QUÁN CHIẾU VỀ SỰ TỰ DO THẬT SỰ

QUÁN CHIẾU VỀ SỰ TỰ DO THẬT SỰ

Gửi bàigửi bởi Thiện Quang » Thứ 6 Tháng 8 31, 2012 12:54 am

Ở đây, một cách tổng quát thì “tự do” có nghĩa có cơ hội để thực hành Pháp và không bị sanh và một trong tám trạng thái không có cơ hội đó. “Thiếu tự do” ám chỉ tám trạng thái ở đó không có cơ hội như thế:

Sinh ra trong các địa ngục, trong cõi ngạ quỷ, thú vật, một vị trời trường thọ hay một người man rợ,Có quan điểm sai lạc (tà kiến), sinh ở nơi không có Phật hay sinh ra bị câm và điếc; đây là tám trạng thái không có tự do.

Chúng sanh bị tái sinh trong địa ngục không có cơ hội để thực hành Pháp vì họ thường xuyên bị hành hạ bởi sự nóng hay lạnh dữ dội.
Các preta (ngạ quỷ) không có cơ hội thực hành Pháp do bởi nỗi đau khổ họ phải chịu đựng từ sự đói khát.
Các súc sinh không có cơ hội thực hành Pháp bởi chúng phải trải qua sự nô lệ và chịu đựng những cuộc tấn công của những thú vật khác.
Các vị trời trường thọ không có cơ hội thực hành Pháp bởi họ tiêu phí thời giờ của mình trong một trạng thái tâm thức trống không.
Những người sinh ra ở các nơi biên địa không có cơ hội thực hành Pháp bởi giáo lý của Đức Phật không được biết tới ở những nơi như vậy.
Những người sinh ra làm các tirthika* hoặc những người có các tà kiến tương tự không có cơ hội thực hành Pháp vì tâm thức họ bị ảnh hưỡng quá nhiều bởi những tin tưởng sai lầm đó.
Những người sinh ra trong một thời kiếp tối tăm không có cơ hội thực hành Pháp vì họ chưa từng được nghe đến Tam Bảo, và không thể phân biệt được tốt, xấu.
Những người sinh ra bị câm hay khiếm khuyết về tinh thần không có cơ hội thực hành Pháp vì các khả năng của họ không đầy đủ.
Những cư dân trong ba cõi thấp phải chịu đựng liên tục sự nóng, lạnh, đói, khát và những đau khổ khác, là kết quả của những hành động bất thiện trong quá khứ của họ; họ không có cơ hội để thực hành Pháp.
Những “người man rợ” là những người sống ở ba mươi hai biên địa như Lo Khatha, và tất cả những ai coi việc làm tổn hại người khác là một hành vi của niềm tin hoặc những người có niềm tin hoang dã coi việc sát sinh là tốt đẹp. Những người này sống ở những nơi xa xôi hảo lánh có được thân người nhưng tâm trí họ thiếu sự định hướng đúng đắn và bản thân họ không thể hoà hợp với Pháp. Thừa kế từ tổ tiên họ những phong tục đồi bại như cưới mẹ của mình, họ sống thật sự đối nghịch với sự thực hành Pháp. Mọi sự họ làm điều xấu ác, và chính trong các kỹ thuật của những ác hạnh như giết côn trùng và săn bắt thú hoang của họ như thế thì họ thật sự vượt trội. Nhiều người trong số họ sinh vào những cõi thấp ngay khi họ chết. Đối với loại người như thế thì không có cơ hội để thực hành Pháp.
Các vị trời trường thọ là những vị miệt mài trong một trạng thái tâm thức trống không. Chúng sinh bị sinh vào cõi này là một kết quả của việc tin rằng giải thoát là một trạng thái trong đó tất cả những hoạt động tâm thức, dù thiện hay ác, đều vắng bặt, và của việc thiền định về trạng thái đó. Họ ở yên trong trạng thái thiền định như vậy liên tục trong nhiều đại kiếp. Nhưng một khi kết quả của những hành vi trong quá khứ đã tạo ra điều kiện đó chính nó bị tiêu hao, họ bị tái sanh vào những cõi thấp vì những tà kiến của họ. Những người này cũng không có bất kỳ cơ hội nào để thực hành Pháp.
Nói chung, thuật ngữ “các tà kiến” bao gồm những niềm tin vào sự vĩnh cữu và hư vô, là những quan niệm ở bên ngoài và đối nghịch với giáo lý của Đức Phật. Những quan niệm như vậy làm hư hỏng tâm thức và ngăn trở chúng ta trong việc khao khát Giáo Pháp chân chính, tới nỗi chúng ta không còn cơ hội nào nữa để thực hành Pháp. Ở đây nơi xứ Tây Tạng, bởi Đức Phật thứ hai, Đức Padmasambhava xứ Oddiyana, đã giao phó việc bảo vệ xứ sở cho mười hai Tenma, nên bả thân những tirthika thực sự không thể xâm nhập. Tuy nhiên, bất kỳ những ai mà sự hiểu biết giống như những hiểu biết của các Tirthika và mâu thuẫn với sự hiểu biết của Chánh Pháp và những vị Thầy chân chính, vì lý do đó sẽ bị tước mất cơ hội thực hành theo những giáo lý chân chính đó. Tu sĩ Sunaksatra trải qua hai mươi lăm năm làm thị giả của Đức Phật, nhưng vì khô g có chút đức tin nào và chỉ ôm giữ những tà kiến, nên cuối đời bị tái sinh làm một ngạ quỷ trong một vườn hoa.
Sinh trong một thời kiếp tối tăm có nghĩa là bị tái sanh vào một thời đại không có Phật. Trong một vũ trụ không có Phật xuất hiện, thậm chí chưa ai từng được nghe đến Tam Bảo. Bởi không có Pháp, nên không có cơ hội để thực hành nó.
Tâm thức của người câm điếc không thể hoạt động đúng đắn và tiến trình lắng nghe giáo lý, trình bày, quán chiếu về chúng, và đưa chúng vào thực hành bị trở ngại. Sự mô tả “ câm, điếc” thường để ám chỉ một khả năng nói năng khác thường. Khi khả năng thông thường của con người để sử dụng và hiểu biết ngôn ngữ bị thiếu vắng thì người ta bị rơi vào tình trạng không có cơ hội cho Pháp. Thế nên, phạm trù này cũng bao gồm những người mà năng lực tinh thần yếu kém khiến họ không thể thấu hiểu các giáo lý và vì vậy họ bị tước mất cơ hội thực hành chúng.

