Những Sai Lầm Trong Học Đạo Và Tu Dưỡng bản Thân
Đã gửi: Chủ nhật Tháng 4 22, 2012 11:30 pm
ĐỨC KIM CƯƠNG TRÌ III GIẢNG GIẢI NGẮN GỌN
VỀ NHỮNG QUAN ĐIỂM XẤU ÁC VÀ QUAN ĐIỂM SAI LẦM
(Trích từ bài pháp thoại từ kim khẩu của Ngài)
Hôm nay ta sẽ giảng cho các con điều gì? Ta sẽ giảng về điều mấu chốt trong Phật pháp, đó là điều vô cùng quan trọng để đạt được giải thoát. Ta phải nhắc nhở các con, vì bài pháp ta giảng cho các con hôm nay là một bài pháp rất quan trọng, các con thực sự không thể coi nhẹ. Điều gì làm cho nó quan trọng? Pháp này liên quan đến một vấn đề lớn rằng các con có thể trải nghiệm những kết quả hữu ích từ việc học hỏi Phật pháp và tu dưỡng bản thân hay không. Nó liên quan đến việc con có thể tăng trưởng công đức, trí tuệ và đạt được giải thoát hay các con sẽ bị rơi vào một trong ba cõi thấp.
Hôm nay ta sẽ giảng về những quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm. Nếu những ai đang học hỏi Phật giáo và tu dưỡng bản thân mà rơi vào một trong số những quan điểm xấu ác này thì sẽ không thể đạt được giải thoát. Hơn nữa, sự tu tập của người ấy cũng sẽ không thể tăng trưởng công đức và trí tuệ, không thể đạt đến cảnh giới thành đạo.
Bất kể con thuộc tông phái nào, chỉ cần con muốn chấm dứt luân hồi sinh tử, muốn đạt được giải thoát, thì không được phép rơi vào một trong những quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm này. Nếu con rơi vào ngay cả chỉ là một trong số những quan điểm xấu ác con cũng không thể tích lũy được phước đức và trí tuệ bằng sự tu tập của con. Hơn nữa, con sẽ không thể đạt được giải thoát. Tuy nhiên, sau khi rơi vào những quan điểm này, nếu con sám hối và ngay lập tức sửa chữa thì sẽ không có vấn đề gì.
Tội của việc rơi vào quan điểm sai lầm thì nhẹ hơn so với tội rơi vào quan điểm xấu ác. Tuy là nhẹ hơn nhưng có một vài quan điểm sai lầm mà nếu đi theo sẽ gây ra vấn đề ngay cả khi con chỉ rơi vào một trong số các quan điểm đó. Có một số quan điểm sai lầm mà nếu đi theo sẽ ngăn con không thể hoàn thiện trong thực hành và trải nghiệm những kết quả hữu ích ngay cả khi con chỉ rơi vào hai hoặc ba trong số các quan điểm sai lầm đó.
Không theo 128 quan điểm này là quy định nghiêm ngặt của Pháp. Tất cả các Phật tử phải tuân theo quy định này, bằng cách không rơi vào những quan điểm này họ có thể kết thúc luân hồi sinh tử, nhận được kết quả linh thánh của sự thực chứng. Quy định này không phải do ai tạo ra mà đó chính là quy luật nhân quả, là việc thực hành giác ngộ chung của tất cả chư Phật chư bồ tát mười phương.
“Quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm” là một phần quan trọng trong “Giải thoát Đại thủ ấn tối thượng”. Để tránh có người hiểu nhầm hoặc giảng giải sai lệch thậm chí coi thường những quan điểm này, hôm nay ta sẽ đích thân giảng giải chúng. Đây chỉ là bài giảng tóm lược.
Những quan điểm xấu ác thông thường sẽ được liệt kê dưới đây. Gọi là “thông thường” ở đây tức là không bao gồm tất cả những quan điểm xấu ác. Tuy nhiên, căn cứ vào pháp, những quan điểm chủ yếu đã được bao gồm. Nếu con không rơi vào những quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm này, con sẽ tự nhiên trở thành một người tu tập đức hạnh trên con đường đến giác ngộ, là người có chánh tri,chánh kiến và hành động theo Pháp. Mỗi một điều dưới đây đều bắt đầu với cụm từ “quan điểm cho rằng...”. Nếu con chấp nhận, đồng ý, hay thực hiện theo những điều dưới đây chính là con đã rơi vào các quan điểm xấu ác đó.
TÓM LƯỢC NHỮNG QUAN ĐIỂM XẤU ÁC VÀ QUAN ĐIỂM SAI LẦM
(Trích từ bài pháp khẩu truyền của Đức Wanko Yeshe Norbu)
38 QUAN ĐIỂM XẤU ÁC
1. Quan điểm cho rằng thánh thần và ma quỷ là những bậc đạo sư dẫn tới giải thoát.
Những người rơi vào quan điểm này tôn kính ma quỷ và thánh thần như là bậc thầy cho họ nương tựa vào để giải thoát, như những người dẫn dắt họ có thể nương tựa vào để đạt được thành tựu trong Pháp. Những người có quan điểm này kiên quyết tin rằng ma quỷ và thần tiên có thể cứu họ thoát khỏi những khổ đau của sinh, lão, bệnh, tử. Một người giữ quan điểm này tin rằng quỷ thần là những bậc thầy duy nhất có thể cứu họ thoát khỏi luân hồi sinh tử. Trên thực tế, ma quỷ và thần tiên thậm chí còn không thể chấm dứt luân hồi sinh tử của chính bản thân họ. Vì vậy họ chắc chắn không phải là bậc thầy giải thoát cho những người tu tập Phật giáo.
2. Quan điểm cho rằng đạt được những năng lực siêu nhiên là mục tiêu thành tựu trong Pháp.
Những người có quan điểm này nghĩ rằng mục đích của việc tu tập và học Phật pháp là đạt được những ăng lực siêu nhiên và có khả năng thay hình đổi dạng. Họ nghĩ rằng có được những năng lực siêu nhiên là mục tiêu cuối cùng mà chúng ta nên theo đuổi. Họ nghĩ rằng đạt được những năng lực siêu nhiên là đồng nghĩa với đạt được thành tựu hay giải thoát. Các con phải hiểu rằng những năng lực siêu nhiên và thành tựu hay giải thoát là hai việc hoàn toàn khác nhau. Bất luận thần thông có vĩ đại đến thế nào thì chúng cũng không thuộc về bản chất của thành tựu hay giải thoát. Vì vậy, mục tiêu của thành tựu là sự viên mãn của phước huệ, thực chứng được tính Không của Chân như, và làm chủ cuộc sống và cái chết của mình.
3. Quan điểm cho rằng một người có thể vi phạm những giới luật của ba thừa - Phật giáo Nguyên thuỷ, Đại thừa và Kim Cương Thừa.
Những người có quan điểm này cho rằng họ được phép vi phạm giới luật của ba thừa mà họ đã thọ nhận. Họ nghĩ rằng trong một số điều kiện về duyên nghiệp hay với một thực hành giáo pháp đặc biệt thì có thể xa rời giới luật của Tam thừa. Các con phải nhớ rằng trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì giới luật của ba thừa đều không được phép vi phạm. Tất cả mọi người, bao gồm các cao tăng, pháp vương đều phải nghiêm chỉnh tuân thủ giới luật. Nếu không thì họ đều là những kẻ ngoại đạo đội lốt hành giả Phật giáo.
4. Quan điểm cho rằng tu tập tách biệt với Bồ-đề tâm.
Trong Phật pháp có rất nhiều pháp tu. Bất luận người ta sử dụng pháp tu nào đều không được tách rời Bồ-đề tâm. Bất kỳ sự tu tập nào tách rời Bồ-đề tâm đều là việc thực hành xấu átc. Vì vậy, điều quan trọng nhất trong tu tập là không bao giờ được tách rời Bồ-đề tâm. Ngoài ra, chúng ta không nên chấp thuận với những ai tu tập nhưng xa lìa Bồ-đề tâm.
5. Quan điểm cho rằng không cần tuân thủ tất cả giới luật đã thọ nhận.
Khi con đã thọ nhận một giới luật thì phải tuân theo nó đầy đủ. Con phải tuân thủ theo mỗi một và tất cả giới luật con đã thọ nhận. Nghĩ rằng con có thể chỉ tuân theo một hoặc một vài trong số những giới luật đó mà không cần tuân theo một số những giới luật khác là điều không thể chấp nhận. Bất kỳ suy nghĩ nào cho rằng không cần phải thọ giữ toàn bộ các giới luật đều là những quan niệm không những sai lầm mà còn xấu ác.
6. Quan điểm cho rằng một người có thể mạo danh một vị Phật hoặc vị Bồ Tát để truyền bá giáo Pháp.
Những người có quan điểm này nghĩ rằng để truyền bá Phật pháp và mang mọi người đến với Phật pháp thì có thể sử dụng phương tiện thiện xảo nâng cao uy tín của mình bằng cách tự xưng là một vị Phật hay một vị Bồ Tát nào đó. Họ bảo với đệ tử và bạn bè của họ tuyên truyền họ là một vị Phật hay một vị Bồ Tát. Những ai tham gia hoặc chấp thuận hình thức này đều bị xem là rơi vào quan điểm xấu ác.
7. Quan điểm của chủ nghĩa duy thực cho rằng, các hiện tượng thế gian thực sự tồn tại và không phải là huyễn ảo.
Điều này chạm đến chân lý tối hậu. Những người có quan điểm này cho rằng vạn pháp là thật sự tồn tại, không phải huyễn hóa, và có thực. Họ nghĩ rằng tất cả những gì tồn tại trong con người, trong mọi vật, trong mọi sự kiện là có thực. Đối với họ, tất cả các pháp thế gian không phải là vô thường mà là thật sự tồn tại và có thực. Họ xem mọi thứ là thật và không ảo huyễn. Đây là một quan điểm xấu ác.
8. Quan điểm rằng tính Không tách biệt khỏi và độc lập với các hiện tượng thế gian.
Những người có quan điểm này cho rằng tính Không và tất cả những điều thường thấy của pháp thế gian không có quan hệ với nhau. Họ nghĩ rằng chỉ cần thâm nhập vào tính Không thì tất cả hiện thực đều không tồn tại. Họ nghĩ rằng các pháp hữu vi không tồn tại trong tính Không và tính Không là độc lập với các pháp hữu vi. Đây là quan điểm xấu ác. Các con phải hiểu rằng tính Không không tách biệt với các hiện tượng thế gian. Khi đã chứng ngộ được tính Không, các con sẽ hiểu được Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Hai điều này không xung khắc với nhau. Sự thật cơ bản rằng cả hai là một và như nhau. Đó là Chân như, là Phật tính mà từ đó mọi diệu dụng sinh khởi.
9. Quan điểm cho rằng một người có thể đạt giải thoát chỉ bằng cách thực hành một pháp nào đó và không cần tu dưỡng bản thân.
Những người có quan điểm này nghĩ rằng một khi họ học được một pháp nào đó thì họ đã thành công. Chẳng hạn họ nghĩ thật tuyệt vời vì bây giờ họ có thể thực hành pháp thiền Thế thân kim cương, họ nghĩ rằng họ có thể thực hiện pháp và kiểm soát vận mệnh của họ theo ý muốn. Hay họ nghĩ rằng “Tôi có thể thực hành pháp tập trung nội nhiệt (tummo) để tiêu trừ các chướng ngại của nghiệp. Tại sao tôi cần phải tu dưỡng bản thân? Không cần tu dưỡng tôi vẫn sẽ thành tựu và được giải thoát." Đó là một quan điểm xấu ác.
10. Quan điểm cho rằng, Pháp thân là thân có hình tướng.
Như Lai tạng, chân tâm của chúng ta tức là Pháp thân, Pháp thân là một trong ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Những người có quan điểm này mô tả Pháp thân có hình tướng, kích thước, màu sắc hay có một cảm giác yên tĩnh, bình hòa hay an lạc. Bất kỳ quan điểm nào cho rằng Pháp thân là một đối tượng có hình dạng hoặc có nhận thức về cảm xúc là một quan điểm xấu ác.
