Cẩm Nang Tu Học Qua Những Lời Khai Thị

Cẩm Nang Tu Học Qua Những Lời Khai Thị

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 2 Tháng 8 05, 2013 10:41 pm

Cẩm Nang Tu Học Qua Những Lời Khai Thị

Những Bài Khai Thị


( 5 bài)
Bài 1 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Ấn Quang.


Đại Sư dạy: Đức Phật ra đời với nhân duyên mở bày chân tánh, khiến cho chúng sanh thoát vòng mê khổ, ngộ vào bản thể sáng suốt an vui. Bao nhiêu pháp môn, tất cả nghĩa lý nhiệm mầu trong một đời giáo hóa của Đức Bổn Sư, đều không ngoài mục đích ấy. Nhưng muốn tìm một lối thẳng tắt để mau thoát khỏi đường sanh tử, một pháp môn hợp lý, hợp cơ cho cho chúng sanh giữa thời buổi này, chỉ có pháp môn Tịnh Độ. Tại sao thế? Vì trong đời mạt pháp, người tu hành bị nhiều chướng duyên làm thoái chuyển. Ngẫm nhìn về thân phận con người thì phần sắc thân hay đau yếu, mạng sống ngắn ngủi, phần tâm tánh thì nghiệp báo sâu nặng, trí huệ tối mờ, không hiểu rõ về lý Nhân Quả, Nhân Duyên. Xét về cảnh bên ngoài thì phần đời thường xảy ra biết bao nhiêu là tai ương hỏa hoạn lũ lụt, phần đạo lại ít gặp được bậc thiện tri thức hay người chứng đạo dắt dẫn, vì thế dễ bị lung lay bởi những kẻ tu hành giả dối đưa đến mê tín dị đoan, tà giáo ngoại đạo. Cho nên trong Kinh Đại Tập, Đức Như Lai huyền ký lại rằng: Đời mạt pháp, ức ức triệu triệu
người tu hành song khó được một kẻ ngộ đạo, chúng sanh chỉ nên nương nơi pháp môn niệm Phật mà thoát khỏi luân hồi.
Kinh Thập Lục Quán có ghi chép lại rằng: Muốn sanh về Cực lạc, cần phải tu ba thứ phước:
a. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ Sư Trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành,
b. Thọ trì tam qui, giữ trọn các giới đã lãnh thọ, đừng phạm oai nghi,
c. Phát lòng bồ đề, tin sâu lý Nhân Quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.
Ba điều trên đây gọi là tịnh nghiệp.
Theo kinh Vô Lượng Thọ, trong số 48 đại nguyện của Đức A Di Đà, có mấy điều thiết yếu sau đây:
Nguyện thứ 18: Khi Ta thành Phật, chúng sanh trong mười phương hết lòng tin ưa muốn sanh về nước của Ta, xưng danh hiệu Ta cho đến 10 niệm, nếu không được vãng sanh, Ta thề không thành chánh giác.
Nguyện thứ 19: Khi Ta thành Phật, chúng sanh trong 10 phương phát lòng Bồ Đề, tu các công đức, chí tâm phát nguyện cầu sanh về nước Ta, đến lúc lâm chung, nếu Ta không cùng Thánh chúng hiện ra ở trước mặt người ấy, Ta thề không thành chánh giác.
Nguyện thứ 21: Khi Ta thành Phật, hàng nhân thiên trong nước Ta thảy đều đủ 32 tướng đại nhân, nếu chẳng được như thế, Ta thề không thành chánh giác.
Nguyện thứ 27: Khi thành Phật, từ hàng nhân thiên cho đến tất cả muôn vật trong nước Ta, hình sắc đều tốt đẹp, nghiêm sạch sáng rỡ, vi diệu cùng cực, không thể tính kể. Nếu những chúng sanh chứng được thiên nhãn mà có thể biện thuyết rõ ràng được sanh số, Ta thề không thành chánh giác.
Nguyện thứ 32: Khi Ta thành Phật, từ cõi đất lên đến hư không, những cung điện lầu quán, ao nước cây hoa,
tất cả vạn vật đều do vô lượng tạp bảo, trăm ngàn thứ hương hoa hiệp lại tạo thành, nghiêm đẹp kỳ diệu, hơn các thiên cung. Mùi hương trong nước Ta lan tỏa khắp 10 phương thế giới, các Bồ Tát tiếp xúc được hương ấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được như thế, Ta thề không thành chánh giác.
Nguyện thứ 39: Khi Ta thành Phật, hàng nhân thiên trong nước Ta đều hưởng sự an vui như bậc Lậu Tận Tỳ Khưu. Nếu chẳng được như thế, Ta thề không thành chánh giác.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

----------------------
Bài 2 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Ấn Quang.


Đại Sư dạy: Pháp môn Tịnh Độ do Phật Thích Ca, Di Đà kiến lập, Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền chỉ qui, đức Mã Minh, Long Thọ hoằng dương, và chư Tổ: Huệ Viễn, Thiên Thai, Thanh Lương, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu Ích xướng đạo để khuyên khắp thánh, phàm, ngu, trí, đồng tu hành vậy.
Đã tu tịnh nghiệp, phải giữ luân thường, làm hết bổn phận, dứt bỏ niệm tà, gìn lòng thành kính, trừ các điều ác, vâng làm những hạnh lành, đừng giết hại, cố gắng ăn chay, thương tiếc hộ trì mạng sống loài vật, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương.
Bên trong phải vì ông bà, cha mẹ, anh em, chị em; bên ngoài vì thân thích, bạn bè, xóm giềng, làng nước, đem Pháp môn Tịnh Độ này mà phụng khuyến, chẳng luận người có tin cùng thực hành hay không, chỉ hết sức mình khiến cho mọi người đều biết pháp mầu nhiệm này mà thôi. Người niệm Phật, nếu tấm lòng tha thiết chân thật, tự có thể nhờ tự lực của Phật, khiến cho khỏi tai nạn đao binh nước lửa.
Dù có bị túc nghiệp sâu dày hoặc trường hợp chuyển qủa nặng địa ngục thành ra qủa báo nhẹ đời nay mà ngẫu nhiên bị tai nạn ấy, nếu lúc bình nhật có lòng tin nguyện chân thiết, quyết định lúc bấy giờ sẽ được Phật tiếp dẫn.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
----------------------

Bài 3 :

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Ấn Quang.


Đại Sư dạy: Người niệm Phật khi tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối, cứu tai nạn, giúp kẻ nghèo, v.v. tất cả công đức lành đều phải hồi hướng vãng sanh Tây Phương, không nên cầu hưởng phước báo ở cõi trời, cõi người, trong hiện tại hoặc đời sau.
Nếu có tâm niệm chỉ cầu phước báo cõi nhân thiên ấy thì mất phần vãng sanh và phải bị chìm đắm trong biển luân hồi khổ não. Nên biết hưởng phước càng nhiều tất gây nghiệp càng lớn; qua một đời sau nữa quyết khó tránh khỏi sẽ bị đọa vào ba đường ác của địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Lúc đó dù có muốn trở lại làm thân người, được nghe pháp hiện đời giải thoát của môn Tịnh Độ, cũng khó hơn lên trời nữa.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
---------------------------

Bài 4 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Ấn Quang.


Đại Sư dạy: Pháp môn Tịnh Độ trùm khắp cả ba căn, gồm thâu hàng lợi độn, là đại pháp của đức Như Lai, để mở phương tiện cho tất cả thánh phàm đều được giải thoát sanh tử, lên ngôi bất thoái ngay trong hiện đời. Với pháp mầu nhiệm đặc biệt này mà không tin, không tu, thật là đáng thương, đáng tiếc lắm thay!
Pháp môn Tịnh Độ lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm tông chỉ.
Tín là ta phải tin cõi Sa Bà này có vô lượng sự khổ; tin cõi Cực lạc có vô lượng điều vui; tin ta là phàm phu đầy nghiệp lực, quyết không thể nương cậy vào sức mình để dứt hoặc chứng chơn, thoát sanh tử ngay trong hiện đời; tin Phật A Di Đà có lời thề nguyện rộng lớn, nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu Ngài, cầu về nước của Ngài, khi mạng chung sẽ được Ngài tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
Nguyện là ta nên nguyện mau ra khỏi thế giới này, nguyện sớm sanh về cõi vui Cực Lạc kia. Hạnh là ta phải chí thành khẩn thiết niệm câu Nam mô A Di Đà Phật, mỗi thời mỗi khắc đừng để tạm quên, tùy theo hoàn cảnh vội vàng gấp gáp hay trì hoãn mà lập một khóa trình, sớm tối lễ bái trì tụng trước bàn Phật.
Ngoài thời khóa tụng, những khi đi đứng nằm ngồi và làm những công việc không dụng tâm, đều nên niệm Phật. Lúc ngủ nghỉ phải niệm thầm, không nên ra tiếng và chỉ niệm 4 chữ A Di Đà Phật để dễ nhiếp tâm.
Lại những khi y phục không được chỉnh tề, hoặc giặt rửa, tắm gội, cho đến lúc đi ngang qua những chỗ không sạch sẽ, cũng đều phải niệm thầm. Chí tâm niệm thầm, công đức cũng đồng như niệm ra tiếng. Trong những lúc không hợp thời, nếu niệm ra tiếng thì chẳng hợp nghi thức và có lỗi không cung kính.
Không luận niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, niệm Kim Cang hay niệm thầm, đều phải trong tâm ghi nhớ rành rẽ rõ ràng, miệng niệm rành rẽ rõ ràng, không luyến láy âm, không nuốt chữ, miệng niệm rõ ràng, tai nghe rõ ràng. Niệm như thế thì tâm không còn dong ruỗi theo cảnh ngoài, vọng tưởng lần dứt sạch, câu niệm Phật lần thuần thục, công đức rất lớn vậy.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

---------------
Bài 5 :

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Ấn Quang.


Đại Sư dạy : Những hành nhân tu pháp môn Tịnh Độ tại một đạo tràng: Các người cần nghe cho kỹ, hiểu cho sâu những lời Ta phân tích sau đây để nắm vững pháp môn Tịnh Độ.
Người niệm Phật, nếu dụng công siêng năng tinh tấn thì niệm sẽ thuần thục qui nhất, được cảm thông với Phật, tự có thể thấy cảnh lành, dù không thấy cũng không e ngại, lo sợ.
Nếu bỏ sự chuyên dụng công mà vội gấp, muốn được nhất tâm, muốn được tương ưng với Phật, mong được thấy cảnh lành thì vọng tưởng rối ren, tâm niệm cầu mong cố kết nơi lòng, đây là chứng bịnh lớn lao nguy hiểm của người tu hành. Như thế lâu ngày, những oan gia đời trước nương theo vọng tưởng của hành nhân, hóa làm thân Phật, hoa sen, hoặc có cảnh tốt lạ để mong báo oán. Lúc ấy tự mình đã không có chánh kiến, toàn thể là khí phần của ma, một khi thấy cảnh ấy tất sanh lòng hoan hỷ, ma nương theo đấy mà vào tâm phủ làm cho hành nhân điên cuồng, dù có Phật sống cũng không cứu được.
Giữ một câu A Di Đà Phật nhặt niệm nối nhau, thường nhớ thường niệm. Khi những tâm tham lam, bỏn xẻn, hờn giận, dâm dục, háo thắng, kiêu mạn thoạt nổi lên, các ngươi phải nghĩ: Ta là người niệm Phật cầu giải thoát, không nên có những tâm niệm như vậy. Nghĩ rồi liền trừ diệt đi. Như thế, lâu lâu những niệm lao thần tổn thân đều không có nơi mà sanh khởi, sẽ được công đức không nghĩ bàn của Phật gia trì nơi thân tâm của mình, dám bảo đảm trong mười ngày thấy đại hiệu nghiệm.
Nếu tu hành lôi thôi gián đoạn mà liền muốn được công hiệu, đó là khi dễ mình khi dễ người, tuy cũng có chút công đức nhưng muốn do đó mà lành bịnh mê hoặc thì quyết không thể được. Làm việc gì cũng phải lấy lòng thành làm gốc, tu hành nếu không dùng tâm chí thành, làm sao được sự lợi ích lành bịnh dứt khổ? Có một bí quyết khẩn thiết bảo nhau: Hết lòng thành kính, nhiệm mầu, nhiệm mầu; và mỗi khi làm bất cứ một việc lành gì, dù nhỏ nhặt, cũng nên chắp tay đối trước Phật, hoặc hướng về Tây, đọc bài kệ hồi hướng ngắn này:
Nguyện đem công đức này, cầu bốn ân ba cõi,
Con cùng với chúng sanh, đồng sanh về Cực Lạc
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.

Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

------------------------
( 3 bài )

Bài 1 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Ngẫu Ích.


Đại Sư dạy: Pháp môn niệm Phật không gì kỳ lạ, chỉ tin sâu, nguyện thiết, gắng sức thật hành mà thôi. Điều cần yếu là tin cho thấu đáo, giữ cho bền lâu, một lòng chuyên niệm, mỗi ngày đêm hoặc mười muôn, ba muôn, hay năm muôn câu, lấy số quyết định không thiếu làm lệ. Hành trì như thế trọn một đời, thề không thay đổi, nếu không vãng sanh thì chư Phật ba đời thành ra đã nói dối vậy. Khi được vãng sanh, tất không còn bị thoái chuyển, bao nhiêu pháp môn đều được hiện tiền.
Rất tối kỵ là tâm không thường hằng, hôm nay thế này, ngày mai thế khác, thấy ai nói pháp chi huyền diệu liền xu hướng chạy theo, thì không môn nào thuần thục được cả. Đâu biết nếu một câu A Di Đà Phật niệm được thuần thục, thì ba tạng mười hai phần Kinh, những giáo lý rút gọn đều ở trong đó; một ngàn bảy trăm công án, đường lối hướng thượng đều ở trong đó; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, ba tụ tịnh giới cũng ở trong đó.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

------------------
Bài 2 :

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Ngẫu Ích.