Quán chiếu về những thuận lợi đặc biệt liên quan đến Pháp:

NĂM THUẬN LỢI CÁ NHÂN:
Ngài Long Thọ liệt kê chúng như sau:

Sinh ra là một người, ở nơi trung tâm, đầy đủ các khả năng,
Cuộc sống không xung đột, và có niềm tin vào Giáo Pháp

Không có một đời người thì thậm chí không gặp được Giáo Pháp. Vì vậy thân người này là sự thuận lợi trợ giúp.
Nếu bạn bị sinh ra ở nơi hoang vu nơi Pháp chưa từng được nghe tới, bạn sẽ chẳng bao giờ gặp được Pháp. Nhưng vùng mà bạn sinh ra ở nơi trung tâm là nơi Giáo Pháp được quan tâm và vì thế bạn có thuận lợi về nơi chốn.
Nếu bạn không có đầy đủ các năng lực giác quan thì đó sẽ là một chướng ngại cho việc thực hành Pháp. Nếu bạn có đầy đủ, bạn có thuận lợi sở hữu các năng lực giác quan.
Nếu bạn có một lối sống đầy xung đột, bạn luôn đắm chìm vào những hành động tiêu cực và mâu thuẫn với Pháp. Bởi giờ đây bạn mong muốn làm các thiện hạnh, nên đây là sự thuận lợi về ý định.
Nếu không tin vào giáo lý của Đức Phật, bạn sẽ cảm thấy không có bất kỳ thiên hướng nào về Pháp. Việc bạn có khả năng xoay chuyển tâm thức về Pháp như giờ đây bạn đang làm, tạo nên sự thuận lợi về niềm tin.
Bởi năm thuận lợi này cần thiết để hoàn thiện bản chất của riêng ta nên chúng được gọi là năm sự thuận lợi cá nhân.
Để thực hành Giáo Pháp đích thực, chân xác, thì điều tuyệt đối cần thiết là phải là một con người. Giả dụ bạn không có sự trợ giúp của một thân người, mà có hình tướng cao cấp nhất của đời sống trong ba cõi thấp, là hình tướng của một con thú – ngay cả con vật đẹp đẽ nhất và được đánh giá cao mà con người biết được. Nếu có ai đó nói với bạn: “Hãy nói một lần câu Om mani padme hum, và bạn sẽ thành Phật,” bạn sẽ hoàn toàn không thể hiểu được lời họ nói hay nắm được ý nghĩa của nó và bạn cũng không thể thốt ra được một lời. Trong thực tế, cho dù bạn đang chết vì lạnh, bạn sẽ chẳng nghĩ ra điều gì để làm mà chỉ nằm một đống – trong khi với một người, cho dù họ có yếu ớt tới đâu chăng nữa họ cũng biết cách trú ẩn trong một hang động hay dưới một gốc cây, và có thể nhặt củi và đốt ngọn lửa để sưởi ấm mặt và tay. Nếu loài vật kh6ng thể làm ngay cả những việc đơn giản như vậy, thì làm sao chúng có thể hình dung được việc thực hành Pháp?
Chư Thiên và chúng sinh đại loại như vậy, mặc dù họ có hình tướng siêu việt hơn, nhưng lại không đáp ứng được yêu cầu được đặt ra để thọ các giới nguyện Pratimoksha (Biệt giải thoát giới), do đó không thể hấp thu Giáo Pháp trong toàn bộ của nó.
Đối với điều mà một “vùng trung tâm” muốn truyền đạt, ta nên phân biệt giữa một vùng trung tâm có tính chất địa lý và một nơi là trung tâm trong phạm vi Giáo Pháp.
Nói về mặt địa lý, vùng trung tâm thường được nói là Toà Kim Cương tại Bồ Đề Đạo Tràng ở Ấn Độ, tại trung tâm của Jambuvipa - Lục địa Phương Nam (Nam Thiệm Bộ Châu). Hàng ngàn vị Phật trong thời Hiền Kiếp đã hoàn toàn giác ngộ ở đây. Thậm chí trong sự huỷ hoại của vũ trụ vào cuối thời kiếp, bốn nguyên tố (tứ đại) cũng không thể huỷ hoại nó, và nó tồn tại ở đó như thể được treo trong không gian. Ở trung tâm của nó mọc lên Cây Giác Ngộ (Cây Bồ Đề). Do đó, vị trí này với tất cả những thành phố của Ấn Độ ở chung quanh, được coi là vùng trung tâm về mặt địa lý.
Trong phạm vi Giáo Pháp, một vị trí trung tâm là bất cứ nơi nào mà Pháp – giáo lý của Đức Phật - hiện hữu. Tất cả những vùng khác được gọi là vùng ngoại vi.
Trong quá khứ xa xôi, từ thời Đức Phật đến với thế gian này, và chừng nào mà giáo lý của Ngài vẫn còn hiện hữu ở Ấn Độ, thì xứ đó là trung tâm về cả hai mặt địa lý và Giáo Pháp. Tuy nhiên, giờ đây là lúc nó đã rơi vào tay những tirthika và Pháp của Đấng Chiến Thắng đã biến mất ở xứ sở đó, nếu xét ở việc Pháp được quan tâm ra sao thì ngay cả Bồ Đề Đạo Tràng cũng được coi là một nơi ngoại vi.
Ở thời Đức Phật, Tây Tạng, Xứ Tuyết, được gọi là “Xứ Tây Tạng biên địa,” bởi nó là một xứ thưa dân mà Giáo Pháp chưa được truyền bá. Sau này dân số tăng dần và một vài vị vua trị vì là những hoá thân của chư Phật. Trước tiên, Giáo Pháp xuất hiện ở Tây Tạng trong triều đại vua LhaThothori Nyentse, khi Kinh Một Trăm Lời Khẩn Nguyện và Lễ Lạy, một khuôn tsa-tsa và những vật khác rơi xuống mái cung điện.
Năm thế hệ sau, Vị Vua Pháp Songtsen Gampo, một hoá thân của Đấng Đại Bi Siêu Phàm,* xuất hiện phù hợp với những tiên tri rằng Ngài sẽ thông suốt yếu nghĩa của Kinh văn (Sutra). Trong triều đại của Ngài, dịch giả Thonmi Sambhota được gởi tới Ấn Độ để học ngôn ngữ và văn tự Ấn Độ. Khi trở về, Ngài giới thiệu bản mẫu tự đầu tiên cho Tây Tạng. Ngài phiên dịch sang tiếng Tây Tạng hai mươi mốt bản Kinh và các Tantra Đức Avalokiteshvara, Điều Ẩn Mật Mãnh Liệt, và nhiều loại bản văn khác. Bản thân Đức vua phô diễn nhiều thân tướng, và cùng với thừa tướng Gartongtse, Ngài sử dụng nhiều phương tiện kỳ diệu để bảo vệ đất nước. Ngài tấn phong hoàng hậu cho hai công chúa, một của Trung Quốc và một của Nepal, hai vị này đã mang theo nhiều biểu tượng của thân, khẩu, ý của Đức Phật bao gồm các pho tượng được gọi là Jowo Mikyo Dorje và Jowo Sakyamuni, là những biểu tượng thật sự của Đức Phật.[26] Nhà vua xây dựng một loạt điện thờ được gọi là Thadul và yangdul, trong đó điện chính là Rasa Trulnang. Ngài đã thiết lập Phật Giáo ở Tây Tạng theo cách này.
Vị kế nghiệp thứ năm của Ngài là Vua Trisong Detsen đã mời thỉnh một trăm lẻ tám vị học giả đến Tây Tạng, kể cả Đức Liên Hoa Sanh, Đạo Sư xứ Oddiyana, bật trì giữ mantra vô song, vĩ đại nhất khắp tam giới. Để giữ gìn những biểu tượng của thân tướng chư Phật, vua Trisong Detsen đã xây dựng chùa chiền gồm tu viện Samye “sự hiển lộ tự nhiên bất biến”. Để duy trì ngữ của chư Phật (Giáo Pháp chân chính), một trăm lẻ tám dịch giả gồm cả Ngài Vairotsana vĩ đại, đã học nghệ thuật phiên dịch và đã dịch tất cả các Kinh, Luận, Tantra chính mà sau đó được thông dụng ở xứ Ấn Độ cao quý. “Bảy Người Thể Nghiệm” và những người khác đã thọ giới làm những vị tu sĩ, tạo thành Tăng Đoàn để giữ gìn tâm của chư Phật.
Từ lúc đó cho đến nay, giáo lý của Đức Phật toả sáng như mặt trời ở Tây Tạng và mặc dù có lúc thinh lúc suy, Giáo Pháp của Đấng Chiến Thắng chưa từng bi mai một trong các lãnh vực, dù là truyền dạy, hay chứng ngộ của nó. Do đó, xét ở mặt tại xứ Tây Tạng Giáo Pháp được quan tâm, cho nên Tây Tạng là một xứ trung tâm.
Một người thiếu bất kỳ cái nào trong năm năng lực của giác quan đều không thể đáp ứng các yêu cầu được đưa ra để thọ giới nguyện của tu viện. Ngoài ra, những ai không may mắn để có thể được nhìn thấy những biểu tượng của Đấng Chiến Thắng nhằm khơi dậy lòng sùng mộ của họ, hoặc để đọc hay nghe những giáo lý quý báu và tuyệt hảo như những chất liệu cần thiết cho việc nghiên cứu và quán chiếu, sẽ hoàn toàn không thể tiếp nhận Giáo Pháp.
Nói đúng ra, “kiểu sống xung đột” ám chỉ những cách sống của những người sinh ra trong cộng đồng các thợ săn, gái điếm và v.v…những người dính liếu vào những hành vi tiêu cực này từ tuổi thanh xuân. Nhưng trong thực tế cũng bao gồm bất kỳ những ai mà mỗi tư tưởng, lời nói và hành vi của họ trái nghịch với Pháp - thậm chí đối với những người không sinh vào những kiểu sống như vậy cũng có thể dễ dàng lọt vào những lối sống đó sau này. Vì thế, điều quan trọng là tránh làm bất cứ điều gì đối nghịch với Giáo Pháp chân chính.
Nếu bạn không đặt niềm tin nơi Phật Pháp mà lại tin vào các vị Trời, naga (Rồng) đầy năng lực và v.v…hay tin vào những học thuyết khác như giáo thuyết của các tirthika, thì vì thế, dù bạn có thể đặt niềm tin nơi họ nhiều tới đâu chăng nữa, không ai trong số họ có thể bảo vệ bạn thoáit khỏi những đau khổ trong luân hồi hoặt khỏi sự tái sinh vào những cõi thấp. Nhưng nếu bạn đã có được niềm tin đúng đắn hợp lý nơi giáo lý của Đấng Chiến Thắng, nó hợp nhất sự truyền dạy và chứng ngộ, thì không còn nghi ngờ gì nữa bạn là một bình chứa thích hợp cho Giáo Pháp chân chính. Và đó là điều vĩ đại nhất trong năm sự thuận lợi cá nhân.