11. Quan điểm cho rằng, con có thể làm những điều xấu mà vẫn thoát khỏi tội lỗi bằng cách nương tựa vào năng lực của chư Phật.
Những người theo quan điểm này nghĩ rằng nhờ năng lực tu tập của họ, họ đã được chư Phật và chư Bồ Tát mười phương gia hộ. Họ nghĩ rằng họ có thể làm điều xấu mà vẫn thoát khỏi tội lỗi bởi chư Phật và chư Bồ Tát sẽ tới và tiêu trừ tội lỗi của họ ngay lập tức.
12. Quan điểm cho rằng, cắt đứt khỏi sự bám chấp vào bản ngã đồng nghĩa với việc cắt đứt tình cảm dành cho cha mẹ mình.
Để cắt đứt bám chấp vào bản ngã, có những người nam và người nữ thậm chí còn không thừa nhận cả quan hệ của họ với cha mẹ mình. Cũng có những người con lờ đi cảm xúc của cha mẹ mình khi họ khóc lóc vì buồn bã trước quyết định xuất gia của con mình. Những người nam và nữ đó thậm chí còn nghĩ rằng làm như vậy là họ đang cắt đứt bám chấp vào bản ngã. Trên thực tế, sự bất tuân đạo làm con ấy chính là một quan điểm xấu ác. Cắt đứt bám chấp vào bản ngã là để làm lợi lạc cho chúng sinh, chăm sóc chúng sinh và đặt lợi ích của chúng sinh lên trên lợi ích bản thân mình. Điều này không có nghĩa là bất chấp những cảm xúc của cha mẹ mình và cắt đứt quan hệ với họ.
13. Quan điểm cho rằng một người có thể đạt tới Niết-bàn linh thánh chỉ bằng cách làm những việc thiện.
Những người có quan điểm trên nghĩ rằng miễn là họ làm việc thiện và mọi thứ họ làm đều vì lợi ích của chúng sinh, điều này là đủ để đạt tới niết bàn của các bậc thánh nhân và trở thành một vị Phật hoặc Bồ Tát. Một người phải biết rằng, làm việc thiện là hành bố thí có điều kiện. Theo luật nhân quả, việc bố thí như thế sẽ đưa tới quả báo trong cõi người hoặc cõi trời. Tuy nhiên, việc chứng đạt Niết-bàn linh thánh đòi hỏi một sự chứng ngộ trạng thái linh thánh. Điều này đồng nghĩa với việc đạt trạng thái không điều kiện mà trong đó, một người đã chấm dứt luân hồi sinh tử và có sự tự chủ hoàn toàn. Điều này có nghĩa là đạt tới miền đất thánh không sinh, không diệt. Do đó, việc nghĩ rằng, một người có thể đạt tới Niết-bàn linh thánh đơn thuần chỉ bằng cách làm việc thiện là một quan điểm xấu ác. Con phải hiểu rằng, bên cạnh cách đó, người tu tập còn phải thực hành cả pháp thánh linh và không điều kiện. Chỉ khi đó, họ mới có thể đạt được Niết-bàn linh thánh. Không có con đường nào khác ngoài con đường này
14. Quan điểm cho rằng một người nào đó không hành động xuất phát từ Bồ-đề tâm đại bi là một vị Bồ Tát.
Trong xã hội, có nhiều kiểu pháp vương, rinpoche, đạo sư và đại giảng sư. Một số người trong số họ không có Bồ-đề tâm và không hành động vì Bồ-đề tâm. Tuy nhiên, một số phương tiện đại chúng lại miêu tả họ như là những vị đại Bồ Tát. Trên thực tế, họ là những bậc đạo hạnh giả mạo. Do đó, người nào không có Bồ-đề tâm của lòng đại bi thì không phải là Bồ Tát cho dù kẻ đó có mang địa vị gì đi chăng nữa. Quan điểm nhìn nhận những kẻ không hành động vì Bồ-đề tâm đại bi là Bồ Tát chính là một quan điểm xấu ác.
15. Quan điểm không tin chắc vào nhân quả mà lại mê tín vào bói toán và vận may.
Những ai theo quan điểm này không thực sự tin luật nhân quả. Họ không tin vào luật nhân quả một chút nào. Họ phủ nhận luật nhân quả. Thay vào đó, họ tin vào sự bói toán và vận may. Đây là một quan điểm xấu ác. Con phải hiểu rằng vạn pháp đều nằm trong luật nhân quả
16. Quan điểm cho rằng, việc chỉ truyền bá giáo lý tính Không mà không nói về việc tu tập thực sự thông qua các hành vi cụ thể là có thể chấp nhận được.
Loại trường hợp này tồn tại ở Phật giáo Hiển thừa nhiều hơn. Tuy nhiên, nó cũng tồn tại trong Phật giáo Mật thừa. Một số người nổi tiếng hiện thời trong xã hội đặc biệt thích truyền bá những nguyên lý của tính Không. Họ nói về phương pháp Thiền đề thâm nhập vào chân lý. Họ giải thích rằng mọi hiện tượng đều không có tự tính và vốn trống rỗng, rằng một người nên có một trạng thái tâm không bám chấp vào bất cứ điều gì, rằng tâm của một người nên trống rỗng và an tĩnh. Họ nói về bản tính nguyên thủy không đến và không đi. Họ nói về những ngyên lý này bằng những ngôn từ phức tạp, khoa trương, bí hiểm và khó hiểu. Họ đặc biệt thích nói về Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Kim Cương và Bát nhã. Họ nói liên tục về nguyên lý của tính Không mà không bao giờ đề cập đến sự tu tập thực sự thông qua việc thực hành cụ thể. Họ không dạy tu tập thực sự là thế nào. Họ không dạy chúng sinh làm thế nào để thực hành con đường dẫn tới giác ngộ bằng những hành động cụ thể. Có quá nhiều người như vậy. Họ vi phạm nghiêm trọng luật nhân quả. Một người có thể nói về nguyên lý và sự thực về tính Không như một điều có trong Phật pháp. Tuy nhiên, đó chỉ là lý thuyết và không thể giải quyết được vấn đề chấm dứt vòng luân hồi sinh tử. Điều này giải thích tại sao đức Phật Thích-ca Mâu-ni dạy chúng ta làm thế nào để tu dưỡng bản thân. Chỉ có thông qua sự tu dưỡng và chuyển hóa nhân và quả mà một người mới có thể thực chứng được trạng thái mà những lý thuyết đó mô tả. Do đó, người nào chỉ truyền bá những nguyên lý của tính Không mà không giảng về sự tu dưỡng thực sự thông qua thực hành cụ thể là người xấu ác. Quan điểm này là một quan điểm xấu ác.
17. Quan điểm cho rằng, sự tồn tại của sáu cõi luân hồi chỉ là truyện cổ tích, không có thực.
Những ai theo quen điểm này nhìn nhận sáu cõi luân hồi: trời, a-tu-la, người, địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ chỉ tồn tại trong truyện cổ tích. Họ nghĩ rằng những cõi này không tồn tại. Họ nghĩ rằng không có ma cũng như chẳng tồn tại sáu cõi luân hồi. Liệu quan niệm này sẽ không dẫn tới kết luận rằng tất cả nhân và quả là vô nghĩa và sai lầm, và rằng luật nhân quả là không đúng đắn? Con phải hiểu và suy nghĩ cho thấu đáo về việc này. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã dạy rằng sáu cõi luân hồi là có thật. Ngài nói về sự đau khổ của sinh, lão, bệnh và tử và ngũ trược của thời mạt pháp … Tất cả các con đang sống trong thực tại đó. Làm sao điều này lại có thể không tồn tại? Những điều đó là sự thật.
Việc một người phủ nhận sự tồn tại của luân hồi là đang đối lập với đức Phật. Những người này có thể mô tả cõi giới loài người với những nỗi khổ của sự sinh, lão, bệnh và tử như là cõi Tịnh độ của phương Tây. Ta sẽ cho con một ví dụ. Thực sự có những người muốn thay đổi thế giới đầy khổ đau này thành cõi tịnh độ của loài người. Những người này làm những việc tốt, khuyến khích lòng nhân ái với người khác, và hướng dẫn người khác rằng trở thành một người tốt và làm việc thiện là đang thực hành tứ vô lượng tâm. Tuy nhiên, nếu con tin rằng thế giới này có thể biến thành cõi Tịnh độ thực sự của loài người, thì con đang tin vào một điều đi ngược lại với giáo lý của đức Phật. Không có phương pháp nào có thể thay đổi luật nhân quả và luân hồi đã tồn tại trong một thế giới. Cho dù bất kỳ phương pháp nào được áp dụng để tạo ra một kết quả như kỳ vọng, kết quả đó cũng không phải là một cõi tịnh độ. Cõi người vẫn là cõi người. Cõi Tịnh độ vẫn là một cõi Tịnh độ. Sự khác nhau đó như thể là giữa thiên đường và mặt đất vậy. Một bên là thế giới linh thánh và bên còn lại là thế gian thông thường. Cõi tịnh độ là một thế giới ở đó không có sự sinh và diệt. Chúng sinh ở đó mặc những gì họ muốn và ăn những gì họ nghĩ tưởng tới. Không có hình bóng của sự vô thường ở đó. Ngược lại, cái gọi là cõi tịnh độ trong thế giới loài người sẽ đầy rẫy sự đau khổ của sinh, lão, bệnh, và tử.
Con người không thể có áo quần hay thức ăn chỉ bằng cách nghĩ tưởng tới quần áo mặc hay thức ăn. Họ phải làm việc, kiếm tiền để có được những thứ đó. Họ không thể dựa vào trí tưởng tượng để có được chúng. Trong thế giới này, chúng sinh không muốn chịu đau khổ của sinh lão bệnh tử nhưng sự đau khổ này thực sự vẫn tồn tại. Việc thế gian này đầy ắp sự đau khổ là không thể tránh khỏi. Cho dù bất kỳ phương pháp nào được áp dụng, kết quả vẫn chỉ là sự kế thừa những thuộc tính của vô thường vốn gắn với một cõi giới trong phạm vi của vòng luân hồi. Không ai có thể thay đổi được sự vô thường, vốn được tạo ra bởi sinh và diệt, đang tồn tại trong thế giới này. Không bất kỳ người thường nào, cho dù thông thái bao nhiêu, có thể trốn tránh khỏi sự đau khổ của ngũ trược bởi vì đó là quy luật không thể tránh khỏi của vô thường đã tồn tại trong sáu cõi luân hồi. Do đó, sáu cõi luân hồi có tồn tại.
18. Quan điểm cho rằng, một vị đạo sư hoặc một bậc thánh tăng nổi tiếng chắc chắn là những bậc đạo hạnh linh thánh.
Bất kỳ khi nào, người theo quan điểm này khi gặp một đạo sư hoặc tăng sĩ nổi tiếng, đều kết luận rằng, đó là bậc thánh tăng hay bậc đạo hạnh linh thánh. Vậy cụm từ “đạo sư hay tăng sĩ nổi tiếng” có ý nghĩa thế nào? Họ thuộc loại những cao tăng đã có tên tuổi hoặc được xem là tuyệt vời trên khắp thế giới. Những người theo quan điểm này kết luận rằng, những tăng sĩ như vậy đều là bậc đạo hạnh linh thánh vĩ đại. Trên thực tế, những tăng sĩ trên có thể có và cũng có thể không là những bậc đạo hạnh linh thánh. Thậm chí có một số vị pháp vương cực kỳ nổi tiếng trong Phật giáo thực chất chỉ là những người bình thường.