Đại Sư dạy: Muốn được cảnh giới Nhất tâm, một lòng không loạn, cũng chẳng có phương chước gì lạ cả, lúc mới dụng công, cần phải lần chuỗi ghi số, mỗi ngày đêm định khóa là bao nhiêu câu, đừng cho thiếu sót. Giữ đúng như thế, lâu ngày niệm lực sẽ thuần thục, thành ra cảnh giới không niệm mà tự niệm, chừng ấy ghi sổ hay không cũng được.
Nếu lúc ban sơ muốn vội nói lời cao siêu, muốn không chấp trước vào tướng, muốn học viên dung tự tại thì niệm lực khó thành. Như thế là tin không sâu, hành trì không hết sức, dù cho có tài giảng nói được mười hai phần giáo, hiểu được một ngàn bảy trăm công án, đều là việc bên bờ sống chết luân hồi, khi lâm chung quyết định không dùng được.
Niệm Phật có sự trì lý trì. Sự trì là tin có Phật A Di Đà ở phương Tây, mà chưa hiểu lý rằng tâm này là Phật, chỉ quyết chí cầu sanh, niệm Phật như con nhớ me, không lúc nào tạm quên. Lý trì là tin Phật A Di Đà ở phươngTây là tâm mình sẵn có đủ, là tâm mình tạo ra, đem hồng danh sẵn đủ tạo ra của mình mà làm cảnh buộc tâm, khiến cho không tạm quên.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
---------------------------

Bài 3 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Ngẫu Ích.


Đại Sư dạy: Nhạt một phần tình đời, tự nhiên đắc lực thêm một phần Phật Pháp. Xem nhẹ chuyện kiếm sống trong cõi Sa Bà một phần, phương tiện sanh về Tây Phương ổn đáng thêm một phần.
Điều này mình chỉ tự hỏi lòng, đừng hỏi bạn tri thức. Tri thức cũng chỉ khuyên nhạt bớt mùi đời, coi nhẹ chuyện làm ăn, chuyên tu Đạo xuất ly thế gian cốt yếu mà thôi.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

---------------
( 3 bài)
Bài 1 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Thiên Như Duy Tắc.


Đại Sư dạy: Người đời nay tuy dễ tinh tiến song cũng dễ thoái lui, khi nghe lời khuyên nhắc thì dõng mãnh siêng năng, lúc gặp việc gì chướng ngại lại giãi đãi thoái lui ngả theo hướng khác. Phần đông bọn họ đều nói: ' kết quả của sự niệm Phật có lẽ đợi sau khi chết rồi mới thấy, còn hiện tại chỉ thấy nhọc nhằn mệt mỏi mà chẳng thấy lợi ích thiết thật gì cả.' Thật đáng thương thay cho những kẻ nông nổi mông muội này.
Trong Kinh Tịnh Độ có viết: Người naò hiện đời chí tâm thọ trì danh hiệu Phật, hiện đời sẽ được mười điều thắng lợi như sau:
· Ngày đêm thường được tất cả chư Thiên, đại lực thần tướng và hằng sa quyến thuộc ẩn hình ủng hộ
· Thường được 25 vị Đại Bồ Tát như đức Quán Thế Âm và tất cả Bồ Tát theo thủ hộ bên mình
· Hằng được chư Phật ngày đêm hộ niệm, đức A Di Đà thường phóng ánh sáng nhiếp thọ người ấy
· Tất cả ác quỉ như Dạ xoa, la sát đều không thể làm hại. Tất cả rồng độc, rắn độc và thuốc độc đều không thể xâm phạm
· Không bị những tai nạn như : nước trôi, lửa cháy, giặc oán, đao tên, gông xiềng, tù ngục, hoạch tử
· Những nghiệp ác về trước lần lượt đều tiêu diệt. Những oan mạng bị đương nhân giết, nhờ công đức niệm Phật, đều được giải thoát, không còn theo báo thù phục hận nữa
· Đêm nằm nghỉ yên ổn, hoặc mơ thấy điềm lành hay thấy sắc thân thắng diệu của đức Phật Di Đà
· Tâm thường an vui, nhan sắc nhuận khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp
· Thường được mọi người kính trọng giúp đỡ, hoặc hoan hỷ lễ bái cũng như kính Phật
· Khi lâm chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được thấy Phật A Di Đà cùng các thánh chúng tay bưng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh về Cực lạc, cùng tận kiếp vị lai hưởng thọ sự vui nhiệm mầu.
Mười điều lợi ích trên chính do kim khẩu của Phật nói ra, Kinh văn chép lại. Niệm Phật đã có lợi ích trong hiện tại và tương lai như vậy, thì đó chính là pháp khẩn yếu trong các môn thế gian và xuất thế gian; cho nên người tu hành chỉ cần cố gắng tinh tấn, đừng mang tâm niệm hoài nghi ngờ vực.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
-------------------
Bài 2 :

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Thiên Như Duy Tắc.


Có người thắc mắc thưa hỏi Đại Sư: Về môn niệm Phật, nhờ ơn chỉ dạy nhiều phen nên các mối nghi đã tiêu tan, và lòng chánh tín cũng đã khai phát. Nhưng trước đã nói: 'Gác qua một bên mọi việc đời, rũ sạch thân tâm,' mà người đời hoàn cảnh đều khác nhau; kẻ thì được rãnh rỗi thuận duyên thí có thể tu hành thuận tiện, nhưng có người bị trăm việc buộc ràng bức ngặt thì phải làm sao để tu tập?'
Đại Sư dạy: Nếu người biết thống cảm cảnh vô thường và thiết tha vì sự giải thoát, thì dù gặp thuận duyên hay nghich duyên, khổ hay vui, động hay tịnh, gấp hay trì hoãn, hoặc khi tiếp tân đãi khách, lo việc công tư, đối xử muôn duyên, ứng thù tám mặt, cũng không ngại gì đến sự niệm Phật. Cổ nhân đã bảo: 'Non cao khó đón đường mây bạc. Trúc rậm khôn ngăn ngọn suối trong.' Lại nói: 'Mai lại A Di Đà. Chiều cũng A Di Đà. Dù gấp như tên bắn, không rời A Di Đà.' Cho nên muôn cảnh vẫn nhàn, tự mình náo động, nếu người thiết thật cầu về Cực lạc và biết cách dụng tâm thì không có duyên nào làm trở ngại được sự tu niệm cả.
Tuy nhiên những kẻ năng lực yếu kém, việc đời bận nhiều, phải nên trong lúc gấp gáp cố tìm một chút thời giờ rãnh, trong cảnh động gắng giữ niệm lắng yên, rồi tùy sức niệm Phật hoặc nhiều hoặc ít. Mỗi ngày nên định khóa tu hoặc ba muôn hay một muôn câu, ba ngàn hay một ngàn câu, và giữ mức thường hằng, đừng cho gián đoạn.
Nếu vị nào duyên sự quá nhiều, ít có giây phút rỗi rãnh, thì mỗi buổi sớm mai tu theo pháp Thập Niệm Hồi Hướng, cứ giữ như thế suốt đời, cũng được nhờ ơn tiếp dẫn. Người có thì giờ hay phương tiện, ngoài thời niệm Phật, hoặc trì chú tụng kinh, hoặc sám hối bố thí, tùy phần tùy lực mà tu các phước lành, dù có mảy may công đức, cũng đem hồi hướng Tây Phương. Dụng công như thế, chẵng những quyết định được vãng sanh mà cũng sẽ tăng cao thêm phẩm vị.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
----------------------

Bài 3 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe tiếp lời khai thị của Đại Sư Thiên Như Duy Tắc về pháp Thập Niệm Hồi Hướng


Đại Sư dạy: Niệm Phật là duyên tưởng theo 32 tướng hảo của Phật, buộc tâm vào định, làm sao cho khi mở mắt nhắm mắt thường được thấy Phật. Hoặc phương pháp nữa là chuyên xưng danh hiệu Phật, chấp trì không tán loạn, cứ bền giữ như thế, trong đời này cũng được thấy Phật. Hiện nay tôi thấy phần đông những người tu Tịnh Độ đều lấy pháp trì danh làm chính. Pháp xưng danh cần phải lắng lòng không cho tán loạn, mỗi niệm nối tiếp nhau, buộc tâm nơi hiệu Phật. Khi miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, tâm phải soi theo mỗi câu mỗi chữ cho rành rẽ rõ ràng. Khi xưng danh hiệu Phật, không luận ít hay nhiều, đều phải một lòng một ý tâm tâm nối nhau. Niệm như thế, mới có thể mỗi câu diệt được tội năng nơi đường sanh tử trong 80 ức kiếp. Nếu chẳng vậy thì tội chướng khó tiêu trừ.
Còn về pháp Thập Niệm, thì mỗi buổi sớm mai, hành giả phải quì trước bàn Phật, hoặc chắp tay đứng ngay thẳng hướng về phương Tây, niệm Phật liên tiếp luôn một hơi, cứ mỗi hơi kể là một niệm, mười hơi là mười niệm. Khi niệm không hạn số câu nhiều hay ít, chỉ tùy theo hơi thở dài ngắn, chuyên chú niệm luôn cho hết hơi mới thôi. Nên giữ tiếng niệm Phật cho rành rẽ, không thấp không cao, không gấp không hoãn, niệm mười hơi liên tiếp, chớ để tâm ý tán loạn. Đây là pháp mượn hơi nhiếp tâm, quí ở nơi chuyên nhất, và phải giữ như thế trọn đời, không được một ngày tạm bỏ.
Về phần hồi hướng là sau khi niệm xong, dùng tâm chí thành phát nguyện rằng: 'Con là (pháp danh), phát lòng Bồ Đề, một lòng qui mạng Đức A Di Đà, nguyện về Cực Lạc. Xưa Phật lập thệ: 'Nếu chúng sanh nào muốn về nước Ta, hết lòng xưng danh cho đến mười niệm, như không được sanh, Ta không thành Phật.' Con nguyện nương nhờ từ lực của Phật, tội diệt phước sanh. Con nguyện lâm chung, biết ngày giờ trước, dứt trừ chướng ngại, Phật cùng Thánh chúng, tiếp dẫn vãng lai, mau ngộ Phật thừa, độ khắp muôn loại.'
Môn Thập Niệm Hồi Hướng trên đây là phương pháp rất thiết yếu của các bậc tiên hiền, cổ đức đã chỉ dạy. Môn này rất được thịnh truyền và có lợi ích cho đời, người niệm Phật nên tuân hành.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
---------------
(2 bài)
Bài 1 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Triệt Ngộ.


Đại Sư dạy: Đã phát đại tâm, phải tu đạt hạnh, mà trong tất cả hạnh môn, tìm phương pháp dễ dụng công, mau thành tựu, rất yên ổn, rất viên đốn thì không gì hơn dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật. Nói chấp trì danh hiệu, tức là giữ chắc hiệu Phật nơi lòng không tạm quên. Nếu có một niệm gián đoạn hoặc một niệm xen tạp, thì không gọi là chấp trì. Giữ được một niệm nối nhau không xen không tạp, đó là chân tinh tấn, tinh tấn mãi không thôi, sẽ lần vào cảnh giới nhất tâm bất loạn và viên thành tịnh nghiệp. Nhất tâm bất loạn là chỗ qui thú của tịnh nghiệp, là đại môn của Tịnh Độ.
Tất cả cảnh giới hiện nay, tất cả quả báo về sau, đều do nghiệp cảm, đều do tâm hiện. Vì do nghiệp cảm nên quả báo sẽ đến đều đều, nhất định, bởi nghiệp buộc tâm. Vì do tâm hiện nên quả báo sẽ đến nhưng không nhất định bởi tâm chuyển được nghiệp. Như có người đương lúc nghiệp buộc đươc tâm, quả báo sẽ đến theo chiều nhất định, mà bỗng phát tâm rộng lớn, tu hạnh chân thật, thì tâm chuyển được nghiệp, cảnh sẽ đến tuy định mà trở thành bất định. Nếu người ấy nửa chừng bỗng thoái lui đại tâm, hạnh chân thật tu hành kém sút thì nghiệp trở lại buộc tâm, đáng lẽ cảnh sẽ đến bất định nhưng bỗng trở thành quả báo nhất định.
Những hành nghiệp tạo ra từ trước, đành đã lỡ rồi, chỉ trông mong có phát đại tâm để biến chuyển, mà chuyển được hay không là do chính ta có muốn hay không muốn, chứ không ai khác cả. Nếu hôm nay ta phát tâm niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc để mau chứng quả, độ chúng sanh, giữ tôn hiệu Phật nối nhau không dứt, lâu ngày tâm sẽ hiệp lý đạo thì chuyển được quả báo Sa Bà thành Cực Lạc, đổi nhục thai qua cửa ngõ bất tịnh của mẹ cha thành thai sen trong sạch thơm tho, không bao lâu, chính mình sẽ là bậc thượng thiện, tướng tốt trang nghiêm, an vui tự tại nơi cõi Liên Hoa thất bảo. Như ta tu hành nửa chừng bỗng lần lần biếng trễ thoái lui, tất sẽ bị nghiệp lực mạnh mẽ từ vô lượng kiếp trước sai sử lôi kéo mà gánh chịu bao nỗi thống khổ về thân tâm hay đọa lạc chốn ngạ quỉ súc sanh vậy. Những ai có chí thoát ly, cầu về Tịnh Độ há khong nên sợ hãi tỉnh ngộ, phát tâm phấn chấn tu hành hay sao?
Có tám điều cốt yếu mà người tu tịnh nghiệp phải ghi nhớ:
· Vì sự sanh tử, phát lòng Bồ Đề, đây là đường lối chung của người học đạo
· Dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật, đây là chánh tông của môn Tịnh Độ
· Lấy sự nhiếp tâm chuyên chú mà niệm, làm phương tiện dụng công
· Lấy sự chiết phục phiền não hiện hạnh làm việc cần yếu tu tâm
· Lấy sự giữ chắc bốn trọng giới làm căn bản vào đạo
· Dùng các thứ khổ hạnh làm trợ duyên tu hành
· Lấy nhất tâm bất loạn làm chỗ qui thú của môn Tịnh Độ
· Lấy các điềm lành làm chứng nghiệm cho sự vãng sanh.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật,
nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

------------------

Bài 2 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Triệt Ngộ.


