràng niệm Phật tam-muội. Mùa Hạ năm ấy, đến ngày thứ hai mươi bảy, sư thấy Phật, được đức Phật A-di-đà chỉ dẫn cho pháp Ngũ hội niệm Phật.” 
Từ đó về sau, sư từng ở chùa Hồ Đông mở Ngũ hội niệm Phật, có vầng mây lành năm màu che trên gác báu, thấy đức Phật A-di-đà và hai vị Bồ-tát, thân tướng trùm khắp hư không. Lại ở Tinh Châu, sư mở Ngũ hội niệm Phật, âm thanh niệm Phật vang đến trong cung Đại Tông (Lý Dự), vua bèn hạ lệnh cho quan quân truy tầm, thỉnh sư về cung. Sư dạy người trong cung niệm Phật, cũng do mở Ngũ hội niệm Phật mà sư được vua ban hiệu Quốc sư, người đương thời gọi sư là Pháp sư Ngũ Hội.
Sư dựa vào kinh Vô lượng thọ nói cây báu ở cõi Tịnh phát ra năm loại âm thanh đều niệm danh hiệu Tam bảo, nói người nghe pháp được Nhẫn bất thối cho đếùn khi thành Phật đạo … mà sáng lập ra pháp môn này. Pháp Ngũ hội niệm Phật của sư truyền lại cho đời như sau: Hội thứ nhất, niệm chậm, thong thả với âm thanh trung bình. Hội thứ hai, niệm thong thả nhưng với âm thanh cao. Hội thứ ba, niệm không nhanh nhưng cũng chẳng chậm. Hội thứ tư, niệm nhanh dần. Bốn hội trên đều xướng niệm sáu chữ Nam Mô A-di-đà Phật. Hội thứ năm, luôn niệm nhanh bốn chữ A-di-đà Phật. Trong ấy lại có kệ tán thán:
Hội thứ nhất tiếng bình thanh hoà nhập
Hội thứ hai diễn thanh âm vi diệu
Hội thứ ba như tấu nhạc bổng trầm
Hội tư  dụng lực ca ngâm chính yếu
Hội năm niệm niệm âm thanh nhanh dần.
Nghe năm hội này ngộ Vô sanh nhẫn
Thắng cảnh Tây phương hưởng thọ lạc an
Thoát vòng sanh tử trầm luân khổ sầu …
Bài kệ tán dương này được kinh ấn chứng, Tổ giám định, nhưng vì có người nghi là ngụy tạo, nên ghi ra đây để tham khảo. 
5. ĐẠI SƯ THIỂU KHANG - Tổ Liên tông thứ năm - đời Đường  
Sư người Tấn Vân, họ Châu. Năm mười lăm tuổi, sư tụng các kinh Pháp hoa, Lăng nghiêm … Sau đến Việt Địa, sư tham cứu Tỳ-ni, Hoa nghiêm và luận Du-già …
Đầu năm Trinh Nguyên, sư đến chùa Bạch Mã, nhìn thấy tập văn Tây phương hóa đạo của ngài Thiện Đạo, sư vô cùng vui mừng. Nhân đó, sư đến Trường An, chiêm lễ di ảnh ngài Thiện Đạo, nhờ sự cảm ứng nên thấy được chơn thân của Ngài.
Sau khi đến huyện Mục, ở trong thành, sư khất thực được rất nhiều tiền, song dụ trẻ con niệm Phật rồi cho tiền, không ngờ tiếng niệm Phật vang khắp các nẻo đường. Biết nhân duyên hoá độ đã chín, sư đến núi Ô Long kiến lập đạo tràng Tịnh độ, xây đàn tràng ba tầng, ngày đêm đại chúng tinh tấn tu hành xướng niệm. Vào những ngày trai, số người qui tụ về hơn cả ba ngàn. Khi sư xướng niệm một tiếng A-di-đà Phật thì từ trong miệng phóng ra một đức Phật, niệm mười tiếng thì mười đức Phật liên tiếp hiện ra như tràng hạt châu, đại chúng ai cũng thấy. 
Hành nghiệp chính yếu của sư là luôn nhớ nghĩ nhàm chán cõi ngũ trược nhơ uế, vui thích Tịnh độ, niệm Phật lớn tiếng và hành bố thí. Sư thường dạy chúng: “Phải luôn khởi tâm vui thích cõi Tịnh, nhàm chán xa lìa cõi Ta bà năm trược.” 
Vào năm Trinh Nguyên thứ hai mươi mốt, sư viên tịch, toàn thân phóng quang rực sáng. Đại chúng xây tháp sư ở Đài Nham, nên người đương thời gọi ngài là Pháp Sư Đài Nham. 
Ngài xin tiền cho trẻ con niệm Phật, âm thanh niệm Phật vang khắp các nẻo đường, đó là việc làm của một bậc khổ hạnh tối cao vậy. 
6. ĐẠI SƯ VĨNH MINH - Tổ Liên tông thứ sáu - đời Tống 
Sư người Tiền Đường, họ Vương, hiệu Diên Thọ, tự Sung Huyền. Vào thời Ngũ Đại, sư làm quan giữ kho, lấy tiền của quan quân mua chim cá phóng sanh, nên bị xét xử tử hình. Sắp đến giờ hành hình mà thần sắc của sư vẫn không biến đổi. Trước tinh thần vô uý của sư, Ngô Việt Vương rất cảm phục nên phóng thích. 
Sau đó sư xuất gia, nương thiền sư Thuý Nham tu học, kế đến tham chiếu với Thiền Quốc sư. Sư từng tinh cần miên mật hành Pháp hoa sám hai mươi mốt ngày, mộng thấy đức Bồ-tát Quán Thế Âm dùng cam lồ rưới vào miệng, liền được biện tài vô ngại. Sư đã trước tác Tông cảnh lục, Vạn thiện đồng qui tập … đều nói về tông chỉ Tịnh độ. 
Năm Kiến Long thứ hai, đời nhà Tống, vua Trung Ý thỉnh sư trụ trì chùa Vĩnh Minh. Sư lập thời khoá công phu thật miên mật, ban ngày làm trăm lẻ tám việc, tối đến lên một ngọn núi gần chùa niệm Phật, tiếng niệm Phật hoà cùng với tiếng nhạc trời trổi trên hư không lúc trầm lúc bỗng, mọi người ở đây ai cũng cảm phục. Sư ở chùa Vĩnh Minh mười lăm năm, độ được một ngàn bảy trăm đệ tử xuất gia. Vào Thiên Đài, sư truyền giới cho hơn vạn người, thường cùng bảy chúng thọ Bồ-tát giới, chiều tối thí thực cho các loài  quỉ thần, và thường mua chim, cá … phóng sanh. Sư hành đạo cả sáu thời, trọn đời đã tụng một vạn ba ngàn bộ kinh Pháp hoa.
 Niên hiệu Khai Bảo thứ tám, hôm ấy trời mát diệu, sư đốt hương cúng dường Tam bảo, dạy đại chúng xong, ngồi kiết già viên tịch, thọ bảy mươi hai tuổi.
Cho đến nay, tư tưởng chủ đạo Thiền Tịnh song tu của sư vẫn được mọi người cung kính hành trì. Như trong Thiền tịnh tứ liệu giản nói:
Có Thiền, không Tịnh độ
Mười người, chín người lạc
 Khi âm cảnh hiện ra
Liền phải đi theo nó.
Không Thiền, có Tịnh độ
Vạn người tu đồmg thành
Thấy được đức Di-đà
Lo gì không khai ngộ.
Có Thiền, có Tịnh độ
Giống như hổ thêm sừng
Hiện tại làm thầy người
Tương lai làm Phật, Tổ.
Không Thiền, không Tịnh độ
Đời đời nằm giường sắt
Kiếp kiếp ôm trụ đồng
Chẳng có nơi nương tựa.
Ngày nay, đọc lại bài kệ này, chúng ta có thể tưởng tượng được biện tài vô ngại của sư thuyết pháp, cảnh tỉnh bốn chúng thời ấy.
Lại trong Tứ liệu giản nói: “Xét hai đường luân hồi thiện ác, quả báo khổ vui đều do ba nghiệp gây tạo, bốn duyên sanh ra, sáu nhân thành hình, năm quả thu nhiếp. Nếu khởi một niệm sân hận, tà dâm thì đó là nghiệp địa ngục. Nếu khởi một niệm tham lam không thí xả thì đó là nghiệp ngạ quỉ. Nếu khởi một niệm ngu si ám chướng thì đó là nghiệp súc sanh. Nếu khởi một niệm cống cao ngã mạn thì đó là nghiệp A-tu-la. Nếu thọ trì năm giới thì đó là nghiệp làm người. Nếu chuyên tu mười điều thiện thì đó là nghiệp làm trời. Nếu chứng ngộ Nhân không thì đó là nghiệp Thanh Văn. Nếu thấu triệt lí duyên sanh thì đó là nghiệp Duyên Giác. Nếu chuyên tu sáu độ thì đó là nghiệp Bồ-tát. Nếu hành từ tâm bình đẳng thì đó là nghiệp của Phật. Nếu tâm an tĩnh thì hóa sanh cõi tịnh, ở lầu đài cung điện bảy báu, ngồi toà sen hương thơm ngào ngạt. Nếu tâm nhơ nhiễm thì sanh vào cõi cấu uế, hầm hố gò đồi. Tất cả những kết quả này đều biến chuyển theo nguyên lí duyên sanh tự nhiên bình đẳng. Chính vì ngoài nguồn tự tâm ra, không có một thể nào khác, nên muốn được quả an tịnh thì chỉ có cách tạo nhân thanh tịnh.”
Sư giảng nói lưu loát, kiến giải tinh thâm tột đỉnh, những tác phẩm của sư có giá trị bất hủ, đúng là một bậc học Phật trí đức viên dung, tài hoa trước thuật. 

LUẬN THIỀN TỊNH SONG TU CỦA NGÀI VĨNH MINH DIÊN THỌ
Nguyên tác: Ấn Hải, Việt dịch: Thích Huệ Chí
 
I. SỰ TÍCH NGÀI DIÊN THỌ 
Đời nhà Đường, niên hiệu Hội Xương năm thứ năm (845 TL), vua Võ Tôn hủy diệt Phật pháp, khiến Phật pháp phải chịu nhiều trù dập, thế lực Phật giáo không kham nổi nên suy tàn. Sau đó, đến cuối đời Đường, qua thời Ngũ Đại, chiến loạn liên tiếp nên vận mệnh Phật giáo cũng suy vi không trấn hưng nổi. Đặc biệt là thời Hậu Chu, niên hiệu Hiển Đức thứ 2 (955 TL), vua Thế Tông nhiều lần phá hoại Phật giáo, chùa tháp, tượng Phật bị thiêu hủy, chuông khánh đem nấu để đúc làm tiền tệ, trừ Ngô Việt ở phương nam, Phật giáo có sự bảo tồn. Mãi đến đời Tống, năm đầu niên hiệu Kiến Long (960 TL), Tống Thái Tổ thống nhất thiên hạ đề xướng Phật giáo, đến Thái Tông, Chẩn Tông, Nhân Tông … đều chủ trương làm hưng thịnh Phật giáo. Đây là nét canh tân phục hưng rực rỡ của tinh thần văn hóa phương Đông. Thời kỳ này, sự nghiệp dịch kinh và giáo lý phát triển nhưng chỉ thu thập những gì còn lại, tất cả đem so sánh với đời thịnh Đường thì không bằng. Cho nên, nói thời đại mà nghiên cứu và lý luận trở thành quá khứ. Còn có thể nói đây là Phật giáo đời Tống tiến xa vào một thời đại thực tiễn. Vào thời Tống, Thiền tông hưng thịnh, tiếp đến Thiên Thai, Tịnh độ cũng dần dần trấn hưng. Phật giáo thời kỳ nào nếu chủ yếu chú trọng tu trì, thì vận mệnh Phật giáo sẽ hưng thịnh. Quả thật tinh hoa Phật giáo sau đời Đường rất thịnh hành, tựu trung từ sơ Đường đến nay, Thiền và Tịnh bác bỏ lẫn nhau. Huệ Nhật, Pháp Chiếu v.v… đều cho người học Thiền là bụng rỗng tâm ngạo viết ra. Lại có những sách như “Thập nghi luận” và “Niệm Phật kính” chỉ trích Thiền tông là thiên kiến, nhưng đối với tác dụng của Thiền tông chỉ phản tĩnh, tự mình thanh tịnh. Ngài Huệ Trung ở Nam Dương chủ trương hành giải kiêm cả tu trì. Ngài Bách Trượng Hoài Hải chế định thanh quy cho Thiền Lâm quy định pháp chế, khi lễ trà-tỳ phải xưng dương danh hiệu Di-đà. Tất cả mọi việc ở đây tuy trình bày chưa tường tận, nhưng chủ trương rất rõ ràng. Đến những năm cuối của thời Ngũ Đại, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ ra đời, nhất quyết đề xướng Thiền, Tịnh song tu, lý sự vô ngại thành tựu trọn vẹn cả Không lẫn Hữu, là yếu chỉ của Phật giáo, đồng thời cũng từ việc quảng diễn “Vạn thiện hạnh môn” (pháp niệm Phật là muôn hạnh thù thắng). Đương thời nó đã dành cho Thiền tông một tác động rất lớn. Về sau các thiền sư như Thiên Y Nghĩa Hoài, Huệ Lâm Tông Bổn cũng đồng nhiệt liệt hưởng ứng. Từ đời Nguyên, Minh về sau đã trở thành một giáo phong thông lệ bất hủ, tạo thành một nét đặc sắc lớn cho Thiền, Tịnh song tu của Phật giáo Trung Quốc.
Ngài Diên Thọ họ Vương, người Dư Hàng, phủ Lâm An (nay là huyện Dư Hàng, tỉnh Chiết Giang). Khi ngài 20 tuổi một lòng quy y Phật, ngày ăn một bữa, thường tụng kinh Pháp hoa, năm lên 28 tuổi, làm tuớng trấn thủ ở Hoa Đình (tỉnh Giang Tô). Năm 30 tuổi, ngài xin Ngô Việt Vương nghỉ làm quan, thế phát xuất gia với thiền sư Thuý Nham ở chùa Long San và sống hạnh đầu-đà. Sau đó, đến núi Thiên Thai tham thiền nhập định chín tuần dưới đỉnh Thiên Trụ, rồi lại tham kiến thiền sư Pháp Nhãn Đích Tự Đức Thiều. Thiền sư Đức Thiều biết ngài là một pháp khí bèn truyền trao mật chỉ, ngài liền tỏ ngộ. Sau đó ngài đến chùa Quốc Thanh tu “Sám pháp hoa” và tại thiền viện Trí Giả từng bốc hai quẻ bói, một là “nhất tâm tu thiền”, hai là “tụng kinh Vạn thiện”, tức “Trang nghiêm Tịnh độ”. Bảy lần chiếm quẻ đều trúng quẻ chọn kinh “Vạn thiện”, nên ngài không chỉ quyết tâm tu thiền mà thệ nguyện dốc sức tụng kinh Vạn thiện. Vào thời Hậu Chu, niên hiệu Quảng Thuận năm thứ 2 (952 TL), ngài ở núi Tuyết Đậu cho đến đời Tống, niên hiệu Kiến Long năm thứ nhất (960 TL), rồi ngài nhận lời mời của Ngô Việt Trung Ý Vương, đến phục hưng chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu. Năm sau, ngài đến ở chùa Vĩnh Minh (hay gọi chùa Tịnh Từ, Hàng Châu), học trò theo học với ngài hơn hai ngàn người, họ từng làm kệ rằng: 
Dục thức Vĩnh Minh chỉ
Môn tiền nhất hồ thuỷ
Nhật chiếu quang minh sanh
Phong lai ba lãng khởi
Tạm dịch:
Muốn biết ý Vĩnh Minh
Hồ nước ở trước cửa
Trời lên nắng chiếu soi
Gió thổi nước gợn sóng.
Ngài Diên Thọ ở chùa Vĩnh Minh 15 năm và truyền giới Bồ-tát cho 7 chúng đệ tử, lúc ấy mọi người tôn ngài là Di-lặc hạ sanh. Trong sinh hoạt thường nhật của ngài có lễ cúng thí thực cho quỷ thần vào mỗi tối và phóng sanh vô số.
Bộ Pháp hoa, ngài tụng một vạn ba ngàn lần, tiếng tăm ngài vang dội khắp nơi. Nên sau đó, vua Quang Tông Đại Thành nước Cao Ly nghe tiếng, sai sứ thỉnh ngài đến để thọ giáo pháp. Nhà vua trai giới chấp thuận tác lễ làm đệ tử, lại dâng cúng ngài đại y dệt bằng kim tuyến, một xâu chuỗi kết bằng thủy tinh màu tím, một hộp kim thang (thuốc bổ), rồi phái 36 vị Tăng đến học, ngài Diên Thọ truyền trao yếu chỉ cho. Sau khi từ Cao Ly trở về, ngài lại hoằng dương đạo pháp. Do đó, tông Pháp Nhãn được lan truyền khắp Đông Hải. Thường khóa của ngài Diên Thọ là hằng ngày làm trăm công việc Phật sự. Công việc trong yếu của ngài là thọ trì thần chú (chú Đại bi, chú Tôn Thắng Đà-la-ni), niệm Phật, lễ Phật, sám hối, tụng kinh (kinh Pháp hoa, Bát-nhã tâm kinh, Hoa nghiêm phẩm Tịnh hạnh), tọa thiền, thuyết pháp và mỗi ngày ngài đảnh lễ mười phương Phật: Thích Ca, Văn Thù, Phổ Hiền, Di-lặc, Quán Âm, Thế Chí … . Mỗi đêm Ngài ở nơi hoang dã cúng thí thực cho quỷ thần. Ngài Diên Thọ phát nguyện cầu sanh Tây phương, mỗi ngày ngài niệm mười vạn danh hiệu đức Phật Di-đà. Khi trời tối, ngài thường đi đến núi xa để niệm Phật, mọi người theo ngài cả trăm người. Vào những đêm thanh trăng sáng, ngài thường nghe tiếng kèn ốc loại nhạc khí của trời. Vua Ngô Việt Trung Ý rất quý trọng thâm đức của ngài. Nghe sự việc ngài làm, vua cảm động, thành tâm, thành chí xây cho ngài một điện “Hương Nghiêm Tây Phương” và ban tặng ngài hiệu “Trí Giác thiền sư” (vào tháng 12 năm thứ 8 niên hiệu Khai Bảo, đời nhà Tống). Ngài viên tịch tại chùa Vĩnh Minh, thọ 72 tuổi. Trước tác của ngài rất nhiều như: “Tông cảnh lục” 100 quyển, “Vạn thiện đồng quy tập” 6 quyển, “Thần thê an dưỡng phú”, “Duy tâm quyết”, “Thọ Bồ-tát giới”, mỗi loại một quyển. Tất cả hơn 60 bộ, có thể nói đó là một đời Thạc học. Nền học vấn và sự hành trì của ngài sánh ngang ngài Trí Giả đại sư.
 