19. Quan điểm cho rằng, những lợi ích cá nhân còn quan trọng hơn cả Phật pháp.
Khi có sự xung đột giữa lợi ích cá nhân của con và Phật pháp, con chọn Phật pháp hay lợi ích của bản thân mình? Nếu con coi lợi ích của riêng con cao hơn Phật pháp, thì quan điểm đó của con là xấu ác. Con phải không được nhìn nhận lợi ích cá nhân cao hơn Phật pháp. Phật pháp là kho tàng tối cao. Một người từ bỏ mạng sống của mình thì còn tốt hơn là anh ta từ bỏ Phật pháp.
20. Quan điểm cho rằng, một người có thể giết chết một sinh mạng mà không phạm tội chỉ nhờ việc người đó tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết lên cõi giới cao hơn.
Những người theo quan điểm này nghĩ rằng, bằng việc tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết, họ có thể đưa thần thức của sinh linh này lên cõi giới cao hơn, bao gồm cả những chúng sinh mà họ giết hoặc bất kỳ chúng sinh bị chết nào khác. Họ nghĩ rằng miễn là một sinh linh đã chết, họ có thể nâng đỡ sinh linh đó lên cõi giới cao hơn bằng cách tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết. Làm như thế, họ nghĩ rằng sẽ không còn vấn đề gì nữa. Tuy nhiên, nếu con tụng thần chú nâng đỡ thần thức của sinh linh đã chết trong khi con lại cố ý giết hại một sinh linh sống, con sẽ không thể nâng thần thức của họ lên cõi giới cao hơn mà còn phạm vào một tội đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, những người nào tụng thần chú nâng đỡ thần thức sinh linh đã chết mà lại giết hại một sinh linh đang sống sẽ không tăng trưởng được một chút công đức nào. Kết quả duy nhất là nghiệp xấu của người đó sẽ còn nặng thêm.
21. Quan điểm cho rằng, việc đối kháng với những vấn đề được quyết định bởi bậc đạo sư gốc của mình, người đã có cả sự chứng ngộ linh thánh và Bồ-đề tâm là chấp nhận được.
Thuật ngữ đạo sư gốc đề cập tới bậc đạo sư gốc có sự chứng ngộ linh thánh và Bồ-đề tâm; đó là, một người có đạo hạnh cao cả và sự chứng ngộ linh thánh và hành động với Bồ-đề tâm. Hơn thế, một đạo sư như vậy không mắc phải bất kỳ điều nào của 128 quan điểm xấu ác và sai lầm. Con thực hành pháp Ngài truyền như giáo pháp căn bản của con. Ví dụ, vị Bổn tôn của con đến từ việc thực hành pháp ngài truyền cho con, con dự định thực hành cả đời Pháp ngài đã trao truyền cho con cho tới khi đạt thành tựu. Đó là ý nghĩa của bậc đạo sư gốc. Nếu một đệ tử nghĩ rằng đối kháng hoặc bỏ qua những vấn đề được đạo sư gốc quyết định là có thể chấp nhận được, thì đây là một quan điểm xấu ác. Tuy nhiên, nếu bậc đạo sư gốc mắc phải một vài điều trong 128 quan điểm này, thì ông ấy có thể đã trở thành một đạo sư xấu ác bất chấp rằng ông ấy là một pháp vương, một tôn giả, hay một vị thầy. Trong trường hợp này, con tuyệt nhiên có thể không làm theo và thực hiện điều ông ấy quyết định, vì làm vậy là hỗ trợ cho điều xấu ác. Nếu con tiếp tục theo một đạo sư với những quan điểm xấu ác và sai lầm, con sẽ không nhận được bất kỳ kết quả lợi lạc nào từ việc bạn thực hành bất kỳ Pháp nào.
22. Quan điểm cho rằng, việc kính trọng chư Phật và bậc đạo sư của con nhưng lại không hiếu thảo với cha mẹ là chấp nhận được.
Một vài người rất kính trọng vị đạo sự của họ cùng các vị Phật và Bồ Tát. Tuy nhiên, họ cãi lại hoặc nói một cách ngang ngược với cha mẹ và đối kháng với ước nguyện của cha mẹ họ. Họ không thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ và thậm chí bỏ rơi cha mẹ của họ để đi đến những nơi xa xôi, nơi họ hoàn toàn bỏ mặc cha mẹ. Điều này phản ánh một quan điểm xấu ác.
23. Quan điểm tin tưởng vào một địa vị và thân thế của ai đó hơn là chân lý tối hậu.
Có một vài vị pháp vương, rinpoche và pháp sư có địa vị rất cao. Họ có thể thậm chí xếp hạng nhất nhì trong những vị pháp vương, rinpoche và pháp sư vĩ đại. Khi chúng ta nghe họ giảng giải sai lạc giáo pháp, chúng ta không vận dụng chân lý đúng đắn và tối hậu để nhận ra những lỗi như vậy, và chúng ta không áp dụng những nguyên lý Phật pháp để xét đoán xem lời họ nói có đúng hay không. Chúng ta nghĩ rằng pháp họ diễn giải chắc chắn phải chính xác đơn giản bởi vì họ có địa vị là pháp vương cao quý hay những địa vị khác. Quan điểm như thế là một quan điểm xấu ác.
24. Quan điểm cho rằng, những chúng sinh đã từng là những vị Phật sau này lại bị đọa xuống làm chúng sinh bình thường.
Có một vài người thường miêu tả những chúng sinh như là những vị Phật. Họ nói rằng từ khởi thủy những chúng sinh đã từng là những vị Phật nhưng sau đó bị đọa xuống thành những chúng sinh do sự vô minh và phiền não tăng trưởng. Đây là một học thuyết xấu ác được thêu dệt bởi những người không hiểu gì về Phật pháp. Chúng sinh luôn là chúng sinh và từ khởi thủy chưa bao giờ là những vị Phật. Chúng sinh bị chi phối bởi những nghiệp chướng, như là những nỗi khổ của sinh, lão, bệnh, tử. Tuy nhiên, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Họ có thể trở thành những vị Phật nhờ việc học Phật giáo, tu tập, và thực hành theo Pháp. Các con phải hiểu rằng những chúng sinh tuyệt đối không phải là bị đoạ từ những vị Phật trở thành chúng sinh. Những chúng sinh là những chúng sinh. Không có chuyện các vị Phật bị đọa thành chúng sinh. Nếu những vị Phật có thể bị đọa thành những chúng sinh, thì khi nào Phật Thích-ca Mâu-ni sẽ đọa thành một chúng sinh đây?
25. Quan điểm cho rằng việc kết hợp pháp thực hành ngoại đạo với pháp thực hành của Phật pháp là chấp nhận được.
Kiểu trường hợp này là rất nhiều. Mọi người thực hành kết hợp Phật pháp và những phương pháp ngoại đạo. Đây là do có số lượng lớn và đa dạng các phương pháp hay thực hành ngoại đạo, như là việc chọn một giờ tốt hay ngày lành cho một sự kiện, âm dương, phong thủy, lá số tử vi hay bùa chú, gọi hồn, bói toán bằng các ký tự Trung Hoa và những phương pháp khác, lên đồng, nuôi âm binh, và v.v… Tất cả những điều này là thực hành ngoại đạo. Thực hành kết hợp những cách đó cùng với Phật pháp là xấu ác.
26. Quan điểm cho rằng, luật nhân quả chỉ là do tưởng tượng và không có thực.
Một vài người nghĩ rằng luật nhân quả không tồn tại. Họ nghĩ rằng chẳng cần phải e ngại vì chẳng có nghiệp báo gì cả. Họ nghĩ rằng vẫn ổn khi làm điều tồi tệ mà không ai phát hiện ra. Nói ngắn gọn, với họ không có điều gì là nghiệp báo cả. Hãy nhớ rằng, cho rằng luật nhân quả chỉ là tưởng tượng và không có thực là một quan điểm xấu ác.
27. Quan điểm cho rằng, mọi hiện tượng phi thường kỳ lạ là biểu hiện của những năng lực siêu nhiên đến từ Phật pháp.
Trong thế giới này, có nhiều dạng hiện tượng huyền bí và lạ thường. Ngoại đạo sử dụng những hiện tượng như vậy để lừa gạt và làm rối loạn chúng sinh. Khi làm việc đó, họ đã tạo mọi loại nghiệp xấu. Tất cả các hiện tượng kỳ lạ này không phải là biểu hiện của những năng lực siêu nhiên đến từ Phật pháp mà chỉ là những việc làm của ma quỷ.
28. Quan điểm cho rằng, một bậc đạo sư đã học những Pháp cao cấp chắc chắn là một bậc thánh nhân vĩ đại.
Một vài người nghĩ rằng vì một vị thầy đã nhận một quán đảnh vĩ đại hay đã học một Pháp cao cấp, người đó phải là một thánh nhân vĩ đại. Điều đó không đúng. Nếu bạn có một cái nhìn như vậy, bạn đã rơi vào tà đạo. Một vị thầy đã học một pháp cao cấp không nhất thiết đã thành tựu trong thực hành pháp cao cấp đó. Một vị thầy đã học pháp cao cấp không nhất thiết đã tuân thủ đúng giới luật theo pháp cao cấp đó. Các con phải xác định xem vị thầy này có mắc phải bất kỳ điều nào trong 128 quan điểu xấu ác và sai lầm không. Bởi vậy, các con không nên nghĩ rằng một người nào đó đã học những Pháp cao cấp chắc chắn là một bậc thánh nhân vĩ đại. Một người trở thành một thánh nhân vĩ đại thông qua chính sự tu tập cụ thể của họ.
29. Quan điểm cho rằng, con có thể trì hoãn sự tu tập của mình đến ngày mai.
Mọi người thường nghĩ, “Hôm nay tôi mệt quá, nên tôi sẽ không thực hành pháp, tôi sẽ tập vào ngày mai.” Hay họ nói, “Mình sẽ tận hưởng ngày hôm nay. Ngày mai mình sẽ thực hành pháp. Ngày mai mình sẽ tu dưỡng tâm và những hành động của mình." Ngay khi những suy nghĩ như vậy xuất hiện trong tâm thức, họ đã gieo một hạt giống nghiệp dẫn đến đọa vào luân hồi mà không được giải thoát. Hãy nhớ trong tâm rằng đây là một hạt giống nghiệp dẫn đến sự suy đồi. Sự tu tập không thể bị hoãn đến ngày mai. Làm như vậy là rơi vào quan điểm xấu ác này.
30. Quan điểm cho rằng, một bậc đạo sư có thể nói những điều sai trái và lừa dối chúng sinh là chấp nhận được.
Một vài vị đạo sư nói điều sai trái để lừa dối chúng sinh và những đệ tử của họ. Họ nói rằng làm như vậy họ đang sử dụng phương tiện thiện xảo. Tuy nhiên, những vị đạo sư làm điều này đang theo một quan điểm xấu ác. Những người nghĩ cách cư xử như vậy là có thể chấp nhận được cũng đang nuôi dưỡng một quan điểm xấu ác.
31. Quan điểm cho rằng, con có thể được hưởng những kết quả lợi lạc từ sự thực hành mặc dù con cố tình nói dối bậc đạo sư gốc của con.
Có những người cố ý nói dối với đạo sư gốc của họ, hoặc là khi được đạo sư hỏi, họ giấu đi một nửa sự thật, và nghĩ rằng điều đó không ảnh hưởng gì lớn cả, thậm chí họ còn thấy điều đó là tự nhiên và đúng đắn. Thế là họ cư xử như thể chẳng có gì là sai cả. Đây là một quan điểm xấu ác. Thật vậy, khi nào con còn nói dối với đạo sư của con, thì con sẽ không nhận được những thành quả tốt từ việc thực hành Pháp. Không chút lợi ích nào có thể có được, bất kể con thực hành Pháp nào, vì các vị bổn tôn và hộ pháp sẽ không gia trì cho con.
32. Quan điểm ủng hộ những người có năng lực siêu nhiên nhưng không hành động xuất phát từ Bồ-đề tâm.
Có một số hành giả hay yogi đạt được những năng lực siêu nhiên nhưng không hành xử xuất phát từ Bồ-đề tâm, nếu một người nào ủng hộ cho những người có năng lực siêu nhiên nhưng không hành động bằng Bồ-đề tâm, thì người đó đã bị rơi vào quan điểm xấu ác này.