Đại Sư dạy: Thật vì sanh tử, phát lòng Bồ Đề, dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật.
Mười sáu chữ này là cương tông giềng mối của pháp môn niệm Phật. Nếu không phát lòng chơn thật thiết tha vì nỗi khổ sanh tử thì tất cả lời khai thị đều là phù phiếm. Bởi vì tất cả sự khổ trong đời này không gì hơn là việc sanh tử, chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, sống chết, chết sống, ra khỏi bào thai này lại chui vào một bào thai khác, bỏ lớp da này lại mang một lớp da khác, khổ não đã quá nhiều không kham nổi, huống chi tự mình chưa thoát luân hồi, làm sao tránh khỏi đọa lạc?
Than ôi, khi một niệm sai lầm liền rơi vào ba đường ác là địa ngục ngạ quỉ súc sanh, dễ tới mà khó lui chân, chịu đọa đày khổ đau kiếp kiếp! Cho nên đại chúng phải hết sức lo sợ mà nghĩ đến vấn đề sanh tử như chịu tang cha mẹ, như cứu lửa đốt trên đầu mà gắng công chuyên tinh tu tập; ta đã khổ vì sự sống chết mà cầu thoát ly nên phát lòng từ bi liên tưởng đến tất cả muôn loài cũng đau khổ như vậy. Chúng sanh cùng ta đồng một bản thể, là cha mẹ của ta trong nhiều kiếp, là chư Phật đời vị lai, nếu chẳng phát tâm cứu độ, chỉ cầu giải thoát riêng mình thì đối với tình có chỗ chưa an, đối với lý có điều sơ sót. Huống chi chẳng phát đại tâm thì ngoài không thể cảm thông với Phật, trong không thể khế hợp với tánh chân, trên không thể tròn quả Bồ Đề, dưới không thể độ khắp muôn loài.
Như thế làm sao báo đền ân nhân nhiều kiếp, làm sao giải thích oan gia nhiều đời, làm sao thành tựu căn lành đã gieo trồng từ xưa, làm sao sám trừ tội nghiệp oan khiên đã tạo ra về trước? Và như thế thì tu hành chỗ nào cũng gặp chướng duyên, dù có thành tựu cũng là quả vị thấp, cho nên phải xưng tánh phát lòng Bồ Đề vậy
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

-------------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Ưu Đàm.

Đại Sư dạy: Người tu tịnh nghiệp, nếu trần cấu chưa sạch, khi niệm ác nổi lên, phải cao tiếng niệm Phật nhiếp vào chánh niệm, chớ nên để tâm ác nối nhau. Nên biết rằng sự tu hành hôm nay, chính là đối địch với nghiệp sanh tử, không phải chuyện tầm thường; hằng ngày phải nghĩ đến vô thường mau chóng, ngày tháng chẳng chờ người, nhận chân thiệt thật mà niệm Phật. Nếu nửa lui nửa tới, lúc tin lúc ngờ, kết cuộc tịnh nghiệp không thành tựu, làm sao ra khỏi luân hồi?
Giữ một câu hiệu Phật như dựa vào hòn núi Tu Di, lay chuyển không động, thường nhớ thường niệm, mai cũng niệm, chiều cũng niệm, đi cũng niệm, ngồi cũng niệm, tâm niệm không bỏ qua, hiệu Phật chẳng rời lòng, mỗi thời mỗi khắc chẳng xa lìa, nhặt nhặt niệm niệm, như gà ấp trứng thường cho hơi ấm tiếp tục, tức gọi là 'tịnh niệm nối nhau.'
Muốn sanh về Tịnh Độ nên nghĩ tất cả việc đời đều vô thường, có thành tất có hoại, có sống ắt có chết, nếu ta không được nghe Phật Pháp thì phải chịu thay thân này, đổi thân khác, trôi lăn trong ba cõi sáu đường, không biết lúc nào ra khỏi. Nay ta đã có duyên được nghe chánh pháp, được tu tịnh nghiệp, nếu chuyên tâm niệm Phật thì khi bỏ thân này sẽ vào thai sen nơi cõi Phật, hưởng các điều vui, thoát hẳn sự khổ, đi ngay đến nẻo Bồ Đề, đấy là ý chí thuở bình sanh của bậc đại trượng phu vậy.
Chuyên nhất tâm ý, nắm giữ một câu A Di Đà Phật, chỉ một niệm này là bổn sư của ta, chỉ một niệm này trước là hóa Phật, chỉ một niệm này mãnh tướng phá địa ngục, chỉ một niệm này là gươm báu chém bầy tà đạo, chỉ một niệm này là ngọn đuốc sáng phá cảnh tối tăm, chỉ một niệm này là con thuyền lớn vượt qua biển khổ, chỉ một niệm này là đường tắt ra khỏi tam giới, chỉ một niệm này là thuốc hay trị bịnh sanh tử, chỉ một niệm này là bản tánh Di Đà, chỉ một niệm này là duy tâm Tịnh Độ. Chỉ cần giữ chắc câu niệm Phật đây chớ lo lạc mất, mỗi niệm thường hiện tiền,mỗi niệm chẳng rời tâm, không việc cũng niệm như thế, có việc cũng niệm như thế, an vui cũng niệm như thế, bịnh khổ cũng niệm như thế, sống cũng niệm như thế, chết cũng niệm như thế. Cứ giữ một niệm phân minh như thế, lại cần
chi hỏi người tìm đường về chốn Cực lạc hay sao?
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
-------------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Triệu Lưu.

Đại Sư dạy: Phép trì danh qúi ở một lòng không loạn, không xen tạp, chẳng phải niệm mau niệm nhiều là hơn. Chỉ nên nhất tâm trì niệm niệm nối nhau, không mau không chậm, khiến cho danh hiệu Phật rành rẽ rõ ràng nơi tâm. Khi ăn cơm mặc áo, đi đứng nằm ngồi, giữ một câu hồng danh nối liền chẳng dứt, cũng như hơi thở, không tán loạn cũng không hôn trầm. Trì danh như thế có thể gọi là một lòng tinh tấn trên phận sự vậy.
Người tu tịnh nghiệp đời nay, trọn ngày niệm Phật, sám hối, phát nguyện, mà cõi Tây Phương Cực Lạc vẫn còn cách xa, sự vãng sanh không bảo đảm ra sao? Ay cũng bởi bề ngoài tuy lễ niệm, phát nguyện, mà trong tâm dây tình còn buộc chặt, gốc ái còn bám sâu đó vậy! Vậy phải xem sự tình ái ở cõi Sa Bà là vô thường, giả dối, đồng như nhai sáp, dù ở trong cảnh hoãn, gấp, động hay tịnh, vu khổ lo mừng, cũng phải giữ chắc một câu niệm Phật như dựa vào núi Tu Di, tất cả cảnh duyên đều không thể làm lay động. Nếu lúc nào tự cảm thấy mỏi mệt, biếng trễ, nghiệp hoặc hiện lên, phải một lòng phấn khởi mà niệm như thanh trường kiếm chống trời, khiến cho quân ma phiền não trốn mất không còn, như lửa đỏ ở lò hồng đốt tan tình thức từ vô thủy. Người nào giữ được như thế, tuy hiện đang ở cõi ngũ trược mà toàn thân đã ngồi nơi thế giới hoa sen, đợi chi Phật Di Đà đưa tay, đức Quán Aâm dìu dắt, mới tin là mình vãng sanh hay sao?
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.

Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

-----------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Đạo Phái.

Đại Sư dạy: Khi niệm Phật, nơi tâm thường không rời hai chữ Tin, Nhớ nơi miệng không rời hai chữ xưng, kính. Bởi muốn sanh về Tịnh Độ cần phải có lòng tin, ngàn người tin thì ngàn người sanh, muôn người tin thì muôn người về.
Nếu tâm thường tin nhớ Phật, miệng thường xưng niệm Phật một cách thiết tha, cung kính, chắc chắn Phật sẽ cứu độ hết. Như thế mới gọi là tin sâu. Khi niệm Phật, cần phải mỗi chữ rõ ràng, mỗi câu nối nhau, bởi không rõ ràng tức là hôn trầm, không nối nhau tức là tán loạn. Hành trì như thế, một câu niệm Phật thường rành rõi nơi tâm, lâu ngày tự nhiên thành tựu pháp Niệm Phật Tam Muội.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

-----------------
(2 bài)

Bài 1 :

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Tĩnh Am.


Đại Sư dạy: Một chữ nguyện bao gồm cả Tín và Hạnh. Tín là tin: tự, tha, nhân, quả, sự, lý, không hư dối. Tín tự là gì? Nghĩa là tin tất cả do tâm tạo, mình niệm Phật sẽ được tiếp dẫn. Tín tha là gì? Nghĩa là tin Đức Phật Thích Ca không bao giờ nói dối, Phật A Di Đà không nguyện suông. Tín nhân là gì? Nghĩa là tin niệm Phật là nhân vãng sanh giải thoát.
Tín quả là gì? Nghĩa là tin sự vãng sanh thành Phật là kết quả của công phu niệm Phật.
Tín sự là gì? Nghĩa là tin cảnh giới Tây Phương, tất cả sự tướng đều có thật. Tín lý là gì?
Nghĩa lý tánh duy tâm bao trùm cảnh giới Phật.
Mỗi điều trên đây đều xác thật nên gọi là không hư dối. Hạnh là chuyên trì danh hiệu Phật không xen tạp, không tán loạn. Nguyện là mỗi tâm ưa thích, mỗi niệm mong cầu. Trong ba điều kiện này, người tu tịnh nghiệp cần phải đủ, không thể thiếu một mà nguyện là điểm thiết yếu.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
------------------------
Bài 2 :

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Tĩnh Am.


Đại Sư dạy: Niệm Phật mà không phát lòng Bồ Đề thì không tương ưng với bổn nguyện của đức Di Đà, ắt sẽ khó vãng sanh. Lòng bồ đề là tâm lợi mình, lợi người, trên cầu thành quả Phật, dưới nguyện độ chúng sanh. Tuy phát lòng bồ đề mà không chuyên tinh niệm Phật cũng không được vãng sanh. Nên phải lấy sự phát lòng bồ đề làm cái nhân chánh, niệm Phật làm trợ duyên rồi sau mới cầu sanh Tịnh độ. Người tu Tịnh độ cần phải nắm vững điều này. Vì niệm Phật cũng có ma sự do bởi 3 nguyên nhân:
1) không rõ giáo lý,
2) không gặp thầy hiền bạn tốt,
3) không chịu tự soi xét lấy mình.
Trong 3 điều này, sự tự xét chỗ sai lầm của mình rất là cần yếu.
Đại để muốn sanh về cảnh Tây Phương Cực lạc, không phải dùng chút phước lành, chút công hạnh lơ là mà được; muốn thoát sự khổ sống chết luân hồi trong vạn kiếp, không phải dùng tâm dần dà, chờ hẹn, biếng lười mà được. Cơn vô thường mau chóng, mới sớm kế lại chiều, đâu nên không siêng năng lo dự bị trước ư? Còn e sức chí nguyện không thắng nổi sức tình ái, tâm niệm Phật không hơn nổi tâm dục trần, những kẻ cứ mãi lơi là biếng trễ, nửa tin nửa ngờ, thì Phật Tổ cũng đành, chẳng biết làm sao hơn!
Có bài kệ rằng:
Nam mô A Di Đà
Người nào không biết niệm,
Tuy niệm, chẳng tương ưng,
Mẹ con khó hội kiến.
Khi đi, đứng, ngồi, nằm,
Đem tâm này thúc liễm,
Mỗi niệm nối tiếp nhau,
Niệm lâu thành một phiến.
Như thế, niệm Di Đà,
Di Đà tự nhiên hiện.
Quyết định sanh Tây Phương,
Trọn đời không thoái chuyển.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

--------------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Hám Sơn.

Đại Sư dạy: Điều cần yếu nhất trong sự tu hành là tâm tha thiết về việc luân hồi sanh tử.
Tâm sanh tử không thiết tha, làm sao dám gọi là niệm Phật thành một khối? Nếu người thật vì sự luân hồi mà tha thiết thì mỗi niệm như cứu lửa cháy đầu, chỉ e mất thân người, muôn kiếp khó được. Lúc ấy quyết giữ chắc câu niệm Phật, quyết đánh lui vọng tưởng, trong tất cả thời tất cả chỗ, hiệu Phật thường hiện tiền, không bị vọng tình ngăn che lôi kéo. Dùng công phu khẩn thiết như thế, lâu ngày niệm sẽ thuần thục, tâm được tương ưng, tuy không khởi tâm ham cầu mà niệm lực tự nhiên sẽ kết thành một khối.
Ngày đêm sáu thời, chỉ đem một câu niệm Phật trấn định nơi lòng, mỗi niệm không quên, mỗi tâm không u ám. Khi ấy gác bỏ tất cả niệm đời, xem câu niệm Phật dường như tánh mạng của mình, cắn răng giữ chặt, quyết không buông bỏ. Cho đến lúc đi đứng ngồi nằm, uống ăn làm việc, câu niệm Phật đây vẫn thường hiển hiện. Nếu gặp cảnh duyên phiền não, tâm không được yên, chỉ nên chuyên niệm Phật, phiền não liền tự tan mất. Bởi phiền não là cội gốc luân hồi, niệm Phật là thuyền vượt qua biển khổ sanh tử, muốn thoát sanh tử chỉ đem câu niệm Phật phá tan phiền não, đó là phương pháp đơn giản mà rất hiệu nghiệm vậy.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

---------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Ngộ Khai.