NĂM THUẬN LỢI THUỘC HOÀN CẢNH:

Một vị Phật đã từng xuất hiện và thuyết giảng Giáo Pháp
Giáo lý của Ngài vẫn hiện hữu và có thể được tuân theo,
Đó là những bậc có thiện tâm đối với những người khác.

Những người không được sinh ra trong một thời kiếp chói sáng, là thời có một vị Phật xuất hiện, thậm chí không bao giờ được nghe nói tới Giáo Pháp. Nhưng giờ đây chúng ta đang sống trong một kiếp đã có một vị Phật xuất hiện, và vì vậy chúng ta sở hữu thuận lợi có sự hiện diện của vị thầy đặc biệt.
Mặc dù một vị Phật đã xuất hiện, nhưng nếu Ngài không giảng dạy thì sẽ chẳng có ai được lợi ích gì. Nhưng bởi Đức Phật đã chuyển Pháp Luân phù hợp với ba cấp độ nên chúng ta có sự thuận lợi của việc giảng dạy Giáo Pháp
Dù Ngài đã giảng dạy, nhưng nếu giáo lý của Ngài đã tàn lụi thì nó sẽ không còn hiện diện ở đó để giúp ích gì cho chúng ta. Nhưng bởi thời kỳ mà giáo lý còn tồn tại chưa chấm dứt, nhờ đó chúng ta có sự thuận lợi về thời gian.
Dù giáo lý còn tồn tại, nhưng trừ phi chúng ta tuân theo, còn không chúng chẳng thể đem lại lợi ích gì cho ta. Nhưng bởi chúng ta đã hiểu biết Giáo Pháp, nên ta có sự thuận lợi về vận may của riêng ta.
Dù chúng ta có hiểu biết Giáo Pháp nhưng nếu không có hoàn cảnh thuận lợi được một vị thầy tâm linh chấp nhận thì chúng ta sẽ không bao giờ biết được Giáo Pháp thật sự là gì. Nhưng bởi một vị thầy đã chấp nhận ta nên chúng ta có sự thuận lợi về lòng bi mẫn phi thường của Ngài.
Bởi năm yếu tố này cần được đầy đủ trọn vẹn về mặt hoàn cảnh hơn là chính chúng ta, nên chúng được gọi là năm thuận lợi thuộc hoàn cảnh. Thời gian để vũ trụ hình thành, hiện hữu, bị huỷ diệt và tồn tại trong một trạng thái của sự trống không (thành, trụ, hoại, không) được gọi là một kalpa. Một kalpa trong đó một vị Phật Toàn Giác xuất hiện trên thế gian được gọi là một “kiếp chói sáng;” trong khi thời kiếp không có một vị Phật xuất hiện được gọi là một “kiếp tối tăm.” Từ xa xưa, trong Đại Kiếp Hỷ Lạc Hiển Lộ có ba mươi ba ngàn vị Phật xuất hiện. Tiếp theo là một trăm kiếp (kalpa) tối tăm. Sau đó, trong Kiếp Viên Mãn, tám trăm triệu vị Phật đã xuất hiện, rồi lại tiếp theo là một trăm kiếp không có Giáo Pháp. Rồi tới tám trăm bốn mươi triệu vị Phật xuất hiện trong Kiếp Tối Hảo, sau đó là năm trăm kiếp tối tăm. Trong Kiếp Hỷ Kiến, tám trăm triệu vị Phật xuất hiện và sau đó là bảy trăm kiếp tối tăm. Sáu mươi tư ngàn vị Phật xuất hiện trong Hỉ Kiếp. Rồi tới kiếp của chính chúng ta, Hiền Kiếp.
Trước khi kiếp của chúng ta xuất hiện, vũ trụ gồm một tỳ thế giới này là một đại dương bao la mà trên bề mặt của nó xuất hiện một ngàn hoa sen ngàn-cánh. Khi tự hỏi làm thế nào điều này có thể xảy ra, nhờ sự thấu thị chư Thiên của Trời Phạm Thiên đã minh xác được điều này để tuyên bố rằng trong kiếp này một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện. Họ nói: “Đây sẽ là một kiếp tốt lành,” và “Hiền” (tốt lành) trở thành tên của nó.
Từ thời đại khi thọ mạng của chúng sinh là tám mươi ngàn năm và Đức Phật Người Tiêu Diệt Luân Hồi xuất hiện, và cho tới khi chúng sinh sẽ sống lâu không thể tính đếm và Đức Phật Ước Nguyện Vô Tận sẽ xuất hiện, một ngàn vị Phật sẽ an trụ trong thế gian này trên Toà Kim Cương tại trung tâm Châu Jambudvipa (Diêm Phù Đề). Mỗi vị Phật trong chư Phật này sẽ đạt được Phật quả viên mãn ở đó và chuyển Pháp Luân. Vì thế, kiếp hiện tại của chúng ta là một kiếp chói sáng.
Theo sau nó là sáu mươi kiếp xấu, ngoại vi, và sau đó, trong Kiếp Vô Số, mười ngàn vị Phật sẽ xuất hiện. Rồi mười ngàn kiếp xấu khác sẽ xảy ra sau đó. Trong sự luân phiên của những kiếp chói sáng và tối tăm này, nếu ngẫu nhiên chúng ta được sinh ra trong một kiếp tối tăm, thì thậm chí chúng ta sẽ không bao giờ nghe được rằng một điều là Tam Bảo.
Ngoài ra, như Đấng Vĩ Đại xứ Oddiyana đã chỉ rõ, riêng Mantra Bí Mật Kim Cang Thừa chỉ được truyền dạy một cách hiếm hoi:

Từ lâu xa về trước, ngay trong kiếp đầu tiên là Kiếp Mạng Lưới Toàn Thiện, giáo lý Mantra Thừa Bí Mật được Đức Phật có danh hiệu là Pháp Vương-Từng-Xuất Hiện truyền bá và hết sức lừng danh. Giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà hiện nay chúng ta đang có cũng bao gồm Mantra Thừa Bí Mật. Trong thời gian mười triệu kiếp, trong Kiếp Mạng Lưới Hoa, Đức Phật Mansjushri (Văn Thù) sẽ xuất hiện, như ta đang xuất hiện, để khám phá giáo lý Mantra Bí Mật trên một phạm vi rộng lớn. Đây là bởi vì chúng sanh trong ba kếp này là những người thích hợp để lãnh hội Mantra Thừa Bí Mật, và lý do mà giáo lý Mật Thừa không xuất hiện vào những thời điểm khác là bởi chúng sanh ở những thời đó không có khả năng sử dụng những giáo lý này.

Trong Hiền Kiếp này, vào thời hiện tại khi thọ mạng của con người là một trăm năm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni viên mãn đã xuất hiện trên thế gian, vì thế nó là một kiếp chói sáng.
Giả sử một vị Phật đã xuất hiện, nhưng Ngài vẫn còn ở trong thiền định và chưa giảng dạy Giáo Pháp. Chừng nào mà ánh sáng Giáo Pháp của Ngài chưa hiển hiện thì sự xuất hiện của Ngài kh6ng tác động gì tới chúng ta. Điều đó cũng giống như thể Ngài chưa từng xuất hiện.
Khi đạt được Phật quả hoàn toàn và viên mãn trên Toà Kim Cương, Bậc Thầy của chúng ta đã thốt lên:

Ta đã tìm ra một Giáo Pháp giống như chất cam lồ,
Sâu xa, an bình, giản dị, chói sáng, dể hiểu.
Nếu Ta giảng nó, sẽ chẳng ai hiểu nổi,
Vì thế Ta sẽ ở đây, tịch lặng trong rừng.

Do đó, Ngài không giảng dạy trong bảy tuần cho tới khi Trời Phạm Thiên (Brahma) và Đế Thích (Indra) khẩn cầu Ngài chuyển Pháp Luân.
Ngoài ra, nếu những ai nắm giữ giáo lý chân chính mà không giảng dạy nó, thì Giáo Pháp khó có bất kỳ lợi ích thực sự nào cho chúng sanh. Ví dụ Ngài Smrtijnana vĩ đại xứ Ấn Độ đã đến Tây Tạng vì mẹ Ngài tái sinh ở đây trong một địa ngục phù du. Người thông dịch của Ngài đã chết trong cuộc hành trình, và Ngài đã lang thang khắp tỉnh Kham và không thể nói được một tiếng Tây Tạng, sau đó Ngài trở thành một người chăn cừu rồi chết ở đó mà không đem lại thật nhiều lợi ích cho bất kỳ ai. Sau này khi Ngài Jowo Atisha đến Tây Tạng và biết được điều gì đã xảy ra, Ngài than khóc: “Đáng buồn thay! Dân Tây Tạng quí vị kém phước quá! Không đâu ở Ấn Độ, dù Đông hay Tây mà kcó được một học giả uyên thâm hơn Ngài Smrtijnana,” và chắp hai bàn tay lại, Ngài khóc.
Đối với chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chuyển Pháp Luân trên ba cấp độ và khi hiển lộ vô số hình tướng phù hợp với nhu cầu và khả năng của những người được cứu giúp, Ngài dẫn dắt đệ tử qua chín thừa của giáo lý để đạt được sự trưởng thành và giải thoát.
Ngay cả trong một kiếp có Đức Phật xuất hiện và ban giáo lý, một khi thời gian để giáo lý này tồn tại đã tới lúc chấm dứt và Giáo Pháp chân chính mà Ngài đã dạy biến mất thì hoàn toàn giống như một kiếp tối tăm. Thời kỳ giữa sự biến mất giáo lý của một vị Phật và giáo lý được truyền dạy của một vị Phật tương lai được mô tả là “không có Pháp.” Ở những nơi chốn may mắn mà chúng sanh có đầy đủ công đức thì có các vị Phật Độc Giác xuất hiện, nhưng kinh điển không được giảng dạy hay thực hành.
Ngày nay, chúng ta vẫn còn có những giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sự tồn tại của chúng đi theo một chuỗi gồm mười cấp độ. Trước tiên, có ba thời kỳ, mỗi một thời kỳ gồm năm trăm phần. Trong thời gian này xuất hiện “Giáo lý tâm yếu của Đức Phổ Hiền,” đó là Quả. Sau đó là ba thời kỳ, mỗi một thời kỳ gồm năm trăm phần cho sự thành tựu.Tiếp theo là ba thời kỳ mà mỗi một thời kỳ gồm năm trăm phần cho sự trao truyền. Cuối cùng, một thời kỳ gồm năm trăm phần xuất hiện khi chỉ còn lại những biểu tượng. Nói chung, điều này tạo nên mười thời kỳ, mỗi thời kỳ gồm năm trăm phần. Hiện chúng ta ở thời kỳ thứ bảy hay thứ tám. Chúng ta hiện đang sống trong một thời đại phát triển năm sự suy hoại: những sự suy hoại thuộc thọ mạng, lòng tin, cảm xúc, thời gian và chúng sinh. Tuy nhiên, giáo lý về sự trao truyền và chứng ngộ vẫn còn hiện hữu. Bởi chúng không mai một nên chúng ta vẫn sở hữu sự thuận lợi có được toàn bộ Giáo Pháp.

Tuy nhiên, sự kiện Giáo Pháp vẫn còn hiện diện sẽ không thích hợp trừ phi bạn tận dụng được chúng - giống như mặt trời mọc, mặc dù nó chiếu sáng khắp thế gian nhưng cũng không tạo được một tác động nhỏ bé nhất cho một người mù. Và bản thân Giáo Pháp của sự trao truyền và thực hành không thể thâm nhập vào tâm thức bạn, cũng như nước trong một cái hồ lớn không thể làm người lữ hành đang đi tới bờ hết khát trừ phi họ thực sự uống nước.
Việc đi vào Giáo Pháp chỉ nhằm bảo vệ bản thân bạn thoát khỏi bệnh tật và những ảnh hưởng xấu trong cuộc đời này, hoặc vì bạn sợ hãi những đau khổ của ba cõi thấp trong những đời sau, được gọi là “Giáo Pháp như sự bảo vệ chống lại sợ hãi,” và không phải là cách thức đúng đắn để khởi hành trên con đường.
Việc đi vào Giáo Pháp chỉ để có thực phẩm, quần áo và v.v…trong đời này, hoặc để có được phần thưởng dễ chịu là một tái sanh linh thánh hay lày người trong đời sau, được gọi là “Giáo pháp như việc tìm kiếm sự ưu việt”.
Việc đi vào Giáo Pháp mà hiểu rằng toàn bộ sự luân hồi đều không có ý nghĩa, nỗ lực tìm ra một con đường để giải thoát khỏi nó thì được gọi là “áp dụng giáo lý bằng cách đạt tới khởi điểm của con đường.”