33. Quan điểm ủng hộ những giảng sư, rinpoche và cư sĩ mà phẩm hạnh của họ không phù hợp với giới luật.
Có những rinpoche, giảng sư, và cư sĩ chưa bao giờ thọ một giới nào. Thậm chí có những người đã nhận giới luật nhưng lại không giữ giới mà họ đã thọ nhận. Đó là những giảng sư, rinpche và cư sĩ dởm, họ chỉ mang hình thức bề ngoài nhưng không hề thực sự là như vậy. Vì vậy, mỗi rinpoche, giảng sư hoặc cư sĩ phải thọ nhận những giới luật phù hợp với họ và phải tuân theo những giới luật này theo đúng với Pháp.
34. Quan điểm cho rằng việc giúp đỡ những đạo sư xấu của con làm những điều xấu lại là hành động bảo vệ Pháp.
Có những đệ tử mà đạo sư gốc hoặc đạo sư của họ tham gia vào những hành vi xấu vi phạm các giới luật của Phật giáo. Những đệ tử này không những không chịu rời bỏ thầy mình, mà còn có những nỗ lực lớn lao để giúp thầy mình làm những điều nằm trong 128 quan điểm xấu ác và sai lầm này. Họ cho rằng họ đang bảo vệ Pháp. Đây là một quan điểm xấu ác.
35. Quan điểm cho rằng việc chấp nhận và đi theo một bậc thầy truyền bá sai lầm hoặc không hiểu về Phật pháp thì hơn là việc đi theo một bậc thầy tốt.
Những môn đồ mắc quan điểm này chấp nhận và đi theo một vị thầy dù ông ta giảng dạy sai lạc và không hiểu biết đúng về Phật pháp. Khi thấy ra sự sai phạm của thầy mình, họ không chịu mau rời bỏ để tìm kiếm một bậc thầy Phật giáo có thể thực sự giảng những giáo lý đúng đắn theo đúng với Pháp; họ cứ tiếp tục đi theo người thầy giảng sai về Pháp. Điều này gieo nhân dẫn đến một đời sống suy thoái. Một đệ tử như vậy nên ngay lập tức tìm một vị thầy tốt có đức hạnh cao cả, nếu không, người đó sẽ bị đọa xuống một trong ba cõi thấp.
36. Quan điểm ủng hộ việc bố thí không trong sáng mà trong đó người bố thí ghi nhớ và bám chấp vào hành động bố thí.
Khi làm bất cứ điều tốt nào, chúng ta không nên có suy nghĩ của một người bố thí không trong sáng, luôn ghi nhớ và bám chấp vào hành vi bố thí của mình. Sau khi làm một điều tốt, ta nên buông xả nó. Chúng ta đã làm điều đó xong rồi và nó đã trôi qua. Ta chỉ đơn giản quên chúng đi ngay sau đó. Lòng từ và bi của ta nên đến tự nhiên như là bản năng. Hành động với lòng từ bi không nên là điều gì mà chúng ta phải cố ý mới làm được. Vì vậy, khi con có suy nghĩ của một kẻ bố thí không trong sáng, luôn ghi nhớ điều mình làm và bám chấp vào nó, thì phước báo của con cũng sẽ bị giới hạn trong cõi người hoặc cõi trời. Con chỉ có thể được hưởng phước đức hạn chế và không thể trở thành một bậc thánh. Vì rằng động cơ hay hạt mầm con đã gieo trồng là không trong sáng, thì quả con gặt được cũng sẽ không vững chắc. Những kết quả có được từ động cơ không trong sáng cuối cùng cũng sẽ cạn kiệt. Khi chúng đã hết và con không cố gắng tích lũy thêm những phước đức khác, thì sẽ tới lúc con phải gánh chịu hậu quả của những nghiệp xấu.
37. Quan điểm ủng hộ một người không chịu hối lỗi công khai vì đã truyền bá sai lầm giáo lý trong kinh điển.
Một số người đã truyền bá sai lầm những giáo lý trong kinh điển nhưng vẫn bám chấp vào bản ngã và thể diện. Họ không thể nào buông bỏ được cách nghĩ của một người bình thường. Vì thế mà họ không ăn năn hối lỗi công khai. Họ sẽ tự nói “tôi đã tự mình sửa chữa rồi!" Điều đó là không thể chấp nhận được. Người như vậy không phải là một hành giả thực sự. Các vị hộ pháp sẽ không tha thứ cho họ. Hơn nữa, luật nhân quả không bao giờ sai. Những người truyền bá sai lầm những giáo lý trong kinh điển cần ngay lập tức hối lỗi công khai trước mọi người. Cái họ cần là kết quả trong tu tập chứ không phải là giữ thể diện. Chắc là con sẽ không muốn bị đọa xuống một trong ba cõi thấp nhất để rồi mang lốt của loài vật hay là ma quỷ.
38. Quan điểm cho rằng, việc tự gọi bản thân là một vị Phật hay Bồ Tát trước mặt các đệ tử của con là chấp nhận được.
Người mà, trước các đệ tử, tự tuyên bố mình là tái sinh của một vị đức hạnh cao cả, của một vị Phật hay Bồ Tát, hay một vị thánh nhân vĩ đại ... thì đó là người lừa dối. Tuy nhiên, nếu người ấy có sự chứng nhận danh tính được ban hành theo đúng quy định của Pháp, thì tất nhiên người đó đúng là người trong giấy chứng nhận đã công nhận. Tuy vậy, người ấy vẫn nên khiêm tốn và không được khoe khoang. Bằng không thì người ấy cũng chỉ có tâm thức của một người bình thường mà thôi. Nếu một người không hề có chứng chỉ công nhận theo quy định của Pháp thì họ càng không nên liều lĩnh đi khoe khoang về mình. Điều đó sẽ tạo cho họ nghiệp xấu dẫn đến tái sinh một trong ba cõi thấp. Người liều lĩnh khoác lác về mình sẽ phải bị nghiệp báo to lớn và khủng khiếp. Con đừng bao giờ làm như thế.
Những gì ta đã mô tả trên đây là những quan điểm xấu ác. Những quan điểm này không chỉ mang tính ngoại đạo mà còn rất tồi tệ. Đây là những vấn đề thực sự nghiêm trọng. Con nên nhớ rằng, việc truyền bá cuốn giáo pháp này là không thể bị ngăn trở. Cả thế giới sẽ đọc nó. Họ sẽ sao nó từ Bản ghi về những trường hợp không thể chối cãi. Chỉ bằng cách chân thành học Phật pháp và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh mà con mới trở thành một bậc lãnh đạo phạm hạnh vĩ đại hoặc một bậc thầy thực sự vĩ đại trong thế hệ của con.
Ta lấy ví dụ, chúng ta có ba bậc phạm hạnh đã đạt quả vị trên đường đạo. Đỉnh đầu của họ đã được mở rộng. Ý thức của họ có thể đi ra và quay trở lại thân thể tùy ý. Họ thậm chí có khả năng khiến ý thức rời khỏi thân thể để nâng một vật hoặc rời khỏi thân thể họ để hành thiền. Họ có thể làm những việc đó không chút trở ngại. Họ đã hiểu tâm và nhìn thấy bản tánh nguyên thủy của họ. Họ đã đạt được giải thoát toàn hảo. Những điều này và những thành tựu khác của họ phản ánh một chuỗi những năng lực chứng ngộ. Tuy nhiên, họ vẫn rất khiêm tốn.
Con phải đặc biệt thận trọng và chú tâm. Khi khám phá ra rằng con đang theo bất kỳ một trong những quan điểm xấu ác này, nếu con không sám hối một cách sâu sắc và sửa chữa ngay lập tức, con sẽ không đạt được kết quả lợi lạc từ việc thực hành bất kỳ pháp nào và thậm chí sẽ còn bị thoái hóa. Điều này đúng với bất cứ người nào, bất kể địa vị mà người đó có được, như những tổ sư, pháp vương, hay tôn giả. Đó là nghiệp xấu con phải trả từ việc không sửa chữa bản thân sau khi theo một trong những quan điểm xấu ác này. Con vẫn đang chịu ảnh hưởng của nghiệp xấu thậm chí nếu con cho rằng con không bị ảnh hưởng bởi con là một Bồ tát đã đạt quả vị Diệu giác. Con tự xưng đều đó chỉ có ý nghĩa rằng, con là bậc Bồ tát diệu giác giả mạo. Khi một vị bồ tát ở địa diệu giác khám phá ra lỗi lầm của mình, vị đó sẽ nói ngay như thế này “Tôi thật sai lầm. Tôi xin sám hối trước toàn thể chư Phật mười phương và trước các đệ tử của tôi!” Vị đó sẽ nói vậy bởi vì vị đó cởi mở và thẳng thắn và không có một chút phiền não nào. Do đó, cho dù địa vị của con có cao thế nào, nếu con không sám hối sau khi khám phá ra rằng, con đang theo một quan điểm xấu ác, con sẽ không được lợi lạc gì từ việc thực hành bất cứ Pháp nào. Con sẽ càng ngày càng xa với những năng lực chứng ngộ.
Tại sao ta lại đề cập đến khái niệm “năng lực chứng ngộ”. Bởi vì có nhiều người mong muốn ta truyền pháp cho họ nhờ đó họ có năng lực siêu nhiên để hàng phục chúng sinh. Những vị rinpoche hay giảng sư loại này đã yêu cầu như vậy thực sự không chín chắn và rất vô minh! Các vị hộ pháp sẽ kiểm soát liệu con có đủ khả năng thể hiện năng lực chứng ngộ hay không. Khi con theo những quan điểm xấu ác này, các vị hộ pháp sẽ coi con như một người xấu. Họ ghi lại những lỗi lầm của con. Họ thậm chí, một ngày nào đó, có thể hỗ trợ cái chết đến với con. Tuy nhiên, con vẫn tham lam tìm cách lừa dối để có được năng lực chứng ngộ. Làm sao mà các vị hộ pháp có thể giúp con trong việc thực hiện sự lừa dối đó? Trong Phật pháp, chỉ có trạng thái chứng ngộ là thanh tịnh, hoàn mỹ và vô ngã. Không có chuyện đạt được khả năng siêu nhiên hay sức mạnh của Pháp nhờ vào sự may mắn. Chư Phật và chư Bồ-tát sẽ không ban cho con những năng lực như vậy. Không phải là ta từ chối trao cho con những năng lực đó. Thậm chí ngay cả khi con học và thực hành các nghi lễ, con sẽ không thành công trong việc đạt được những năng lực đó. Hơn nữa, động cơ của con không tốt khi con tìm kiếm phương cách “hàng phục” chúng sinh một cách kỳ quặc. Con phải rõ ràng về điều này. Con không nên áp dụng những phương pháp để trấn áp họ. Con nên giáo hóa họ nhờ vào lòng đại bi của mình. Ta rất lấy làm xấu hổ khi ta không có được những năng lực chứng ngộ. Ta đã nói với Kaichu Rinpoche, “Sự hành trì pháp tập trung nội nhiệt của con thực sự đáng ngạc nhiên. Điều này đã gây ấn tượng đối với ta. Ta không có khả năng đó. Tuy nhiên, ta hy vọng rằng, ta sẽ không nhìn thấy con thể hiện sức mạnh này của mình lần thứ hai. Ta hy vọng sẽ nhìn thấy con thể hiện nhiều hơn Bồ đề tâm linh thánh dựa trên lòng từ bi vĩ đại. Nếu không có Bồ đề tâm, con sẽ không được hưởng bất cứ lợi ích gì đến từ chánh tư duy.”