Đại Sư dạy: Mở mắt niệm Phật, tâm dễ tán động, nên nhắm mắt mà niệm. Trước khi niệm Phật phải ngồi yên giây phút, buông bỏ tất cả, để lòng rỗng không, rồi từ từ tuyên danh hiệu Phật, vừa niệm vừa nghe, vừa nghe vừa niệm, mật niệm nối nhau, hành trì lâu, tâm phát ra, mỗi câu tha thiết nhớ mong Tịnh Độ. Có phương pháp hệ niệm là khi không niệm Phật, đem tâm niệm mình buộc để trên thân đức A Di Đà Phật. Làm như thế, tâm được thanh tịnh, không lay động, chính là chỗ dụng công đắc lực.
Có người thắc mắc liền thưa hỏi: Tạp niệm từ đâu mà sanh ra?
Đại Sư đáp: Tâm ta chỉ có một niệm, niệm Phật tức là chánh niệm mà cũng là tạp niệm.
Chỉ vì ta niệm Phật chưa tinh chuyên nên tạp niệm kia còn vơ vẩn, thế thôi.
Lại thưa hỏi tiếp: Làm sao trừ được tạp niệm kia?
Đại Sư đáp: Không cần phải cố công diệt trừ, chỉ đem tâm niệm hoàn toàn để trên hiệu Phật, tạp niệm vẩn vơ kia liền biến mất.
Lại thưa hỏi tiếp: Nhưng nếu tinh thần sức lực yếu kém, công phu chưa đủ, không thể khiến cho vọng niệm kia tiêu mất, thì phải làm sao?
Đại Sư đáp: Người đạo đức chưa thuần nên tán loạn nhiều, phải cố thâu nhiếp sáu căn lần lần sẽ được thanh tịnh. Nếu chưa làm được như thế thì mở mắt nhìn chăm chú tượng Phật mà niệm, tạp tưởng vọng niệm sẽ tiêu.
Lại thưa hỏi tiếp: Phương pháp ấy cũng hay nhưng sợ e lần hồi mỏi mệt, tạp niệm lại nổi lên thì làm sao?
Đại Sư đáp: Trong tâm mờ tối nên bị ngoại cảnh lôi kéo, niệm Phật không đắc lực, thậm chí vọng niệm dày dặc không tan. Nhưng đừng vội vàng nóng nảy, phải lóng thần định tâm tư, niệm chậm rãi tôn hiệu Phật, xuất ra từ nơi tâm, phát thành tiếng nơi miệng, tai nghe, cứ tuần hoàn như thế, tạp niệm sẽ dứt.
Lại thưa hỏi tiếp: Phương pháp này rất hay nhưng chỉ e người căn tánh quá tối không làm được, thì phải làm thế nào?
Đại Sư đáp: Nên đem 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật mà niệm. Khi niệm cần phải nghĩ nhớ rành rẽ tiếng thứ nhất là Nam, tiếng thứ nhì là Mô, như thế đủ đến 6 chữ, liên hoàn không dứt thì vọng niệm không còn chỗ xuất sanh.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
---------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Diệu Không.

Đại Sư dạy: Bịnh là cái bước đến sự chết, chết là cửa ải đưa đến cảnh tịnh uế thánh phàm.
Trong khi bịnh phải tưởng là mình sắp chết, chuyên niệm danh hiệu Phật, quyết đợi lúc mạng chung, như thế sẽ có ánh sáng quang minh tiếp dẫn mà toại bổn nguyện vãng sanh của mình. Nếu trong lúc ấy tạm dừng lại câu niệm Phật, thì tâm luyến ái, buồn rầu, sợ hãi, tất cả tạp niệm đều hiện ra, như thế làm sao vượt qua nẻo sanh tử?
Thế nên lúc bịnh nguy phải ghi nhớ 4 chữ A Di Đà Phật nơi tâm chớ quên, và những người xung quanh cũng phải niệm 4 chữ ấy để thường thường nhắc nhở người bệnh. Nên biết trăm kiếp ngàn đời, siêu thoát hay đọa lạc, đều hoàn toàn do một niệm làm chủ. Tại sao thế? Vì 6 nẻo luân hồi đều do một niệm làm chủ.
Nếu một niệm chuyên chú nơi Phật thì hình tuy hoại mà thần không hoại, liền nương theo đó mà vãng sanh. Hỡi người tu tịnh nghiệp! Nên nhớ kỹ bốn chữ A Di Đà Phật nơi lòng đừng quên.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

-----------------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Hoằng Nhất.

Đại Sư dạy: Trong kinh sách cổ xưa có chép: Ta thấy người khác chết, trong lòng luống xót xa; chẳng phải chỉ xót xa kẻ mất mà xót thương thân mình, vì sẽ đến phiên ta rồi cũng trở về cát bụi. Vậy việc lớn lao nhất của đời người, có phải là thoát vòng sanh tử đó không; đâu có thể nào tạm quên đi trong giây phút?
Khi bịnh nặng, phải buông bỏ tất cả việc nhà cho đến thân tâm của mình, chuyên nhất niệm Phật, một lòng mong cầu vãng sanh Tây Phương. Làm như thế, nếu thọ mạng đã hết, quyết định được vãng sanh. Như thọ mạng chưa dứt, tuy cầu vãng sanh mà trở lại mau lành bịnh, do vì lòng mình chuyên thành, nên có thể diệt trừ được nghiệp ác đời trước.
Trái lại, nếu chẳng buông bỏ muôn duyên để siêng năng nhất tâm niệm Phật, thì dù cho thọ mạng đã hết, cũng khó được vãng sanh, vì mình chỉ mong cầu lành bịnh chớ không cầu vãng sanh, nên không do đâu mà về được Cực Lạc. Còn nếu như thọ mạng đã dứt, chẳng những bịnh không được mau thuyên giảm mà trái lại càng tăng thêm vì mình chỉ mong cầu lành bịnh nên trong lòng nảy sinh lo lắng sợ hãi nóng nảy vậy.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
-----------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Vĩnh Minh.

Đại Sư dạy: Phải một lòng qui mạng, trọn đời tinh tấn tu hành thanh tịnh, khi ngồi nằm thường hướng về Tây. Lúc lễ bái, niệm Phật, phát nguyện, phải khẩn thiết chí thành, không xen lẫn tạp niệm, phải tưởng tượng như mình đang bị hình phạt xử án nặng nề, như kẻ đang chịu cảnh lao tù khổ sai, như người bị oán giặc rượt đuổi, như bị thiên tai lũ lụt, hỏa hoạn bức bách, một lòng cầu cứu, nguyện thoát những cảnh khổ sở khốn cùng, mau chứng được vô sanh để nối ngôi Tam Bảo, đền đáp được bốn ân trọng, cứu độ được loài hàm thức chúng sanh khác.
Chí thành như thế tất công phu không uổng. Trái lại, nếu lời và hạnh không ứng hợp nhau, lòng tin tưởng không vững chắc, niệm lực thường gián đoạn không tương tục, đem sự biếng trễ ấy để mong vãng sanh thì e ngại đến lúc lâm chung khó gặp bạn lành, bị sức nghiệp báo lôi kéo, sự đau khổ bức bách mà đánh mất chánh niệm. Vì sao? Bởi việc hiện tại là nhân, lúc lâm chung là quả, nhân phải cho thật, quả mới không hư, như âm thanh lớn thì tiếng vang dội rền xa, như hình ngay bóng mới thẳng vậy.
Qủa báo khổ vui đều do tâm tạo ra. Tâm nóng giận tà dâm là nghiệp địa ngục, tâm tham lam bỏn xẻn là nghiệp ngạ qủy, tâm ngu si hôn ám là nghiệp súc sanh, tâm ngã mạn cống cao là nghiệp A Tu La, giữ trọn năm giới là nghiệp làm người, tinh tu 10 điều lành là nghiệp Trời, chứng ngộ Nhân Không là nghiệp Thanh Văn, rõ pháp Nhân Duyên đều không là nghiệp Duyên Giác, tu hành sáu độ ba la mật là nghiệp Bồ Tát, lòng chơn từ bình đẳng là nghiệp Phật.
Nếu tâm trong sạch thì hóa sanh về Tịnh Độ, ở nơi bảo các, hương đài; nếu tâm dơ nhiễm thì gởi chất nơi uế bang, ở cõi núi gò hầm hố. Muôn cảnh đều do tâm tạo, lìa nguồn tâm ra không có hình thể chi, vậy muốn được quả lành, phải tu nhân tịnh vậy.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
----------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Từ Giác.

Đại Sư dạy: Người mới học đạo, sức kham nhẫn chưa thuần nên phải mượn tịnh duyên để giúp phần tăng tiến.
Tại sao thế? Bởi ở cõi Sa Bà, Phật Thích Ca đã nhập diệt, đức Di Lặc chưa giáng sanh; miền Cực Lạc thì Đức Từ Phụ A Di Đà hiện nay đương thuyết pháp. Với đức Quán Âm, Đại Thế Chí, người ở cõi Sa Bà luống khát ngưỡng danh lành, nếu sanh về Tịnh Độ gặp được hai bậc thượng thiện nhân đó thì đều là bạn tốt.
Ở Sa Bà, các loài ma nổi dậy làm não loạn người tu; trái lại nơi cõi Cực Lạc trong ánh đại quang minh đâu còn ma sự nữa? Ở Sa Bà dễ bị tiếng tà quấy nhiễu, sắc đẹp làm mê mờ bản tâm; miền Cực Lạc thì chim nước rừng cây đều tuyên dương diệu pháp, chánh báo thanh tịnh, không có nữ nhân.
Thế thì duyên tu hành thuận tiện đầy đủ, không đâu hơn cõi Tây Phương, tiếc cho kẻ nông cạn kém tin, trở lại nghi ngờ hủy báng.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.

Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

---------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Từ Chiếu.

Đại Sư dạy: Nay người muốn tu pháp môn Niệm Phật Tam Muội, cầu sanh về Tịnh Độ để cho mau thành qủa Bồ Đề, thì phần chánh hạnh là phải chuyên niệm Phật. Về phần trợ duyên cho hạnh lành thì phải dứt trừ điều ác, làm những việc thiện, rồi đem công đức ấy hồi hướng về Tây Phương. Đó gọi là thả thuyền theo nước xuôi, lại thêm chèo chống, tất nhiên mau đến bờ vậy.
Sớm tối chuyên tâm lễ Phật Di Đà như chầu bậc đế vương không để lỗi thời, hành trì như thế lâu ngày sẽ được thêm sự thân thiết. Đến như niệm Phật thì miệng niệm, tâm tưởng, tâm và miệng hợp nhau, lại phát lòng ân trọng, tin chắc không nghi ngờ, công phu mỗi ngày thêm thuần thục, tự nhiên Tam Muội ắt được thành tựu.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

----------------
(3 bài)
Bài 1 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Tuyết Hư.


Đại Sư dạy: Trong các bản Kinh Tịnh Độ có viết: Chí tâm niệm Phật một câu, tiêu trừ được trọng tội trong 80 ức kiếp sanh tử. Chí tâm là lúc niệm Phật trước hết phải dọn tâm cho thật sạch sẽ, rỗng rang thì ngay khi ấy, một câu Phật hiệu thông trên suốt dưới, không còn gì khác cả. Niệm chí tâm như thế mới mong đạt được nhất tâm bất loạn. Nhưng làm thế nào để được nhất tâm?
Xin đáp: Tội từ tâm khởi tùng tâm sám. Do còn tội nghiệp nên tâm khởi phiền não. Lúc tâm khởi phiền não thì sẽ tạo tội nghiệp. Ngay lúc ấy phải sám hối cho nó liền tiêu mất. Tâm đã diệt rồi tội cũng không. Do còn tội nghiệp nên chẳng thể chí tâm. Tội nghiệp nếu đã diệt trừ thì tự nhiên ắt sẽ được chí tâm; bởi thế mới nói: Tội diệt, tâm mất, thảy đều không, thế mới gọi là chân sám hối. Niệm Phật như thế thì đạt được chí tâm, diệt được trọng tội, dù trời long đất lở cũng chẳng nao núng suy suyển gì.
Vậy có bài kệ rằng:
Tâm nhất phân minh đoạn hoặc thì
Vãng sanh chứng quả thượng hà nghi
Tuy nhiên thường thuyết hoặc nan đoạn
Sám hối huyền môn tích bất tri!
có nghĩa là:
Tâm đã phân minh đoạn hoặc rồi
Vãng sanh chứng quả há nào sai
Tuy thường nói Hoặc Mê khó diệt
Pháp môn Sám Hối ít ai hay!
Nếu niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn thì chính đó là lúc diệt được mê hoặc rồi vậy. Như vậy chắc chắn được vãng sanh, vãng sanh rồi ắt mau chứng được Phật quả. Thế thì pháp môn sám hối đích thực là một huyền môn, vô cùng mầu nhiệm giúp hành nhân chúng ta sớm tiêu trừ được nghiệp chướng. Niệm Phật mà biết phối hợp với pháp môn sám hối này thì sẽ thành tựu được dễ dàng vậy. Tiếc thay người đời nay ít có ai biết rõ được!
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

----------------------

Bài 2 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Tuyết Hư.