II. GIÁO CHỈ CỦA SỰ LÝ SONG TU. 
Ngài Diên Thọ là người đại biểu cho thời đại hưng thịnh của Thiền Tông. Ngài chủ trương “Phật tổ bất nhị”, “Thiền Giáo nhất thể”, chiết trung về Pháp tướng, Tam luận, Hoa nghiêm, Thiên thai, rồi dùng Thiền dung hòa tất cả, giữ luật thanh tịnh trang nghiêm, trì chú, niệm Phật vui cầu vãng sanh, nhóm tất cả Phật pháp ở trong một thân. Nhưng lấy nhất thừa của Hoa nghiêm làm cứu cánh viên diệu, lấy linh minh diệu tâm của chúng ta làm bổn nguyện vạn pháp, đó là lý luận cao viễn hùng dũng. Đây là nét đặc sắc riêng biệt của ngài Diên Thọ, về vấn đề tự học bằng phương pháp tổng hợp so sánh tất cả. Về sau các tông có xu hướng dung hợp cũng theo tư tưởng, đường hướng ngài Diên Thọ.
Sự trì chú của Thiền tông từ ngài Đạt-ma cho đến nay chưa từng nghe nói. Sau năm niên hiệu Khai Nguyên thời Lý Đường1 thì mật giáo hưng thịnh ảnh hưởng cả Thiền tông. Mật chú của ngài Diên Thọ không biết kế thừa ở người nào? Như Thiên thủ thiên nhãn đại bi tâm Đà-la-ni, Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-la-ni, về sau Thiền tông đều thường trì tụng. Phổ thí cho ngạ quỷ thì vào triều đại nhà Đường có Thiền sư Khuê Phong, thuộc Mật tông thường tu trì, ngài Diên Thọ cũng thực hành theo pháp này.
Thời Đường, ngài Diên Thọ thấy các môn sinh đồ chúng Thiền tông chỉ chấp Lý mà mê Sự, tất cả những người giảng dạy đều chấp Sự mê Lý, hai điều này đều rơi vào thiên kiến. Ngài Diên Thọ lại nói rõ Lý, Sự vô ngại, “Hữu” “Không” đồng nghĩa, ngài cực lực đề xướng Lý Sự hợp nhất, Thiền Tịnh song tu là thiết yếu. Ngài còn trước tác bộ “Vạn thiện đồng quy tập”, trong đó có 10 nghĩa tu viên mãn: 
1. Lý, Sự vô ngại
2. Quyền, Thật song hành
3. Rõ bày Nhị đế
4. Tánh, Tướng dung nhiếp
5. Thể, Dụng tự tại
6. Không, Hữu hợp thành
7. Chánh, Hành song tu
8. Đồng Dị không hai
9. Tánh, Tu đồng nhất
10. Nhân, Quả chẳng khác
Thứ nhất, pháp môn Sự, Lý vô ngại là căn bản cho niềm tin.
Nay trình bày đại yếu:
Vũ trụ, không gian, lý thể nhất biên, nghĩa là bản thể các pháp thuộc pháp Vô vi bất sanh bất diệt, đây là thật tướng các pháp. Phàm sự tướng nhất biên, nghĩa là tất cả hiện tượng thế gian có ngàn sai muôn khác, đều thuộc về pháp Hữu vi sanh diệt, là hư huyễn giả có.
Ở đây tuy hai mà một, tuyệt đối tánh chẳng phải hai, do đó “trọn ngày độ sanh mà không có một chúng sanh để độ”, “trọn ngày giảng pháp mà không có một pháp để nói”, nhờ Sự mà Lý hiểu, lìa Lý thì vô Sự, nhờ Sự mà Lý lập, nhờ Lý mà Sự sáng rõ. Nếu lìa Sự thì không sao hiểu Lý, giống như sóng do nước mà thành, lìa Lý thì Sự không thành, như nước trở thành sóng.
Phàm phu lìa Lý mà hành Sự, Thanh Văn bỏ Sự chấp Lý, Bồ-tát ngược lại lấy Vô sở đắc làm phương tiện, Hữu chẳng trái với Không, Tục không chướng ngại Chơn, trụ lý thể là Vô vi, làm Phật sự là Hữu vi. Các hạnh Vạn thiện đều là tư lương nhập đạo của Bồ-tát, lấy trí tuệ Bát-nhã làm trợ duyện, dùng Vạn thiện làm túc hạnh, Bát-nhã là con mắt trí tuệ. Hành trang để Bồ-tát đến bờ thanh lương là Vạn thiện túc hạnh.
Cho nên kinh Hoa nghiêm quyển 7 nói, Bồ-tát Viễn Hành Địa Tu tập mười pháp phương tiện trí tuệ thù thắng: 
1. Khéo tu Không, Vô tướng, Vô nguyện Tam-muội, khởi lòng từ bi không bỏ chúng sanh.
2. Được pháp bình đẳng chư Phật mà thường vui cúng dường chư Phật.
3. Quán cửa Không trí mà siêng năng tu tập phước đức.
4. Xa lìa tam giới mà trang nghiêm tam giới.
5. Đoạn trừ tất cả phiền não mà vì tất cả chúng sanh diệt trừ các Hoặc (phiền não): tham, sân, si.
6. Quán các pháp như huyễn, như mộng, như bóng chớp, như âm vang, như ráng nắng, như ánh trăng dưới nước, như bóng trong gương, biết tự tánh không hai, theo tâm mà hiện khởi vô lượng sai khác để tạo tác các nghiệp.
7. Biết các quốc độ giống như hư không mà dùng diệu thanh tịnh để trang nghiêm Tịnh độ.
8. Pháp thân chư Phật bổn tánh vô thân mà lấy thân tướng trang nghiêm chư Phật tô điểm.
9. Biết được âm thanh thuyết pháp của chư Phật là Không tánh tịch diệt mà khéo tùy chúng sanh để diễn thuyết mỗi mỗi âm thanh tịnh sai biệt.
10. Liễu tri ba đời trong một tâm niệm mà tùy ý chúng sanh để giải bày phân biệt các tướng, trong mọi lúc để tu muôn hạnh cho các kiếp.
Kinh Duy-ma lại nói rằng: 
Tuy hành “Không” mà trồng các hạt giống đức chính là Bồ-tát hạnh. Tuy hành “Vô tướng” mà hằng độ chúng sanh là Bồ-tát hạnh. Tuy hành “Vô tác” mà hiện thọ thân là Bồ-tát hạnh. Tuy “Vô khởi” mà khởi tất cả thiện hạnh là Bồ-tát hạnh.
Trên đây đều là giáo chỉ Lý, Sự vô ngại, nếu tu hành Phật đạo thì phải tùy thuận vào yếu chỉ các pháp này. Không thể vào định mà bỏ Hữu, chứng thân bỏ Tục nên bi trí song hành, “mắt nhìn chân bước” mới có thể tương thành thông đạt được nghĩa lý của Hữu và Không.
Ngài Diên Thọ phân biệt giáo pháp một đời Như Lai mà phân làm Tướng tông, Không tông, Tánh tông. Tướng tông chuyên nói về có, Không tông chủ trương về không, Tánh tông dung hợp cả hai để hiển rõ trực chỉ. Lại nói tánh y vào tướng, không nói tướng phá tánh.
Đương thời giáo giới nặng nói về lý huyền, phủ định tất cả, chuyên nói phi tâm phi Phật, phi sự phi lý. Không biết rằng đây là phương tiện trình bày để đối trị sự vọng chấp ngăn che, là giáo chỉ chánh tín để khử trừ những người vô minh “nhận Hạc là Phượng”.
Môn đồ của Thiền tông chỉ rơi vào thấy Không, cho nên dẫn chứng lời ngài Tam Tạng Từ Mẫn: “Thánh giáo dạy hành giả chánh tu thiền định là chế tâm một chỗ, niệm niệm trôi chảy, xa lìa hôn trầm, tâm luôn bình đẳng, nếu bị ngủ nghỉ ngăn che thì phải siêng năng niệm Phật, và tụng kinh, lễ bái, hành đạo giảng kinh, thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh không bỏ vạn hạnh, lấy sự nghiệp tu hành hồi hướng để vãng sanh Tây phương Tịnh độ”.
Lại dẫn chứng luận Khởi tín: “Nếu tu chỉ thì tâm dễ chìm đắm, biếng lười dấy khởi nên không lìa đại bi, vui tu muôn thiện. Cho đến mọi lúc mọi nơi, mình cũng tùy thuận khéo đảm đang, tu học các điều thiện, ngồi thiền cũng chẳng bỏ làm các điều thiện”.
Trong “Vạn thiện đồng qui tập” dạy:
“Luận rằng Vạn thiện là tư lương của Bồ-tát nhập Thánh, các hạnh làm trợ đạo để dần dần bước lên thềm thang của chư Phật … Pháp hoa tạm hội quy nhất, Vạn thiện hướng về Bồ-đề, tất cả đại phẩm không hai, các hạnh bao hàm về chủng trí”.
Lại ở trong Vạn thiện đồng quy tập, quyển thứ ba, cổ đức giải thích rằng: 
“Hành giả Thiền tông thất ý mê sự, bổn tánh đầy đủ chớ cầu việc giả, chỉ cần vong tình thì chân Phật tự hiển. Thiền giả học pháp chấp sự mê lý, chuyên giảng nói dạng tướng cũng như “vào muôn trùng biển cát mà chẳng biết dừng”, không biết siêng tu Lý, Sự, nếu kết hợp cả hai thì song mỹ, lìa thì hại. Cho nên Lý Sự song tu, Tổ Phật đồng quy, Thiền Giáo nhất trí, chính là chủ trương của ngài Diên Thọ.
Tông kính lục, quyển thứ nhất hỏi:
“Nếu muốn minh tông mà chỉ hợp để thuần ý Tổ thì làm sao dẫn cả lời dạy chư Phật, Bồ-tát và lấy gì làm chỉ nam?”.
Đáp: 
“Vốn dĩ từ trước đến nay cứ thị phi phải trái, không chịu xem kinh giáo, sợ không rõ lời dạy của của đức Thích Tôn, lại tùy văn mà hiểu nên sai ý Phật … Nếu hiểu được chân tâm của Phật thì làm sao có lỗi?”.
Như Hòa thượng Dược Sơn một đời xem kinh Niết-bàn, tay không rời sách, không những ở Ấn Độ có 28 vị tổ mà ở Trung Quốc cũng có 6 vị, cho đến Hồng Châu Mã Tổ đại sư, Nam Dương Huệ Trung quốc sư, Nga Hồ Đại Nghĩa thiền sư, Tư Không Sơn Bổn Tịnh thiền sư, tất cả đều bác thông kinh luận, viên ngộ tự tâm.
 
III. DUY TÂM TỊNH ĐỘ VÀ CHÁNH NHÂN VÃNG SANH. 
Tất cả Lý Sự của ngài Diên Thọ vốn đều trong một tâm, tức bắt nguồn từ tâm chân thật của Chân như quán. Lại tâm như người thợ vẽ, vẽ tất cả muôn vật, đây chính là quán tâm thức, bắt nguồn từ Tâm duyên lự. Trong đó thể tâm chân thật chính là cửa chân như, Tâm duyên lự tức cửa sanh diệt, song thể chính là dụng, dụng chẳng lìa thể. Tức dụng là thể, thể không lìa dụng, tức chỉ một tâm, tâm này bình đẳng thì pháp giới thản nhiên. Tâm này biến dịch thì ngàn sai tranh khởi. Tâm này có thể thành Phật, hay thành chúng sanh. Tâm này cũng làm nên thiên đường cũng tạo địa ngục, ngoài tâm không có một pháp. Cho nên Tịnh độ là do tâm.
Đối với pháp yếu Tịnh độ là duy tâm, mà môn sinh Thiền tông ngộ nhận không có Tây phương; kỳ thật Di-đà Tịnh độ cầu nguyện vãng sanh chẳng cần xả bỏ thế giới này mà cầu Tây phương, là còn có ý niệm bỏ, lấy, cho rằng ngoài tâm có pháp thật, thì trái với nguyên lý duy tâm. Cho nên “Thập nghi luận” của Thiên thai nói rằng: “Người trí sanh Tịnh độ, mà đạt được thật thể ‘sanh’ không thể đắc, đây mới chính là chân thật của ‘vô sanh’. Người vô minh do ‘sanh’ trói buộc, nghe ‘sanh’ hiểu là ‘sanh’, nghe ‘vô sanh’ hiểu là ‘vô sanh’, cần phải biết ‘sanh’ tức ‘vô sanh’, ‘vô sanh’ tức ‘sanh’”. Lại ở trong luận Quần nghi nói rằng: “Tuy biết trong kinh nói, quốc độ của chư Phật và chúng sanh đều không, mà thường tu Tịnh độ để giáo hóa chúng sanh. Viên thành thật chỉ nói vô tướng giáo, lấy cứu cánh ‘không’ để phá Biến kế sở chấp, tin tất cả pháp đều là Y tha khởi của nhân duyên sanh. Như người thâm tín nhân quả mới rõ được nghĩa duyên sanh vô sanh. Nếu tín lực chưa đủ, tâm tán loạn, dao động, quán hành còn yếu, thì phải tu Tịnh độ, cầu nguyện vãng sanh”. Luận Khởi tín khuyên tu chỉ quán nói rằng: “Nếu tâm tánh khiếp nhược, sợ tín tâm khó thành tựu thì nên chuyên niệm Di-đà, cầu sanh thế giới Tây phương Cực lạc”. Luận Vãng sanh cũng dạy rằng: “Sanh đến quốc độ đó rồi, nên phát thệ nguyên trở lại sanh tử để cứu giúp nỗi khổ chúng sanh. Chỉ cần vãng sanh Tịnh độ là thuộc tư lợi, nên biết lợi tha mới là tông yếu của Tịnh độ”.
Nhân sanh Tịnh độ, ngài Diên Thọ lấy trì giới, tọa thiền làm nhân của thượng phẩm hành đạo và niệm Phật là nhân hạ phẩm, trung phẩm. “Vạn thiện đồng quy tập”, quyển 2, nói rằng: “Phẩm thứ 9 hành theo định tâm, chuyên tâm là trung sanh, còn như định tâm tu chỉ quán, thì được thượng phẩm vãng sanh. Chỉ chuyên tâm niệm danh hiệu đức Phật, nhờ các duyên thiện trợ giúp, phát nguyện hồi hướng vãng sanh, đấy là hạ phẩm vãng sanh. Lại thọ Bồ-tát giới, trong chín phẩm, người thượng căn thọ giới tu thiền còn trung và hạ căn thì hành đạo niệm Phật”.
Về việc trì giới, trong “Vạn thiện đồng quy tập”, quyển 2, nói: “Thiền tông rất coi nhẹ giới luật, không biết rằng thọ giới Bồ-tát, phát Bồ-đề tâm tín thọ Đại thừa, dù bị phá giới, niệm Phật sám hối cũng được vãng sanh. Nếu thọ giới mà tạo nghiệp ác, nhờ sức trì giới ở quá khứ, tìm hiểu Đại thừa, thiện căn đầy đủ, lúc lâm chúng niệm Phật, gặp thiện hữu khai thị, dù nghiệp thiện nhẹ, nghiệp ác nặng, nhưng nhờ lấy giới Bồ-tát làm điều kiện tất yếu nên vãng sanh. Cho nên phát Bồ-đề tâm là chánh nhân để vãng sanh Tịnh độ”.
Lại từng khuyên mọi người lớn tiếng niệm Phật và dạy 10 niệm được vãng sanh, một tiếng niệm Phật, tội diệt hà sa. Kinh Pháp hoa nói: “Nếu người nào tâm tán loạn, mà thường đến chùa tháp một lần xưng ‘Nam mô Phật’,  đều được thành Phật đạo”. Kinh A-di-đà nói rằng: “Nếu người nào từng niệm danh hiệu đức Phật, thì được tất cả chư Phật thường hộ niệm”. Kinh Bảo tích dạy rằng: “Lớn tiếng niệm Phật thì ma quân tiêu tan”. Kinh Nghiệp báo sai biệt nói: “Lớn tiếng niệm Phật, được mười thứ công đức. Lại niệm Phật có ngồi niệm, đi niệm. Ngồi niệm như thuyền đi ngược dòng nước, đi niệm như thuyền đi xuôi chiều gió, ngồi niệm có thể diệt trừ tội trong 80 ức kiếp”.
Nếu những ai đảnh lễ 5 vốc sát đất, cung kính niệm Phật mười tiếng (thập niệm), dù một đời ác nghiệp nặng khi lâm chung niệm mười niệm, tội diệt được sanh Tịnh độ. Dẫn kinh Na-tiên Tỳ-kheo chứng minh: “Như đá ném xuống nước thì chìm, nhưng đá được đặt ở trên thuyền tuy cả trăm viên cũng không làm sao chìm được”. Cho nên người tạo tội nhưng do công đức niệm Phật khỏi rơi vào địa ngục. Trí độ luận nói rằng: “Khi lâm chung, nếu tâm lực mạnh hơn nghiệp lực cả đời mình làm, dù là chút thời gian ít ỏi mà tâm lực mạnh thì thắng nghiệp lực, như đốm lửa tuy nhỏ cũng có thể lan tỏa rộng lớn”.
Do đó khi lâm chung tâm quyết định mạnh mẽ thì hơn cả nghiệp lực làm cả trăm năm. Đây là luận chứng của pháp môn mười niệm khi lâm chung.
Ngài Diên Thọ lại khuyên khi lễ trà-tỳ thì nên cố gắng dõng mãnh hành trì niệm Phật. Vì có sanh nên có diệt, sau khi tâm chí thành quy y Tam bảo, lúc xả thân là xả thể vô thường đắc thể Kim cang, bỏ thân dễ hủy hoại được thân kiên cố. Rộng dẫn ở kinh luận, nêu lên sự tích các bậc Đại đức xưa nay, ra đi để lại nhục thân làm chứng tích cho đời.
Nếu ai tiếc thân mạng, sau khi lâm chung lại làm thế tục dập dìu trong sanh tử.
Vả lại Phật pháp trọng hành trì, không trọng biện ngôn, nói nhiều không bằng làm ít, nghĩa là chú trọng thực tiễn hành trì.
Tóm lại ngài Diên Thọ chú trọng thực tiễn dốc sức hành trì, đương thời Thiền tông chỉ có ngồi thiền, học trò thiền tông thường chấp trước danh và tướng pháp hữu vi, điều này tăng thêm hư danh. Cho nên mục tiêu, tiêu chuẩn Lý Sự song tu được ca ngợi, trọn đời chẳng trễ nãi, tự tu 108 việc (niệm Phật 108 biến), đặc biệt thâm tín vãng sanh Tịnh độ, một ngày niệm 10 vạn danh hiệu Đức Phật, thực tiễn đã khích lệ tinh thần.
Dựa vào giáo chỉ chủ trương Sự Lý song tu của Thiên thai, Hoa nghiêm, Khởi tín, phối hợp cả 2 tông Giáo và Thiền đương thời để cứu vãn tệ đoan của 2 tông (Thiền và Giáo). Do ảnh hưởng sự kết hợp thiền học và niệm Phật của đại sư Tuệ Nhật, Lý Sự song tu, tức bao hàm có cả ý nghĩa tung kinh Vạn thiện. Muốn hồi hướng nguyện sanh Tịnh độ, đặc biệt phải chú trọng niệm Phật là chánh nhân, để cho tất cả trung và hạ căn đều vãng sanh Tây phương.
Ngài Diên Thọ dã từng tham thiền, niệm Phật “Tứ liệu giản kệ”, làm tiêu chuẩn cho Thiền, Tịnh song tu. Tứ liệu giản kệ nói rằng: “Có Thiền không Tịnh mười người hết chín người sai đường, nếu âm cảnh hiện ra, thoáng chốc họ sẽ rơi vào đó. Không Thiền có Tịnh, vạn người tu vạn người vãng sanh, được thấy Phật Di-đà, sao không chịu khai ngộ? Có Thiền mà thêm Tịnh giống như hổ mọc thêm sừng, đời hiện tại làm thầy mọi người, tương lai làm Phật, làm Tổ. Không Thiền không Tịnh độ, như kẻ không nhà, muôn đời vạn kiếp không có người để nương tựa”. Câu thứ ba nói: Có Thiền có Tịnh độ, tức Thiền Tịnh song tu, giống như hổ mọc thêm sừng là lý tưởng hóa để chính mình tu pháp môn này. Câu thứ nhất nói có Thiền không Tịnh độ, đương thời chỉ cho tất cả môn đồ của Thiền tông, mười người tu thiền thì chín người rơi vào đường ma. Câu thứ 2 nói không Thiền có Tịnh độ, chỉ cho tất cả những ai có căn cơ trung và hạ, tất cả vạn người tu không một ai lầm đường lạc bước, được thân cận Phật Di-đà, tự mình thoát ly sanh tử.
Có thể khẳng định rằng ngài Diên Thọ là bậc lợi căn thượng trí, cho nên mới kết hợp Thiền, Tịnh song tu. Người hạ trí độn căn chuyên tâm niệm Phật mong sanh được Tịnh độ, lo gì không khai ngộ!? Đây là giáo hóa đồng điệu với chủ trương của đại sư Thiện Đạo. 
(Soạn giả dựa theo Giáo lý sử Tịnh độ Trung Quốc và Thiền học tư tưởng sử) 