Nếu con theo dù chỉ một quan điểm xấu ác mà không sám hối và sửa chữa rốt ráo, con không chỉ không có được năng lực chứng ngộ hoặc kinh nghiệm bất cứ kết quả tốt nào từ việc hành trì của mình, con sẽ còn phải ở trong luân hồi mãi mãi. Hơn nữa, những ai vi phạm nghiêm trọng dù chỉ một quan điểm xấu ác, sẽ phải bị đọa xuống một trong ba cõi thấp trong vòng luân hồi! Thậm chí, điều này không chừa cả những người nào dính dáng tới những kẻ đi theo một quan điểm xấu ác. Nếu con không rời bỏ những ai đang đi theo một quan điểm xấu ác và không hề thay đổi và sám hối, con sẽ bị ảnh hưởng bởi nghiệp xấu từ sự vi phạm của họ. Giờ ta sẽ nói về việc nếu con có liên quan với người theo một quan điểm xấu ác. Có thể con là đệ tử hoặc đồng môn của người đó. Con khám phá rằng người đó đã phạm vào một quan điểm xấu ác. Có thể ban đầu, người đó không ý thức được việc vi phạm này. Tuy nhiên, sau này, một ai đó nhắc nhở rằng anh ta đang vi phạm vào một quan điểm xấu ác, nhưng người đó không thay đổi hay sám hối. Nếu biết sự việc này mà con vẫn tiếp tục liên kết và không rời bỏ người đó, con sẽ chịu nghiệp xấu bởi sự vi phạm của anh ta. Điều này vô cùng nghiêm trọng.
Nếu một vị thầy không vi phạm một trong 128 quan điểm xấu ác và sai lầm này, người đó chắc chắn là một bậc phạm hạnh linh thánh. Những ai là đệ tử của vị thầy đó cần phải kính trọng và cúng dường thầy với một trái tim sùng kính nhất và nên làm mọi thứ có thể để giới thiệu người khác trở thành đệ tử của thầy. Bất kỳ người đệ tử nào làm điều này cũng tích tập được vô lượng công đức. Bất kỳ người đệ tử nào không theo 128 quan điểm xấu ác và sai lầm này là người sở hữu đức hạnh và phẩm chất của một bậc thầy linh thánh. Không nghi ngờ gì người đó sẽ không chỉ trở nên thành tựu mà chắc chắn còn làm lợi ích cho mọi người, cứu giúp chúng sinh và trở thành hình mẫu cho người khác.
Bài pháp trên đây được giảng từ tâm Bồ đề luôn vì mục đích làm lợi ích cho chúng sinh một cách bình đẳng và vô ngã. Mục tiêu là để làm lợi ích cho những ai là những vị thầy và để bảo vệ và chăm sóc chúng sinh để họ tích tập những phẩm hạnh xứng đáng, làm nền tảng cho trí tuệ và phước báu. Tất cả những nguyên lý ta giải thích trên đây là phù hợp với Pháp và giáo lý của đạo Phật. Những gì ta giải thích trên đây không có gì vì lợi ích cho bản thân ta hay cho bất kỳ cá nhân cụ thể nào khác, và cũng hoàn toàn không mang tinh thần bộ phái. Mọi Phật tử nên hàng phục tâm mình và nuôi dưỡng tâm thái đúng đắn dựa trên những gì ta đã giải thích ở trên. Tiếp đến, ta sẽ giải thích những quan điểm sai lầm. Những quan điểm sai lầm này ít nghiêm trọng hơn những quan điểm xấu ác.
Tuy nhiên, việc theo hai hay ba quan điểm sai lầm cũng tạo nghiệp xấu gần như là theo một quan điểm xấu ác, tùy vào tính nghiêm trọng của từng quan điểm sai lầm mắc phải. Nếu con đi theo một quan điểm sai lầm nào đó mà kết quả của vi phạm tương đối nhẹ so với việc theo các quan điểm sai lầm khác, thì hậu quả xảy ra có thể không nghiêm trọng như vậy. Tuy nhiên, nếu con theo một quan điểm sai lầm nào đó mà kết quả của vi phạm nặng nề hơn việc theo những quan điểm sai lầm khác, những hậu quả xảy ra có thể rất nghiêm trọng. Con chắc chắn không nên chủ quan về thực tế này.
Những quan điểm sai lầm thông thường được tổng kết ở danh sách dưới đây. Cụm từ “thông thường” ở đây có nghĩa là không phải toàn bộ những quan điểm sai lầm được nêu ra dưới đây. Tuy nhiên, những quan điểm sai lầm quan trọng hơn đã được bao gồm trong đó.
VỀ NHỮNG QUAN ĐIỂM XẤU ÁC VÀ QUAN ĐIỂM SAI LẦM
(Trích từ bài pháp thoại từ kim khẩu của Ngài)
Hôm nay ta sẽ giảng cho các con điều gì? Ta sẽ giảng về điều mấu chốt trong Phật pháp, đó là điều vô cùng quan trọng để đạt được giải thoát. Ta phải nhắc nhở các con, vì bài pháp ta giảng cho các con hôm nay là một bài pháp rất quan trọng, các con thực sự không thể coi nhẹ. Điều gì làm cho nó quan trọng? Pháp này liên quan đến một vấn đề lớn rằng các con có thể trải nghiệm những kết quả hữu ích từ việc học hỏi Phật pháp và tu dưỡng bản thân hay không. Nó liên quan đến việc con có thể tăng trưởng công đức, trí tuệ và đạt được giải thoát hay các con sẽ bị rơi vào một trong ba cõi thấp.
Hôm nay ta sẽ giảng về những quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm. Nếu những ai đang học hỏi Phật giáo và tu dưỡng bản thân mà rơi vào một trong số những quan điểm xấu ác này thì sẽ không thể đạt được giải thoát. Hơn nữa, sự tu tập của người ấy cũng sẽ không thể tăng trưởng công đức và trí tuệ, không thể đạt đến cảnh giới thành đạo.
Bất kể con thuộc tông phái nào, chỉ cần con muốn chấm dứt luân hồi sinh tử, muốn đạt được giải thoát, thì không được phép rơi vào một trong những quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm này. Nếu con rơi vào ngay cả chỉ là một trong số những quan điểm xấu ác con cũng không thể tích lũy được phước đức và trí tuệ bằng sự tu tập của con. Hơn nữa, con sẽ không thể đạt được giải thoát. Tuy nhiên, sau khi rơi vào những quan điểm này, nếu con sám hối và ngay lập tức sửa chữa thì sẽ không có vấn đề gì.
Tội của việc rơi vào quan điểm sai lầm thì nhẹ hơn so với tội rơi vào quan điểm xấu ác. Tuy là nhẹ hơn nhưng có một vài quan điểm sai lầm mà nếu đi theo sẽ gây ra vấn đề ngay cả khi con chỉ rơi vào một trong số các quan điểm đó. Có một số quan điểm sai lầm mà nếu đi theo sẽ ngăn con không thể hoàn thiện trong thực hành và trải nghiệm những kết quả hữu ích ngay cả khi con chỉ rơi vào hai hoặc ba trong số các quan điểm sai lầm đó.
Không theo 128 quan điểm này là quy định nghiêm ngặt của Pháp. Tất cả các Phật tử phải tuân theo quy định này, bằng cách không rơi vào những quan điểm này họ có thể kết thúc luân hồi sinh tử, nhận được kết quả linh thánh của sự thực chứng. Quy định này không phải do ai tạo ra mà đó chính là quy luật nhân quả, là việc thực hành giác ngộ chung của tất cả chư Phật chư bồ tát mười phương.
“Quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm” là một phần quan trọng trong “Giải thoát Đại thủ ấn tối thượng”. Để tránh có người hiểu nhầm hoặc giảng giải sai lệch thậm chí coi thường những quan điểm này, hôm nay ta sẽ đích thân giảng giải chúng. Đây chỉ là bài giảng tóm lược.
Những quan điểm xấu ác thông thường sẽ được liệt kê dưới đây. Gọi là “thông thường” ở đây tức là không bao gồm tất cả những quan điểm xấu ác. Tuy nhiên, căn cứ vào pháp, những quan điểm chủ yếu đã được bao gồm. Nếu con không rơi vào những quan điểm xấu ác và quan điểm sai lầm này, con sẽ tự nhiên trở thành một người tu tập đức hạnh trên con đường đến giác ngộ, là người có chánh tri,chánh kiến và hành động theo Pháp. Mỗi một điều dưới đây đều bắt đầu với cụm từ “quan điểm cho rằng...”. Nếu con chấp nhận, đồng ý, hay thực hiện theo những điều dưới đây chính là con đã rơi vào các quan điểm xấu ác đó.
TÓM LƯỢC NHỮNG QUAN ĐIỂM XẤU ÁC VÀ QUAN ĐIỂM SAI LẦM
(Trích từ bài pháp khẩu truyền của Đức Wanko Yeshe Norbu)
38 QUAN ĐIỂM XẤU ÁC
1. Quan điểm cho rằng thánh thần và ma quỷ là những bậc đạo sư dẫn tới giải thoát.
Những người rơi vào quan điểm này tôn kính ma quỷ và thánh thần như là bậc thầy cho họ nương tựa vào để giải thoát, như những người dẫn dắt họ có thể nương tựa vào để đạt được thành tựu trong Pháp. Những người có quan điểm này kiên quyết tin rằng ma quỷ và thần tiên có thể cứu họ thoát khỏi những khổ đau của sinh, lão, bệnh, tử. Một người giữ quan điểm này tin rằng quỷ thần là những bậc thầy duy nhất có thể cứu họ thoát khỏi luân hồi sinh tử. Trên thực tế, ma quỷ và thần tiên thậm chí còn không thể chấm dứt luân hồi sinh tử của chính bản thân họ. Vì vậy họ chắc chắn không phải là bậc thầy giải thoát cho những người tu tập Phật giáo.
2. Quan điểm cho rằng đạt được những năng lực siêu nhiên là mục tiêu thành tựu trong Pháp.
Những người có quan điểm này nghĩ rằng mục đích của việc tu tập và học Phật pháp là đạt được những ăng lực siêu nhiên và có khả năng thay hình đổi dạng. Họ nghĩ rằng có được những năng lực siêu nhiên là mục tiêu cuối cùng mà chúng ta nên theo đuổi. Họ nghĩ rằng đạt được những năng lực siêu nhiên là đồng nghĩa với đạt được thành tựu hay giải thoát. Các con phải hiểu rằng những năng lực siêu nhiên và thành tựu hay giải thoát là hai việc hoàn toàn khác nhau. Bất luận thần thông có vĩ đại đến thế nào thì chúng cũng không thuộc về bản chất của thành tựu hay giải thoát. Vì vậy, mục tiêu của thành tựu là sự viên mãn của phước huệ, thực chứng được tính Không của Chân như, và làm chủ cuộc sống và cái chết của mình.
3. Quan điểm cho rằng một người có thể vi phạm những giới luật của ba thừa - Phật giáo Nguyên thuỷ, Đại thừa và Kim Cương Thừa.
Những người có quan điểm này cho rằng họ được phép vi phạm giới luật của ba thừa mà họ đã thọ nhận. Họ nghĩ rằng trong một số điều kiện về duyên nghiệp hay với một thực hành giáo pháp đặc biệt thì có thể xa rời giới luật của Tam thừa. Các con phải nhớ rằng trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì giới luật của ba thừa đều không được phép vi phạm. Tất cả mọi người, bao gồm các cao tăng, pháp vương đều phải nghiêm chỉnh tuân thủ giới luật. Nếu không thì họ đều là những kẻ ngoại đạo đội lốt hành giả Phật giáo.
4. Quan điểm cho rằng tu tập tách biệt với Bồ-đề tâm.
Trong Phật pháp có rất nhiều pháp tu. Bất luận người ta sử dụng pháp tu nào đều không được tách rời Bồ-đề tâm. Bất kỳ sự tu tập nào tách rời Bồ-đề tâm đều là việc thực hành xấu átc. Vì vậy, điều quan trọng nhất trong tu tập là không bao giờ được tách rời Bồ-đề tâm. Ngoài ra, chúng ta không nên chấp thuận với những ai tu tập nhưng xa lìa Bồ-đề tâm.