Đại Sư dạy: Người tu tịnh nghiệp cần nên tìm hiểu thế nào là Chánh Trợ công phu. Chánh công phu là trừ khử vọng niệm, thấu triệt tâm tánh; Trợ công phu là công phu giúp hiển lộ tâm tánh, trừ khử những ma chướng phát sanh bởi dụng công.
Trước hết nói về Chánh Công Phu. Trong vòng bảy ngày, hành nhân phải giữ lòng cung kính. Một phen bước vào cửa chùa thì cũng như vào gặp Phật. Pháp thân của Như Lai ở khắp mọi nơi, chẳng phải chỉ mình tượng Phật trên đại điện mới xem là Phật, mà thật ra một sắc một hương, không thứ nào chẳng phải là diệu sắc, diệu tâm của Phật. Đối với mỗi hoàn cảnh, nơi chốn như thế đều xem như là Phật thì ngôn hạnh tự nhiên cung kính, chẳng còn lười nhác nữa. Cung kính chính là bí quyết để hướng đến Bồ Đề. Đây là tầng công phu thứ nhất.
Khi đã ngồi yên rồi thì phải buông xuống vạn duyên, quét sạch mọi vọng niệm tạp sự hàng ngày. Sau đấy mới gom tâm về một chỗ, buộc tâm nơi câu hồng danh, giống như nơi dòng nước chảy xiết phải buộc chặt thuyền bè vào cột thì mới khỏi bị nước cuốn. Đây là tầng công phu thứ hai.
Kế đó trong khi trì danh, phải giữ sao cho 6 chữ hồng danh từ tâm tưởng khởi, từ miệng phát ra, nghe lọt vào tai, ví như ba cái bánh xe xoay vần qua lại, cốt sao cho tâm tưởng thật trong sáng, rõ ràng, miệng niệm được rõ ràng, tách bạch, tai nghe rõ ràng, rành mạch. Tự niệm, tự nghe như thế, từng chữ dựa chặt vào nhau, trong khi niệm đừng đánh mất câu nào. Đây là tầng công phu thứ ba.
Thêm nữa lúc chúng ta niệm Phật, chẳng luận là miệng tụng hay ý trì, hãy nên giữ cho không có tạp âm, chỉ còn mỗi một mình tiếng niệm Phật. Do vì A Di Đà Pháp Thân ở khắp mọi nơi, Phật quang cũng chiếu thấu khắp nơi. Vì thế lúc niệm Phật, từ nơi ta phát ra âm thanh của tâm, tâm thanh đó hòa nhập vào Phật quang, Phật quang lại nhập vào tâm thanh. Tâm thanh và Phật quang dung thông như thế thì ta chính là Di Đà, Di Đà chính là ta. Đây là tầng công phu thứ tư.
Theo đúng những điều vừa nói ở trên, tinh tấn tu tập từng tầng cấp một, khiến cho chỗ sống biến thành chỗ chín. Đến khi đạt được đến tầng cấp thứ tư chính là ngày thành tựu Nhất tâm vậy.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

------------------------
Bài 3 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Tuyết Hư.


Đại sư dạy: Tiếp đến là Trợ công phu. Chánh công phu cố nhiên là thẳng chóng, ổn thỏa, thích đáng, nhưng chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay quen thói phiền não đã sâu, vọng niệm tơi bời, nay muốn dùng một câu Phật hiệu đè nén chúng cho khỏi tạo nghiệp, không còn vọng tưởng thì tuyệt đối chẳng thể thực hiện được điều đó trong một thời gian ngắn.
Vì thế, phải dùng Trợ hạnh để giúp sức.
Nếu có thể hàng ngày tự cảnh tỉnh, quán chiếu lỗi ác của mình, thành tâm sám hối, mong tiêu nghiệp chướng, thấy người khác làm lành liền tùy hỷ, tán thán để tăng phước đức; tùy hỷ, sám hối như thế đều hồi hướng vãng sanh Tây Phương thì đây chính là Trợ hạnh thứ nhất.
Tiếp đến là pháp Hân Yểm (ưa thích và nhàm chán). Trong các sinh hoạt thường nhật, chẳng luận là ăn, mặc, đi, đứng, đối với mọi thứ trong cõi Sa Bà đều nhất loạt coi là ô uế mà chán lìa. Đối với các thứ trang nghiêm được diễn tả trong ba Kinh Tịnh Độ đều tưởng là thanh tịnh, sanh lòng ưa thích. Chán lìa thì không có tâm tham luyến. Vui mừng, hâm mộ thì tự tăng thêm ý nguyện cầu sanh. Đến khi hân yểm cùng cực thì thân tuy ngụ Sa Bà nhưng chẳng còn là khách trọ lâu ngày trong cõi Sa Bà nữa; tuy chưa chứng Cực Lạc nhưng đã sớm là người thường trú chốn Liên bang. Đây chính là yếu quyết mầu nhiệm của Tịnh Độ Tông, chẳng thể nói là giống như những lời lẽ bất hân bất yểm của các tông phái khác. Đây chính là Trợ Hạnh thứ hai.
Thêm nữa, về pháp phương tiện để chế ngự mê hoặc, nên biết rằng niệm Phật chẳng được Nhất Tâm là do vọng niệm làm loạn, nhưng vọng niệm chính là hoặc, mà cũng chính là ma. Vì thế muốn đoạn ngay được mê hoặc không phải dễ dàng. Nay có cách tạm chế ngự được mê hoặc. Cổ đức có nói: Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm. Nếu cứ một vọng niệm khởi liền nhận biết, biết rồi liền dùng câu Phật hiệu để chế ngự nó. Ma đến Phật chế ngự như thế, đầu tiên ví như dùng đá đè cỏ, đè lâu ngày thì mê hoặc vọng niệm chẳng thể tự khởi, cũng được phương tiện nhất tâm, đợi đến khi sanh về Tây Phương rồi sẽ lại tiếp tục đoạn trừ mê hoặc. Đây chính là pháp đặc biệt của Tịnh Độ, chẳng thể dùng lý lẽ của các tông khác để cật vấn được. Đây chính là Trợ hạnh thứ ba.
Hy vọng mọi người sau bảy ngày tu tập niệm Phật, không kể đến là đang ở trong đạo tràng hay đang trên đường về nhà đều tu như thế. Dưới đây là một bài kệ để kết luận:
Tịnh độ khó tin nhưng dễ hành
Toàn do hai lực, Chánh và Trợ
Phải đắc Nhất tâm mới hiệu lực
Phương tiện chế hoặc liền cảm thông.

Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.

Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Cẩm Nang Tu Học Qua Những Lời Khai Thị

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 2 Tháng 8 05, 2013 10:47 pm

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Không Cốc.

Đại Sư dạy: Một môn niệm Phật là đường lối tu hành thẳng tắt. Hành giả phải xét rõ thân này giả dối, việc đời như chiêm bao, duy cõi tịnh độ là nơi đáng nuơng về, câu niệm Phật là có thể nhờ cậy. Rồi tùy phận mà niệm hoặc mau hoặc chậm, hoặc tiếng thấp tiếng cao, đều đều không câu ngại.
Chỉ nên để cho thân tâm nhàn đạm, thầm nhớ chẳng quên, khi hòa hoãn, hay khi gấp gáp vội vàng, khi động khi tịnh, vẫn một niệm không khác. Niệm như thế ngày kia xúc cảnh chạm duyên, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Chừng ấy mới biết cõi Tịch Quang Tịnh Độ không rời nơi đây, Phật A Di Đà chẳng ngoài tâm mình.
Nếu lập tâm tham, muốn cầu tỏ ngộ thì trở lại thành chướng ngại, cho nên chỉ lấy lòng tin làm căn bản, chẳng tùy theo tạp niệm, vọng tình. Hành trì như thế, dù chưa tỏ ngộ, khi chết cũng được sanh về Tây Phương, theo từng cấp bậc mức độ mà tiến tu, không còn lo thoái chuyển.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
---------------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Triệu Lưu.

Đại Sư dạy: Người tu tịnh nghiệp đời nay, trọn ngày niệm Phật, sám hối, phát nguyện, mà cõi Tây Phương vẫn xa, sự vãng sanh không đảm bảo ra sao. Đấy cũng bởi bề ngoài tuy lễ niệm, gốc ái còn bám sâu đó.
Vậy phải xem sự tình ái cõi Sa Bà là vô thường, là giả dối, giống như nhai cỏ mục sáp khô, dù ở trong cảnh rảnh rang hoà hoãn, không động tịnh, hay vui khổ lo mừng, cũng giữ chắc một câu hiệu Phật như dựa vào núi Tu Di, tất cả cảnh duyên đều không thể làm lay động.
Nếu lúc nào tự cảm thấy mỏi mệt, biếng trễ, nghiệp hoặc cũ hiện lên khuấy phá nội tâm thì phải một lòng phấn khởi mà niệm, như thanh trường kiếm chống trời, khiến cho quân ma phiền não trốn mất không còn, như lửa đỏ ở lò hồng, đốt tan tình thức từ vô thỉ.
Người nào giữ được như thế, tuy hiện đang ở cõi ngũ trược mà toàn thân đã ngồi nơi thế giới hoa sen, đợi chi đến Phật A Di Đà đưa tay tiếp dẫn, ngài Quán Âm dìu dắt mới tin là mình vãng sanh hay sao?
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
----------------------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Diệu Hiệp.

Đại Sư dạy: Hành giả phát tâm niệm Phật, trước khi vào đạo tràng phải xét nghĩ ta với chúng sanh thường ở trong vòng biển khổ sanh tử, nếu không độ cho tất cả đều được thoát ly, sao gọi là chánh hạnh?
Nhân đó, xem người oán kẻ thân đều bình đẳng, khởi lòng đại bi, như thế quyết không bị tệ ma, ác đảng làm cho thoái chuyển. Sau khi đã lập đại tâm, nên nghiên cứu những chánh hạnh niệm Phật của người xưa, lập đạo tràng đúng pháp, khiến cho hết sức trang nghiêm thanh tịnh.
Kế đó, phân ngày đêm sáu thời, đem tâm chí thành gieo mình qui mạng về ngôi Tam Bảo, tay cầm hương hoa cúng dường, vận tâm quán tưởng khắp pháp giới, xét mình cùng tất cả chúng sanh từ trước tới nay ở trong vòng mê khổ, rơi lệ cảm thương, cầu Phật gia bị, nguyện độ muôn loài. Như thế dùng hết sức mình kham khổ tu hành, nếu nghiệp chướng sâu, chưa được cảm cách, phải lấy cái chết làm kỳ hạn, không được giây phút nào nghĩ đến sự vui ngũ dục của thế gian.
Như kẻ căn cơ non kém, không làm được thắng hạnh trên đây thì cũng ở trong tịnh thất, giữ cho thân tâm nghiêm sạch, tùy ý tu hành. Hoặc định thời khóa lễ Phật sám hối, nguyện tinh tấn không thoái chuyển, hoặc chuyên niệm hoặc trì chú, tụng kinh. Nếu thấy được tướng hảo thì biết mình được diệt tội, có duyên lành.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
--------------------
( 2 bài)
Bài 1 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Thật Hiền.


Đại Sư dạy: Nhớ khổ sanh tử là thế nào? Ta với chúng sanh, bao kiếp đến nay, ở mãi trong phạm vi sanh tử, chưa được siêu thoát. Không ở trong loài người thì ở thế giới khác, ra vào đủ cách, lên xuống liền liền. Thoáng cái làm trời, thoáng cái làm người, thoáng cái làm địa ngục, thoáng cái làm ngạ quỉ, súc sanh.
Cửa đen sáng ra chiều vào, hang sắt mới thoát lại sa. Lên núi đao thì cả mình không còn mảng da nào nguyên vẹn, víu cây kiếm thì một vuông một tấc cũng bị cắt xả phanh thây.
Sắt nóng không hết đói, mà nuốt vào thì ruột gan nát nhừ tương, đồng sôi đâu khỏi khát mà uống vào thì xương nát thịt tan. Cưa sắt xả thân thì vừa xả lại liền lại như cũ, gió quái mà thổi thì chết rồi lại sống lại ngay để tiếp tục chịu đọa đày. Trong thành lửa dữ chỉ nghe cái thảm thét gào, trên bàn chông nướng toàn nghe cái tiếng khóc la thảm thiết. Băng tuyết đông lại thì xanh như sen xanh hết nhụy, máu thịt rã ra thì đỏ như sen đỏ mới nở.
Tại địa ngục, một đêm chết sống thường bị đến cả vạn lần, cũng ở đó mà một buổi thống khổ cũng bằng trên dương thế hàng trăm năm. Mãi hoài làm cho ngục tốt mệt nhọc nhưng nào có ai nghe Diêm Vương khuyên bảo. Khi chịu hình phạt thì mới biết là quá khổ, dầu hối hận cũng đâu còn kịp nữa, lúc thoát thì lại quên vội ngay, tạo nghiệp vẫn y hoài như cũ. Thân thể con người khó được mà dễ mất, thì giờ qúi báu dễ trôi mà khó kéo. Rồi đường hướng mờ mịt, biệt ly mãi hoài, ác báo tam đồ lại phải tự chịu, thống khổ hết nói ai đâu chịu thay cho.
Mô tả đến đây, há chẳng đau lòng buốt dạ hay sao? Vì vậy, hãy triệt dòng sinh tử, vượt bể ái dục, để mình và người cùng thoát khổ, cùng lên bờ giác ngộ. Hết thảy công việc phi thường trong bao đời kiếp sắp đến đều bắt nguồn từ cơ hội tu tập niệm Phật này.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

----------------------
Bài 2 :
Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Thật Hiền.


Đại Sư dạy: Cầu sinh Tịnh Độ là thế nào? Tu hành cõi này thì sự tiến đạo rất khó, vãng sinh cõi kia thì sự thành Phật cũng dễ. Dễ nên một đời đã có thể thấu đáo, khó nên lắm kiếp vẫn chưa chắc hoàn thành. Do đó mà thánh ngày xưa, hiền ngày trước, ai cũng khuynh hướng; kinh cả ngàn, luận cả vạn, đâu cũng chỉ qui. Quả thật sự tu hành trong thời kỳ mạt pháp này, không có pháp nào hơn pháp ấy. Có điều kinh luận đã nói, điều lành mà tính chất nhỏ thì không thể vãng sanh, cái phước mang tính chất lớn mới chắc chắn đến được. Cái phước mang tính chất lớn thì không chi bằng sự chấp trì danh hiệu, điều lành hàm tính chất to thì không chi bằng sự phát tâm rộng lớn. Nên nhất tâm chấp trì danh hiệu của Phật hơn cả sự bố thí đến trăm năm, nhất niệm phát tâm bồ đề rộng lớn vượt cả sự tu hành trong nhiều kiếp.
Lý do là vì niệm Phật vốn mong làm Phật, vậy tâm lớn không phát thì có niệm cũng không làm gì, phát tâm vốn để tu hành, vậy tịnh độ không sanh thì có phát cũng dễ thoái chuyển, nên gieo giống bồ đề, cày bằng cái cày niệm Phật, thì trái hạt tuệ giác tự nhiên lớn lên, ngồi thuyền đại nguyện, nhập vào bể cả tịnh độ thì Tây Phương Cực Lạc quyết định vãng sanh.
Nay chép ra bài kệ của Thiền Sư Linh Thoại gởi đến các hành nhân tu Tịnh Độ, hãy nghĩ suy cặn kẽ:
Ngày tháng chim lồng quanh quẩn,
Thên người bèo nước lênh đênh,
Trăm năm tạm gởi kiếp phù sinh,
Há lại mơ màng chẳng tỉnh?
Đem mối trần duyên rũ sạch
Đừng cho mộng cảnh linh đình.
Di Đà sáu chữ ấy chân kinh
Đường lối tu hành tiệp kỉnh.
Chẳng luận sang, hèn, ngu, trí
Không phân già, trẻ, gái, trai
Có tâm làm được đấng Như Lai
Lời thật lưu truyền vẫn tại.
Sáu chữ Di Đà rất dễ
Một lòng tưởng niệm đừng sai.
Thân này thề chiếm tử kim đài
Gắng giữ niệm tâm chớ trái!
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
----------------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Thiên Như.