7. ĐẠI SƯ TỈNH THƯỜNG - Tổ Liên tông thứ bảy - đời Tống 
Vào đời Tống, tín ngưỡng Tịnh độ đã ăn sâu trong nhân gian, đặc biệt rất thịnh hành ở vùng Chiết Giang phương nam. Người đầu tiên sáng lập hội niệm Phật ở đây là đại sư Tỉnh Thường. Sư họ Nhan, người Tiền Đường.
Vào giữa niên hiệu Thuần Hoá, sư trụ trì viện Chiêu Khánh ở Tây hồ, khắc tượng Phật A-di-đà bằng gỗ chiên đàn, chích thân láy máu chép phẩm Tịnh hạnh trong kinh Hoa nghiêm. Vì ngưỡng mộ đạo phong của ngài Viễn Công ở Lô sơn, nên sư kết xã Tịnh Hạnh chuyên tu Tịnh nghiệp. Các hàng sĩ phu tham gia hơn một trăm hai mươi người, như tướng quốc Vương Văn Chánh Công Đán … tự xưng là đệ tử của xã Tịnh Hạnh, cùng với một ngàn vị Tăng đồng tu niệm. Sư lại điêu khắc tượng Phật Tì-lô-giá-na bằng gỗ chiên đàn hương. Sau khi điêu khắc xong, sư quì trước tượng phát nguyện: “Kể từ ngày nay, con và đại chúng phát Bồ-đề tâm, nguyện đời đời kiếp kiếp hành Bồ-tát đạo, nguyện khi xả báo thân này liền sanh về cõi An dưỡng.” Với đại nguyện kiên định, giới hạnh nghiêm minh, thanh danh của sư cảm động cả đất trời, từ cung đình cho đến làng mạc, nhiều vị Đại đức, quan quân, thân sĩ quí tộc tìm đếùn kết giao học đạo, người đương thời không ai không biết sư. Sư trì giới luật tinh nghiêm, chuyên niệm danh hiệu Phật, phát Bồ-đề tâm, kết xã niệm Phật, động viên khích lệ mọi người tu tập, nổi tiếng bốn phương nhưng ít trước thuật. 
Trong sách Phật cư sĩ, Tổ sư Ấn Quang đã giảng giải cho chúng ta hiểu một cách đúng đắn rằng: “Việc trước tác là tuỳ theo tâm nguyện của mỗi người, chúng ta nhất định không thể đánh giá phẩm chất đạo đức tốt xấu của người ấy qua việc họ trước tác được nhiều hay ít. Xưa nay, các bậc hiển bày Pháp thân ít dùng ngôn từ câu cú, không có trước tác. Lẽ nào chúng ta lại nghi ngờ được sao? Chúng ta biết rằng muốn thoát li sanh tử, thật ra chẳng phải ở chỗ nói nhiều, mà chỉ cần một mực thâm tín, nguyện tha thiết, chí thành niệm Phật cầu sanh Tây phương là đủ. Song, cho dù đọc hết Đại tạng kinh đi nữa thì chẳng qua cũng chỉ để hoàn thành việc giải thoát mà thôi.” Nói đầy đủ là để phá sự mê hoặc. 
Vào thánh giêng năm thứ tư niên hiệu Thiên Hỷ, sư thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. 
8. ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ - Tổ Liên tông thứ tám - đời Minh 
Sư họ Trầm huý Châu Hoành, hiệu Liên Trì, người quận Nhân Hoà thuộc tỉnh Hàng Châu. Năm mười bảy tuổi, sư làm giáo thọ dạy cho các thư sinh trong vùng. 
Đang độ tuổi thanh xuân cường tráng, sư thế phát xuất gia với Hòa thượng Tánh Thiên. Sau khi thọ giới Cụ túc, Sư đi tham kiến thiện tri thức ở khắp nơi. Tại huyện Đông Xương, đang trên đường đi tham kiến, nghe tiếng trống phát ra từ một lầu củi (Tiều lâu)2, sư hốt nhiên đại ngộ, liền làm bài kệ:
Việc đáng nghi ba mươi năm trước
Ngoài ba ngàn dặm gặp gì lạ
Đốt hương, ném kích đều hư rỗng
Tranh suông ma Phật, đúng với sai.
Khi sư lễ Ngũ Đài Sơn, thì cảm ứng ngài Văn Thù phóng quang. Niên hiệu Long Khánh thứ năm, sư chọn núi Vân thê ở Hàng Châu, chuyên tu niệm Phật tam-muội, giáo hoá kẻ xa người gần, Tăng tục vân tập tạo thành một Tòng lâm lớn. Quanh vùng núi này hổ lang hung dữ, sư tụng kinh, thí thực cho muôn loài, trừ được hoạn cầm thú phá hoại cho dân. Vào những năm đại hạn mất mùa, sư đi dọc bờ ruộng niệm Phật, bước đến đâu mưa rơi đến đó. 
Năm Vạn Lịch thứ mười hai, sư biên soạn tập sách Vãng sanh, ghi lại sự tích những người vãng sanh từ xưa đến nay. Hai mươi năm ở chùa Tịnh Từ thuộc tỉnh Hàng Châu, sư khai pháp, mở giới đàn truyền giới cho Tăng tục, đào ao phóng sanh, chế văn giới sát sanh, đến nay vẫn còn lưu truyền. Sư dùng pháp môn niệm Phật nhiếp hóa tất cả các căn cơ, trước tác Vân thê pháp lục … hơn hai mươi loại, đề xướng Tịnh độ. Người tắm trong đức giáo hoá của sư rất nhiều, tạo thành một hồ tư tưởng rộng lớn.
 Trong số cư sĩ đệ tử của sư, có những vị như Diêu Quảng Hiếu, Lí Trác Ngô, Viễn Hoành Đạo, Tráng Quảng Hoàn …. đều trước tác các loại sách cổ suý Tịnh độ. Nên sau niên hiệu Vạn Lịch, tín ngưỡng Tịnh độ phát triển cực thịnh, đến nay vẫn còn hưng long.
Niên hiệu Vạn Lịch thứ bốn mươi, trước khi sư viên tịch, đại chúng thỉnh sư lưu lại vài lời vàng ngọc cuối cùng, sư nói: “Phải thật tâm niệm Phật”, rồi quay về hướng Tây xưng danh hiệu Phật mà tịch, thọ 81 tuổi.
Dưới đây chỉ ghi lại vài lời pháp ngữ tu trì tịnh nghiệp của sư:
“Xét người học Phật, không cần phải hình thức trang nghiêm, mà chỉ quí ở chỗ tu hành chơn chất. Người cư sĩ tại gia niệm Phật, không nhất định phải mặc y phục như tu sĩ, mà chỉ cần búi tóc gọn gàn, mặc thường phục là được. Người niệm Phật không nhất định phải gõ mỏ hay đánh trống, nếu ưa thích sự tĩnh lặng thì có thể tự niệm Phật trong sự yên tịnh. Người niệm Phật không nhất định phải tạo thành hội đoàn đông đảo, nếu e ngại việc ấy thì có thể tự đóng cửa niệm Phật. Người niệm Phật không nhất thiết phải vào chùa nghe kinh, nếu biết chữ thì có thể tự y theo giáo pháp mà niệm Phật. Người ngàn năm đốt hương cúng Phật, không bằng người ngồi an tịnh trong nhà niệm Phật. Người cung phụng tà sư không bằng người hiếu dưỡng cha mẹ mà niệm Phật. Người kết giao bè bạn ác không bằng người ở một mình nơi thanh tịnh niệm Phật. Người gởi tiền ngân hàng để lo cho cuộc sống tương lai, không bằng người hiện tại làm phước, niệm Phật. Người ôm giữ trong lòng những tâm nguyện nhơ bẩn, không bằng người sám hối, niệm phật. Người học tập thơ văn ngoại đạo, chẳng bằng người không biết một chữ mà niệm Phật. Kẻ vô tri vọng luận thiền lí, chẳng bằng người hết lòng trì giới, niệm Phật. Kẻ mong cầu thần thông yêu quỉ, chẳng bằng người chánh tín nhân quả mà niệm Phật. 
Nói tóm lại, người niệm Phật với tâm ngay thẳng, không làm các điều ác, đó gọi là người thiện. Nhiếp tâm trừ tán loạn, người niệm Phật như vậy gọi là người hiền. Giác ngộ bổn tâm, đoạn trừ mê hoặc, người niệm Phật như vậy gọi là bậc Thánh.
Trì danh niệm Phật có nhiều cách: trì mặc niệm, trì lớn tiếng, trì kim cang … . Nhưng trì niệm lớn tiếng thì e tổn khí lực, trì mặc niệm thì dễ bị hôn trầm, chỉ có niệm thầm thầm mặc mặc, tiếng phát ra giữa răng và lưỡi đó gọi là trì kim cang. Cũng không nhất định là phải trì theo lối kim cang, nếu ngại tổn khí lực thì cứ trì mặc niệm, nếu sợ hôn trầm quấy nhiễu thì cứ niệm lớn tiếng.
Tạp niệm là bệnh, niệm Phật là thuốc hay chơn chánh chửa sạch tạp niệm, mà không có thuốc nào có thể trị hết. Nhờ niệm Phật nên không gần gũi bạn ác. Khi tạp niệm khởi liền dụng tâm gia công niệm, từng câu từng chữ rõ ràng, tạp niệm tự dứt trừ vậy!”
Những điều khai thị trên đây của sư thật thích hợp cho mọi hạng người, nhất là đối với người luôn bận rộn trăm công ngàn việc. Vì chúng sanh mà sư khai mở con đường học Phật bằng phẳng, tu đạo chơn chánh, không chú trọng hình thức, chỉ quí sự tu hành chơn chất. Có thể nói tư tưởng này cùng với tư tưởng của Tổ sư Ấn Quang thời cận đại là đồng cảm tương truyền, cũng là chỗ vui mừng của chúng sanh. 

TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ CỦA ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ
Nguyên tác: Pháp sư Thánh Nghiêm, Việt dịch: Thích Nhuận Độ
       
Pháp môn Tịnh độ, tuy nói đơn giản rõ ràng dễ tu nhưng nếu muốn nghiên cứu đến chỗ thâm sâu tận cùng của tư tưởng Tịnh độ thì đây cũng là một vấn đề hết sức phiền phức cho người nghiên cứu. Dù vật thời gian gần đây, giới Tín đồ Phật giáo Trung Quốc còn chưa có người chú ý đến tính phức tạp của pháp môn Tịnh độ. Tôi là người rất thích môn lịch sử mà lịch sử Phật giáo Trung Quốc có một khuynh hướng không ngờ, tức là phần lớn mọi người đều chú trọng vấn đề Giới luật, nhưng đa số cũng coi trọng việc khảo sát lịch sử. Tuy nhiên đối chiếu mục lục sử truyện ... chúng ta thấy các bậc cổ đức ngày xưa đã cống hiến rất lớn, như ngài Tăng Hựu, Bảo Xướng, Tuệ Kiểu, Đạo Tuyên, Nghĩa Tịnh, Trí Thăng, Viên Chiếu, Tán Ninh .... . Phần lớn các vị này có liên quan đến nguồn gốc của việc chấn hưng Luật học. Tôi không thể đủ tư cách bàn đến Giới luật, nhưng tôi là người trải qua nhiều năm công phu chân chánh, thực hành trong vấn đề Giới luật, coi như đã hoàn thành một giai đoạn. Vì thế tôi lại chú ý tập trung nghiên cứu về phần giáo sử. 
Thế nhưng sau khi tôi tiếp xúc tư liệu Giáo sử khổng lồ, càng nhận thấy việc nghiên cứu Phật pháp rất khó khăn. Nhờ hiểu biết đôi chút về tiếng Nhật, rồi tìm hiểu thành quả nghiên cứu và phương pháp Trị học của nước Nhật Bản thời cận đại, tôi lại nhận thấy không đủ khả năng bàn luận đến bốn chữ: “Nghiên cứu Phật pháp”. Nhưng giới tín đồ Phật giáo Trung Quốc hiện nay, mọi người hiểu biết một cách sơ sài ngay cả tình hình thông thường như thế, chính tôi cũng không thể biết nhiều. Trước hoàn cảnh như vậy, tôi không thể nào không hết sức cố gắng, cho nên mới mời pháp sư Tịnh Hải cùng biên soạn một bộ: “Sử cương Phật giáo thế giới”, nhằm để truyền bá một ít quan điểm về tư tưởng Tịnh độ, hầu giúp những người sơ cơ nhập đạo. Do danh tiếng của hai chúng tôi quá sức tầm thường không đáng kể, nên ít được sự ủng hộ của mọi người, vì vậy việc sưu tập tham khảo phải tìm tòi ở trong các loại thư tịch để viết một bộ: “Sử cương Phật giáo”, song cũng gặp nhiều khó khăn. 
Hiện nay, người biên tập của hội “Vô tận đăng”, muốn tôi viết một tác phẩm có liên quan đến pháp môn Tịnh độ. Với tâm nguyện của tôi, nếu có khả năng tốt nhất là viết một bộ: “Tịnh độï giáo lý tư tưởng sử”. Bởi vì Phật giáo Trung Quốc từ trước đến nay, phần lớn số người chuyên tu pháp môn Tịnh độ rất nhiều, nhưng lại rất ít người hiểu biết để phát triển tư  tưởng Tịnh độ. Mặc dù đây là vấn đề sâu xa, thiết nghĩ lại lưu truyền lâu dài, và căn cứ theo tình hình Phật giáo Trung Quốc hiện nay mà nói, trải qua từng thời kỳ của các vị Tổ sư thì tư tưởng Tịnh độ ở mỗi ngài đều có quan điểm sở trường riêng biệt. 
Đại khái như đã nói ở trên, tư tưởng Tịnh độ của Phật giáo Trung Quốc thời cận đại, tiếp nhận ảnh hưởng hai vị đại sư Liên Trì và Ngẫu Ích rất lớn. Hiện nay tôi đang tham khảo tư tưởng Tịnh độ của đại sư Liên Trì và bộ “Trung Quốc Tịnh độ giáo lý sử” của ngài Vọng Nguyệt Tín Đình người Nhật Bản. Vậy tôi xin lược qua và trích dẫn một ít, để giới thiệu đến độc giả .
 