5. Quan điểm cho rằng không cần tuân thủ tất cả giới luật đã thọ nhận.
Khi con đã thọ nhận một giới luật thì phải tuân theo nó đầy đủ. Con phải tuân thủ theo mỗi một và tất cả giới luật con đã thọ nhận. Nghĩ rằng con có thể chỉ tuân theo một hoặc một vài trong số những giới luật đó mà không cần tuân theo một số những giới luật khác là điều không thể chấp nhận. Bất kỳ suy nghĩ nào cho rằng không cần phải thọ giữ toàn bộ các giới luật đều là những quan niệm không những sai lầm mà còn xấu ác.
6. Quan điểm cho rằng một người có thể mạo danh một vị Phật hoặc vị Bồ Tát để truyền bá giáo Pháp.
Những người có quan điểm này nghĩ rằng để truyền bá Phật pháp và mang mọi người đến với Phật pháp thì có thể sử dụng phương tiện thiện xảo nâng cao uy tín của mình bằng cách tự xưng là một vị Phật hay một vị Bồ Tát nào đó. Họ bảo với đệ tử và bạn bè của họ tuyên truyền họ là một vị Phật hay một vị Bồ Tát. Những ai tham gia hoặc chấp thuận hình thức này đều bị xem là rơi vào quan điểm xấu ác.
7. Quan điểm của chủ nghĩa duy thực cho rằng, các hiện tượng thế gian thực sự tồn tại và không phải là huyễn ảo.
Điều này chạm đến chân lý tối hậu. Những người có quan điểm này cho rằng vạn pháp là thật sự tồn tại, không phải huyễn hóa, và có thực. Họ nghĩ rằng tất cả những gì tồn tại trong con người, trong mọi vật, trong mọi sự kiện là có thực. Đối với họ, tất cả các pháp thế gian không phải là vô thường mà là thật sự tồn tại và có thực. Họ xem mọi thứ là thật và không ảo huyễn. Đây là một quan điểm xấu ác.
8. Quan điểm rằng tính Không tách biệt khỏi và độc lập với các hiện tượng thế gian.
Những người có quan điểm này cho rằng tính Không và tất cả những điều thường thấy của pháp thế gian không có quan hệ với nhau. Họ nghĩ rằng chỉ cần thâm nhập vào tính Không thì tất cả hiện thực đều không tồn tại. Họ nghĩ rằng các pháp hữu vi không tồn tại trong tính Không và tính Không là độc lập với các pháp hữu vi. Đây là quan điểm xấu ác. Các con phải hiểu rằng tính Không không tách biệt với các hiện tượng thế gian. Khi đã chứng ngộ được tính Không, các con sẽ hiểu được Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Hai điều này không xung khắc với nhau. Sự thật cơ bản rằng cả hai là một và như nhau. Đó là Chân như, là Phật tính mà từ đó mọi diệu dụng sinh khởi.
9. Quan điểm cho rằng một người có thể đạt giải thoát chỉ bằng cách thực hành một pháp nào đó và không cần tu dưỡng bản thân.
Những người có quan điểm này nghĩ rằng một khi họ học được một pháp nào đó thì họ đã thành công. Chẳng hạn họ nghĩ thật tuyệt vời vì bây giờ họ có thể thực hành pháp thiền Thế thân kim cương, họ nghĩ rằng họ có thể thực hiện pháp và kiểm soát vận mệnh của họ theo ý muốn. Hay họ nghĩ rằng “Tôi có thể thực hành pháp tập trung nội nhiệt (tummo) để tiêu trừ các chướng ngại của nghiệp. Tại sao tôi cần phải tu dưỡng bản thân? Không cần tu dưỡng tôi vẫn sẽ thành tựu và được giải thoát." Đó là một quan điểm xấu ác.
10. Quan điểm cho rằng, Pháp thân là thân có hình tướng.
Như Lai tạng, chân tâm của chúng ta tức là Pháp thân, Pháp thân là một trong ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Những người có quan điểm này mô tả Pháp thân có hình tướng, kích thước, màu sắc hay có một cảm giác yên tĩnh, bình hòa hay an lạc. Bất kỳ quan điểm nào cho rằng Pháp thân là một đối tượng có hình dạng hoặc có nhận thức về cảm xúc là một quan điểm xấu ác.
11. Quan điểm cho rằng, con có thể làm những điều xấu mà vẫn thoát khỏi tội lỗi bằng cách nương tựa vào năng lực của chư Phật.
Những người theo quan điểm này nghĩ rằng nhờ năng lực tu tập của họ, họ đã được chư Phật và chư Bồ Tát mười phương gia hộ. Họ nghĩ rằng họ có thể làm điều xấu mà vẫn thoát khỏi tội lỗi bởi chư Phật và chư Bồ Tát sẽ tới và tiêu trừ tội lỗi của họ ngay lập tức.
12. Quan điểm cho rằng, cắt đứt khỏi sự bám chấp vào bản ngã đồng nghĩa với việc cắt đứt tình cảm dành cho cha mẹ mình.
Để cắt đứt bám chấp vào bản ngã, có những người nam và người nữ thậm chí còn không thừa nhận cả quan hệ của họ với cha mẹ mình. Cũng có những người con lờ đi cảm xúc của cha mẹ mình khi họ khóc lóc vì buồn bã trước quyết định xuất gia của con mình. Những người nam và nữ đó thậm chí còn nghĩ rằng làm như vậy là họ đang cắt đứt bám chấp vào bản ngã. Trên thực tế, sự bất tuân đạo làm con ấy chính là một quan điểm xấu ác. Cắt đứt bám chấp vào bản ngã là để làm lợi lạc cho chúng sinh, chăm sóc chúng sinh và đặt lợi ích của chúng sinh lên trên lợi ích bản thân mình. Điều này không có nghĩa là bất chấp những cảm xúc của cha mẹ mình và cắt đứt quan hệ với họ.
13. Quan điểm cho rằng một người có thể đạt tới Niết-bàn linh thánh chỉ bằng cách làm những việc thiện.
Những người có quan điểm trên nghĩ rằng miễn là họ làm việc thiện và mọi thứ họ làm đều vì lợi ích của chúng sinh, điều này là đủ để đạt tới niết bàn của các bậc thánh nhân và trở thành một vị Phật hoặc Bồ Tát. Một người phải biết rằng, làm việc thiện là hành bố thí có điều kiện. Theo luật nhân quả, việc bố thí như thế sẽ đưa tới quả báo trong cõi người hoặc cõi trời. Tuy nhiên, việc chứng đạt Niết-bàn linh thánh đòi hỏi một sự chứng ngộ trạng thái linh thánh. Điều này đồng nghĩa với việc đạt trạng thái không điều kiện mà trong đó, một người đã chấm dứt luân hồi sinh tử và có sự tự chủ hoàn toàn. Điều này có nghĩa là đạt tới miền đất thánh không sinh, không diệt. Do đó, việc nghĩ rằng, một người có thể đạt tới Niết-bàn linh thánh đơn thuần chỉ bằng cách làm việc thiện là một quan điểm xấu ác. Con phải hiểu rằng, bên cạnh cách đó, người tu tập còn phải thực hành cả pháp thánh linh và không điều kiện. Chỉ khi đó, họ mới có thể đạt được Niết-bàn linh thánh. Không có con đường nào khác ngoài con đường này
14. Quan điểm cho rằng một người nào đó không hành động xuất phát từ Bồ-đề tâm đại bi là một vị Bồ Tát.
Trong xã hội, có nhiều kiểu pháp vương, rinpoche, đạo sư và đại giảng sư. Một số người trong số họ không có Bồ-đề tâm và không hành động vì Bồ-đề tâm. Tuy nhiên, một số phương tiện đại chúng lại miêu tả họ như là những vị đại Bồ Tát. Trên thực tế, họ là những bậc đạo hạnh giả mạo. Do đó, người nào không có Bồ-đề tâm của lòng đại bi thì không phải là Bồ Tát cho dù kẻ đó có mang địa vị gì đi chăng nữa. Quan điểm nhìn nhận những kẻ không hành động vì Bồ-đề tâm đại bi là Bồ Tát chính là một quan điểm xấu ác.
15. Quan điểm không tin chắc vào nhân quả mà lại mê tín vào bói toán và vận may.
Những ai theo quan điểm này không thực sự tin luật nhân quả. Họ không tin vào luật nhân quả một chút nào. Họ phủ nhận luật nhân quả. Thay vào đó, họ tin vào sự bói toán và vận may. Đây là một quan điểm xấu ác. Con phải hiểu rằng vạn pháp đều nằm trong luật nhân quả
16. Quan điểm cho rằng, việc chỉ truyền bá giáo lý tính Không mà không nói về việc tu tập thực sự thông qua các hành vi cụ thể là có thể chấp nhận được.
Loại trường hợp này tồn tại ở Phật giáo Hiển thừa nhiều hơn. Tuy nhiên, nó cũng tồn tại trong Phật giáo Mật thừa. Một số người nổi tiếng hiện thời trong xã hội đặc biệt thích truyền bá những nguyên lý của tính Không. Họ nói về phương pháp Thiền đề thâm nhập vào chân lý. Họ giải thích rằng mọi hiện tượng đều không có tự tính và vốn trống rỗng, rằng một người nên có một trạng thái tâm không bám chấp vào bất cứ điều gì, rằng tâm của một người nên trống rỗng và an tĩnh. Họ nói về bản tính nguyên thủy không đến và không đi. Họ nói về những ngyên lý này bằng những ngôn từ phức tạp, khoa trương, bí hiểm và khó hiểu. Họ đặc biệt thích nói về Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Kim Cương và Bát nhã. Họ nói liên tục về nguyên lý của tính Không mà không bao giờ đề cập đến sự tu tập thực sự thông qua việc thực hành cụ thể. Họ không dạy tu tập thực sự là thế nào. Họ không dạy chúng sinh làm thế nào để thực hành con đường dẫn tới giác ngộ bằng những hành động cụ thể. Có quá nhiều người như vậy. Họ vi phạm nghiêm trọng luật nhân quả. Một người có thể nói về nguyên lý và sự thực về tính Không như một điều có trong Phật pháp. Tuy nhiên, đó chỉ là lý thuyết và không thể giải quyết được vấn đề chấm dứt vòng luân hồi sinh tử. Điều này giải thích tại sao đức Phật Thích-ca Mâu-ni dạy chúng ta làm thế nào để tu dưỡng bản thân. Chỉ có thông qua sự tu dưỡng và chuyển hóa nhân và quả mà một người mới có thể thực chứng được trạng thái mà những lý thuyết đó mô tả. Do đó, người nào chỉ truyền bá những nguyên lý của tính Không mà không giảng về sự tu dưỡng thực sự thông qua thực hành cụ thể là người xấu ác. Quan điểm này là một quan điểm xấu ác.
17. Quan điểm cho rằng, sự tồn tại của sáu cõi luân hồi chỉ là truyện cổ tích, không có thực.
Những ai theo quen điểm này nhìn nhận sáu cõi luân hồi: trời, a-tu-la, người, địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ chỉ tồn tại trong truyện cổ tích. Họ nghĩ rằng những cõi này không tồn tại. Họ nghĩ rằng không có ma cũng như chẳng tồn tại sáu cõi luân hồi. Liệu quan niệm này sẽ không dẫn tới kết luận rằng tất cả nhân và quả là vô nghĩa và sai lầm, và rằng luật nhân quả là không đúng đắn? Con phải hiểu và suy nghĩ cho thấu đáo về việc này. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã dạy rằng sáu cõi luân hồi là có thật. Ngài nói về sự đau khổ của sinh, lão, bệnh và tử và ngũ trược của thời mạt pháp … Tất cả các con đang sống trong thực tại đó. Làm sao điều này lại có thể không tồn tại? Những điều đó là sự thật.