Có người hỏi Đại Sư: Nghe nói, có kẻ một đời tàn ác, khi lâm chung chỉ cần niệm mười lần tôn hiệu Phật Di Đà cũng được vãng sanh. Vậy thì bây giờ tôi sống tự do, buông xả theo duyên đời, vui dục lạc, đợi đến lúc sắp chết sẽ niệm Phật, có được chăng?
Đại sư trả lời: Khổ thay, khổ thay! Lời nói đó đã hại chính mình, lại gây hại cho hàng tăng, tục, nam, nữ trong đời nữa. Phải biết kẻ phàm phu nghịch ác khi lâm chung niệm Phật được là do kiếp trước có căn lành, khiến cho gặp được bậc thiện tri thức chỉ bảo mà được sự may mắn trong muôn một ấy. Trong Luận Quần Nghi có viết: Có mười việc khi lâm chung không niệm Phật được:
1.Khó gặp bạn lành nên không niệm Phật được
2.Vì bịnh khổ buộc thân, không rỗi rãnh để niệm Phật
3.Bị trúng độc phong cứng họng, nói không ra tiếng không niệm Phật được
4.Bị cuồng tâm mê loạn mất sự sáng suốt, không niệm Phật được
5.Thình lình gặp tai nạn nước lửa không niệm Phật được
6.Thoạt bị hùm sói thú dữ ăn thịt không niệm Phật được
7.Bị hôn mê mà chết không niệm Phật được
8.Bị bạn ác phá hoại lòng tin không niệm Phật được
9.Thoạt chết ngay giữa chiến trường quân trận
10.Từ nơi chỗ cao té xuống hoảng hốt không niệm Phật được

Những việc trên đây trong đời thường có, đó là do túc nghiệp hoặc hiện nghiệp chiêu cảm bỗng nhiên xảy ra, không kịp trốn tránh. Khi gặp một việc không may, bất cập, trong 10 việc kể trên, thì làm sao mà niệm Phật được. Giả sử không bị những ác duyên như trên, thọ bịnhsơ sài mà qua đời, e cho lâm chung, khi thân tứ đại sắp ly tán, bị sự đau đớn dường dao cắt, như con cua bị rớt vào nước sôi trong lúc thống khổ bức bách, bối rối kinh hoảng ấy, đâu có rỗi rãnh để niệm Phật? Giả sử không bị bịnh mạng chung lại e duyên đời chưa dứt, niệm tục khó quên, tham sống sợ chết, tấm lòng rối loạn không yên. Thêm vào đó, việc nhà chưa phân minh, chuyện sau chưa sắp đặt, vợ chồng con cái khóc lóc kêu gọi, trăm mối lo sợ, thương sầu, như thế làm sao niệm Phật được? Giả sử lúc chưa chết thì lại bịnh khổ, đau đớn rên la, tìm thầy tìm thuốc, lo việc khẩn cầu cúng tế, tạp niệm rối ren, vị tất đã niệm Phật được? Giả sử trước khi chưa bịnh thì lại bởi sự già khổ, suy lờ lọm khọm, buồn rầu áo não, e cholo những việc cái thân già yếu chưa xong, đâu có rôĩ rãnh để niệm Phật? Giả sử trước khi chưa già, còn đang trẻ trung khỏe mạnh, hoặc như tâm cao vọng chưa dứt, việc thế tục còn buộc ràng, rong ruổi đông tây, suy thế này tính thế khác, nghiệp thức mơ màng, cũng không niệm Phật được. Giả sử kẻ được an nhàn thong thả, có chí tu hành nhưng nếu không nhìn thấu cảnh đời là giả mộng, thân tuy được yên, nhưng tâm còn bấn loạn, không thể buông bỏ muôn duyên, khi gặp việc đến, không thể tự chủ, theo cảnh mà điên đảo, cũng không niệm Phật được.
Nhà ngươi thử xét lại, đừng nói già bịnh, trong lúc còn trẻ trung nhàn nhã, nếu có một việc đeo đẳng nơi lòng, còn không niệm Phật được thay, huống chi là đợi đến lúc lâm chung? Vậy muốn cho khi sắp chết được chánh niệm vãng sanh thì ngay bây giờ phải xét rõ việc đời là huyễn mộng, tùy duyên an phận qua ngày, không còn tham luyến, được rỗi rãnh lúc nào thì niệm Phật lúc ấy, đừng hẹn chờ lần lựa, hoặc để hư phí thời giờ. Như thế thì tư lương ta đã dự bị xong, lúc ra đi mới không điều chi chướng ngại.
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

----------------

Kính thỉnh đại chúng lắng nghe lời khai thị của Đại Sư Liên Trì.

Đại Sư dạy: Niệm Phật có mặc trì (niệm thầm), cao thanh trì (niệm lớn tiếng), kim cang trì (se sẽ động môi); nhưng niệm thầm (mặc trì) thì dễ hôn trầm, niệm lớn tiếng (cao thanh trì) thì mau phí sức, duy dùng pháp kim cang trì, se sẽ động môi lưỡi mà niệm, là có thể bền lâu; nhưng cũng không nên chấp chặt khư khư một cách, hoặc khi niệm theo lối kim cang trì, nếu thấy mệt thì đổi sang mặc trì, nếu hôn trầm thì đổi sang cao thanh trì để xua tan sự buồn ngủ mệt mỏi. Hành nhân tu niệm Phật cần phải biết tùy duyên mà ứng đối khéo diệu dụng.
Tâm ta hôn loạn đã lâu, không thể một lúc mà an định được cho nên người niệm Phật nếu tâm chưa thanh tịnh cũng đừng quá vội lo, chỉ cần khi niệm mỗi chữ mỗi câu đều do tâm phát ra, dụng công bền lâu, tự có hiệu quả.
Tạp niệm là bịnh, niệm Phật là thuốc, niệm Phật chính là để trị tạp niệm mà không thấy hiệu quả là do dụng công chưa được khẩn thiết, chân thật. Cho nên khi tạp niệm nổi lên, phải chuyên lòng gia công niệm Phật hơn nữa, mỗi chữ mỗi câu tinh thuần không xao lãng thì tạp niệm sẽ dứt.
Xin khuyên những người tương đối thanh nhàn, đã lớn tuổi, việc gia đình con cái đã yên ổn lo xong, nên thu xếp thời gian còn lại cho mình vì chẳng còn bao lâu nữa, mà đem hết tâm lực niệm Phật, mỗi ngày từ số ngàn đến muôn câu hiệu Phật, cầu xin quay về Tịnh Độ.
Cũng xin khuyên những người còn vướng bận duyên đời nhiều ràng buộc, nhọc nhắn vì việc công, bôn ba đua chen vì gia sự, tuy ít khi rỗi rãnh nhưng mỗi buổi sớm mai cố gắng nhín ra một chút thì giờ niệm Phật chừng mười hơi, ngoài ra lúc nào rãnh, cần hết lòng hết dạ niệm xen vào trăm câu, xin sớm giải kết mối lo, gỡ thoát gông cùm ràng buộc, sống được thảnh thơi khang thái. Lành thay, lành thay!
Kính thỉnh đại chúng lập lại lời phát nguyện:
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật quả, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
-----------------
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Cẩm Nang Tu Học Qua Những Lời Khai Thị

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 8 06, 2013 10:30 am

Liên Tông Thập Tổ, Ngư Sơn Phổ Nhân Đạo Tràng, Hành Sách Đại Sư.
Trích yếu sách Tịnh Ðộ Cảnh Ngữ của đại sư Triệt Lưu Hành Sách đời Thanh

Niệm Phật cần phải có lòng tin chơn thật:

a. Một là tin rằng tâm, Phật, chúng sanh, cả ba thứ không sai biệt. Ta là Phật chưa thành, Phật Di Ðà là vị Phật đã thành, giác tánh vô nhị. Ta tuy hôn mê, điên đảo, sai lầm nhưng giác tánh chẳng hề mất. Ta tuy luân chuyển bao kiếp nhưng giác tánh chưa hề động. Vì thế mới nói: “Ðừng khinh kẻ chưa ngộ, nhất niệm hồi quang sẽ cùng chứng đắc cái ta sẵn có”.
b. Kế đến, cần phải tin rằng ta là Lý Tánh Phật, danh tự Phật; Di Ðà là Cứu Cánh Phật, tánh tuy không hai, nhưng địa vị sai khác một trời, một vực!
Nếu chẳng chuyên niệm đức Phật kia để cầu sanh về cõi ngài ắt sẽ bị lưu chuyển theo nghiệp, chịu khổ vô lượng. Nói cách khác: Pháp Thân lưu chuyển trong năm đường chẳng được gọi là Phật, mà gọi là chúng sanh!
c. Ba là cần phải tin rằng ta tuy chướng sâu nghiệp nặng, ở trong khổ thành đã lâu, nhưng là chúng sanh ở trong tâm của đức Di Ðà; Di Ðà tuy là vạn đức trang nghiêm ở xa ngoài mười vạn ức cõi nhưng vẫn là đức Phật trong tâm ta.
Tâm, tánh đã là vô nhị thì tự nhiên cảm ứng đạo giao, tâm khổ thiết của ta ắt cảm, tâm từ bi của Phật ắt ứng như nam châm hút sắt, chẳng còn ngờ chi.
Ðầy đủ những lòng tin chơn thật như vậy thì dù một mảy thiện, một phước nhỏ như hạt bụi đều có thể đem hồi hướng về Tây Phương, trang nghiêm Tịnh Ðộ. Huống hồ là trì trai, giữ giới, phóng sanh, bố thí, đọc tụng Ðại Thừa, cúng dường Tam Bảo, các thứ hạnh lành lại chẳng đủ để làm tư lương Tịnh Ðộ hay sao?
Chỉ vì tin chẳng chơn thật nên bị chìm trong hữu lậu. Vì thế, ngày nay tu hành chẳng có yếu thuật nào khác cả; chỉ cốt trong mười hai thời, thêm vào ba thứ lòng tin chơn thật ấy thì chẳng cần phải thay đổi hết thảy điều gì mình đang tu tập cả.
Nếu luôn luôn nghĩ lo việc Sa Bà, một ngày nóng mười ngày lạnh, tâm chẳng chuyên dốc, lúc gặp ngũ dục thì như keo như sơn, gặp phải nghịch cảnh bèn kết oán, ôm hận. Ðến lúc mạng chung sẽ ngả theo chỗ mình coi nặng, vì Tịnh nhân nhỏ yếu nên khó thoát khỏi chốn khổ. Ðấy chỉ là do chẳng thể bỏ xuống những cái mình xem nặng.
Ai nấy nên đau đáu nghĩ đến Sa Bà hiểm ác, sớm cầu xuất ly. Bò lê trong lục đạo, tiêu dao nơi chín phẩm, [hai đường] lợi hại [khác xa nhau] một trời một vực. Hãy nên tu tập nỗ lực, mạnh mẽ tỉnh ngộ!
Ắt nên sanh lòng chán, ưa lớn lao, bỏ uế lấy tịnh; tin rằng sự lấy bỏ này và sự chẳng lấy bỏ vốn chẳng khác gì nhau.
Ðừng chuộng hư danh, đừng chấp Không Kiến, chớ để kẻ học Thiền có danh phận nhưng chỉ chứng đắc tam muội nơi cửa miệng làm mình lầm loạn. Chớ cầu sự linh nghiệm ngay trong sớm tối, vọng cầu ngoài tâm có Phật đến đón khiến ma sự phát động. Luôn lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh, siêng tu các điều thiện làm Trợ Hạnh.