Cho dù bạn bắt đầu thực hành Giáo Pháp, nhưng điều ấy cũng sẽ chẳng ích lợi gì trừ phi bạn được một vị thầy tâm linh chấp thuận. Trong Trí Tuệ Siêu Việt Cô Đọng nói:
Đức Phật và Giáo Lý thì thuộc về vị thầy tâm linh
Đấng Chiến Thắng, hiện thân của mọi phẩm tính tốt lành đã nói như thế.

Giáo lý của Đức Phật thì bao la, sự trao truyền thì vô số kể, và nó bao trùm một phạm vi gồm những chủ đề vô tận. Nếu không nương tựa và những giáo huấn cốt tuỷ của một vị thầy, chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được làm cách nào để cô đọng các điểm trọng yếu của tất cả những giáo lý đó và đưa chúng vào thực hành.
Có một lần, khi Ngài Jowo Atisha đang ở Tây Tạng thì Khu, Ngok và Drom* hỏi: “Đối với những người đạt giải thoát và sự toàn giác thì những kinh điển, những luận giải của chúng, hay những giáo huấn khẩu truyền của vị Thầy, cái nào quan trọng hơn?”
Ngài Atisha trả lời:
“Các giáo huấn của vị Thầy”.
“Tại sao vậy?”
“Bởi khi đi vào thực hành – cho dù các ông có thể giảng được hơn toàn bộ Tripitaka (Tam Tạng) bằng trí nhớ và hết sức thiện xảo trong khoa siêu hình – nhưng nếu không có hướng dẫn thực tế của vị Thầy thì các ông và Giáo Pháp sẽ không thể hợp nhất được.”
Họ tiếp tục: “Như vậy thì có phải điểm chính của những giáo huấn của vị Thầy là để trì giữ ba giới nguyện và để nổ lực làm việc tốt lành với thân, khẩu và ý?”
“Điều đó chẳng có chút lợi ích nào,” Ngài Atisa trả lời.
“Làm sao có thể như vậy được?” họ kêu lên kinh ngạc.
“Các ông có thể giữ ba giới nguyện một các toàn hảo, nhưng trừ phi ông nhất quyết giải thoát bản thân khỏi tam giới trong vòng luân hồi, còn không nó chỉ tạo thêm những nguyên nhân cho luân hồi sinh tử. Các ông có thể nỗ lực với thân, khẩu, ý cả ngày lẫn đêm để làm việc tốt lành, nhưng trừ phi các ông biết cách hồi hướng công đức cho sự giác ngộ viên mãn, nếu không thì hai hay ba niệm tưởng sai lạc cũng đủ để phá hủy toàn bộ nỗ lực đó. Các ông có thể là những thầy và thiền giả, đầy đủ sự sùng mộ và uyên bác, nhưng trừ khi tâm các ông được xoay chuyển khỏi tám mối quan tâm tầm thường, còn không thì bất kỳ điều gì các ông làm cũng sẽ chỉ là để cho cuộc đời hiện tại này, và các ông sẽ không thể gặp được con đường đem lại lợi ích cho những đời sau.”
Điều này minh hoạ tầm quan trọng của việc được một vị Thầy, một thiện tri thức quan tâm chăm sóc.

Hãy tra xét cuộc đời và những hoàn cảnh của riêng bạn đối với mỗi một trong tám sự tự do và mười thuận lợi, nếu bạn nhận ra rằng mọi điều kiện thuận lợi này đều đang hiện diện, thì bạn có cái được gọi là “đời người được phú bẩm mười tám sự tự do và thuận lợi.” Tuy nhiên, Đấng Pháp Vương Toàn Giác Longchenpa, trong tác phẩm Kho Tàng Ngọc Như Ý của Ngài đã phân định mười sáu điều kiện phụ ngăn cản bất kỳ cơ hội thực hành Pháp nào – tám hoàn cảnh xâm phạm, và tám thiên hướng không thích hợp- mà dưới thế lực của những điều này, điều quan trọng là không để bị suy sụp. Ngài giảng:
Sự rối loạn bởi năm cảm xúc, sự ngu si, bị những ảnh hưởng độc hại thống trị,
Sự biếng lười, bị tràn ngập bởi hậu quả của những hành vi xấu trong quá khứ,
Sự lệ thuộc vào người khác, tìm kiếm sự bảo vệ thoát khỏi những nguy hiểm, và sự thực hành giả dối.
Đây là tám hoàn cảnh xâm hại khiến không được giải thoát.
Bị cột trói bởi những ràng buộc của ta, sự truy lạc trắng trợn,
Không bất mãn với luân hồi, hoàn toàn thiếu niềm tin,
Sự vui thích trong những hành vi xấu ác, thiếu quan tâm đến Giáo Pháp,
Lơ là các giới nguyện và samaya:
Đây là tám thiên hướng không thích hợp khiến không được giải thoát.

TÁM HOÀN CẢNH XÂM HẠI KHIẾN KHÔNG ĐƯỢC TỰ DO THỰC HÀNH PHÁP
Những người mà trong họ năm độc –đó là những cảm xúc tiêu cực như căm ghét kẻ thù, si mê bạn bè và những người thân thuộc và v.v..hết sức mạnh mẽ, đôi khi có thể mong ước rằng họ có thể thực hành một ít Pháp chân chính. Nhưng năm độc quá mạnh, thường xuyên thống trị tâm thức họ và ngăn cản họ không bao giờ thành tựu Giáo Pháp một cách đúng đắn.
Những người rất ngu đần, thậm chí không có chút thông tuệ nào, có thể đi vào Giáo Pháp nhưng bởi không thể hiểu được một từ duy nhất của giáo lý hay ý nghĩa của nó, nên họ không thể học tập hay quán chiếu và thiền định về Pháp.
Một khi người ta được nhận làm đệ tử của một vị thầy giả mạo là người giảng dạy quan điểm và hành động trong một cách thế lầm lạc, tâm thức họ sẽ bị dẫn dắt trên con đường sai lạc và không phù hợp với Giáo Pháp chân chính.
Những người muốn học Pháp nhưng quá lười biếng, không có lấy một chút kiên nhẫn nào, sẽ chẳng bao giờ thành tựu nó bởi họ bị sập bẫy quá nặng trong sự lười nhác và do dự của chính mình.
Những chướng ngại và hành động tiêu cực của một số người mạnh mẽ tới nỗi, mặc dù sự nỗ lực mà họ đưa vào Giáo Pháp, họ sẽ thất bãi trong việc phát triển bất kỳ phẩm tính đúng đắn nào trong tâm thức họ. Sự chồng chất những ác hạnh làm họ choáng ngợp, và họ sẽ đánh mất tín tâm vào giáo lý mà không nhận ra rằng tất cả là do những hành vi trong quá khứ của chính họ.
Những người nô lệ, cho người nào khác và đánh mất sự tự chủ có thể muốn thực hành Pháp; nhưng người làm chủ họ không cho phép họ thực hành.
Một số người hiểu được Giáo Pháp thoát khỏi sự sợ hãi cuộc đời này - đến nỗi họ có thể thiếu thực phẩm hay quần áo, hoặc phải trải qua những phiền não khác. Nhưng bởi họ không có sự xác tín sâu xa nơi Pháp, nên họ tự nộp mình cho những tập quán xưa cũ của mình và dính mắc vào những sự việc không phải là Pháp.
Những người giả mạo khác, qua việc khoe khoang Giáo Pháp, cố gắng thâu đoạt những của cải, sự cung phụng và uy tín. Đứng trước người khác họ đội lốt hành giả, nhưng trong tâm thức thì họ chỉ quan tâm tới cuộc đời này, vì thế họ đã cách xa con đường giải thoát.
Đây là tám hoàn cảnh khiến không thể tiếp tục thực hành Pháp.