I. SỰ TÍCH VỀ ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ. 
Đại sư Liên Trì, còn gọi là Châu Hoằng, tự Phật Huệ, hiệu là Liên Trì. Ngài là người huyện Nhân Hòa tỉnh Chiết Giang, nay thuộc huyện Hàng Châu. Năm mười bảy tuổi, ngài thi đỗ tú tài, nổi tiếng về học hành. Ngài thường nghe bà lão láng giềng hằng ngày niệm Phật, lấy làm la. Nhân lúc rổi rảnh ngài sang chơi, mới hỏi Bà lão: “Niệm Phật để làm gì?” Bà lão trả lời: “Ông nhà của tôi lúc sinh tiền chuyên lo niệm Phật, đến khi lâm chung không bệnh tình gì mà ra đi, nên tôi biết công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn”. Do có túc căn sâu dày, nên sau khi nghe xong câu chuyện này, đại sư Liên Trì liền thâm tín hiểu rõ, không còn nghi ngờ, từ đó hướng tâm về pháp môn Tịnh độ. Ngài lại tự tay viết bốn chữ: “Sống chết việc lớn” (Sanh tử sự đại) đặt ở đầu bàn viết, để tự cảnh tỉnh mình.
Năm 27 tuổi cha mất, năm 32 tuổi mẹ mất, (nhằm vào năm 45 niên hiệu Gia Tỉnh triều nhà Minh - 1566 T.L) cũng vào năm đó ngài phát tâm xuất gia. Trước tiên ngài tìm đến đại sư Tánh Thiên ở núi Tây Sơn xin xuống tóc xuất gia. Sau đó, theo ngài Chiêu Khánh Vô Trần thọ Cụ túc giới, rồi đến phương bắc yết kiến đảnh lễ đại sư Biến Dung. Đại sư dạy rằng: “Chớ vì tham lam danh lợi, chỉ lấy nhất tâm mà hạnh đạo, luôn luôn trì giới niệm Phật”. Nghe xong đại sư Liên Trì hết sức cảm động, vâng theo và ghi nhớ không quên. 
Thời gian thấm thoát trôi qua, ngài lại đến Liễu Hạng cầu học với ngài Tiếu Nham Đức Bảo là pháp tôn của ngài Thiên Kỳ Bản Thụy. Ở đây, ngài được truyền dạy rất nhiều. Trên đường đi đến Đông Xương, ngài chợt nghe tiếng trống trên gác lầu canh, hốt nhiên đại ngộ, nhân tiện ngài làm một bài kệ:
Ba mươi năm trước việc đáng ghi,
Ngoài ba ngàn dặm gặp sau kỳ,
Đốt hương, liệng kích dường như mộng,
Ma, Phật tranh suông thị lẫn phi1.
Vào năm thứ năm, niên hiệu Long Khánh (1571 TL), đại sư Liên Trì đi đến núi Vân Thê, tỉnh Hàng Châu, thấy cảnh sơn thủy hữu tình u tịch, thâm tâm ngài rất thích ở chỗ này và quyết chí cất am ở lại trong núi, bắt đầu chuyên tu niệm Phật Tam-muội, đồng thời ngài vân tập Tăng chúng và Phật tử  xa gần đến để giảng dạy cho họ. Chẳng bao lâu nơi này thành một đại Tùng Lâm.
Năm thứ 12 niên hiệu Vạn Lịch (1584 TL), ngài sưu tập những chuyện “Niệm Phật vãng sanh” từ xưa đến nay mà viết thành bộ “Vãng sanh tập”.
Năm thứ 20 niên hiệu Vạn Lịch, ngài đến chùa Tịnh Từ ở Hàng Châu, làm chủ tọa khai đàn thuyết pháp. Trong thời gian ở đây, ngài đề xướng quy chế Giới Đàn, khuyến khích mọi người thực hành phương pháp tự thệ thọ giới. Đồng thời ngài đích thân soạn văn giới sát phóng sanh, khuyên bảo mọi người không nên sát sanh hại vật, hơn nữa ngài dốc hết sức mình phát động đào ao phóng sanh ở trong núi, kể cả nội thành và ngoại thành. Đại sư Liên Trì là hành giả Tịnh độ và cũng là hành giả Thiền tông, cho nên đại sư Liên Trì là người chủ trương Thiền Tịnh đồng quy. Ngài rất đau lòng cho tín đồ Thiền tông đương thời, hạng người hiểu biết cạn cợt, tâm kiêu ngạo, lấy lý lẽ của Thiền tông để giải thích pháp môn Tịnh độ. Đương nhiên, người chủ trương Thiền Tịnh song tu, bắt đầu từ thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ ở cuối đời nhà Đường và trải qua đời nhà Tống thì có thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu, cho đến đại sư Liên Trì Châu Hoằng là tập đại thành. Ngài sao chép những điều trọng yếu của hai ngài, Vĩnh Minh Diên Thọ và Cao Phong Nguyên Diệu để khai thị cho hàng học giả.
Vào tháng 7 năm thứ 43 niên hiệu Vạn Lịch, nhân lúc bệnh nặng ngài liền soạn ra “Ba điều đáng tiếc và mười điều đáng than”, để cảnh sách đại chúng và dặn đi dặn lại phải “luôn luôn niệm Phật”. Khuyên bảo các đệ tử xong, ngài an nhiên thị tịch, thọ 81 tuổi. Hậu thế suy tôn ngài làm tổ thứ tám của hội “Liên xã”. 
Ngài trước tác rất nhiều tác phẩm như: A-di-đà kinh sớ sao (4 quyển), Vãng sanh tập (3 quyển), Tịnh độ nghi biện (1quyển), Thiền quan sách tấn (2 quyển), Phạm võng kinh giới sớ phát ẩn (5 quyển), Lăng-già kinh mô tượng ký (1 quyển), Truy môn sùng hạnh lục (1 quyển), Sơn phùng tạp lục (3 quyển), Trúc song tùy bút (2 quyển) ... Toàn tập của ngài gọi là “Vân thê pháp vị”, tính tổng cộng là 32 quyển. 
 
II. TƯ TƯỞNG THIỀN TỊNH ĐỒNG QUY. 
Đứng về giáo lý Tịnh độ, lập trường của đại sư Liên Trì là đem kinh điển Tịnh độ chia làm ba loại: 
1. Kinh Vô lượng thọ và kinh A-di-đà gọi là “Đồng bộ”. 
2. Kinh Quán vô lượng thọ và kinh Cổ âm vương cùng với bài kệ kinh A-di-đà gọi là “Đồng loại”
3. Kinh Hoa nghiêm và kinh Pháp hoa cho đến tất cả kinh điển Tịnh độ đã nói rõ, gọi là “Phi loại phi bộ”. Ở trong ba loại kinh này, đại sư Liên Trì đặc biệt chú trong kinh A-di-đà, vì để “Trì danh niệm Phật”. Hơn nữa, pháp môn này phù hợp với trình độ căn cơ và hoàn cảnh mọi người. Kinh này cũng hoàn toàn do đức Phật nói ra nguyên do có mười việc lớn, cho nên đại sư Liên Trì đối với kinh A-di-đà hết sức tinh tấn hành trì. Ngài nói rằng: “giáo lý bao quát một đời của đức Phật, mục đích không ngoài việc: Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”.
Ngài dùng kinh này, để giải thích có mười nghĩa, hiện ghi chép ở trong “Di-đà kinh sớ sao”, quyển 1: 
1. Vì lòng đại bi thương xót chúng sanh, nên đức Phật nói kinh này làm cầu bến cho đời mạt pháp nương tựa.
2. Vì trong vô lượng pháp môn, thì pháp môn này là tối thắng.
3. Vì sanh tử của chúng sanh mà giúp họ lìa khổ được vui. 
4. Vì giáo hóa dẫn dắt hàng nhị thừa “chấp không” chẳng lo tu Tịnh độ.
5. Vì khuyên những người mới phát tâm hành Bồ-tát đạo, nên cố gắng niệm Phật để được gần gũi đức Như Lai.
6. Vì muốn độ thoát tất cả các hàng độn căn, lợi căn.
7. Vì muốn hộ trì những người tu hành gặp nhiều chướng nạn khỏi bị đọa lạc.
8. Vì khai ngộ cho người, tự tâm hữu niệm mà nhập vô niệm.
9. Vì khai ngộ, nhân vãng sanh mà thật ngộ quả vô sanh .
10. Vì chỉ rõ trong các con đường tu hành thì đây là con đường ngắn nhất.
Nên biết, đức Phật thuyết kinh A-di-đa, sự thật do hoài bão và lòng thương xót rộng lớn của Ngài. Vì trong thời kỳ mạt pháp, chúng sanh bị phiền não đau khổ quấy nhiễu, nên Ngài nói ra kinh này để chỉ bày một con đường tắt duy nhất nhằm giúp chúng sanh thoát ly sanh tử. Đồng thời đại sư Liên Trì lại căn cứ Phán giáo của Ngũ giáo Hoa nghiêm tông, dựa vào kinh A-di-đà mà thâu nhiếp Đốn giáo, kiêm thông cả Chung giáo và Viên giáo. Chính vì chỗ thâu nhiếp Đốn giáo, cho nên kinh này nói địa vị phàm phu tuy bạc mỏng, nhưng nếu trì danh niệm Phật thì sau khi lâm chung liền được vãng sanh Tịnh độ, dự vào ngôi “Bất thoái chuyển”, thành tựu đại sự thoát ly sanh tử, khác hẳn với Tiệm giáo cần phải trải qua nhiều kiếp tu hành mới có thể nhập vào địa vị “Bất thối”. Nhờ kiêm thông cả Chung giáo nên niệm Phật vãng sanh Tịnh độ, sau này mới có thể dần dần thành Phật. Còn kiêm thông Viên giáo là chỉ cho chúng  ta thấy cảnh giới Tịnh độ, như ở trong kinh A-di-đà nói: Nước, chim, cây, rừng, khắp nơi, hết thảy đều là diễn bày diệu pháp của đức Như Lai hóa hiện ra. Lại ở trong kinh Vô lượng thọ, đức Phật nói: có thể ở trong “Cây báu” đó cũng đủ thấy hết mười phương cõi Phật. Tuy đức Phật A-di-đà thường trụ Tây phương Tịnh độ nhưng cũng biến khắp mười phương cõi Phật. Lại cũng từ trong mỗi mỗi đóa hoa phóng ra ba mươi sáu ức Na-do-tha2, trăm ngàn ánh sáng quang minh, trong  mỗi mỗi ánh sáng lại hiện ra 36 ức Na-do-tha trăm ngàn thân Phật, khắp vì tất cả mười phương chúng sanh nói pháp. Những cảnh giới này, đều do “Sự sự vô ngại” của Nhất thừa Biệt giáo trong Hoa nghiêm. Cho nên kinh A-di-đà và kinh Vô lượng thoï đều thâu nhiếp vào phạm vi Đốn giáo. Chúng ta nên biết, ngài Thanh Lương Trừng Quán đem Thiền tông thâu nhiếp vào Đốn giáo, đại sư Liên Trì chủ trương Thiền Tịnh “Đồng quy”, vì thế cũng đem kinh A-di-đà và kinh Vô lượng thọ của Tịnh độ tông nhiếp vào trong Đốn giáo. Bởi vì, theo quan điểm của hai ngài là Tịnh độ tông phải đặt trên nền tảng “Tâm, Phật và chúng sanh tam vô sai biệt”. Tâm tức là Phật thì Phật cũng là chúng sanh, như vậy chúng ta niệm Phật, thành chúng sanh trong tâm của chư Phật và lúc niệm chư Phật trong tâm chúng sanh. Đây là Đốn giáo.
Lại nói niệm Phật, niệm cho đến “Nhất tâm bất loạn”, nghĩa là niệm đến chỗ tận cùng để trở về “không niệm” cũng chính là niệm mà không niệm, thì mới gọi là chân niệm. Do đó, trọn ngày niệm Phật chủ yếu là đạt đến chỗ vô niệm, tức là đạt đến cái lý vô niệm. Cầu sanh Tịnh độ là liễu ngộ cái “bất khả đắc”, nghĩa là không sanh mà sanh, sanh mà thật chẳng sanh, chính là ý nghĩa “Tự tánh Di-đà duy tâm Tịnh độ”. Tư tưởng này căn cứ nơi lý luận Thiền, Tịnh đều quy về một chỗ nhất tâm.
 
III. THỰC TIỄN TỊNH ĐỘ TÍN NGUYỆN HẠNH   
Đại sư Liên Trì căn cứ theo thuyết của ngài Tử Nguyên (đời nhà Tống) và ngài Phổ Độ (đời nhà Nguyên), là xác nhận rằng, hành giả muốn thực hành pháp môn Tịnh độ, cần phải chuẩn bị đầy đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh. 
1. Tín: Là tin rằng chúng sanh với Phật chẳng phải hai, chúng sanh niệm Phật nhất định sẽ được vãng sanh và cũng nhất định thành Phật. Cho nên, ở trong kinh A-di-đà đức Thích Tôn đã nói: “Các ngươi đều phải tin theo lời Ta dạy”.
2. Nguyện: Nếu quả thật chỉ tin thôi mà không phát nguyện hành trì, thì làm sao đến được cảnh giới Tây phương Cực lạc, cần phải cầu vãng sanh mới được vãng sanh. Vì thế trong kinh A-di-đà nói: “Cần phải phát nguyện, nguyện sanh về cảnh giới Tây phương Cực lạc”. 
3. Hạnh: Nếu phát nguyện mà không hành trì, thì  chỉ là phát nguyện suông, bởi thế cần phải tiến thêm một bước nữa, thường tinh tấn thực hành mỗi niệm mỗi niệm nối tiếp nhau không để gián đoạn. Ví như trong kinh A-di-đà nói: “Phải nắm giữ danh hiệu Phật, niệm cho đến nhất tâm bất loạn”. 
Điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh chính là ba loại tư lương cần thiết cho việc vãng sanh Tịnh độ, nếu thiếu một trong ba loại thì không thể được. Bởi vì ba loại tư lương này như một vòng tròn không đầu mối, ba loại này là yếu tố quan trọng liên kết với nhau để hành trì, dẫn dắt đến con đường giải thoát. Nhưng trong ba loại tư lương này thì loại thứ ba “Chấp trì danh hiệu” (Phải nắm giữ danh hiệu Phật, niệm cho đến nhất tâm bất loạn) cũng hàm chứa nội dung ba món tuệ: Văn, Tư, Tu. 
a. Văn tuệ:  Là sau khi đọc kinh biết được bổn nguyện đức Phật A-di-đà, liền nghĩ nhớ danh hiệu của Ngài nên gọi là Văn Tuệ.
b. Tư tuệ: Sau khi nghe được danh hiệu biết được bổn nguyện của đức Phật A-di-đà, lúc ấy liền tác ý tiếp thọ, nhưng phải tiếp thọ như thế nào? Đương nhiên là dùng tâm tiếp thọ, nên gọi là Tư tuệ.
c. Tu tuệ: Sau khi tiếp thọ danh hiệu, phải giữ gìn không quên, cho nên tu tuệ chính là niệm niệm nối tiếp nhau không dứt. Phương pháp tu tập của pháp môn niệm Phật phân ra làm ba loại:
1. Niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà thành tiếng gọi là “Minh trì”.
  2. Niệm mà tâm niệm, gọi là “Mặc trì”.
3. Niệm khẽ nhắp môi giống như pháp môn trì chú Kim cang gọi là “Nửa minh trì, nửa mặc trì”. 
Ở trong pháp môn niệm Phật cũng chia ra hai cách: 
- Niệm Phật có tính số và niệm Phật không tính số. Tuy nhiên có người dùng đến hạt đậu nhỏ để tính và có người niệm Phật chú tâm vào số lần họ niệm. Ở đây đại sư Liên Trì không quy định cứng rắn, miễn là người trì danh niệm Phật, việc tính số hay không tính số đều tùy theo chỗ thuận của mỗi người mà thực hành. Vì công năng niệm Phật cốt quan trọng ở chỗ nhất tâm bất loạn, nên số lượng ít hay nhiều không liên quan đến ý chính.
 