Lại còn quyết ý mài giũa tham, sân, si, khiến cho chỗ nặng biến thành chỗ nhẹ, chỗ sống chín dần, tịnh niệm nối tiếp, nguyện - hạnh hỗ trợ nhau thì tự nhiên trăm ngàn phần ổn thỏa, thích đáng vậy!
Kính khuyên các bạn: Cần phải có đủ nguyện chơn thật, phát tâm ưa - chán, coi tam giới như lao ngục, coi nhà, vườn như gông cùm, coi thanh sắc như chất độc của loài chim Trầm, coi danh lợi như dây cương, ống khóa, coi mấy mươi năm thời vận cùng thông như giấc mộng đêm qua, coi một kỳ thọ báo trong cõi Sa Bà như ngụ trong quán trọ: vừa hết đêm đã rời đi.
Chỉ lấy việc trở về nhà làm trách nhiệm. Như ý cũng được, bất đắc ý cũng xong, chẳng bỏ lỡ tấc bóng, nhất tâm niệm Phật.
Nếu thật sự có thể làm được như thế mà chẳng sanh về Tịnh Ðộ thì chư Phật đều thành nói dối. Xin hãy cùng gắng lên!
Bảy ngày trì danh quý ở chỗ Nhất Tâm Bất Loạn, không gián đoạn, không xen tạp, chứ chẳng phải là niệm nhanh, niệm nhiều là hay!
Chỉ nên chẳng rề rà, chẳng gấp gáp, trì danh nghiêm mật khiến cho câu Phật hiệu phân minh vằng vặc trong tâm. Mặc áo, ăn cơm, đi, đứng, nằm, ngồi; một câu hồng danh miên mật chẳng đoạn giống như thở ra, hít vào. Chẳng được tán loạn, nhưng cũng chẳng để chìm mất. Trì danh như thế thì đáng gọi là đạt nhất tâm tinh tấn về mặt Sự!
Hiện thời, Tịnh nghiệp học nhân suốt ngày niệm Phật, sám hối tội lỗi, phát nguyện mà Tây phương vẫn cách xa là do chưa thể giữ sao cho ngoài chuyện vãng sanh không còn nghĩ chuyện gì khác, chưa nhổ được gốc ái, để dây tình còn lôi kéo vậy!
Nếu có thể coi chuyện ân ái cõi Sa Bà như nhai sáp; chẳng quản bận, rảnh, động, tịnh, khổ, sướng, buồn, vui, cứ dựa vào một câu Phật hiệu hệt như dựa vào núi Tu Di thì hết thảy cảnh duyên chẳng lay động nổi.
Nếu lúc nào biết mình đang mệt mỏi, lười biếng hoặc là tập khí hiện tiền hãy nên mạnh mẽ phát khởi một niệm như tuốt thanh trường kiếm Ỷ Thiên khiến ma quân không chỗ ẩn trốn, cũng như hỏa lò rực lửa khiến cho vô thỉ tình thức tiêu tan không sót!
Người ấy tuy đang ở trong chốn ngũ trược mà thân đã nghiễm nhiên ngồi trong cõi Liên Hoa, nào còn phải đợi đức Di Ðà xòe tay, đức Quán Âm khuyên mời mới tin là mình đã vãng sanh nữa!
 Nhận định:
Trì danh chẳng cốt niệm nhanh, niệm nhiều là hay, nhưng chẳng nên [nại cớ đó để] tà tà, lơi là. Cổ đức trì danh ngày đêm cả một vạn biến, há chẳng phải là niệm nhanh, niệm nhiều đó sao?
Câu “chớ cầu chóng có linh nghiệm, đừng vọng cầu ngoài tâm có Phật đến đón khiến ma sự phát động” để dạy riêng người tu quán tưởng. Nếu gặp phải ma sự thì nên đề khởi chánh niệm, thầm trì Phật hiệu, vì tà chẳng thắng nổi chánh nên ma sự ắt tiêu diệt, chẳng cần lo sợ.

------------------------


Liên Tông Cửu Tổ, Bắc Thiên Mục Linh Phong Đạo Tràng, Trí Húc Đại Sư.
Trích yếu sách Linh Phong Tông Luận của đại sư Ngẫu Ích Trí Húc đời Thanh


Niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ là một môn bao hàm trọn vẹn trăm ngàn pháp môn, chứ chẳng phải là đề cao một môn, phế bỏ trăm môn khác.
Nhưng cần phải thâm nhập một môn, lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh, còn hết thảy các môn Giới, Ðịnh, Huệ khác là Trợ Hạnh.
Thực hành cả Chánh lẫn Trợ giống như thuyền đã đi thuận gió, còn kéo căng giây lèo, chóng đến được bờ.
Pháp Niệm Phật tuy nhiều, nhưng Trì Danh là giản tiện nhất. Pháp Trì Danh cũng nhiều, nhưng pháp Trì Danh Nhớ Số là ổn đáng. Người thực hành chơn thật, thuần thục nào có mong làm khác kẻ ngu phu, ngu phụ đâu?
Ðể thoát khỏi nhà lửa tam giới có hai đường dọc và ngang:
a. Dùng tự lực để đoạn hoặc, vượt khỏi sanh tử thì gọi là vượt tam giới theo chiều dọc (thụ xuất tam giới), khó tu, kết quả chậm chạp.
b. Nương Phật lực tiếp dẫn sanh về Tây phương thì gọi là vượt khỏi tam giới theo chiều ngang (hoành xuất tam giới); dễ hành, kết quả nhanh chóng.
Tổ Huệ Viễn nói: “Có công năng cao, dễ tấn tu thì niệm Phật làm đầu”. Kinh dạy: “Ðời mạt ức ức người người tu hành, hiếm có một ai thành đạo. Chỉ có ai tu theo pháp Niệm Phật mới có thể được độ thoát”như giong thuyền vượt biển, chẳng mất công sức.
Ai có thể dốc lòng tin tưởng vào đường tắt Tây Phương, chí thành phát nguyện, nhất tâm niệm Phật cầu vãng sanh thì thật đúng là bậc đại trượng phu.
Còn nếu như lòng tin chẳng chơn thật, nguyện chẳng khẩn thiết, hành chẳng tận sức, dẫu Phật đã sắp sẵn thuyền đại từ nhưng chúng sanh chẳng chịu xuống thuyền thì Phật còn biết làm thế nào được nữa?
Muốn mau thoát nỗi khổ luân hồi thì không có chi bằng pháp Trì Danh Niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc. Muốn quyết định sanh về thế giới Cực Lạc thì lại không có chi bằng lấy Tín để dẫn đường, dùng Nguyện để thúc đẩy.
Tin quả quyết, nguyện khẩn thiết thì dù tán tâm niệm Phật cũng chắc chắn được vãng sanh. Tin chẳng chơn thật, nguyện chẳng mạnh mẽ thì dù có nhất tâm bất loạn cũng chẳng được vãng sanh!
a. Thế nào là Tín?
- Một là tin vào nguyện lực của Phật A Di Ðà.
- Hai là tin lời dạy của Phật Thích Ca Văn.
- Ba là tin lời khen ngợi của sáu phương chư Phật.
Nếu chẳng tin nổi những điều ấy thì thật chẳng còn cách nào cứu nổi. Vì thế, trước hết phải sanh lòng tin sâu xa, chớ khởi nghi hoặc.
b. Thế nào là Nguyện?
Trong mọi lúc đều nhàm chán nỗi khổ sanh tử cõi Sa Bà, hoan hỷ ngưỡng mộ niềm vui Bồ Ðề chốn Cực Lạc. Hễ làm việc gì hoặc thiện hoặc ác; nếu thiện thì hồi hướng cầu vãng sanh, còn ác thì sám nguyện cầu vãng sanh, không còn chí nào khác. Ðấy gọi là Nguyện.
c. Tín Nguyện cùng đủ rồi thì lấy niệm Phật làm Chánh Hạnh, lấy cải ác tu thiện làm Trợ Hạnh. Tùy theo công sức cạn hay sâu sẽ chia thành chín phẩm, bốn cõi Tịnh Ðộ, chẳng sai sót mảy may! Chỉ nên tự mình suy xét lấy, chẳng cần phải hỏi người khác nữa! Nghĩa là:
Tin sâu, nguyện thiết niệm Phật mà lúc niệm Phật tâm hay tán loạn thì sẽ đạt hạ phẩm hạ sanh.
Tán loạn giảm thiểu thì là hạ phẩm trung sanh.
Không còn tán loạn sẽ là hạ phẩm thượng sanh.
Niệm đến mức Sự Nhất Tâm Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si thì thuộc về ba phẩm trung sanh.
Niệm đến mức Sự Nhất Tâm Bất Loạn, trong ba thứ kiến hoặc, tư hoặc và trần sa hoặc, tùy ý đoạn trước một thứ và cũng đoạn trừ được vô minh thì sẽ sanh trong ba phẩm thượng sanh.
Vì vậy, tín nguyện trì danh niệm Phật sẽ thuộc trong chín phẩm là điều đích xác chẳng sai!
Thêm nữa, tín nguyện trì danh: tiêu trừ nghiệp chướng, mang theo hoặc chướng đi vãng sanh chính là Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ.
Ðoạn sạch kiến hoặc và tư hoặc mà vãng sanh thì chính là Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ.
Phá nát một phần vô minh mà vãng sanh thì chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ.

Trì đến mức rốt ráo, đoạn sạch vô minh rồi vãng sanh thì chính là Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.
Vì thế, Trì Danh có thể đạt đến bốn cõi Tịnh Ðộ cũng là chuyện đích xác chẳng sai lầm!

Hỏi: Trì danh như thế nào để có thể đoạn được vô minh?
Ðáp: Ðối với danh hiệu của đức Phật được trì, chẳng cần biết là ngộ hay chưa, không gì chẳng phải là nhất cảnh tam đế. Cái tâm trì niệm chẳng cần biết là đã đạt hay chưa, không gì chẳng phải là nhất tâm tam quán. (3)
Chỉ vì chúng sanh vọng tưởng chấp trước, tình kiến phân biệt nên mới chẳng khế hợp nổi Viên Thường; họ nào biết Năng Trì (tâm trì niệm danh hiệu Phật) chính là Thỉ Giác, Sở Trì (đức Phật được ta trì niệm) chính Bổn Giác.
Nay cứ thẳng một bề trì niệm, ngoài việc trì niệm nào có đức Phật, ngoài đức Phật nào có trì niệm, Năng lẫn Sở bất nhị thì Thỉ Giác khế hợp Bổn Giác, gọi là Cứu Cánh Giác.
Pháp môn Niệm Phật chẳng có gì là kỳ đặc, chỉ quý ở chỗ tin tới nơi, giữ cho ổn, cứ thẳng một đường mà niệm, hoặc là ngày đêm niệm mười vạn tiếng, hoặc năm vạn, ba vạn, lấy con số nhất định chẳng khuyết làm chuẩn.
Trong suốt một ngày, niệm ra tiếng đến tàn một cây hương, rồi niệm thầm đến tàn một cây hương. Cứ xoay vần không gián đoạn [như thế], lấy Nhất Tâm Bất Loạn làm hạn. Suốt cả đời này thề không biến cải. Nếu chẳng được vãng sanh thì tam thế chư Phật đều nói dối. Một khi đã được vãng sanh sẽ vĩnh viễn không bị thối chuyển, các thứ pháp môn đều được hiện tiền.
Kỵ nhất là hôm nay Trương Tam, ngày mai Lý Tứ, gặp người tu theo Giáo môn liền toan tầm chương trích cú. Gặp kẻ tu Thiền bèn nghĩ chuyện tư duy, tham cứu, vấn đáp. Gặp người trì Luật lại nghĩ chuyện đắp y, trì bát.
Ðấy chính là kẻ chẳng rõ đầu mối, chẳng tỏ lớp lang, chẳng hề biết rằng niệm A Di Ðà Phật đến mức thuần thục thì giáo lý tối cực thuộc mười hai bộ của Tam Tạng đều nằm gọn trong ấy, một ngàn bảy trăm công án là cơ quan để hướng thượng cũng nằm gọn trong ấy, ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ luật nghi cũng nằm gọn trong ấy.

Có thể thật sự niệm Phật, chẳng khởi tham, sân, si nữa thì đó chính là Ðại Trì Giới. Chẳng phân biệt ta-người, đúng-sai chính là Ðại Nhẫn Nhục. Chẳng chút gián đoạn, lai tạp chính là Ðại Tinh Tấn. Chẳng còn rong ruổi theo vọng tưởng chính là Ðại Thiền Ðịnh. Chẳng bị các thứ ngoắt ngoéo mê hoặc chính là Ðại Trí Huệ.
Hãy thử tự kiểm điểm: Nếu thân, tâm, thế giới còn chưa buông xuống được, tham, sân, si còn tự phát khởi, thị-phi nhân-ngã còn ôm giữ; gián đoạn, xen tạp còn chưa trừ sạch, vọng tưởng rong ruổi còn chưa vĩnh viễn diệt hết, các thứ ngoắt ngoéo khác vẫn còn mê hoặc được ý chí thì chẳng phải là chơn thật niệm Phật.
Muốn đạt đến cảnh giới Nhất Tâm Bất Loạn thì biện pháp ban đầu là dùng xâu chuỗi để ghi nhớ phân minh, khắc định thời khóa quyết định chẳng thiếu. Lâu ngày thuần thục chẳng niệm mà tự niệm thì sau đấy nhớ số cũng được, chẳng nhớ số cũng xong.
Nếu là kẻ sơ tâm mà lại thích bàn chuyện khán thoại đầu, muốn chẳng chấp tướng, muốn học viên dung tự tại thì toàn là kẻ tin chẳng sâu, hành chẳng tận sức, dẫu có giảng được mười hai phần kinh giáo, hiểu nổi một ngàn bảy trăm chuyển ngữ (công án Thiền) thì cũng đều là chuyện thuộc về sanh tử, lúc lâm chung cũng nhất định vô dụng mà thôi!
 Nhận định:
Tổ đã minh thị: Tín Nguyện Trì Danh sẽ đạt đến cửu phẩm và bốn cõi Tịnh Ðộ. Nếu như Tín chẳng chơn thật, Nguyện chẳng mạnh mẽ thì dù Nhất Tâm Bất Loạn cũng chẳng được vãng sanh.
Lời dạy này thật là thiết yếu; hãy nên tín sâu, nguyện thiết để thẳng đường mà niệm. Niệm đến mức rốt ráo thì vô minh đoạn sạch sẽ vãng sanh về cõi Thường Tịch Quang.