2.4 TÁM THIÊN HƯỚNG KHÔNG THÍCH HỢP KHIẾN KHÔNG CÓ TỰ DO ĐỂ THỰC HÀNH PHÁP:
Những người bị trói buộc chặt chẽ vào những giao kết, tài sản, khoái lạc, con cái, thân quyến và v.v..thuộc thế gian, quá bận tâm với những nỗ lực căng thẳng gây ra bởi những sự việc này tới nỗi họ không có thời gian để thực hành Pháp.
Một số người không có chút nhân tính nào, và bản chất họ suy đồi tới nỗi họ không thể sửa đổi cách hành xử của họ. Ngay cả một vị thầy chân chính cũng sẽ nhận ra rằng thật khó đặt họ trên con đường cao quý. Như những đấng siêu phàm trong quá khứ đã nói: “Những năng lực của một đệ tử có thể được định hình, nhưng tánh khí căn bản của họ thì không thể.”
Người không cảm thấy khiếp sợ chút nào khi nghe nói tới việc tái sanh vào những cõi thấp và những bất hạnh trong vòng luân hồi, hay khi đối diện với những đau khổ của cuộc đời hiện tại này, đã không có bất kỳ quyết tâm nào để giải thoát chính mình khỏi vòng sinh tử luân hồi, và vì thế không có lý do gì để dấn mình vào sự thực hành Pháp.
Những người hoàn toàn không có niềm tin nào, dù tin nơi Giáo Pháp hay vị Thầy, đóng chặt bất kỳ lối vào giáo lý nào và ngăn chặn cổng dẫn tới con đường giải thoát.
Những người thích thú trong hành động gây tổn hại hay tiêu cực, và những người thất bại trong việc kiểm soát tư tưởng, ngôn ngữ và hànhvị của họ, thì không có bất kỳ phẩm tính cao quý nào và đã xa rồi Giáo Pháp. Một số người không quan tâm tới những giá trị tâm linh và Giáo Pháp hơn một con chó đang ăn cỏ. Bởi họ không cảm thấy nhiệt thành với Giáo Pháp, nên những phẩm tính của Pháp sẽ không baogiờ phát triển trong tâm thức họ.
Bất kỳ ai khi đã đi vào Thừa Căn Bản (Tiểu Thừa) mà lại vi phạm giới nguyện và cam kết Bồ Đề Tâm, thì chẳng còn chổ nào khác để tới ngoài những cõi thấp. Họ sẽ không thoát khỏi những trạng thái ở đó không có cơ hội để thực hành Pháp.
Bất kỳ ai khi đã đi vào Mantra Thừa Bí Mật mà lại vi phạm những cam kết samaya với vị Thầy và các huynh đệ tâm linh của họ, sẽ gây nên sự huỷ hoại của chính họ và của những người kia (vị Thầy và huynh đệ) khi huỷ diệt bất kỳ triển vọng thành tựu nào.
Đây là tám thiên hướng làm xa rời Giáo Pháp và thổi tắt ngọn đèn giải thoát.
Trước khi mười sáu yếu tố khiến không có cơ hội thực hành này bị loại trừ một cách thận trọng, con người trong những thời đại suy đồi này có thể tỏ ra như thể họ có đầy đủ những sự tự do và thuận lợi và là những hành giả đích thực của Giáo Pháp. Tuy nhiên, vị thủ lãnh ngự trên chiếc ngai và vị lạt ma ngồi dưới chiếc lọng, vị ẩn sĩ trong chốn núi non cô tịch, người đã từ bỏ những chính sự, bà bất kỳ ai có thể có một đánh giá cao về giá trị của bản thân ông ta - mỗi người có thể nghĩ rằng ông đang thực hành Pháp, nhưng chừng nào mà ông ta còn ở dưới thế lực của những điều kiện phụ thuộc đầy giới hạn này thì ông ta vẫn không ở trên con đường thực sự.
Vì thế, trước khi mù quán mang lấy những hình tướng của Giáo Pháp, trước tiên hãy cẩn thận kiểm tra tình trạng của bản thân bạn xem bạn có đủ ba mươi bốn phương diện của sự tự do và thuận lợi hay không. Nếu bạn có đầy đủ chúng, hãy hoan hỷ và quán chiếu sâu xa về chúng nhiều lần. Hãy tự nhắc mình rằng giờ đây khi mà cuối cùng bạn đã có đầy đủ những sự tự do và thuận lợi rất khó có thể tìm được, thì bạn sẽ không lãng phí chúng ra sao; cho dù bất kỳ điều gì xảy ra, bạn cũng sẽ thực hành Giáo Pháp chân thực. Tuy nhiên, bạn nên tìm kiếm một số khía cạnh bị thiếu sót, cố gắng đạt được chúng bằng bất kỳ phương tiện nào có thể có được.
Trong mọi lúc, bạn nên chú tâm khảo sát cẩn thận xem bạn có tất cả những yếu tố của tự do và thuận lợi hay không. Nếu bạn không kiểm tra, và bất kỳ một trong những yếu tố này bị thiếu sót, thì bạn sẽ bị mất cơ hội để thực sự hành Pháp. Cuối cùng, ngay cả việc thực hiện duy nhất một công việc thứ yếu hàng ngày cũng đòi hỏi nhiều chất liệu và điều kiện phụ thuộc lẫn nhau được hội tụ đồng thời. Không đáng kinh ngạc sao khi sự chứng ngộ mục đích tối hậu của chúng ta – Giáo Pháp – thì không thể có được nếu không có sự tiếp hợp của nhiều yếu tố liên kết với nhau?
Hãy hình dung một lữ khách muốn pha một ít trà. Việc pha trà liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau – cái bình, nước, cũi, lửa và v.v…Trong những yếu tố này, chỉ riêng việc đánh lửa sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu đá lửa, thép, bùi nhùi, hai bàn tay của lữ khách và v.v…Nếu chỉ thiếu một yếu tố chẳng hạn như bùi nhùi, thì sự thực là dù người lữ khách có đủ mọi thứ khác thì cũng chẳng ích lợi gì. Cũng thế, nếu thậm chí một yếu tố của những sự tự do và thuận lợi bị thiếu sót thì sẽ không có chút cơ hội nào để thực hành Giáo Pháp chân thực.
Nếu kiểm soát cẩn thận tâm bạn, bạn sẽ thấy rằng ngay cả tám sự tự do và mười thuận lợi căn bản cũng rất khó đạt được, và nhận ra là có đủ mười điều thuận lợi thì thậm chí còn hiếm hoi hơn việc có tám sự tự do.
Một số được sinh ra làm người, với đầy đủ mọi năng lực nguyên vẹn và ở trong vùng trung tâm, nhưng lại là những người trở nên dính mắc vào một lối sống mâu thuẫn với Giáo Pháp và không có lòng tin vào giáo lý của Đấng Chiến Thắng, thì chỉ có ba thuận lợi. Nếu họ có được một trong hai thuận lợi kia thì họ vẫn chỉ có bốn điều. Giờ đây, để có được một cách sống hoàn toàn không mâu thuẫn với Giáo Pháp thì cực kỳ khó khăn. Nếu bất kỳ tư tưởng, lời nói và hành vi nào của một người đều tiêu cực và những động cơ của họ chỉ nhằm tới cuộc đời này, thì trong thực tế cho dù họ nổi tiếng là một người tốt và uyên bác, cách sống của họ cũng mâu thuẫn với Giáo Pháp.
Cũng áp dụng tương tự cho năm thuận lợi thuộc về hoàn cảnh. Nếu một vị Phật xuất hiện, giảng dạy Giáo Pháp và giáo lý vẫn còn hiện hữu, nhưng nếu một người không đi vào Giáo Pháp, thì người đó chỉ có ba trong số các thuận lợi đó. Ở đây một lần nữa, “đi vào Pháp” không đơn giản có nghĩa là thỉnh cầu một vài giáo lý và được ban cho giáo lý đó. Điểm khởi đầu của con đường giải thoát là sự xác tín rằng toàn bộ vòng luân hồi là vô nghĩa và sự quyết tâm chân thật giải thoát khỏi nó. Để đi trên con đường Đại Thừa, điều cốt yếu là thành thật khơi dậy Bồ Đề Tâm. Điều tối thiểu là phải có niềm tin không thể lay chuyển được nơi Tam Bảo đến nỗi bạn không bao giờ từ bỏ những điều này cho dù để cứu mạng mình. Không có điều đó thì việc chỉ đơn giản trì tụng những lời cầu nguyện và mặc những chiếc y vàng không phải là bằng chứng bạn đã đi vào Giáo Pháp.
Hãy bảo đảm rằng bạn biết cách nhận ra mỗi một thứ trong những sự tự do và thuận lợi này, và hãy tự kiểm tra là bạn có chúng hay không. Đây là vấn đề trọng yếu.
3. Quán chiếu về những hình ảnh cho thấy khó tìm được sự tự do và thuận lợi ra sao:
Đức Phật nói rằng việc có được thân người còn khó hơn việc một con rùa trồi lên từ đáy biển ngẫu nhiên chui đầu vào cái lỗ của một cáci ách bằng gỗ dập dình trên mặt đại dương bởi những cơn sống khổng lồ.
Hãy hình dung toàn thể vũ trụ gồm một tỉ thế giới như một đại dương bao la. Một cái ách trôi nổi trên mặt biển, đó là một miếng gỗ có khoét một cái lỗ để tròng quanh sừng trâu bò được dùng kéo xe. Cái ách này bị song biển làm cho nó trôi nổi đó đây, khi thì hướng đông khi thì hướng tây, không bao giờ ở một chỗ dù trong chốc lát. Ở đáy sâu của đại dương có một con rùa mù cứ một trăm năm lại nổi lên mặt nước một lần. Việc con rùa và cái ách có thể gặp được nhau thì cực kỳ khó xảy ra. Bản thân cái ách là vật vô tri; con rùa thì không có ý định tìm ra cái ách. Con rùa bị mù không thể dùng mắt để nhận ra cái ách. Nếu cái ách đứng yên ở một chỗ, thì có thể có một cơ hội để chúng gặp gỡ nhau; nhưng nó lại di chuyển liên tục. Nếu con rùa phải sử dụng toàn bộ thời gian để bơi quanh mặt biển thì có lẽ nó có thể gặp cái ách; nhưng nó chỉ nổi lên duy nhất một lần trong một trăm năm. Do đó những cơ hội để con rùa và cái ách gặp nhau thì hết sức nhỏ nhoi. Tuy nhiên, nhờ cơ hội mỏng manh ấy mà con rùa vẫn hoàn toàn có thể chui đầu vào cái ách. Nhưng Kinh điển nói rằng so với điều đó thì việc có được hiện hữu làm người với những sự tự do và thuận lợi thì thậm chí còn khó hơn. Tổ Long Thọ mô tả điều này trong Lời Khuyên cho Vua Surabhibhadra.
Thật khó xảy ra việc một con rùa mù có thể ngẫu nhiên trồi lên chui đầu vào một cái ách dập dình trên một đại dương bao la;
Và tuy thế so với việc có được một đời người thì việc tái sanh vào cõi súc sinh còn kém may mắn xa
Do đó, Ôi Đức Vua,
Hãy thực hành Giáo Pháp chân chính để vận may của Ngài kết thành quả!
Và Ngài Santideva nói:
Đức Phật đã tuyên bố rằng giống như một con rùa ngẫu nhiên có thể
Đặt đầu nó trong một cái ách trôi dạt trên đại dương không bờ bến,
Việc sinh ra làm người này thật khó tìm được.
Sự khó khăn của việc sinh làm thân người cũng được so sánh với việc ném những hạt đậu khô vào một bức tường trơn láng mà hạt đậu lại dính được vào đó, hay việc đặt cân bằng một nhúm đậu trên đầu mũi kim dựng đứng - một việc mà thậm chí chỉ làm với một hạt đậu duy nhất cũng đã đủ khó! Điều quan trọng là phải hiểu rõ những sự so sánh này, chúng được rút ra từ Kinh Niết Bàn, và những so sánh tương tự ở trong các bản văn khác.