IV. ĐẠO LÝ NHẤT TÂM BẤT LOẠN 
Nhất tâm bất loạn là đem tâm của chúng ta chuyên chú vào một đối tượng, không bị một loại trạng thái nào làm khởi lên vọng tưởng tán loạn. Nhưng ở đây nói đến hai phương diện: nhất tâm về sự và nhất tâm về lý .
1. Nhất tâm về sự: Khi niệm danh hiệu Phật, miệng đọc tai nghe, tâm phải ghi nhận từng chữ từng chữ rõ ràng không bị gián đoạn, ngay cả việc đi, đứng, nằm, ngồi nhất nhất chỉ một niệm không có niệm thứ hai. Nhân đó mà ngăn chặng phiền não tạp niệm tham sân si ..., hết thảy những tâm cảnh bên trong cũng như ngoại cảnh bên ngoài đều loại bỏ. Nếu đạt đến giai đoạn này, thì dần dần sẽ thành tựu được Tín lực, vì chỉ có lòng tin vững chắc và hiểu biết như vậy, mới có thể điều phục được phiền não .
2. Nhất tâm về lý: Khi nghe danh hiệu Phật không những nhớ nghĩ thường niệm, mà còn quán xét trở lại căn nguyên để đạt đến cực điểm, tức là có thể quay về bổn tánh chơn như, khế hợp với căn nguyên mà thành tựu được nhất tâm. Từ đây cũng có hai giai đoạn: 
Thứ nhất: “Năng niệm và sở niệm” biến đổi không ngoài hoàn cảnh xung quanh, tức là bên trong tâm mình “năng niệm” không có khác đức Phật bên ngoài “sở niệm”. Nếu bỏ đi đức Phật bên ngoài “sở niệm” thì đức Phật trong tâm mình cũng không có “năng niệm”, chỉ là nhất tâm mà thôi.
Thứ hai: “Năng niệm và sở niệm” là chẳng phải có, chẳng phải không, lìa nghĩa tứ cú (có, không, cũng có, cũng không, chẳng phải có chẳng phải không), dứt đường suy luận, không có tướng trạng. Tức là ở trong sự nhất tâm thì năng niệm và sở niệm liền tiêu dứt, không còn ngoài sự thấy biết, đích xác là như vậy. Vì “lý thể” khế hợp với bản tánh thanh tịnh. 
Đây là lý quán sự tướng thuần túy không hai. Khi năng lực quán sát này đã thành tựu, là ở vào địa vị kiến đạo, thì có thể phá trừ hết phiền não tạp niệm. Hơn nữa lý nhất tâm này, bao quát vô cùng sâu rộng, ví như: “Nhất hạnh tam-muội” trong kinh Văn Thù Bát-nhã, “Nhất hạnh niệm Phật” và “Nhất thời niệm Phật” trong kinh Hoa nghiêm, “Quán Phật chơn như pháp thân” trong luận Khởi tín cũng đồng nghĩa với nhất tâm. Lại như trong kinh Quán vô lượng thọ, đã nói ba tâm: Chí thành tâm ... . Ba tâm trong luận Khởi tín: Chân tâm ... . Ba tâm trong luận Vãng sanh: Thanh tịnh tâm ... cho đến mười tâm trong kinh Hoa nghiêm và mười tâm trong kinh Bảo tích cũng đều quy về nhất tâm này. Lại trong kinh Tịnh danh nói tám pháp, Tỳ-kheo Đức Vân nói rõ hai mươi mốt loại niệm Phật, cũng không ngoài lý nhất tâm này. Ở đây hàng Bồ-tát gọi là niệm Phật “Tam-muội” trong thiền của Tổ sư Đạt-ma dạy chính là “Trực chỉ chơn tâm”. Cho nên một tiếng niệm Phật có thể diệt trừ tám mươi ức kiếp tội nặng trong sanh tử, đạo lý chỉ ở tại pháp môn niệm Phật này cho đến cảnh giới lý nhất tâm mà thôi. Chúng ta biết, niệm Phật tuy dễ dàng nhưng đạo lý thật không đơn giản, nếu chẳng niệm đến nhất tâm bất loạn, thì sự liễu ngộ của ta hết sức là nông cạn. Vì theo sở kiến của đại sư Liên Trì thì pháp môn niệm Phật là giản dị, nhưng là cực kỳ tinh thâm, trong khi thực hành thì rất đơn giản, hàm chứa “Triết lý tư biện” (triết  lý tư duy phân biệt) rất sâu xa. Cho nên người đời gọi ngài là “Đại Sư”, vì nếu một hành giả Tịnh độ bình thường thì không đủ tư cách làm một vị “Đại Sư”. Thời nay có người cho rằng pháp môn Tịnh độ là giáo lý cạn cợt chỉ để tiếp dẫn những người sơ cơ nhập đạo mà thôi, nhưng nếu chỉ luận bàn chỗ nông cạn đó thì quả là người thiếu hiểu biết, chưa có đi sâu vào giáo lý Tịnh độ. Đại sư Liên Trì lại căn cứ trong “Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm sớ” của đại sư Tông Mật, đem pháp môn niệm Phật phân ra làm bốn loại:
1. Xưng danh niệm Phật: Là dựa vào trì danh niệm Phật mà trong kinh A-di-đà đã nói rõ. 
2. Quán tượng Niệm Phật: Tức là tập trung tư tưởng tâm thức, quán tưởng chiêm ngưỡng hình tượng Phật được tạo lập từ đất, gỗ, vàng, đồng, giấy ... để giúp tâm an trụ vào chánh niệm.
3. Quán tưởng niệm Phật: Là căn cứ theo phương pháp ở trong kinh “Quán Phật tam-muội” và kinh “Thập lục quán” (16 phép quán) đã nói rõ, nên dùng nhãn tâm quán tưởng đến thân tướng tốt đẹp của Như Lai.
4. Thật tướng niệm Phật: Là lìa bỏ sự đối đãi giữa sanh và diệt, không và có, năng và sở ... cũng hoàn toàn dứt hẳn ngôn ngữ và danh tự, lìa hẳn tâm duyên, chuyên niệm tự tánh “Thiên chân Phật”, nghĩa là Pháp thân Phật, bản lai thanh tịnh vốn sẵn có nơi mỗi  chúng sanh. Ví như kinh Hoa nghiêm nói: “Nếu muốn thấy thế giới Cực lạc của đức Phật A-di-đà, thì tùy ý liền thấy”. Đây chính là “Thật tướng niệm Phật”. Trong bốn cách niệm Phật thì cách thứ tư hơn cách thứ nhất, vì cách thứ nhất “Xưng danh niệm Phật” rất thiển cận, còn “Thật tướng niệm Phật” thì toàn diện hơn. “Thật tướng niệm Phật” chính là lý nhất tâm, nên có thể vận dụng cả đầu và cuối, đó là phương tiện thù thắng nhất. 
 
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: NGÔN HẠNH CAO ĐẸP CỦA MƯỜI BA VỊ TỔ LIÊN TÔNG.

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 8 06, 2013 11:05 am

V. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ 
Đứng về phương diện giải thích thì “Nhất tâm bất loạn” phân làm hai loại: Nhất tâm về sự và nhất tâm về lý. Chủ trương đề xướng thuyết này, bắt đầu từ thiền sư Tịnh Giác Nhân Nhạc, sau đó có thêm ngài Thiên Như Duy Tắc và Trạm Đường Tánh Trừng mà đại sư Liên Trì là người kế thừa, noi theo ý nguyện của các bậc Cổ đức đi trước, nhưng ở phương diện giải thích lại có phần khác đôi chút so với tôn chỉ của các ngài. Ngài Tịnh Giác Nhân Nhạc và các vị khác đều đứng trên lập trường giáo nghĩa Thiên thai tông mà giải thích lý nhất tâm, nhằm để thích hợp với nghĩa “Nhất tâm tam quán”. Họ là những người đề xướng Thiên thai tông và Tịnh độ tông dung hợp, tức là căn cứ nơi giáo nghĩa và sự hành trì của họ mà lập luận. Nhưng đại sư Liên Trì không phải là học giả của Thiên thai tông, cho nên ngài nhận định rằng: nếu muốn thể nghiệm lý nhất tâm thì phải quay về thẩm xét lĩnh hội chỗ tận cùng của bổn tâm mình. Đây cũng là “Trực chỉ  thiền” của Tổ sư Đạt-ma. Dựa theo lý luận này, ngài Liên Trì lấy đó làm cơ sở để hợp nhất Thiền tông và Tịnh độ. 
Đại sư Liên trì nối gót theo ngài Vĩnh Minh Diên Thọ mà tập đại thành, Thiền Tịnh viên dung. Vì ngài Vĩnh Minh Diên Thọ và các vị tổ sư khác kết hợp cả Thiền tông và Tịnh độ, chẳng qua muốn giúp cho những hành giả Thiền tông bụng rỗng tâm ngạo, chỉ hiểu biết phiến diện mà cố chấp chẳng thực sự tu hành, khuyên họ nên kiêm tu niệm Phật. Trước đây bản chất của hai tông Thiền, Tịnh phủ định là hai, trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh có Thiền. Sau này nhờ tham cứu trong luận Niệm Phật của đại sư Ngẫu Ích cũng có nói Thiền tông và Tịnh độ vốn không hai. Đồng thời đại sư Ngẫu Ích đề xướng chỉnh đốn thống nhất Giáo, Luật, Thiền tông quy về nhất nguyên, đây là một lập luận mới, hơn nữa đại sư Ngẫu Ích cũng có thêm kiến giải mới đối với tư tưởng Tịnh độ. Vấn đề này, đến phần đại sư Ngẫu Ích sẽ nói rõ hơn.
Tóm lại, tư tưởng của Tịnh độ tông không phải là không thay đổi, mà vẫn luôn luôn thay đổi. Đến thời cận đại, đại sư Ấn Quang là tổ thứ mười ba của “Liên xã” vẫn có chỗ bất đồng trong quan điểm tư tưởng giữa mười ba vị tổ. Bởi vì, cứ trải qua từng thời kỳ thì trình độ căn cơ của mọi người có chỗ sai biệt, nên tư tưởng Tịnh độ của mỗi ngài có sự khác nhau. Nhưng trên nguyên tắc thì nên tuân theo một điều, dù có thay đổi đến vạn lần hay dưới hình thức nào đi nữa cũng không rời căn bản Tam vô lậu học. Chính là giới, định, tuệ. Người tu theo pháp môn niệm Phật cần phải chú trọng hành trì, Ngũ giới, Thập thiện, cho đến Lục độ và Tứ nhiếp pháp, chứ không thể chỉ nương một câu niệm Phật A-di-đà, vì ở trong kinh A-di-đà đã nói rõ: “Bất đắc dĩ thiểu thiện căn phước đức nhơn duyên, đắc sanh bĩ quốc” (Nghĩa là không thể dùng chút ít nhân duyên thiện căn phước đức mà được sanh về cõi Tây phương Cực lạc). 
Cho nên hành giả niệm Phật đến nhất tâm bất loạn hoặc được Tam-muội, thì công phu ấy chính là thiền định, bởi do trì giới niệm Phật thực hành Văn, Tư, Tu, thì nhất định có thể phát sanh trí tuệ vô lậu, đoạn trừ vọng tưởng của căn bản phiền não, giải thoát sanh tử luân hồi. Tư lương của hành giả cầu sanh Tịnh độ là Tín, Nguyện, Hạnh, nhưng khi hành trì thì chắc chắn lấy niệm Phật làm căn bản. Vì thế phải lấy bố thí, trì giới để trợ giúp lẫn nhau. Đây là cách nhìn nhận của tôi (ngài Thánh Nghiêm) đối với hành giả Tịnh độ tông. 

 
9. ĐẠI SƯ NGẪU ÍCH - Tổ Liên tông thứ chín - đời Minh
Sư họ Chung, người huyện Ngô, hiệu Trí Húc. Thuở nhỏ, sư chuyên học Nho, thề triệt tiêu Phật, Lão, nên làm mười bộ luận nhằm công kích Phật, Lão. 
Về sau, nhân đọc tập Trúc song tuỳ bút và Tự tri lục của ngài Châu Hoành, sư liền tỉnh ngộ, đốt hết các bộ luận mà mình trước tác bài xích Phật giáo.
 Năm hai mươi bốn tuổi, sư xuất gia, nghe ngài Cổ Đức giảng luận Duy thức tại chùa Vân Thê, sau đó lên núi tọa thiền. 
Năm hai mươi sáu tuổi, sư thọ Bồ-tát giới và biên duyệt Tạng luật.
Năm hai mươi tám tuổi, sư nhiễm bệnh, quyết chí cầu sanh Tịnh độ, lấy Thiên thai làm tông. 
Năm Sùng Trinh thứ tư, sư đi du hoá khắp nơi hoằng truyền Tịnh nghiệp, sau nằm dưỡng bệnh tại núi Linh Phong. Tại đây, sư trước tác bài văn phát nguyện và kệ cầu sanh Tịnh độ. Sang năm sau, sư thị tịch, thọ năm mươi bảy tuổi.
Sanh bình, sư lấy việc xem kinh tạng, trước thuật làm sự nghiệp, đã để lại cho đời những tác phẩm nổi tiếng như: Kinh A-di-đà yếu giải 1 quyển, Duyệt tạng tri luật 44 quyển, Bồ-tát giới bổn tiên yếu 1 quyển, Pháp hoa kinh huyền nghĩa tiết yếu 2 quyển. Ngoài ra, sư còn phát huy, trước tác hơn mười bộ kinh luận, dùng văn tự Bát-nhã làm công cụ độ người, như nước trăm sông đổ về biển cả. Bút pháp của sư trang nhã sâu sắc, đúng là một bậc tài đức vẹn toàn. 
Sáu pháp Ba-la-mật là con đường mà người con Phật phải đi qua, được sư khai thị như sau:
- Chơn thật niệm Phật, buông xả thân tâm thế giới, tức là đại bố thí.
- Chơn thật niệm Phật, không sanh khởi tham sân si, tức là đại trì giới.
- Chơn thật niệm Phật, không chấp nhơn ngã thị phi, tức là đại nhẫn nhục.
- Chơn thật niệm Phật, liên tục không để gián đoạn, tức là đại tinh tấn.
- Chơn thật niệm Phật, không tán loạn vọng tưởng, tức là đại thiền định.
- Chơn thật niệm Phật, rõ biết, không bị các duyên làm mê hoặc, tức là đại trí tuệ.
Chúng ta thử tự kiểm điểm, nếu đối với thế giới thân tâm mà chưa buông xả, niệm tham sân si còn hiện khởi, tâm còn đeo mang nhân ngã thị phi, vọng tưởng lăng xăng chưa trừ diệt, tâm chí mê hoặc rẽ theo pháp khác thì không thể gọi là người chơn thật niệm Phật.
Sư lại dạy: Người tín nguyện trì danh, nếu nghiệp chướng tiêu trừ, mang nghiệp vãng sanh thì liền sanh cõi Phàm thánh đồng cư tịnh độ. Người tín nguyện trì danh, nếu đoạn tận kiến hoặc, tư hoặc mà vãng sanh thì liền sanh cõi Phương tiện hữu dư tịnh độ. Người tín nguyện trì danh, nếu phá trừ một phần vô minh mà vãng sanh thì liền sanh cõi Thật báo trang nghiêm tịnh độ. Người tín nguyện trì danh, nếu trì đến chỗ cứu cánh, đoạn tận vô minh mà vãng sanh thì liền sanh cõi Thường tịch quang tịnh độ. Cho nên trì danh niệm Phật có khả năng sanh lên bốn cõi, thật chính xác không sai.
Ngài lại dạy: Pháp môn Tịnh độ không có gì kì lạ, chủ yếu chỉ là tin sâu, nguyện tha thiết và nổ lực hành trì. Chỉ e rằng, người mới có được chút ít niềm tin cao quí và sự an ổn, rồi thủ đắc mà buông bỏ niệm. Nếu ngày đêm quyết định lấy mười vạn, hoặïc ba vạn hay năm vạn niệm làm tiêu chuẩn, niệm không thiếu, thề nguyện suốt đời không thay đổi mà khi lâm chung không được vãng sanh thì ba đời chư Phật thành vọng ngữ. Một khi đã vãng sanh thì vĩnh viễn không thối chuyển, thấu rõ được tất cả các pháp. Phải tránh lối tu theo kiểu hôm nay Trương tam, ngày mai Lí tứ (người tu lúc này lúc nọ) …. Tu hành như thế làm sao biết được trì danh hiêïu A-di-đà Phật đến chỗ cứu cánh thì ba tạng, mười hai bộ loại kinh, tất cả giáo lí đều ở trong này. Một ngàn bảy trăm công án thiền cũng nằm trong này. Ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, ba tụ tịnh giới cũng ở trong đây.
Sự giải thích cụ thể, rõ ràng của sư không những đủ làm cho mắt tâm của chúng sanh thông suốt, mà còn mặc nhiên khế với tâm Phật. 

TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ CỦA ĐẠI SƯ NGẪU ÍCH 
Nguyên tác: Thánh Nghiêm, Việt dịch: Thích Nguyên Thành
  I. SỰ TÍCH ĐẠI SƯ NGẪU ÍCH  
Đại sư Ngẫu Ích sinh vào năm thứ hai mươi bảy niên hiệu Vạn lịch đời vua Thần Tông nhà Minh (1599 Tây lịch). Ngài ở vùng Mộc Độc tỉnh Giang Tô (Tây nam huyện Ngô), tục tánh là Chung, tự là Trí Húc, hiệu là Ngẫu Ích. Lúc cuối đời ngài về ở chùa Linh Phong, huyện Hàng Biên, tỉnh Chiết Giang, cho nên mọi người gọi ngài là đại sư Linh Phong Ngẫu Ích.
Đại sư Ngẫu Ích lúc còn nhỏ rất ham học, chuyên tâm học Nho giáo, đồng thời thề rằng tiêu diệt Phật giáo và Lão giáo để xiển dương Nho giáo, nên ngài soạn một bộ luận gồm mười thiên, để luận phá Phật giáo và Lão giáo. Nhưng đến năm mười bảy tuổi, nghe và đọc được hai quyển sách của ngài đại sư Liên Trì, đó là “Tự tri lục” và “Trúc song tùy bút”, mới biết lúc trước đả phá Phật giáo là sai lầm. Do đó ngài đem đốt toàn bộ các luận văn đả phá Phật giáo, đồng thời hồi tâm hướng về Phật giáo. Đến năm đầu niên hiệu Thiên Khải (1621 Tây lịch), bấy giờ ngài được hai mươi ba tuổi, liền phát bốn mươi tám lời nguyện và tự đặt cho mình cái tên là Đại Lãng Ưu-bà-tắc. Trong vòng một tháng đầu của năm thứ hai (niên hiệu Vạn Lịch), ngài nằm mộng tới ba lần thấy đại sư Hám Sơn Đức Thanh. Lúc bấy giờ, ngài Hám Sơn trú ở núi Tào Khê phía Đông Nam của huyện Khúc Giang tỉnh Quảng Đông. Người học sinh Tuyết Lãnh này (Ngẫu Ích) thành kính muốn gặp ngài Hám Sơn, nhưng vì đường xa không thể đến được, nên tại núi Tuyết Lãnh (hướng về ngài Hám Sơn) đại sư Ngẫu Ích quỳ lạy và bỏ hết đồ trang sức mà xuất gia (theo đồ đệ của ngài Hám Sơn tại núi Tuyết Lãnh). Lúc ấy, ngài hai mươi bốn tuổi, cũng từ đó mà được gọi là Trí Húc.
Lúc cuối Hạ đầu Thu của năm đó, ngài đến núi Vân Thê để diện kiến đại sư Liên Trì, nhưng đáng tiếc đại sư Liên Trì viên tịch đã bảy năm. Ngài bèn xin nhập hội cầu học với pháp sư Cổ Đức, đệ tử của ngài Liên Trì, để nghe giảng luận duy thức. Vì lòng nghi không được giải thích nên ngài đã đi vào núi mà tọa thiền. Năm hai mươi sáu tuổi, ngài thọ Bồ-tát giới, năm hai mươi bảy tuổi xem hết Tạng luật, đến năm hai mươi tám tuổi trở về lo tang cho mẹ. Sau đó đóng cửa trong một thời gian dài vì bệnh nặng và phát nguyện cầu sanh Tịnh độ. Năm ba mươi hai tuổi, ngài so sánh chú thích kinh Phạm võng. Nhưng lúc này, ngài chưa biết phải nương vào tông nào để làm lập trường, mặc dầu đối với kinh giáo mà nói tuy Đại thừa có tám tông, nhưng chỉ có ba tông Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân là có tư tưởng quan hệ với nhau. Cho nên ngài bốc quẻ bói để lựa chọn một tông, gieo quẻ trước Phật, chiếm được quẻ tông Thiên Thai. Từ đó ngài bèn quan tâm và nghiên cứu sớ chương của tông Thiên Thai. Nhưng đại sư Ngẫu Ích chưa muốn làm con cháu của tông Thiên Thai, dù ngài gieo quẻ được tông Thiên Thai. Theo tư tưởng ấy chúng ta có thể nhận biết, ngài muốn lập ra một tông riêng, chẳng qua chưa đủ sức “dựng cờ” nêu lên một tông phái mới.
Năm ba mươi ba tuổi, ngài vào núi Linh Phong, năm ba mươi lăm tuổi, kiến tạo chùa Tây Hồ, về sau ngài vân du nhiều nơi. Đến cuối mùa Hạ năm thứ tám niên hiệu Vĩnh Lịch (1654 Tây lịch), ngài nằm dưỡng bệnh ở núi Linh Phong. Tháng mười hai năm ấy tự biết mình không còn ở đời bao lâu và sẽ sớm vãng sanh Tịnh độ, nên ngài viết một bài “Văn phát nguyện” và di chúc mọi việc cho hàng đệ tử. Đúng ngày hai mươi mốt tháng giêng năm thứ hai, ngài viên tịch, hưởng thọ năm mươi bảy tuổi. Tuy trong năm cuối của cuộc đời, mặc dầu bị bệnh tật dày vò nhưng ngài vẫn cố gắng hoàn thành xong hai bộ sách rất quan trọng đó là: “Duyệt tạng tri tân” và “Pháp hải quán lan”.
Nhìn chung cuộc đời đại sư Ngẫu Ích thật cao cả. Đại sư xa lìa tất cả danh lợi, đem hết tâm trí và sức lực để duyệt tạng và trước thuật. Cuộc đời của đại sư chưa hề rời bút. Đại sư là một nhà trước thuật, một tư tưởng gia, là một vị học giả uyên thâm, là một nhà tông giáo thực tiễn và tận tụy. Cho nên tư tưởng của đại sư ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo Trung Quốc cận đại nhưng rất tiếc ở thời đại ấy những vị đại sư như ngài có rất ít.
Ngài sáng tác rất nhiều loại như: kinh A-di-đà yếu giải 1 quyển, kinh Phạm võng huyền nghĩa 1 quyển, Bồ-tát giới bổn tiên yếu 1 quyển, kinh Pháp hoa huyền nghĩa tiết yếu 2 quyển, kinh Pháp hoa hội nghĩa 16 quyển, kinh Lăng nghiêm huyền nghĩa 2 quyển, kinh Lăng nghiêm văn cú 10 quyển, Duyệt tạng tri tân 44 quyển, Pháp hải quán lan 5 quyển, Chu dịch thiền giải 10 quyển … . Tổng cộng hơn 40 bộ và trên 230 quyển, trong đó có một bộ “Tập lục” nói về pháp ngữ, vấn đáp, tự thuyết, thi kệ … của đại sư mà soạn thành “Linh Phong Ngẫu Ích đại sư tông luận”, tất cả những luận điểm của đại sư đều sưu tập từ trong bộ Tông luận này.
 