--------------------


Nếu bảo không cần hiểu nghĩa lý trong kinh chỉ một lòng thành tâm niệm Phật mà có thể thành tựu, vậy thì tôi vẫn phải giảng kinh thuyết pháp nữa để làm gì?
Sở dĩ tôi vẫn phải mỗi ngày thuyết giảng không ngừng, đem những lời hay ý đẹp của đức Thế Tôn ra nói là mong quý vị hiểu, mong quý vị giác ngộ. Bởi quý vị đây không đủ phước báu suốt ngày vọng tưởng, suy nghĩ lung tung. Vậy thì ai là người có đủ phước báu? Là những người thật thà, chất phác, suốt ngày chỉ ôm giữ một câu A Di Đà Phật, việc gì cũng không nghĩ tưởng. Do đó, công phu niệm Phật của quý vị khi đã đến mức không còn mảy may vọng niệm, chỉ còn một câu A Di Đà Phật, thì lúc đó Tam tạng mười hai bộ Kinh điển, mà Thế Tôn suốt 49 năm thuyết pháp đều là dư thừa. Quý vị cũng không cần đến nghe tôi giảng giải nữa.
Cho nên Phật độ chúng sanh, có hai hạng người dễ độ nhất.
Một là những người thượng căn lợi trí, vừa nghe qua liền thông đạt, liễu ngộ, dứt sạch vọng niệm.
Hai là những người thật thà ngu dốt, họ không cần tìm hiểu nhiều, bảo họ niệm Phật là họ cứ ngoan ngoãn, thật tình chấp trì, không nghỉ tưởng điều gì ngoài niệm Phật.
Thứ ba là những người lưng chừng thích " khiên vác" ôm đồm, tìm hiểu suy nghĩ lung tung. Quý vị biết không, chúng ta thuộc loại người thứ ba này đó, loại người nhiều rắc rối. Cho nên đức Thế Tôn suốt 49 năm khó nhọc, mỗi ngày không ngừng nói pháp cũng vì những người nhiều rắc rối như chúng ta. Ngài phải đem pháp ly ác giảng nói tỉ mỉ ra cho chúng ta.
Mong rằng sau khi quý vị đã hiểu rõ rồi thì phải biết buông xả, không có vọng niệm là người có đại phước báu, tuyệt đối không phải có nhiều tiền tài, có địa vị cao, người có địa vị, tiền tài tuy được hưởng thụ đời sống vật chất, hưởng độ vài ba năm, sau khi chết rồi sẽ ra sao? Tam đồ, lục đạo phải chịu luân hồi, như thế có phải là phước đâu?
Nếu tâm không chút vọng tưởng, suốt ngày chỉ câu A Di Đà Phật, người này chỉ vài năm sau là đã thành Phật được rồi. Hiểu được như thế, quý vị mới biết công đức niệm Phật thật vô cùng thù thắng, không gì sánh bằng. Đức Thế Tôn sở dĩ phải bày ra phương tiện nói ba thừa, chỉ vì muốn dẫn độ chúng sanh mà thôi. Mục đích duy nhất của Ngài là mong chúng ta một đời có thể thành Phật.
Có người hoài nghi rằng:" tôi rất ngu si, chậm hiểu, nghiệp chướng lại sâu dày, có thể thành Phật được không?" Trong Kinh điển Phật thường nói:" chỉ cần một câu danh hiệu Phật, có thể tiêu trừ 80 ức kiếp sanh tử tội nặng" quý vị thử nghĩ xem, suốt ngày một đêm ở Niệm Phật đường, quý vị đã niệm được rất nhiều tiếng. Vậy thì tính xem, tội chướng của quý vị đã tiêu trừ bao nhiêu rồi. Điều này chắc thật không sai, vì lời Phật nói không hề hư dối, chắn chắn có hiệu quả tốt, không thể nghĩ bàn.
Thế nhưng, vì sao nhiều người niệm Phật suốt ngày đêm mà nghiệp chướng vẫn còn đầy? Bởi vì nghiệp chướng của người này quá nhiều. Do đó công đức niệm Phật của một ngày đêm dù là giúp họ tiêu trừ đi rất nhiều mà vẫn chưa dứt sạch. Cho nên cần phải mỗi ngày đến niệm Phật, mỗi ngày giảm bớt thêm nghiệp chướng.
Phật dạy chúng ta rằng: năng lực quan trọng nhất để giải trừ nghiệp chướng trong lúc niệm Phật là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Với ba yếu tố này năng lực của không xen tạp mạnh nhất, nếu quý vị giữ được liên tục không gián đoạn trong ba năm, cho dù nghiệp chướng sâu dày bao nhiêu của vô lượng kiếp đều có thể giải trừ hết. Làm sao để biết được không còn nghiệp chướng? Hãy nhìn lúc quý vị vãng sanh, có thể ra đi bằng cách ngồi hoặc đứng rất tự tại. Sau khi sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc, không phải trụ ở cảnh giới phàm thánh đồng cư, cũng không phải trụ ở Tứ độ Vãng sanh mà dự vào hàng Thượng Phẩm vãng sanh.
Câu danh hiệu Phật giải trừ nghiệp chướng thật là bất khả tư nghì. Cho nên Ngài Từ Vân Quán Đảnh Pháp Sư trong lời chú giải của bộ Kinh Vô Lượng Thọ nói:" Chúng sanh nào từ vô lượng kiếp tạo tội, tạo nghiệp cực ác, cực sâu dày. Bao nhiêu Kinh luận, tất cả các sám pháp đều không thể sám trừ được". Cuối cùng vẫn còn một phương pháp có thể cứu vãn, đó là phương pháp niệm Phật. Do đó, cho thấy công đức niệm Phật thật là to lớn, thù thắng vô cùng.

Kính thỉnh đại chúng cung kính lập lại lời phát nguyện :
Đệ tử chúng con, nguyện không tham luyến thế gian, một lòng chí thành, trì danh hiệu Phật, nguyện Ngài tiếp dẫn, chúng con và chúng sinh, đồng sanh Tây Phương, thoát khổ ba đường, viên tròn Phật qủa, trở lại Sa Bà, hóa độ chúng sinh.
Kính thỉnh Sư phụ, chư tôn đức tăng ni cùng đại chúng niệm : Nam Mô A Di Đà Phật 3 lần .
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: Cẩm Nang Tu Học Qua Những Lời Khai Thị

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 8 06, 2013 10:35 am

Khai Thị Niệm Phật Của Long Thọ Bồ Tát

Long Thọ Đại Sĩ, tiếng Phạn gọi là Nagarjuna, người dòng Phạm chí, ứng thế ở xứ Nam Thiên Trúc, sau Phật diệt độ bảy trăm năm. Tương truyền ngài sanh dưới cây A Châu Đà Na, cây này có năm trăm vị Long thần ở, lại nhờ Long Vương Bồ Tát mà thành đạo, nên lấy hiệu là Long Thọ.
Trong quyển Tam Bảo Cảm Ứng Lục có trích dẫn: “Theo kinh Kim Cang Chánh Trí, thì thời qúa khứ, ngài Mã Minh đã thành Phật, hiệu là Đại Quang Minh Như Lai. Ngài Long Thọ hiệu là Diệu Vân Tướng Như Lai. Lại theo kinh Đại Trang Nghiêm Tam Muội, ngài Mã Minh là vị cổ Phật hiệu Nhật Nguyệt Tinh Minh. Ngài Long Thọ là Diệu Vân Tự Tại Vương Phật”. Truyện Phú Pháp Tạng cũng nói về ngài như sau: “Bản vị nguyên là Phật Diệu Vân, Ứng tích ở ngôi Hoan Hỷ Địa”. Truyền ký về ngài có nhiều điểm thần kỳ, như việc mở thiết tháp ở Nam Thiên Trúc học về Mật giáo; được Đại Long Bồ Tát đem vào hải cung đọc kinh Hoa Nghiêm và các kinh điển Đại Thừa. Vì thế, ngài một thân mà kiêm làm Tổ sư của tám tông phái Phật Giáo.
Sau khi đắc pháp với Tôn Giả Ca Tỳ Ma La, làm vị Tổ thứ bốn bên Thiền tông. Long Thọ Đại Sĩ đi hoằng hóa các nơi mà có trứ thuật nhiều bộ luận. Trong luận Tỳ Bà Sa của ngài viết có đoạn khen ngợi về Tịnh Độ như sau:
Nếu người muốn thành Phật
Xưng niệm A Di Đà
Ứng thời vì hiện thân
Nên nay con quy mạng.
Do sức nguyện Phật kia
Mười phương chư Bồ Tát
Đến nghe pháp cúng dường
Nên con cúi đầu lễ.
Các Bồ Tát cõi ấy
Đầy đủ những tướng hảo.
Thân đẹp tự trang nghiêm
Nên con lạy quy y.
Chư Bồ Tát Cực lạc
Mỗi ngày trong ba thời
Cúng dường Phật mười phương
Nên con cúi đầy lạy.
Nếu người trồng căn lành
Nghi thì hoa không nở
Kẻ lòng tin thanh tịnh
Hoa nở được thấy Phật.
Hiện tại Phật mười phương
Dùng các thứ nhân duyên
Khen công đức Di Đà
Nên con quy mạng lễ.
Cõi Cực Lạc nghiêm đẹp
Mầu nhiệm hơn thiên cung
Công đức rất sâu dầy
Nên con lễ chân Phật.
Ngài lại tạo bộ luận Đại Trí Độ, trong đoạn khai thị về pháp môn Tịnh độ có dạy:” Niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và những tội đời trước. Các pháp tam muội khác, có môn trừ được nghiệp dâm, không thể trừ được nghiệp sân, có môn trừ được nghiệp sân, không thể trừ nghiệp dâm. Có môn trừ được ba độc, tham, sân, si, không thể trừ các tội đời trước. Môn Niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và các thứ tội chướng. Lại nữa, Niệm Phật tam muội có phước đức lớn, hay độ chúng sanh. Chư Bồ Tát muốn mau diệt tội chướng, được nhiều phước đức, sớm độ chúng sanh, không chi hơn tu môn Niệm Phật tam muội.
Hỏi: Bồ tát phải thường ở cõi trần lao để giáo hóa chúng sanh, sao lại nguyện sanh về Tịnh Độ?
Đáp: Nếu chưa vào Vô sanh nhẫn của Bồ Tát vị, chưa được thọ ký, chưa đến ngôi Bất Thối chuyển, mà xa lìa chư Phật, tất sẽ chìm trong biển phiền não, hư mất hết các căn lành! Như thế, đã không thể độ mình, làm sao độ chúng sanh được? Ví như, kẻ dùng chiếc thuyền không bền chắc để đưa người, khi gặp sóng to gió lớn, tất thuyền sẽ bị hư rã, mình và người đều chết đắm. Lại như người đem ấm nước sôi đổ vào ao băng tuyết, muốn cho ao băng tuyết tiêu tan, ban sơ chỉ tan được chút ít , kết cuộc chính nước sôi ấy sẽ trở thành băng tuyết. Bồ tát chưa vào Vô sanh pháp vị mà xa lìa chư Phật cũng lại như thế! Nếu Bồ Tát chưa đủ nhẫn lực, chưa đủ phương tiện, muốn dùng chút ít công đức để ra hóa độ chúng sanh, sự lợi ích tuy có đôi phần, nhưng trái lại chính mình sẽ bị đọa lạc.
Lại nữa, nếu bồ Tát mắt thường thấy sắc tướng của Phật, tai thường nghe âm thanh Phật nói, thì tâm sẽ được thanh tịnh, được pháp lạc, được trí huệ lớn, kế đó y theo lời dạy tu hành, tất sẽ mau giải thoát. Gặp Phật được vô lượng sự lợi ích như thế, tại sao không nhất tâm cầu về cõi Phật? Như trẻ thơ không nên rời mẹ, người đi xa không rời lương thực, lúc nóng bức không rời gió nước trong mát, tiết nghiêm hàn không rời sưởi ấm, sang sông không rời thuyền câu, đau bệnh không rời thuốc hay; Bồ Tát không rời chư Phật còn qúa hơn các việc như trên. Tại sao thế? Bởi dù là cha mẹ, hàng thân thuộc, bậc thiện tri thức, ngôi vua chúa, hay các đấng thiên vương cũng không thể làm lợi ích cho chúng sanh bằng Phật. Chư Phật có đủ năng lực đưa loài hữu tình lìa các cảnh khổ, lần lần tiến lên ngôi vị Thế Tôn….
Hỏi: Làm thế nào để thường được gần gũi chư Phật?
Đáp: Chúng sanh luân hồi từ vô thỉ kiếp, tạo vô lượng tội chướng nhân duyên. Cho nên, dù có tu phước đức, trí tuệ vẫn kém ít, dù có tu trí huệ, phước đức cũng không được bao nhiêu. Bồ tát khi cầu Phật đạo, cần phải thực hành sanh nhẫn và pháp nhẫn. Do thực hành sanh nhẫn, đối với tất cả chúng sanh phát tâm từ bi hỷ xả, nên diệt được tội chướng trong vô lượng kiếp, sanh vô lượng phước đức căn lành. Do thực hành pháp nhẫn, nên phá hết các vô minh về pháp chấp, sanh vô lượng trí tuệ. Nếu hai hạnh ấy được hòa hiệp, thì đời đời không xa rời chư Phật.
Lại một hạnh: Ví như chúng sanh tâm dục nặng; thì đọa làm thân dâm điểu; tâm sân nặng thì thọ sanh trong loài độc trùng. Nếu kẻ nào thường niệm Phật, ưa thích cõi Phật, không tham phước báu cõi nhân thiên, tất sẽ tùy tâm mến trọng của mình, quyết được sanh về Tịnh độ, thường gần gũi chư Phật….”
Về sau, ngài Long Thọ phú pháp cho Tôn Giả Ca Na Đề Bà, rồi nhập định như con ve bỏ xác mà hóa.
Trong kinh Lăng Già, về ngài Long Thọ, đức Phật đã có lời huyền ký với Đại Huệ Bồ Tát rằng:
Đại Huệ ông nên biết
Chứng sơ Hoan hỷ địa
Đời vị lai sẽ có
Sau khi ta nhập niết bàn
Tôn hiệu là Long Thọ
Tỳ kheo danh đức lớn
Duy trì pháp của ta
Nước Nam Thiên Trúc
Trong thế gian hiển ngã
Phá các tông Hữu, Vô.
Như thế, ngài Long Thọ ứng tích là bậc Sơ Địa Bồ Tát Bi Trí rộng sâu, một thân làm Tổ Sư của tám tông, mà vẫn phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 6798
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am


Quay về Tâm Linh / Tôn Giáo

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến12 khách

cron