Quán chiếu trên những sự so sánh bằng số lượng
Khi bạn khảo sát những con số tương đối các loại chúng sanh khác nhau, bạn có thể cảm kích rằng để được sinh ra làm một con người thì hoàn toàn khó có thể có được. Qua cách minh hoạ, ta được biết rằng những cư dân trong các địa ngục thì nhiều như sao trong bầu trời đêm, những ngạ quỷ thì không nhiều hơn những ngôi sao được thấy ban ngày; và nếu ngạ quỷ nhiều như sao ban đêm, thì súc sanh chỉ nhiều như những vì sao ban ngày; và nếu súc sanh nhiều như sao ban đêm, thì chư thiên và con người chỉ như sao ban ngày.
Cũng có nói rằng chúng sanh trong địa ngục nhiều như bụi trong toàn thể thế giới, ngạ quỷ nhiều như các sông Hằng, súc sanh nhiều như những hạt lúa mạch trong một thùng bia, và Atula nhiều như những bông tuyết trong một trận bão tuyết – nhưng chư thiên và con người thì ít như những hạt đất trong một móng tay.
Để có được thân tướng như bất kỳ chúng sanh nào trong các cõi cao cũng đã là hiếm có, nhưng có được một đời người với đầy đủ những sự tự do và thuận lợi thì lại càng hy hữu hơn nữa. Chúng ta có thể tự thấy rằng vào bất kỳ lúc nào nếu so với loài vật thì loài người ít ỏi hơn biết bao. Hãy nghĩ xem có bao nhiêu sâu bọ sống trong một cục đất và mùa hè, hay có bao nhiêu con kiến trong một tổ kiến duy nhất - mới chỉ nhiều bằng số người trong toàn thể thế giới. Nhưng ngay trong nhân loại, chúng ta có thể thấy rằng so với tất cả những ai sinh trong những miền xa xôi hẻo lánh nơi mà Giáo Pháp chưa từng xuất hiện, thì những người sinh ra ở những nơi Giáo Pháp đã được truyền bá thì đặc biệt hiếm hoi. Và ngay cả trong những người đó cũng chỉ có một số rất ít người có đủ những sự tự do và thuận lợi.
Với tất cả những viễn cảnh này trong tâm, bạn nên tràn đầy hoan hỷ rằng bạn thực sự có được đầy đủ mọi sự tự do và thuận lợi.
Một đời người có thể được gọi là một “đời người quý báu” chỉ khi nào nó đầy đủ mọi khía cạnh của những sự tự do và thuận lợi, và từ đó trở đi nó mới thực sự trở nên quý báu. Nhưng chừng nào mà những khía cạnh đó chưa đầy đủ, thì cho dù sự hiểu biết, kiến thức và tài năng trong những sự việc thông thường của bạn có rộng lớn tới đâu chăng nữa, bạn cũng không có được một đời người quý báu. Bạn có cái được gọi là một đời người bình thường, một đời người đơn thuần, đời người không may mắn, đời người vô nghĩa, hay đời người trở về tay không. Nó cũng giống như một việc tay cầm ngọc như ý mà không biết sử dụng nó, hay từ một xứ sở ngập đầy châu báu mà trở về trắng tay.
Quý Báu
Tình cờ gặp được một viên ngọc quý
Thì chẳng đáng gì đối với việc tìm được đời người quý báu này.
Hãy nhìn xem những kẻ không ngao ngán luân hồi
Lãng phí cuộc đời ra sao!