II. TƯ TƯỞNG TAM HỌC NHẤT NGUYÊN 
Ngài Liên Trì chủ trương Thiền tông và Tịnh độ là một, còn ở trong “Tham cứu niệm Phật luận” của đại sư Ngẫu Ích thì biểu thị các nghĩa khác. Đại sư tự mình chủ trương “Tam học nhất nguyên”, vì mỗi người có sự tiếp xúc với cảnh ngộ không đồng mà có sự sai biệt.
Tam học nhất nguyên là Thiền tông, Giáo tông (bao quát các tông Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân), Luật tông tương quan tương duyên hỗ trợ lẫn nhau, không phải “chia sông uống nước”. Vì Thiền tông là tâm Phật, Giáo tông là lời dạy của Phật, Luật tông là hành vi của Phật. Cái tư tưởng này của đại sư Ngẫu Ích mãi đến thời cận đại mới có đại sư Thái Hư thừa kế phát huy về sau. Chẳng qua đại sư Ngẫu Ích lấy Thiền, Giáo, Luật nhiếp hết các tông, còn đại sư Thái Hư thì vẫn lấy tám tông làm chỗ nương tựa để đề xướng: “Tám Tông này, đều chân thật chẳng phải cân lường, đều tròn đầy chẳng phải khiếm khuyết, đều khéo léo chẳng phải thô kệch, đều cứu cánh Bồ-đề, đều đồng một Phật thừa vậy!”. Đại sư Ngẫu Ích hợp các tông về thành một tông và kết tập lời nói, hành động, tâm ý của đức Phật thành một. Còn đại sư Thái Hư thì bỏ sự phân chia các tông mà quy về toàn thể. Tuy giữa hai vị đại sư có sự đặc sắc riêng biệt, nhưng quan niệm cũng chỉ muốn cầu các tông hoà hợp, do đó trước sau tuy xa vời nhưng hô thì ứng. Vậy chỉ có nhà tư tưởng lớn mới có thể ôm ấp hoài bảo vĩ đại này.
Đại sư Ngẫu Ích lấy Thiền, Giáo và Luật đưa về thành một thuyết, để thông suốt toàn thể Phật giáo. Sự tìm hiểu của đại sư nảy sinh một tư tưởng mới, là do ảnh hưởng tư tưởng của ngài Vĩnh Minh Diên Thọ và Linh Chi Nguyên Chiếu. Nhân từ thời Ngũ Đại về sau, Tam học như đỉnh ba chân, mỗi bên đều có kiến chấp riêng biệt, và cũng có cái dở của nó. Cho nên chủ trương của bạn học, là phải kiêm học cả giới luật, thiền định và trí tuệ, nhưng lúc này chưa có ai đề xướng ra luận “Tam học nhất nguyên”. Tam học Giới, Định, Tuệ, cố nhiên từ xưa chưa từng phân chia độc lập, nhưng Thiền tông, Giáo tông và Luật tông lại phối hợp Tam học Giới, Định, Tuệ mà đưa về thành một, đó cũng là thuyết đầu tiên của đại sư Ngẫu Ích đề xướng. Đại sư Ngẫu Ích vốn là người có kinh nghiệm, trước đây có học Nho giáo. Năm hai mươi tuổi giải thích Luận ngữ, đến câu “Thiên hạ quy nhân” (Thiên hạ quay về lòng nhân), ba ngày ba đêm quên ăn bỏ ngủ mới ngộ được Tâm pháp của Khổng Tử và Nhan Hồi, nhưng ngài không theo Nho học mà quay về Phật giáo xuất gia. Sau khi xuất gia nghe pháp sư Cổ Đức giảng về luận Duy thức, đại sư thấy có sự mâu thuẩn với kinh Phật đảnh thủ lăng nghiêm và pháp sư Cổ Đức khước từ lời khuyên không chịu hòa hợp hai tông Tánh, Tướng, biết đây là con đường không thông suốt, nên đại sư xả bỏ mà đi thẳng lên núi tu thiền. Năm hai mươi tám tuổi lâm trọng bệnh, đại sư nghĩ nếu mượn công phu tu thiền thì chưa chắc gì thoát ly sanh tử nên Ngài phối hợp Tịnh độ và công phu tu thiền để cầu vãng sanh Tây phương. Lại thấy trong kinh Di-đà nói rõ: “Không thể lấy một ít nhân duyên thiện căn, phước đức mà cầu sanh Tịnh độ”, cho nên đại sư chủ trương hành giả Tịnh độ không được bỏ luật nghi. Lúc năm hai mươi bảy tuổi, đại sư xem hết Tạng luật, lại phát hiện trong thiên hạ “chứa sự sai lầm”. Năm ba hai tuổi, sau khi chiếm quẻ được tông Thiên Thai, đại sư hết lòng nghiên cứu sớ chương của Thiên Thai, lại phát hiện kiến chấp của các tông: Thiền, Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân không hòa hợp. Do vậy, đại sư chủ định không thể nương theo thiên kiến của một tông mà thành lập, vì mỗi tông đều có “bệnh” (khiếm khuyết riêng), phải hoà hợp các tông, bằng biện pháp căn bản là luôn hướng về gốc Phật Đà. Đối với Phật giáo, đại sư đưa ra thuyết “Tam học nhất nguyên”, thông suốt Nho và Phật, lại tự mình đề xướng ra chủ nghĩa “Bát bất”, cũng chính là không lệ thuộc vào sự nhận thức của bất cứ tông phái nào. Do đó lời nói đầu trong truyện “Bát bất đạo nhơn”: “Bát Bất đạo nhân là người Chấn Đán (Trung Hoa), sống ẩn dật. Xưa có Nho, có Thiền, có Luật, có Giáo, Đạo nhân không dám bất kính. Nay cũng có Nho, có Thiền, có Luật, có Giáo, Đạo nhân lại càng đáng khâm phục”. Đó gọi là “Bát Bất”. Đây là lời tự bạch của đại sư Ngẫu Ích. Cho nên, tuy đại sư chỉ nói “Tam học nhất nguyên” nhưng vừa là chủ trương đưa Nho, Phật về thành một.
Bất luận thế nào, cuối cùng đại sư cũng đưa Nho và Phật về một hoặc “Tam học nhất nguyên” thành một môn niệm Phật. Vì đại sư Ngẫu Ích là một vị đại đức lấy niệm Phật làm tông chỉ, vì vậy hậu thế xếp thành Tổ thứ chín của Bạch Liên xã. Đại sư Ngẫu Ích như một nhà tư tưởng lớn, nhà trước thuật lớn, đồng thời cũng là một người đem hết tâm nguyện hướng về pháp môn Tịnh độ. Vì đại sư thấy cái lý niệm Phật không phải tầm thường nên trong tư tưởng đại sư có một chút lý luận riêng của mình. Do thế giữa đại sư và sơ tổ Huệ Viễn có sự bất đồng, và cùng với tám vị tổ Liên Trì cũng có sự sai khác.
 
III. LUẬN NIỆM PHẬT TAM-MUỘI 
Luận niệm Phật tam-muội là tư tưởng trọng tâm của đại sư Ngẫu Ích. Đối với đại sư lý niệm “Tâm, Phật, chúng sanh tam vô sai biệt” là nền tảng, và chủ trương tất cả Phật pháp đều quy về với niệm Phật tam-muội. Bất luận là niệm Phật A-di-đà hoặc “Tam quán nhất tâm” của tông Thiên Thai, cùng với bốn loại tam-muội: Thường tọa, thường hành, bán hành bán tọa, phi hành phi tọa …, cho đến sở truyền trực chỉ tâm pháp của Đạt-ma cũng đều thuộc pháp môn niệm Phật. Nhân vì nghĩa của niệm Phật quá rộng, cho nên phân ra làm ba loại:
1. Niệm Tha Phật (là niệm cảnh giới công đức trang nghiêm của đức Phật A-di-đà, niệm tướng hảo của Ngài), 2. Niệm Tự Phật (là quán niệm tất cả tự tướng cùng ba đời chư Phật đều bình đẳng không hai, vô thể tánh …), 3. Song niệm Tư, Tha Phật (là quán tâm, Phật, chúng sanh tam vô sai biệt). Lại như trong văn “Thị niệm Phật tam-muội” (dạy Niệm Phật tam-muội) nói: “Niệm Phật tam-muội là Bảo vương tam-muội, tam-muội trung vương (vua của các tam-muội). Phàm Thiên, Viên, Quyền, Thật các loại tam-muội này đều từ niệm Phật tam-muội mà lưu xuất rồi cũng quy về niệm Phật tam-muội. Cho đến yếu chỉ Viên, Đốn cũng là phương tiện quyền xảo để tam căn (ba căn của chúng sanh thượng, trung, hạ) được lợi ích”. Lại ở trong một đoạn văn “Thị niệm Phật pháp môn” (chỉ bày pháp môn niệm Phật) nói rằng: “Pháp môn niệm Phật không có chi lạ kỳ đặc biệt cả, chỉ có yếu điểm quan trọng nhất là tin sâu và cố gắng thực hành mà thôi. Phật dạy: ‘Nếu người nào chỉ niệm Phật A-di-đà, đó gọi là môn thiền vô thượng thậm thâm vi diệu vậy’. Thiên Thai nói: ‘Bốn loại tam-muội đồng gọi là niệm Phật; niệm Phật tam-muội, tam-muội trung vương (vua của các tam-muội)’. Vân Thê nói: ‘Một câu Di-đà bao trùm tám Giáo1 nhiếp hết năm Tông2’”. Đại sư đưa ra ba luận chứng để chứng minh xác định niệm Phật tam-muội là căn nguyên Thánh giáo của một đời đức Phật. Vì sao đại sư chủ trương niệm Phật Tam-muội là tất cả Phật pháp? Vì đại sư y cứ trong văn “Thị niệm Phật tam-muội”: “Tâm tánh chúng sanh có một mà thôi, chỉ một tâm này mà lưu xuất, tất cả chúng sanh cũng do môn sanh diệt của một tâm này mà trở về”. Vì thế khi niệm Phật đưa đến nhất tâm bất loạn, tức có thể trở về cõi Tịnh độ. đại sư lại trích một đoạn văn của kinh Tịnh Danh và dẫn chứng ở trong “Niệm Phật tam-muội”: “Nếu muốn Tịnh độ nên tịnh tâm mình”. Khi tâm thanh tịnh tức là nhất tâm, làm thế nào để cầu được nhất tâm? Thế thì mời mọi người niệm Phật.
Trên đã nêu rõ nghĩa lý ba phương pháp niệm Phật, nhưng ngài Lô Sơn Huệ Viễn nói về niệm Phật, trong đó chẳng những niệm Tha Phật mà còn lấy quả vị công đức trang nghiêm của Phật A-di-đà làm đối tượng bị niệm, niệm tướng hảo của Phật, niệm Phật theo pháp môn, niệm thật tướng của Phật, chuyên chú buộc niệm, mỗi niệm rõ ràng, niệm đến nhất tâm bất loạn, tức là thành tựu tam-muội, chắc chắn được vãng sanh Tịnh độ.
 Thứ đến là niệm Tự Phật, Phật ấy là Phật tánh của chúng ta, cũng là cảnh giới tâm của nhất niệm hiện tiền. Tâm ấy vô thể vô tánh, biến khắp mười phương, bao trùm tam giới, đầy đủ mọi tánh tướng của trăm ngàn thế giới chơn như, cho đến ba đời chư Phật đều bình đẳng không hai. Nếu quán tưởng như vậy là niệm Tự Phật. Giả như tu pháp quán tưởng này mà thành tựu, thì có thể sáu căn đều thanh tịnh tròn đầy, đoạn trừ năm trụ hoặc3, tức khắc nhập vào tạng thâm sâu của chư Phật. Chẳng lẽ mọi người đều tu pháp môn này hay sao? Đúng vậy, vì hai mươi tám vị tổ Tây Thiên, sáu vị tổ Thiền tông Đông độ, Nam Nhạc Huệ Tư và Thiên Thai Trí Giả đều tu pháp môn niệm Phật.
Lại nói song niệm là niệm Tự Phật, niệm Tha Phật là muốn đề cập đến thuyết “Tâm, Phật, chúng sanh tam vô sai biệt”. Gọi là chúng sanh vì chúng sanh ở trong tâm chư Phật; gọi là chư Phật vì chư Phật ở trong tâm chúng sanh, quán sát quả vị y chánh trang nghiêm của chư Phật, để hiển bày lý thể trí tuệ trong tâm chúng ta. Tuy Phật trong tâm, nhưng cần phải quán chư Phật ở quá khứ, thì Phật ở trong tâm chúng ta mới hiển hiện, cho nên gọi là Song niệm tự tha Phật. Đây là pháp môn niệm Phật của ngài Vĩnh Minh Diên Thọ và Sở Thạch Phạm Kỳ đề xướng.
Đại sư Ngẫu Ích tổng hợp phương pháp niệm Phật của ba tông phái trên, thành niệm Phật tam-muội riêng của ngài, có một phạm vi rộng rãi, đó là căn cứ lý luận của Bảo vương tam-muội.
Đại sư Ngẫu Ích Trí Húc, tuy chưa chuyên về một tông phái nhất định, nhưng suy xét theo tư tưởng của đại sư thì có thể biết đại sư nghiên về Thiên thai tông. Bất luận giảng về vấn đề gì? Đại sư đều vận dụng tổng hợp Tứ giáo phán (một trong tám giáo), Tam đế (Không đế, Giả đế, Trung đế) và Tam quán (Không quán, Giả quán, Trung quán) của tông Thiên Thai, đó là một phương pháp “Bách giới thiên như”4 để phân tích sớ giải, cho nên ngài giảng đến tư tưởng trọng tâm của niệm Phật Tam-muội, thì tự nhiên tạo thành tông Thiên Thai.
Ngài lấy ba hạng pháp môn là: Niệm Tha Phật, niệm Tự Phật, Song niệm tự tha Phật, phối hợp Tứ giáo của tông Thiên Thai: Tạng, Thông, Biệt, Viên, trong mỗi Tứ giáo ấy đều đầy đủ ba loại pháp môn niệm Phật, lại thành mười hai loại niệm Phật tam-muội. Đồng thời, đại sư đem mười hai loại niệm Phật tam-muội phối hợp với bốn loại tam-muội của Ma-ha chỉ quán (như trước đã đề cử thường tọa, thường hành …). Bốn loại tam-muội này, mỗi mỗi đều đầy đủ mười hai loại tam-muội của Tứ giáo khai hợp, liền thành bốn mươi tám loại tam-muội. Lại nói: “Người niệm Tha Phật hoặc niệm tướng hảo, niệm pháp môn, niệm thật tướng, hoặc như niệm Tự Phật, Song niệm cũng đủ ba pháp môn. Nếu bao gồm bốn loại tam-muội và Tứ giáo thì thành một trăm bốn mươi bốn loại, mỗi loại lại có vô lượng cảnh quán sai biệt, không thể nói được. Còn một pháp trì danh xuất ra từ kinh Phật thuyết A-di-đà, nhưng ngoài các loại tam-muội ở trước”. Đây là dùng lô gích toán học cơ giới, mở rộng khuếch đại phạm vi niệm Phật tam-muội, nhưng đại sư vẫn thấy trì danh niệm Phật chưa đủ để quy nạp vào trong phạm vi này, cho nên đại sư đề xướng thuyết chấp trì danh hiệu. (Đoạn luận trên căn cứ theo “Thị niệm Phật tam-muội”).
Đại sư Ngẫu Ích chủ trương “Tam học nhất nguyên” nên niệm Phật tam-muội không ngoài hai môn Thiền, Giáo, nhưng còn phải tinh tấn trì giới mới đạt được niệm Phật tam-muội viên mãn.
Nhân vì “Nếu muốn sanh về Tịnh độ, thì Tâm phải Tịnh”, muốn tịnh tâm mình, trước tiên phải ngăn ngừa điều sai trái, chận đứng việc xấu ác (phòng phi chỉ ác). Cho nên lấy trì giới làm nhân của niệm Phật, Tịnh độ là quả của niệm Phật. Vì thế, qua lý luận niệm Phật tam-muội trên, đã giúp đại sư hoàn thành hệ thống tư tưởng “Tam học nhất nguyên”.
 