Việc một người phủ nhận sự tồn tại của luân hồi là đang đối lập với đức Phật. Những người này có thể mô tả cõi giới loài người với những nỗi khổ của sự sinh, lão, bệnh và tử như là cõi Tịnh độ của phương Tây. Ta sẽ cho con một ví dụ. Thực sự có những người muốn thay đổi thế giới đầy khổ đau này thành cõi tịnh độ của loài người. Những người này làm những việc tốt, khuyến khích lòng nhân ái với người khác, và hướng dẫn người khác rằng trở thành một người tốt và làm việc thiện là đang thực hành tứ vô lượng tâm. Tuy nhiên, nếu con tin rằng thế giới này có thể biến thành cõi Tịnh độ thực sự của loài người, thì con đang tin vào một điều đi ngược lại với giáo lý của đức Phật. Không có phương pháp nào có thể thay đổi luật nhân quả và luân hồi đã tồn tại trong một thế giới. Cho dù bất kỳ phương pháp nào được áp dụng để tạo ra một kết quả như kỳ vọng, kết quả đó cũng không phải là một cõi tịnh độ. Cõi người vẫn là cõi người. Cõi Tịnh độ vẫn là một cõi Tịnh độ. Sự khác nhau đó như thể là giữa thiên đường và mặt đất vậy. Một bên là thế giới linh thánh và bên còn lại là thế gian thông thường. Cõi tịnh độ là một thế giới ở đó không có sự sinh và diệt. Chúng sinh ở đó mặc những gì họ muốn và ăn những gì họ nghĩ tưởng tới. Không có hình bóng của sự vô thường ở đó. Ngược lại, cái gọi là cõi tịnh độ trong thế giới loài người sẽ đầy rẫy sự đau khổ của sinh, lão, bệnh, và tử.
Con người không thể có áo quần hay thức ăn chỉ bằng cách nghĩ tưởng tới quần áo mặc hay thức ăn. Họ phải làm việc, kiếm tiền để có được những thứ đó. Họ không thể dựa vào trí tưởng tượng để có được chúng. Trong thế giới này, chúng sinh không muốn chịu đau khổ của sinh lão bệnh tử nhưng sự đau khổ này thực sự vẫn tồn tại. Việc thế gian này đầy ắp sự đau khổ là không thể tránh khỏi. Cho dù bất kỳ phương pháp nào được áp dụng, kết quả vẫn chỉ là sự kế thừa những thuộc tính của vô thường vốn gắn với một cõi giới trong phạm vi của vòng luân hồi. Không ai có thể thay đổi được sự vô thường, vốn được tạo ra bởi sinh và diệt, đang tồn tại trong thế giới này. Không bất kỳ người thường nào, cho dù thông thái bao nhiêu, có thể trốn tránh khỏi sự đau khổ của ngũ trược bởi vì đó là quy luật không thể tránh khỏi của vô thường đã tồn tại trong sáu cõi luân hồi. Do đó, sáu cõi luân hồi có tồn tại.
18. Quan điểm cho rằng, một vị đạo sư hoặc một bậc thánh tăng nổi tiếng chắc chắn là những bậc đạo hạnh linh thánh.
Bất kỳ khi nào, người theo quan điểm này khi gặp một đạo sư hoặc tăng sĩ nổi tiếng, đều kết luận rằng, đó là bậc thánh tăng hay bậc đạo hạnh linh thánh. Vậy cụm từ “đạo sư hay tăng sĩ nổi tiếng” có ý nghĩa thế nào? Họ thuộc loại những cao tăng đã có tên tuổi hoặc được xem là tuyệt vời trên khắp thế giới. Những người theo quan điểm này kết luận rằng, những tăng sĩ như vậy đều là bậc đạo hạnh linh thánh vĩ đại. Trên thực tế, những tăng sĩ trên có thể có và cũng có thể không là những bậc đạo hạnh linh thánh. Thậm chí có một số vị pháp vương cực kỳ nổi tiếng trong Phật giáo thực chất chỉ là những người bình thường.
19. Quan điểm cho rằng, những lợi ích cá nhân còn quan trọng hơn cả Phật pháp.
Khi có sự xung đột giữa lợi ích cá nhân của con và Phật pháp, con chọn Phật pháp hay lợi ích của bản thân mình? Nếu con coi lợi ích của riêng con cao hơn Phật pháp, thì quan điểm đó của con là xấu ác. Con phải không được nhìn nhận lợi ích cá nhân cao hơn Phật pháp. Phật pháp là kho tàng tối cao. Một người từ bỏ mạng sống của mình thì còn tốt hơn là anh ta từ bỏ Phật pháp.
20. Quan điểm cho rằng, một người có thể giết chết một sinh mạng mà không phạm tội chỉ nhờ việc người đó tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết lên cõi giới cao hơn.
Những người theo quan điểm này nghĩ rằng, bằng việc tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết, họ có thể đưa thần thức của sinh linh này lên cõi giới cao hơn, bao gồm cả những chúng sinh mà họ giết hoặc bất kỳ chúng sinh bị chết nào khác. Họ nghĩ rằng miễn là một sinh linh đã chết, họ có thể nâng đỡ sinh linh đó lên cõi giới cao hơn bằng cách tụng thần chú để nâng đỡ sinh linh đã chết. Làm như thế, họ nghĩ rằng sẽ không còn vấn đề gì nữa. Tuy nhiên, nếu con tụng thần chú nâng đỡ thần thức của sinh linh đã chết trong khi con lại cố ý giết hại một sinh linh sống, con sẽ không thể nâng thần thức của họ lên cõi giới cao hơn mà còn phạm vào một tội đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, những người nào tụng thần chú nâng đỡ thần thức sinh linh đã chết mà lại giết hại một sinh linh đang sống sẽ không tăng trưởng được một chút công đức nào. Kết quả duy nhất là nghiệp xấu của người đó sẽ còn nặng thêm.
21. Quan điểm cho rằng, việc đối kháng với những vấn đề được quyết định bởi bậc đạo sư gốc của mình, người đã có cả sự chứng ngộ linh thánh và Bồ-đề tâm là chấp nhận được.
Thuật ngữ đạo sư gốc đề cập tới bậc đạo sư gốc có sự chứng ngộ linh thánh và Bồ-đề tâm; đó là, một người có đạo hạnh cao cả và sự chứng ngộ linh thánh và hành động với Bồ-đề tâm. Hơn thế, một đạo sư như vậy không mắc phải bất kỳ điều nào của 128 quan điểm xấu ác và sai lầm. Con thực hành pháp Ngài truyền như giáo pháp căn bản của con. Ví dụ, vị Bổn tôn của con đến từ việc thực hành pháp ngài truyền cho con, con dự định thực hành cả đời Pháp ngài đã trao truyền cho con cho tới khi đạt thành tựu. Đó là ý nghĩa của bậc đạo sư gốc. Nếu một đệ tử nghĩ rằng đối kháng hoặc bỏ qua những vấn đề được đạo sư gốc quyết định là có thể chấp nhận được, thì đây là một quan điểm xấu ác. Tuy nhiên, nếu bậc đạo sư gốc mắc phải một vài điều trong 128 quan điểm này, thì ông ấy có thể đã trở thành một đạo sư xấu ác bất chấp rằng ông ấy là một pháp vương, một tôn giả, hay một vị thầy. Trong trường hợp này, con tuyệt nhiên có thể không làm theo và thực hiện điều ông ấy quyết định, vì làm vậy là hỗ trợ cho điều xấu ác. Nếu con tiếp tục theo một đạo sư với những quan điểm xấu ác và sai lầm, con sẽ không nhận được bất kỳ kết quả lợi lạc nào từ việc bạn thực hành bất kỳ Pháp nào.
22. Quan điểm cho rằng, việc kính trọng chư Phật và bậc đạo sư của con nhưng lại không hiếu thảo với cha mẹ là chấp nhận được.
Một vài người rất kính trọng vị đạo sự của họ cùng các vị Phật và Bồ Tát. Tuy nhiên, họ cãi lại hoặc nói một cách ngang ngược với cha mẹ và đối kháng với ước nguyện của cha mẹ họ. Họ không thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ và thậm chí bỏ rơi cha mẹ của họ để đi đến những nơi xa xôi, nơi họ hoàn toàn bỏ mặc cha mẹ. Điều này phản ánh một quan điểm xấu ác.
23. Quan điểm tin tưởng vào một địa vị và thân thế của ai đó hơn là chân lý tối hậu.
Có một vài vị pháp vương, rinpoche và pháp sư có địa vị rất cao. Họ có thể thậm chí xếp hạng nhất nhì trong những vị pháp vương, rinpoche và pháp sư vĩ đại. Khi chúng ta nghe họ giảng giải sai lạc giáo pháp, chúng ta không vận dụng chân lý đúng đắn và tối hậu để nhận ra những lỗi như vậy, và chúng ta không áp dụng những nguyên lý Phật pháp để xét đoán xem lời họ nói có đúng hay không. Chúng ta nghĩ rằng pháp họ diễn giải chắc chắn phải chính xác đơn giản bởi vì họ có địa vị là pháp vương cao quý hay những địa vị khác. Quan điểm như thế là một quan điểm xấu ác.
24. Quan điểm cho rằng, những chúng sinh đã từng là những vị Phật sau này lại bị đọa xuống làm chúng sinh bình thường.
Có một vài người thường miêu tả những chúng sinh như là những vị Phật. Họ nói rằng từ khởi thủy những chúng sinh đã từng là những vị Phật nhưng sau đó bị đọa xuống thành những chúng sinh do sự vô minh và phiền não tăng trưởng. Đây là một học thuyết xấu ác được thêu dệt bởi những người không hiểu gì về Phật pháp. Chúng sinh luôn là chúng sinh và từ khởi thủy chưa bao giờ là những vị Phật. Chúng sinh bị chi phối bởi những nghiệp chướng, như là những nỗi khổ của sinh, lão, bệnh, tử. Tuy nhiên, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Họ có thể trở thành những vị Phật nhờ việc học Phật giáo, tu tập, và thực hành theo Pháp. Các con phải hiểu rằng những chúng sinh tuyệt đối không phải là bị đoạ từ những vị Phật trở thành chúng sinh. Những chúng sinh là những chúng sinh. Không có chuyện các vị Phật bị đọa thành chúng sinh. Nếu những vị Phật có thể bị đọa thành những chúng sinh, thì khi nào Phật Thích-ca Mâu-ni sẽ đọa thành một chúng sinh đây?
25. Quan điểm cho rằng việc kết hợp pháp thực hành ngoại đạo với pháp thực hành của Phật pháp là chấp nhận được.
Kiểu trường hợp này là rất nhiều. Mọi người thực hành kết hợp Phật pháp và những phương pháp ngoại đạo. Đây là do có số lượng lớn và đa dạng các phương pháp hay thực hành ngoại đạo, như là việc chọn một giờ tốt hay ngày lành cho một sự kiện, âm dương, phong thủy, lá số tử vi hay bùa chú, gọi hồn, bói toán bằng các ký tự Trung Hoa và những phương pháp khác, lên đồng, nuôi âm binh, và v.v… Tất cả những điều này là thực hành ngoại đạo. Thực hành kết hợp những cách đó cùng với Phật pháp là xấu ác.
26. Quan điểm cho rằng, luật nhân quả chỉ là do tưởng tượng và không có thực.
Một vài người nghĩ rằng luật nhân quả không tồn tại. Họ nghĩ rằng chẳng cần phải e ngại vì chẳng có nghiệp báo gì cả. Họ nghĩ rằng vẫn ổn khi làm điều tồi tệ mà không ai phát hiện ra. Nói ngắn gọn, với họ không có điều gì là nghiệp báo cả. Hãy nhớ rằng, cho rằng luật nhân quả chỉ là tưởng tượng và không có thực là một quan điểm xấu ác.