Chiếm đoạt toàn thể một vương quốc
Thì chẳng đáng gì đối với việc gặp được một vị Thầy toàn hảo.
Hãy nhìn những người không có lòng sùng kính
Đối xử với vị Thầy như ngang hàng với họ ra sao!

Được đứng đầu một tỉnh
Thì chẳng đáng gì đối với việc thọ Bồ Tát giới.
Hãy nhìn những người không có lòng bi mẫn
Ném bỏ những giới nguyện của họ ra sao!

Cai trị cả thế giới
Thì chẳng đáng gì đối với việc nhận lãnh quán đảnh Mật thừa,
Hãy nhìn những kẻ không tuân giữ các samaya
Vứt bỏ những hứa nguyện của họ ra sao!

Thấy được Đức Phật
Thì chẳng đáng gì đối với việc thấy được chân tánh của tâm.
Hãy nhìn những kẻ không quyết tâm
Lại chìm sâu trong mê lầm ra sao!

Những sự tự do và thuậnlợi này không đến tình cờ hay ngẫu nhiên. Chúng là kết quả của một sự thâu thập công đức và trí tuệ tích luỹ trong nhiều kiếp. Đại học giả Trakpa Gyaltsen nói:

Sự hiện hữu làm người tự do và thuận lợi này
Không phải là kết quả của tài xoay sở của bạn
Mà đến từ công đức bạn đã tích tập được.

Có được đời người chỉ để đắm mình trong những hành động xấu ác mà không có chút ý niệm nào về Pháp thì còn thấp kém hơn cả những cõi thấp. Như ngài Jetsun Milarepa nói với người thơ săn Gonpa Dorje:

Có được những sự tự do và thuận lợi của việc sinh ra làm người thường được nói là quý báu,
Nhưng khi ta nhìn những người như ông thì chẳng có vẻ quý báu chút nào.

Không gì lôi kéo bạn mạnh mẽ xuống những cõi thấp hơn là cuộc sống con người. Điều mà bạn liên quan tới thì ngay bây giờ, nó tuỳ thuộc vào một mình bạn:

Khéo sử dụng thì thân này là chiếc bè đưa tới giải thoát,
Sử dụng tồi, thân này neo chúng ta vào luân hồi,
Thân xác này tuân lệnh cả điều tốt lẫn điều xấu.

Chính là nhờ năng lực của tất cả công đức bạn đã tích luỹ trong quá khứ mà giờ đây bạn có được thân người với đầy đủ mười tám sự tự do và thuận lợi này. Việc sao lãng điều cốt tuỷ - Giáo Pháp siêu việt – và thay vào đó hoàn toàn trải đời bạn trong việc thâu hoạch thực phẩm, quần áo và mê đắm tám mối quan tâm thế gian sẽ là một lãng phí vô ích những sự tự do và thuận lợi đó. Thật vô ích biết bao khi chờ cho tới khi cái chết vồ chụp lấy bạn và khi đó bạn đấm ngực với sự ăn năn hối tiếc! Hẳn là bạn đã có một chọn lựa sai lầm, như có nói torng Bồ Tát Đạo:

Do đó, khi đã tìm được những tự do của một đời người,
Nếu giờ đây tôi không tu tập bản thân trong đức hạnh,
Thì liệu còn có sự điên rồ nào to lớn hơn?
Làm sao tôi có thể lừa dối chính mình hơn được nữa?

Như thế, cuộc đời hiện tại này là bước ngoặt nhờ đó bạn có thể lựa chọn giữa cái thiện trường cửu hay cái ác lâu dài. Nếu ngay bây giờ bạn không tận dụng nó để chiếm lĩnh thành luỹ của bản tánh tuyệt đối trong đời này, thì trong những đời sau bạn sẽ rất khó có được sự tự do như thế một lần nữa. Một khi bạn tái sinh trong bất kỳ thân tướng nào nơi những cõi thấp, thì sẽ chẳng bao giờ có ý niệm nào về Pháp loé lên cho bạn. quá hoang mang không biết điều gì nên làm và điều gì không nên, bạn sẽ không ngừng rơi xuống càng lúc càng sâu tới những cõi thấp. Vậy, hãy tự nhủ rằng bây giờ là lúc để thực hện một sự nỗ lực, thiền định liên tục, áp dụng ba phương pháp tối cao: hãy bắt đầu với sự suy niệm về Bồ Đề Tâm, hãy thực hiện chính sự thực hành mà không có bất kỳ sự khái niệm hoá nào, và hãy hồi hướng công đức vào lúc kết thúc.
Như một đo lường về việc thực hành này đã thực sự thuyết phục chúng ta nhiều tới mức độ nào, chúng ta phải giống như Ngài Geshe Chengawa, người đã sự dụng toàn bộ thời gian để thực hành và thậm chí không bao giờ ngủ. Geshe tonpa nói với Ngài: “Tốt hơn con nên nghỉ ngơi, con của ta. Con sẽ làm mình bị bệnh đấy.”
“Vâng, con sẽ nghỉ,” Ngài Chengawa trả lời. “Nhưng khi con nghĩ về sự khó khăn biết bao để tìm được những tự do và thuận lợi ra sao mà chúng ta có, thì con không có thời gian để nghỉ.” Ngài trì tụng chín trăm triệu lần thần chú của Miyowa và không ngủ suốt cuộc đời Ngài. Chúng ta phải thiền định cho đến khi loại xác tín này thực sự xuất hiện trong tâm thức chúng ta.

Dù con đã thâu đạt những tự do này, con vẫn nghèo khốn trong Pháp, là tinh tuý của chúng
Dù con đã đi vào Pháp, con đã lãng phí thời gian khi làm những công việc khác
Xin ban phước cho con và những kẻ xuẩn ngốc như con
Để chúng con có thể đạt được tinh tuý đích thực của những tự do và thuận lợi.


Tài liệu này được trích từ cuốn Lời Vàng Của Thầy Tôi

Thiện Quang
Thiện Quang
 
Bài viết: 109
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 10 23, 2011 10:03 am

Quay về Tâm Linh / Tôn Giáo

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến16 khách