IV. THUYẾT CHẤP TRÌ DANH HIỆU 
Luận niệm Phật tam-muội, lý luận rất uyên thâm, là một pháp môn chân chánh đơn giản dễ tu, bao hàm cả ba căn thượng, trung, hạ, đó là trì danh niệm Phật của kinh A-di-đà. Nhưng không phải chỉ dành cho hạng ngu mê nông cạn, mà pháp môn này nói rõ có công năng thâu nhiếp cả sự, lý, phương tiện thiện xảo không thể nghĩ bàn, đó là lý luận mà đại sư Ngẫu Ích đã kiến thiết.
Ngài căn cứ vào thuyết của đại sư Liên Trì, khuyên người hành đạo, muốn được vãng sanh Tịnh độ phải nên đầy đủ ba điều kiện “Tín, Nguyện và Hạnh”. Nhân đây, đại sư trước tác kinh A-di-đà yếu giải, trong phần mở đầu nói: “Chẳng tin, thì nguyện không tới, chẳng nguyện, thì thành chẳng đáng kể, chẳng khéo hành trì danh hiệu Phật, thì nguyện không đủ sung mãn để chứng tỏ lòng tin”. Đại sư lại nói trong một đoạn văn “Trì danh niệm Phật lịch cửu phẩm tịnh tứ độ thuyết”: “Nếu muốn nhanh chống thoát khỏi cảnh khổ luân hồi, chẳng gì bằng trì danh niệm Phật, cầu sanh thế giới Cực lạc. Nếu quyết định sanh về thế giới Cực lạc, chẳng thà lấy niệm Phật làm tiền đạo, lấy nguyện làm hậu tiến. Nếu tin chắc chắn, nguyện được tròn đầy, tuy tán tâm niệm Phật, cũng được vãng sanh (nếu năng lực tín nguyện dõng mãnh, dù không đạt đến nhất tâm bất loạn, thì cũng có thể vãng sanh, vì đây là pháp môn phương tiện thù thắng). Còn như tin không thật, nguyện không mạnh, tuy nhất tâm bất loạn, cũng không được vãng sanh (nhất tâm bất loạn chỉ là định hoặc mở đầu công phu của định. nếu không tin Tịnh độ, cũng không nguyện vãng sanh Tịnh độ, thì chỉ sanh về cõi trời thiền định của Sắc giới, không thể giải thoát sanh tử).
Bấy giờ chúng tôi xin giải thích Tín, Nguyện và Hạnh của đại sư Ngẫu Ích:
1. Nội dung của “Tín” :
Chúng ta thấy đại sư đề cập đến hai thuyết: (1) Ở trong “Trì danh niệm Phật lịch cửu phẩm tịnh tứ độ thuyết”, đại sư nói: “Thế nào gọi là Tín? một là tin nguyện lực của đức Phật A-di-đà, hai là tin lời dạy của đức Phật Thích Ca, ba là tin sự tán thán của lục phương chư Phật”. Đó là căn cứ nội dung của kinh A-di-đà mà thuyết minh. (2) Lại ở trong phần mở đầu của luận “A-di-đà kinh yếu giải”, đại sư nói: “Tín là tin tự, tin tha, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý”, cộng lại thành sáu loại.
(a) Tin tự: Là tin tâm nhất niệm hiện tiền nơi ta, vốn chẳng phải nhịp tim ở trong nội tạng của sớ thịt, cũng chẳng phải vọng tâm liên tục của ảnh duyên, chiều dài thì vô thỉ vô chung, chiều ngang thì không bờ bến. Luôn luôn tuỳ duyên và mãi mãi bất biến, mười phương hư không vi trần quốc độ, đều hiện bày trong một niệm của ta. Ta tuy hôn mê điên đảo, nhưng chỉ cần tâm quay về nhất niệm, thì chắc chắn bản thể Cực lạc tự tâm hiển hiện, liền dứt nghi hoặc.
(b) Tin tha: Là tin Thích Ca Như Lai tuyệt đối không nói sai, Di-đà Thế Tôn tuyệt đối chẳng phải hư nguyện, tướng lưỡi rộng dài của lục phương chư Phật tuyệt đối không nói hai lời. Tùy thuận lời dạy chân thật của chư Phật, quyết chí cầu sanh Tịnh độ, không còn nghi hoặc.
(c) Tin nhân: Là có niềm tin sâu sắc dù niệm Phật tâm có tán loạn, thì cũng thành chủng tử (hạt giống) Phật, hà huống nhất tâm bất loạn mà không được sanh Tịnh độ sao?
(d) Tin quả: Là có niềm tin chắc chắn các bậc thiện thượng nhơn sanh về Tịnh độ, đều nhờ niệm Phật tam-muội, nếu như pháp môn niệm Phật này như ảnh tùy hình tuyệt đối không còn nghiệp khí hư vọng.
(e) Tin sự: Là tin mười phương thế giới hiện bày trong tâm không thể kể hết, cho nên cũng tin chắc có Cực lạc quốc độ ở Tây phương. Ngoài mười vạn ức cõi Phật, tuyệt không đồng sở thuyết của Trang Tử, vì thuyết đó là ở ngụ ngôn.
(f) Tin lý: Là tin chắc mười vạn ức quốc độ, thật không ra ngoài tâm nhất niệm của ta hiện nay.
2. Nội dung của “Nguyện”:
Bất cứ lúc nào tâm cũng muốn xa lìa cái khổ sanh tử của thế giới Ta bà, vui mừng hướng về Cực lạc thanh tịnh của Bồ-đề Tịnh độ, đồng thời lấy tất cả thiện căn hồi hướng vãng sanh Cực lạc Tịnh độ.
3. Nội dung của “Hạnh”:
Hạnh tức là chấp trì danh hiệu Di-đà, luôn luôn nhớ nghĩ, không gián đoạn. Nhưng “chấp trì” danh hiệu còn có sự trì và lý trì.
Sự trì là chưa đạt đến “Phật là tâm, tâm là Phật”, nhưng tin chắc có đức Phật Di-đà ở Tây phương, quyết chí cầu vãng sanh.
Lý trì là đem Phật A-di-đà ở Tây phương đặc vào trong tâm của ta, Phật đầy đủ trong tâm ta, do tâm ta tạo ra, cùng với tự tâm này mà tạo ra danh hiệu Phật, buộc cảnh ấy vào tâm của ta không bao giờ để mất.
  
V. CHÍN PHẨM VÃNG SANH VÀ BỐN LOẠI TỊNH ĐỘ
Đại sư Ngẫu Ích đối với sự chấp trì danh hiệu đã có nhận xét, còn đối với công phu niệm Phật cũng có chủ trương. Trong phần mở đầu của “Trì danh niệm Phật lịch cửu phẩm tịnh tứ độ thuyết”, đại sư đưa ra vấn đề, chín phẩm vãng sanh có sự sai khác, có thể do trình độ của mỗi người niệm Phật loạn hay không loạn mà quyết định được phẩm vị cao thấp. Đại sư lại nói: “Niệm Phật tin sâu xa, nguyện tha thiết, mà khi niệm Phật tâm nhiều tán loạn, tức là hạ phẩm hạ sanh. Niệm Phật tin sâu xa, nguyện tha thiết, mà khi niệm Phật ít tán loạn, tức là hạ phẩm trung sanh. Niệm Phật tin sâu xa, nguyện tha thiết, mà người niệm Phật không còn tán loạn, tức là hạ phẩm thượng sanh. Nếu niệm đến sự nhất tâm bất loạn, không khởi tham, sân, si tức là trung tam phẩm sanh. Nếu niệm đến sự nhất tâm bất loạn, thì tự nhiên đoạn kiến hoặc, tư hoặc và trần sa hoặc, cũng có thể dứt trừ vô minh, tức là thượng tam phẩm sanh. Cho nên Tín, Nguyện, Trì danh niệm Phật có thể trải qua chín phẩm sanh, đích thực không còn sai lầm”.
Nay xin nói ý chính và giải thích sự nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn, phân ra làm sự nhất tâm và lý nhất tâm. Sự là chỉ cho tất cả hiện tượng; lý là chỉ cho bổn thể của tất cả hiện tượng. Giáo pháp của Phật nói về sự, là chỉ cho tất cả pháp của thế gian. Bổn thể của tất cả pháp, chỉ cho chân như pháp tánh, nó có thể có rất nhiều giả danh, chỉ có điều là không ra ngoài tâm thanh tịnh vốn đầy đủ của chúng sanh, bỏ vọng còn chơn, liền trở lại với chân như của bổn thể, về với chân như là cảnh giới Niết-bàn của liễu sanh thoát tử. Chỉ có lý cảnh của bổn thể này, chẳng phải ly khai tất cả hiện tượng mà tồn tại riêng biệt bên ngoài. Không chấp vào hiện tượng, đối với hiện tượng không sanh khởi các loại phân biệt của tâm phiền não vọng tưởng, đó là lý nhất tâm bắt đầu hiển hiện.
Đại sư Ngẫu Ích lấy nhân ngã để đạt đến sự nhất tâm. Đối với hiện tượng thời không khởi lên vọng tưởng, nhìn thấy được trình độ sâu cạn mà lên bật trung phẩm và thượng phẩm của Liên Đài. Trong quá trình sáu phẩm Liên Đài là cộng cả trung và thượng, có thể đoạn trừ phiền não của tham, sân, si, thậm chí có thể bẻ gãy bộ phận vô minh làm chướng ngại thành Phật (tu Bồ-tát hạnh) ... Chỉ có điều chẳng phải là lý nhất tâm, nếu có thể khai tâm thấy bổn tánh Phật, mới gọi là lý nhất tâm.
Đại sư Ngẫu Ích do trì danh niệm Phật mà đoạn trừ các thứ phiền não của vô minh, xếp thành bốn loại Tịnh độ. Đoạn văn trước đại sư đã nói: “Thực hành Tín, Nguyện, Trì danh tiêu trừ nghiệp chướng, dẫn dắt những người mê được vãng sanh, tức là phàm thánh đều ở Tịnh độ. Thực hành Tín, Nguyện, Trì danh đoạn tận kiến hoặc, tư hoặc mà vãng sanh, tức là phương tiện hữu dư Tịnh độ. Thực hành Tín, Nguyện, Trì danh phá vỡ một phần vô danh mà vãng sanh, tức là Thật báo trang nghiêm Tịnh độ. Thực hành Tín, Nguyện, Trì danh đến chỗ cứu cánh, sạch hết vô minh mà vãng sanh tức là Thường tịch quang Tịnh độ”.
Kiến hoặc, Tư hoặc giống như phiền não chướng của Pháp tướng tông, nó thuộc ở trần cấu của tam giới sanh tử, nếu đoạn tận Kiến hoặc, Tư hoặc thì có thể ra ngoài tam giới của sanh tử. Vô minh giống như Sở tri chướng của Pháp tướng tông, còn một phần Phiền não chướng, thì nhân ngã không thể ra khỏi sanh tử; còn một phần Sở tri chướng thì Bồ-tát không thể thành Phật.
Thế thì công năng trì danh niệm Phật có đoạn trừ vô minh được không?
Đại sư Ngẫu Ích đáp: “Trì danh hiệu Phật, bất luận ngộ hay không ngộ, chẳng qua là nhất cảnh Tam đế (Không đế, Giả đế, Trung đế); Năng trì tâm niệm, bất luận đạt hay không đạt, chẳng qua là nhất tâm Tam quán (Không quán, Giả quán và Trung quán). Chỉ vì chúng sanh chấp trước vọng tưởng, hữu tình thấy mà phân biệt, cho nên không được tròn đầy. Nhưng không biết rằng, Năng trì tức là Thuỷ giác5; Sở trì tức là Bổn giác6. Nay hướng đến chữ trì, trì bên ngoài thì không có Phật, Phật bên ngoài thì không trì, năng và sở không hai, Thuỷ Giác với Bổn Giác, gọi là Cứu cánh giác.
Người viết bài này rất áy náy vì sở trường chuyên môn rất hạn hẹp, nên tính cách nghiên cứu chưa đạt đến rốt ráo. Đặc biệt những danh từ chuyên môn của Thiên thai tông như: Bách giới thiên như, Nhất cảnh tam đế7, Nhất tâm tam quán, Thuỷ giác, Bổn giác và Cứu cánh giác8 …, do bài văn có hạn, không thể nói rộng, cho nên không tiện để giải thích, buộc lòng phải làm phiền độc giả bước đầu học Phật, tự mình tra duyệt Phật học tự điển.
Sách tham cứu:Linh phong tông luận (Ngẫu Ích),Di-đà kinh yếu giải,Phật giáo đại tự điển,Sử Trung Quốc giáo lý Tịnh độ.

10. ĐẠI SƯ TRIỆT LƯU - Tổ Liên tông thứ mười - đời Thanh 
Sư họ Tưởng, huý Hành Sách, người ở đất Nghi Hưng. Cha sư là một nhà Nho uyên bác. Hôm sư chào đời, cha sư mộng thấy ngài Hám Sơn vào nhà.
 Sau khi cha mẹ qua đời, năm hai mươi ba tuổi, sư thế phát xuất gia, trọn đời lưng không dính chiếu, chuyên tu Tịnh nghiệp, thường ở Hàng Châu xiển dương Liên tông, pháp duyên hưng thịnh thù thắng.
Năm Khang Hy thứ hai, sư cất am ở núi Pháp Hoa bên bờ sông Tây Khê, Hàng Châu. Suốt chín năm trụ ở chùa Phổ Nhân trên núi Lô Sơn, sư hết lòng truyền giáo, phát triển Liên xã. 
Năm Khang hy thứ hai mươi mốt, sư thị tịch, thọ năm mươi hai tuổi, đã để lại cho đời một số tác phẩm quí giá như: Liên tạng tập, Tịnh độ pháp ngữ ….
Trong tập Pháp ngữ này, sư đã dạy: Ngày nay, những người tu học Tịnh nghiệp, suốt ngày niệm Phật, sám hối, phát nguyện mà Tây phương  đối với họ vẫn còn xa, không bảo đảm là mình được vãng sanh. Vì sao? Vì gốc ái chưa nhổ, còn bị dây tình buộc ràng. Nếu xem sự ái ân của thế giới Ta bà này đồng như nhai sáp, thì dù trong lúc bận rộn hay rãnh rang, động hay tịnh, khổ hay vui …. đều nương vào câu Phật hiệu vững như núi Tu-di, tất cả cảnh duyên không thể làm lay động; hoặc khi cảm thấy mệt mỏi biến nhác, tập khí hiện khởi, liền dùng kiếm tuệ thiên trường chém đứt ngay trong một niệm, khiến cho tất cả quân ma phiền não tan tác trốn chạy, không còn chỗ dung thân, như ngọn lửa dữ thiêu sạch hết thảy tình thức vô thỉ, thì người như vậy, tuy ở trong cõi ác năm trược, nhưng đã vận thân ngồi trong đài Liên Hoa của cõi Tịnh độ, đâu cần phải đợi Phật A-di-đà đưa tay, Quan Âm dẫn dắt mới tin là mình vãng sanh? 
11. ĐẠI SƯ TỈNH AM - Tổ Liên tông thứ mười một -đời Thanh 
Sư họ Thời, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, người ở đất Thường Thục. Ngay từ thuở nhỏ, sư đã không ăn cá thịt. Sau khi xuất gia, Thiền, Giáo, Tánh, Tướng, pháp nào sư cũng thông suốt. Tại chùa Chơn Tịch, sư đóng thất ba năm, ban ngày xem kinh tạng, tối đến trì danh hiệu Phật.
Sau khi ra thất, sư đến Tứ Minh đãnh lễ tháp A-dục vương, do lòng thành (đốt ngón tay cúng dường) nên cảm ứng xá-lợi phóng quang. Nhân đó, sư soạn Niết-bàn sám và Phát Bồ-đề tâm văn. Ai tụng bài văn này cũng đều rơi lệ. Sư từng đốt ngón tay, phát bốn mươi tám lời nguyện trước tượng phật. Về cuối đời, sư ở chùa Phạm Thiên, phát động thành lập Liên xã, chuyên tu tịnh nghiệp.
Mùa Đông, năm Ung Chính thứ mười một, sư bảo với chúng đệ tử: “Tháng tư năm sau, ta sẽ đi xa”.
Biết nhân duyên của mình ở thế giới Ta bà sắp mãn, sư đóng thất ngày đêm niệm Phật mười vạn biến. Sáng ngày 13 tháng 4 năm Ung Chính thứ mười hai, sư viên tịch trong lúc ngồi niệm Phật, hưởng dương bốn mươi chín tuổi.
Huấn thị chính yếu của sư là bản văn Phát Bồ-đề tâm, với lời dạy rất chí thiết: “Niệm Phật mà không phát đại tâm Bồ-đề thì không tương ưng với đại nguyện của đức A-di-đà, do đó rốt cùng không thể vãng sanh. Nhưng nếu phát tâm Bồ-đề mà không chuyên tâm niệm Phật thì cũng không thể vãng sanh. Do vậy, lấy việc phát tâm Bồ-đề làm chánh nhân, niệm Phật làm trợ duyên thì sau này mới có thể vãng sanh. Người tu Tịnh nghiệp không thể không biết điều này”. Ngài lại dạy: “Người niệm Phật phải nên tinh cần chuyên tâm”.
Như sách của cư sĩ Mâu Mao Tĩnh Viễn nói: “Cư sĩ tham công án thấu suốt đã lâu, tu tâp tịnh nghiệp Tây phương cũng đã lâu, nhưng sao tâm sanh tử chẳng dứt, gia duyên chẳng lìa, nhân tình chẳng vơi, niệm Phật tâm chẳng chuyên, phải chăng do căn chẳng đoạn, niệm ái buộc ràng chăng?”
 Hai điều này cần phải thẩm xét lại. Nếu chẳng quyết dứt sạch gia duyên thế sự, thì dù có niệm vô lượng sáu chữ hồng danh, muốn thoát khỏi cõi Ta bà, sanh miền An dưỡng cũng thật là khó. Không sanh An dưỡng mà muốn thoát khỏi sanh tử, không mong thoát khỏi sanh tử mà muốn chẳng đọa ác đạo thì lại còn khó hơn; dù cho có giữ được thân người trong một đời hay hai đời thì có được ích gì!
Than ôi! Tuệ tâm của cư sĩ lanh lợi như vậy, gia duyên tốt đẹp như vậy, con cháu hiền tài như vậy, mọi sự đều thích ý, vậy mà còn không thể buông bỏ vạn duyên, nhất tâm niệm Phật, là trời phụ người chăng? Hay người phụ trời chăng? Người tại gia học Phật đầy đủ duyên lành như vậy, là nhờ giữ được chút ít giới, nhưng vì tâm còn biếng lười, không tinh tấn chuyên niệm thì làm sao có được kết quả như ý. 
12. ĐẠI SƯ TRIỆT NGỘ - Tổ Liên tông thứ mười hai - đời Thanh 
Sư họ Mã, tự Triệt Ngộ, hiệu Mộng Đông, người huyện Phong Nhuận. Thuở thiếu thời, sư đã thông thuộc kinh sử. Nhân nhờ trọng bệnh, sư liễu ngộ huyễn chất vô thường, nên phát nguyện xuất gia. 
Sau khi bệnh thuyên giảm, sư đến huyện Phòng Sơn xin thế phát với lão túc Vinh Trì ở am Tam Thánh. Sư liễu đạt thông suốt tất cả Thiền, Giáo, hai tông Tánh, Tướng, yếu chỉ mười thừa, tam quán. Sau đó, sư trụ trì chùa Vạn Thọ ở Bắc Kinh, hướng dẫn chúng tham thiền, khích lệ sách tấn hàng hậu học tu tập một cách nhiệt tình không mệt mỏi suốt mười bốn năm. Thanh danh sư vang khắp cả từ Bắc chí Nam. 
Về tuổi xế chiều, sư ở núi Hồng Loa, mọi người qui tụ về rất đông, tạo thành đạo tràng Liên tông chuyên tu Tịnh nghiệp. Sư khai đạo giảng pháp như nước chảy mây bay.
Mùa xuân năm Gia Khánh thứ mười lăm, biết nhân duyên giáo hoá đã mãn, sư đoan tọa niệm Phật, khi ấy đức Phật đích thân hiện đến tiếp dẫn, đại chúng đều ngửi thấy mùi hương lạ phảng phất khắp phòng; sau khi hoả táng, thu được hơn trăm hạt xá-lợi.
Sư để lại một số tác phẩm quí như: Mộng đông thiền sư tập, Bổn cảng (Hương Cảng) đông lâm niệm phật đường hữu san bổn … Nay lược nêu một vài câu pháp ngữ vàng ngọc của sư như sau: 
1. Một là thật vì sanh tử mà phát tâm Bồ-đề, đó là học đạo chơn chánh. Hai là lấy tín nguyện thâm sâu, trì danh hiệu Phật làm chánh tông Tịnh độ. Ba là lấy sự nhiếp tâm chuyên chú niệm làm phương tiện hạ thủ công phu. Bốn là lấy việc chiết phục phiền não đang hiện hành làm sự tu tâm chính yếu. Năm là lấy sự chuyên trì bốn luật nghi chính yếu làm chỗ căn bản nhập đạo. Sáu là lấy các pháp khổ hạnh làm việc trợ duyên tu đạo. Bảy là lấy sự nhất tâm bất loạn làm chỗ quay về của Tịnh độ. Tám là lấy sự trông thấy các linh ảnh tốt đẹp làm chỗ nghiệm chứng vãng sanh. Tám điều trên đây, người tu Tịnh nghiệp không thể không biết.
2. Một câu A-di-đà Phật là thuốc A-già-đà, không có bệnh nào mà không trị lành; là vua ngọc châu như ý, không có nguyện nào mà không được thoả mãn; là thuyền Từ vượt qua biển khổ sanh tử, không có khổ nào mà không được độ thoát; là đèn trí tuệ soi sáng vô minh tăm tối, không có bóng tối nào mà không bị chiếu tan. Chỉ cần một lần nghe qua câu Phật hiệu là đã có duyên, chỉ cần một niệm tín tâm liền có thể tương ưng với Phật. Tín tâm chơn thật, lúc nào cũng nguyện mong được vãng sanh. Trong tâm thường trụ hai pháp tín-nguyện này, như trung thần phụng mạng mật chỉ của minh quân, như đứa con hiếu thảo vâng lời đấng cha lành, nhớ nghĩ không quên làm một việc vô cùng trọng yếu, thì cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, yên tĩnh hay náo nhiệt, thảnh thơi hay bận rộn, niệm nhiều hay niệm ít, nói chung đều là chánh nhân vãng sanh. Chỉ sợ không nhiệt tâm thực hành mà thôi. Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta mãi ở trong vòng sanh tử luân hồi, lẽ nào không phát tâm cầu xuất li, tu hạnh hướng đạo! Vì chạy theo sự biếng nhác thoái hoá cho nên chúng ta mới ở mãi trong biển sanh tử, chịu vô lượng khổ não. Nay được nghe pháp môn trì danh giản yếu, nhưng nếu vẫn đi theo lối cũ bại hoại, không có tâm huyết chí khí thì sao có thể gọi là bậc Đại Sĩ đệ nhất được!
3. Niệm Phật nên sanh bốn loại tâm. Những gì là bốn? Một là nên sanh tâm hổ thẹn, sám hối những nghiệp từ vô thỉ đến nay mình đã tạo. Hai là nên sanh tâm vui thích khi được nghe pháp môn này. Ba là tự thương xót mình, vì nghiệp sâu dầy nên không gặp được pháp môn này sớm. Bốn là nên sanh tâm cảm kích lòng từ bi như thị của Phật. Trong bốn loại tâm này, chỉ cần có một tâm thì cũng có thể thành tựu Tịnh nghiệp. Niệm Phật cần phải dài lâu liên tục, không được gián đoạn. Gián đoạn thì Tịnh nghiệp không thể thành tựu. Dài lâu phải nên dũng mãnh, không được biếng nhác. Biếng nhác thì Tịnh nghiệp không thể thành. Dài lâu mà không dũng mãnh tức là thối đọa. Dũng mãnh mà không dài lâu tức là không tiến bộ. 
Những lời huấn thị trên của sư không lìa giáo pháp, vì khổ tâm của chúng sanh mà ngài hết lòng dạy bảo như vậy.
 
13. ĐẠI SƯ ẤN QUANG - Tổ Liên tông thứ mười ba - Dân Quốc 
Sư họ Triệu, người Thiểm Tây, thuở nhỏ đọc sách Nho nên lớn lên dần dần sa vào vòng soáy tư tưởng huỷ báng Phật pháp sai lầm của Trình Chu (Trình Hạo, Trình Di, Chu Hi), Hàn Dũ và Âu Dương Tu.
Về sau, do bị bệnh mà sư giác ngộ. Năm hai mươi mốt tuổi, sư đến đãnh lễ, xin xuất gia với Hoà thượng Đạo Thuần ở chùa Liên Hoa Sơn Động, núi Chung Nam. Tại đây, sư chuyên cần nghiên cứu kinh điển, hiểu sâu thông suốt pháp môn Tịnh độ, nhiếp hoá hết thảy các căn cơ, tự gánh lấy trách nhiệm hoằng dương Phật pháp phổ độ quần sanh. Sư đi du hoá khắp nơi, có lúc ở Chung Nam, Hồng Loa, Phổ Đà …
Năm Dân Quốc thứ mười chín, sư đến Tô Châu sáng lập đạo tràng Tịnh Độ Linh Nham. Vì thấy chư Tăng có người không như pháp, nên sư phát nguyện không trụ trì chùa viện, không thu đồ chúng, không hoá duyên, cũng không mở hội niệm Phật. Thường ngày, sư không giao tiếp với hàng cư sĩ hay quan quyền, không cười hay nói, không phô trương công việc, không trước tác kinh sách hay sám hối công đức, mà chí khí sư vẫn cao, hạnh vẫn tinh khiết.
Có những hôm, sư đóng cửa tịnh thất để viết thư phúc đáp, trả lời những điều vấn nạn cho bốn chúng học Phật. Bằng ngôn ngữ tinh tế, ý nghĩa sâu xa, sư đã để lại trăm vạn lời tốt đẹp cho hàng hậu học. Nhờ vậy, ngày nay chúng ta có tác phẩm Ấn Quang đại sư văn sao hành thế, với lời văn và ý nghĩa biểu đạt chơn thành, dạy người sống theo luân thường đạo lí, lấy tịnh tâm làm gốc, niệm Phật cầu sanh Tây phương làm mục đích. Mỗi mỗi lời đều hợp với ý Phật ý Tổ, khéo thích hợp tuỳ theo từng loại căn cơ, dù cho hạng sơ cơ đọc tụng cũng có thể thông hiểu. Pháp ngữ của sư lưu truyền khắp nơi, ấn vào tâm khảm con người. 
Cuối năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, tại Linh Nham, Sư đoan tọa niệm Phật thác hoá, thọ tám mươi tuổi. 
Sư thường dạy: Vì pháp môn Tịnh độ chính là pháp môn Viên đốn đệ nhất, trên thành Phật đạo, dưới cứu độ chúng sanh của mười phương ba đời chư Phật, nên phải hết lòng tán thán hoằng truyền. 
Lại trong Tập hoài hạnh thư, sư viết: Pháp môn Tịnh độ chính là pháp môn cực khó mà cũng cực dễ. Nói nó khó chính là chỗ người đại triệt đại ngộ, thâm nhập kinh tạng còn không tin nỗi. Nói nó dễ chính là chỗ kẻ tầm thường ngu dốt cũng thực hành được, nếu chí thành nổ lực niệm thì khi lâm chung liền thấy các tướng tôt đẹp xuất hiện, có khả năng vãng sanh Tây phương. Đối với pháp môn này, người đại triệt đại ngộ, thông hiểu kinh luận sâu xa còn chối bỏ, không hướng tâm đến. Vì một bên chuyên nương vào tự lực, bỏ đi Phật lực. Còn một bên chuyên nương vào Phật lực, nhờ Phật lực để phát huy tự lực. Vì biết khế hợp ba pháp: Phật lực, pháp lực và lực sẵn có của tự tâm nên có khả năng siêu phàm nhập Thánh, liễu thoát sanh tử. Tối trọng yếu của pháp môn này chính là tín, hạnh, nguyện. Có tín, nguyện thì chắc chắn đó là người tu hành chơn chánh. Đã tu trì thì nhất định được vãng sanh. 
Lại trong Ấn thí cực lạc viên tự đã tán thán sự thù thắng của pháp môn Tịnh độ: Ôi, thật kì diệu! Giáo của pháp môn Tịnh độ chỉ thẳng tâm người, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Vậy mà còn không khoa trương sự thù thắng của nó.
 Người niệm Phật, niệm niệm không gián đoạn, trải qua số kiếp, tu chứng cần phải phát huy tính cao siêu của nó. Pháp môn này phổ cập cho mọi căn cơ cao thấp, thu nhiếp tất cả các tông như Luật, Thiền, Giáo … Như khi trời mưa, tất cả vạn vật đều được thắm nhuần, như trăm sông cùng chảy ra đại dương. Pháp môn này cũng lại như vậy, trùm khắp hết thảy các pháp đốn, tiệm, không một pháp nào mà không lưu xuất từ pháp giới này. Tất cả các hạnh quyền thật của Đại, Tiểu thừa, không có một pháp nào mà không qui về pháp giới này. Không đoạn hoặc nghiệp mà được dự vào hàng Bổ xứ, tức ngay đời này viên mãn Bồ-đề. Chín cõi chúng sanh lìa pháp môn này thì không thể viên thành phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì không thể lấy gì làm lợi ích cho quần sanh. Vì vậy, hải chúng của Hoa nghiêm hết lòng tuân theo vua mười đại nguyện. Một khi xưng niệm Pháp hoa thì liền chứng được thật tướng các pháp. Hạnh phương tiện tối thắng, ngài Mã Minh nêu bày trong Khởi tín. Đạo dễ hành và mau thành, Long Thọ diễn bày trong Tì-bà-sa. Bậc đại trí Long Thọ được xem là hậu thân của đức Thích Ca, nói Thập nghi luận, mà ý chuyên hướng về Tây phương. Vĩnh Minh được xem là Di-đà thị hiện, trước tác Tứ liệu giản, trọn đời niệm Phật. Hết thảy năm tánh, ba thừa đều chứng chơn thường. Trên thánh dưới phàm đều qua bờ giác. Nên được chín cõi quay về, mười phương chư phật tán thán. Ngàn kinh đồng nêu bày, vạn luận đều tuyên dương. 
Thành thật mà nói, một khi bàn đến chỗ cực điểm của giáo thì pháp môn này là đại giáo vô thượng nhất thừa. Song, một người phàm thường muốn đạt được nó thì trước hết phải trồng sâu gốc luân thường đạo lí, như sách Đinh Phúc Bảo nói: “Người học Phật trước hết phải hoàn thiện nhơn đạo, sau đó mới có thể hướng đến chỗ cao hơn”. Vì vậy, khi bàn về tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, Phật giáo luôn dạy con người trước phải hoàn thiện nhân cách đạo làm người, như dạy người cha nên nghiêm từ, người con phải hiếu thuận … khiến cho họ hoàn thiện nhơn đạo, nhiên hậu mới dạy tu pháp xuất thế. Thí như muốn xây nhà cao nhiều tầng, trước tiên nhất định phải làm nền móng kiên cố, khai thông đường nước, sau đó mới có thể xây dựng các tầng lầu cao vững chắc, mà dài lâu không bị sụp đổ. Nếu làm nền móng không kiên cố thì chắc chắn xây chưa xong đã bị sụp đổ. Như khi xưa, Bạch Cư Dị hỏi thiền sư Ô Sào: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” 
Sư đáp: “Chớ làm các điều ác, vâng làm các điều lành”.
Cho nên, người học Phật pháp trước phải tự khắc kỷ, răn cấm mình. Vì tất cả các việc đều từ trong tâm chơn thật lưu xuất. Người như vậy mới có thể gọi là Phật tử chơn chánh. Nếu tâm người ấy xấu ác mà muốn mượn Phật pháp để tránh nghiệp tội, thì có khác nào người uống thuốc độc, sau khi uống xong, muốn thân thể mình tráng kiện, mạnh khỏe trường thọ, có thể được sao?
Chơn đế của đức Như Lai giảng nói được Tổ Tổ truyền thừa, cho đến nay hương vị của nó vẫn còn đậm đà không phai. Đại sư Ấn Quang là người gìn giữ những lời di giáo ấy, ngài mãi mãi ghi nhớ, không thay đổi quan điểm, thật đúng là bậc long tượng của Phật môn!
II. Kết luận
Từ trước đến nay, chúng ta mãi trôi dạt trong biển sanh tử, song vượt qua ba cõi cũng là chuyện thường vậy! Do mê vọng chẳng biết chánh đạo, tạo tác nghiệp ác nên luân hồi trong các cõi, chẳng biết khi nào thoát khỏi. 
May mắn thay cho chúng ta! Với lòng từ bi hoằng nguyện, đức Phật đã khai mở pháp môn Tịnh độ thù thắng, phù hợp cho mọi căn cơ cao thấp. Chỉ cần dựa vào những lời dạy ấy mà tu trì thì tất cả đều có thể nương nhờ từ lực của Ngài, một đời vãng sanh Tây phương, thoát li sanh tử. Như thế, người tín, nguyện niệm Phật chắc chắn thu được lợi ích lớn, làm bậc Thánh hiền. Cho nên, một khi đã hướng về thì chẳng uổng phí vậy.
Trong truyện Tịnh độ có nói: “Đức Phật A-di-đà cùng với hai vị Bồ-tát Quan Âm và Thế Chí cỡi thuyền đại nguyện, dạo biển sanh tử cứu vớt chúng sanh trong thế giới Ta bà này lên thuyền đại nguyện, đưa về Tây phương. Như vậy, nếu người ưa thích vãng sanh thì không thể không vãng sanh.” Lời nói này thật đáng tin vậy.
Ngày nay, cuộc sống của con người nơi phố thị, suốt ngày khẩn trương bận rộn. Nương vào thời vận, người sống theo nghiệp có lúc tiến lúc thối; kẻ chân lấm tay bùn suốt ngày bôn ba, không có thời gian ngơi nghỉ, muốn gặp nhau cũng không phải dễ. Sống giữa cuộc đời bon chen, thật hạnh phúc thay cho những ai trông thấy điện Phật nằm thấp thoáng giữa lưng trừng núi, ẩn khuất trong sương mù; nếu đã gặp được pháp hội trang nghiêm như vậy, muốn tu học nhưng không biết bắt đầu từ đâu thì có thể nương vào pháp môn phương tiện này, không đến nỗi tự cho là Phật pháp khó nghe. 
Trải qua vô số kiếp, các bậc tông sư nghiêm trì tịnh giới, thân hành thực tiễn đủ để lưu truyền cho muôn đời sau, cứu chúng sanh khỏi biển khổ sanh tử. Lời nói và việc làm cao thượng của quí ngài tự nhiên uy nghi khả kính, hiện bày mô phạm cho hàng hậu học gắng sức tinh tấn noi theo. 
Nay toát yếu lại hành trạng của các ngài, chỉ vì muốn Phật pháp được lưu truyền ngày càng hưng thịnh.
 
 
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am


Quay về Tâm Linh / Tôn Giáo

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến12 khách

cron