27. Quan điểm cho rằng, mọi hiện tượng phi thường kỳ lạ là biểu hiện của những năng lực siêu nhiên đến từ Phật pháp.
Trong thế giới này, có nhiều dạng hiện tượng huyền bí và lạ thường. Ngoại đạo sử dụng những hiện tượng như vậy để lừa gạt và làm rối loạn chúng sinh. Khi làm việc đó, họ đã tạo mọi loại nghiệp xấu. Tất cả các hiện tượng kỳ lạ này không phải là biểu hiện của những năng lực siêu nhiên đến từ Phật pháp mà chỉ là những việc làm của ma quỷ.
28. Quan điểm cho rằng, một bậc đạo sư đã học những Pháp cao cấp chắc chắn là một bậc thánh nhân vĩ đại.
Một vài người nghĩ rằng vì một vị thầy đã nhận một quán đảnh vĩ đại hay đã học một Pháp cao cấp, người đó phải là một thánh nhân vĩ đại. Điều đó không đúng. Nếu bạn có một cái nhìn như vậy, bạn đã rơi vào tà đạo. Một vị thầy đã học một pháp cao cấp không nhất thiết đã thành tựu trong thực hành pháp cao cấp đó. Một vị thầy đã học pháp cao cấp không nhất thiết đã tuân thủ đúng giới luật theo pháp cao cấp đó. Các con phải xác định xem vị thầy này có mắc phải bất kỳ điều nào trong 128 quan điểu xấu ác và sai lầm không. Bởi vậy, các con không nên nghĩ rằng một người nào đó đã học những Pháp cao cấp chắc chắn là một bậc thánh nhân vĩ đại. Một người trở thành một thánh nhân vĩ đại thông qua chính sự tu tập cụ thể của họ.
29. Quan điểm cho rằng, con có thể trì hoãn sự tu tập của mình đến ngày mai.
Mọi người thường nghĩ, “Hôm nay tôi mệt quá, nên tôi sẽ không thực hành pháp, tôi sẽ tập vào ngày mai.” Hay họ nói, “Mình sẽ tận hưởng ngày hôm nay. Ngày mai mình sẽ thực hành pháp. Ngày mai mình sẽ tu dưỡng tâm và những hành động của mình." Ngay khi những suy nghĩ như vậy xuất hiện trong tâm thức, họ đã gieo một hạt giống nghiệp dẫn đến đọa vào luân hồi mà không được giải thoát. Hãy nhớ trong tâm rằng đây là một hạt giống nghiệp dẫn đến sự suy đồi. Sự tu tập không thể bị hoãn đến ngày mai. Làm như vậy là rơi vào quan điểm xấu ác này.
30. Quan điểm cho rằng, một bậc đạo sư có thể nói những điều sai trái và lừa dối chúng sinh là chấp nhận được.
Một vài vị đạo sư nói điều sai trái để lừa dối chúng sinh và những đệ tử của họ. Họ nói rằng làm như vậy họ đang sử dụng phương tiện thiện xảo. Tuy nhiên, những vị đạo sư làm điều này đang theo một quan điểm xấu ác. Những người nghĩ cách cư xử như vậy là có thể chấp nhận được cũng đang nuôi dưỡng một quan điểm xấu ác.
31. Quan điểm cho rằng, con có thể được hưởng những kết quả lợi lạc từ sự thực hành mặc dù con cố tình nói dối bậc đạo sư gốc của con.
Có những người cố ý nói dối với đạo sư gốc của họ, hoặc là khi được đạo sư hỏi, họ giấu đi một nửa sự thật, và nghĩ rằng điều đó không ảnh hưởng gì lớn cả, thậm chí họ còn thấy điều đó là tự nhiên và đúng đắn. Thế là họ cư xử như thể chẳng có gì là sai cả. Đây là một quan điểm xấu ác. Thật vậy, khi nào con còn nói dối với đạo sư của con, thì con sẽ không nhận được những thành quả tốt từ việc thực hành Pháp. Không chút lợi ích nào có thể có được, bất kể con thực hành Pháp nào, vì các vị bổn tôn và hộ pháp sẽ không gia trì cho con.
32. Quan điểm ủng hộ những người có năng lực siêu nhiên nhưng không hành động xuất phát từ Bồ-đề tâm.
Có một số hành giả hay yogi đạt được những năng lực siêu nhiên nhưng không hành xử xuất phát từ Bồ-đề tâm, nếu một người nào ủng hộ cho những người có năng lực siêu nhiên nhưng không hành động bằng Bồ-đề tâm, thì người đó đã bị rơi vào quan điểm xấu ác này.
33. Quan điểm ủng hộ những giảng sư, rinpoche và cư sĩ mà phẩm hạnh của họ không phù hợp với giới luật.
Có những rinpoche, giảng sư, và cư sĩ chưa bao giờ thọ một giới nào. Thậm chí có những người đã nhận giới luật nhưng lại không giữ giới mà họ đã thọ nhận. Đó là những giảng sư, rinpche và cư sĩ dởm, họ chỉ mang hình thức bề ngoài nhưng không hề thực sự là như vậy. Vì vậy, mỗi rinpoche, giảng sư hoặc cư sĩ phải thọ nhận những giới luật phù hợp với họ và phải tuân theo những giới luật này theo đúng với Pháp.
34. Quan điểm cho rằng việc giúp đỡ những đạo sư xấu của con làm những điều xấu lại là hành động bảo vệ Pháp.
Có những đệ tử mà đạo sư gốc hoặc đạo sư của họ tham gia vào những hành vi xấu vi phạm các giới luật của Phật giáo. Những đệ tử này không những không chịu rời bỏ thầy mình, mà còn có những nỗ lực lớn lao để giúp thầy mình làm những điều nằm trong 128 quan điểm xấu ác và sai lầm này. Họ cho rằng họ đang bảo vệ Pháp. Đây là một quan điểm xấu ác.
35. Quan điểm cho rằng việc chấp nhận và đi theo một bậc thầy truyền bá sai lầm hoặc không hiểu về Phật pháp thì hơn là việc đi theo một bậc thầy tốt.
Những môn đồ mắc quan điểm này chấp nhận và đi theo một vị thầy dù ông ta giảng dạy sai lạc và không hiểu biết đúng về Phật pháp. Khi thấy ra sự sai phạm của thầy mình, họ không chịu mau rời bỏ để tìm kiếm một bậc thầy Phật giáo có thể thực sự giảng những giáo lý đúng đắn theo đúng với Pháp; họ cứ tiếp tục đi theo người thầy giảng sai về Pháp. Điều này gieo nhân dẫn đến một đời sống suy thoái. Một đệ tử như vậy nên ngay lập tức tìm một vị thầy tốt có đức hạnh cao cả, nếu không, người đó sẽ bị đọa xuống một trong ba cõi thấp.
36. Quan điểm ủng hộ việc bố thí không trong sáng mà trong đó người bố thí ghi nhớ và bám chấp vào hành động bố thí.
Khi làm bất cứ điều tốt nào, chúng ta không nên có suy nghĩ của một người bố thí không trong sáng, luôn ghi nhớ và bám chấp vào hành vi bố thí của mình. Sau khi làm một điều tốt, ta nên buông xả nó. Chúng ta đã làm điều đó xong rồi và nó đã trôi qua. Ta chỉ đơn giản quên chúng đi ngay sau đó. Lòng từ và bi của ta nên đến tự nhiên như là bản năng. Hành động với lòng từ bi không nên là điều gì mà chúng ta phải cố ý mới làm được. Vì vậy, khi con có suy nghĩ của một kẻ bố thí không trong sáng, luôn ghi nhớ điều mình làm và bám chấp vào nó, thì phước báo của con cũng sẽ bị giới hạn trong cõi người hoặc cõi trời. Con chỉ có thể được hưởng phước đức hạn chế và không thể trở thành một bậc thánh. Vì rằng động cơ hay hạt mầm con đã gieo trồng là không trong sáng, thì quả con gặt được cũng sẽ không vững chắc. Những kết quả có được từ động cơ không trong sáng cuối cùng cũng sẽ cạn kiệt. Khi chúng đã hết và con không cố gắng tích lũy thêm những phước đức khác, thì sẽ tới lúc con phải gánh chịu hậu quả của những nghiệp xấu.
37. Quan điểm ủng hộ một người không chịu hối lỗi công khai vì đã truyền bá sai lầm giáo lý trong kinh điển.
Một số người đã truyền bá sai lầm những giáo lý trong kinh điển nhưng vẫn bám chấp vào bản ngã và thể diện. Họ không thể nào buông bỏ được cách nghĩ của một người bình thường. Vì thế mà họ không ăn năn hối lỗi công khai. Họ sẽ tự nói “tôi đã tự mình sửa chữa rồi!" Điều đó là không thể chấp nhận được. Người như vậy không phải là một hành giả thực sự. Các vị hộ pháp sẽ không tha thứ cho họ. Hơn nữa, luật nhân quả không bao giờ sai. Những người truyền bá sai lầm những giáo lý trong kinh điển cần ngay lập tức hối lỗi công khai trước mọi người. Cái họ cần là kết quả trong tu tập chứ không phải là giữ thể diện. Chắc là con sẽ không muốn bị đọa xuống một trong ba cõi thấp nhất để rồi mang lốt của loài vật hay là ma quỷ.
38. Quan điểm cho rằng, việc tự gọi bản thân là một vị Phật hay Bồ Tát trước mặt các đệ tử của con là chấp nhận được.
Người mà, trước các đệ tử, tự tuyên bố mình là tái sinh của một vị đức hạnh cao cả, của một vị Phật hay Bồ Tát, hay một vị thánh nhân vĩ đại ... thì đó là người lừa dối. Tuy nhiên, nếu người ấy có sự chứng nhận danh tính được ban hành theo đúng quy định của Pháp, thì tất nhiên người đó đúng là người trong giấy chứng nhận đã công nhận. Tuy vậy, người ấy vẫn nên khiêm tốn và không được khoe khoang. Bằng không thì người ấy cũng chỉ có tâm thức của một người bình thường mà thôi. Nếu một người không hề có chứng chỉ công nhận theo quy định của Pháp thì họ càng không nên liều lĩnh đi khoe khoang về mình. Điều đó sẽ tạo cho họ nghiệp xấu dẫn đến tái sinh một trong ba cõi thấp. Người liều lĩnh khoác lác về mình sẽ phải bị nghiệp báo to lớn và khủng khiếp. Con đừng bao giờ làm như thế.
Những gì ta đã mô tả trên đây là những quan điểm xấu ác. Những quan điểm này không chỉ mang tính ngoại đạo mà còn rất tồi tệ. Đây là những vấn đề thực sự nghiêm trọng. Con nên nhớ rằng, việc truyền bá cuốn giáo pháp này là không thể bị ngăn trở. Cả thế giới sẽ đọc nó. Họ sẽ sao nó từ Bản ghi về những trường hợp không thể chối cãi. Chỉ bằng cách chân thành học Phật pháp và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh mà con mới trở thành một bậc lãnh đạo phạm hạnh vĩ đại hoặc một bậc thầy thực sự vĩ đại trong thế hệ của con.
Ta lấy ví dụ, chúng ta có ba bậc phạm hạnh đã đạt quả vị trên đường đạo. Đỉnh đầu của họ đã được mở rộng. Ý thức của họ có thể đi ra và quay trở lại thân thể tùy ý. Họ thậm chí có khả năng khiến ý thức rời khỏi thân thể để nâng một vật hoặc rời khỏi thân thể họ để hành thiền. Họ có thể làm những việc đó không chút trở ngại. Họ đã hiểu tâm và nhìn thấy bản tánh nguyên thủy của họ. Họ đã đạt được giải thoát toàn hảo. Những điều này và những thành tựu khác của họ phản ánh một chuỗi những năng lực chứng ngộ. Tuy nhiên, họ vẫn rất khiêm tốn.
Con phải đặc biệt thận trọng và chú tâm. Khi khám phá ra rằng con đang theo bất kỳ một trong những quan điểm xấu ác này, nếu con không sám hối một cách sâu sắc và sửa chữa ngay lập tức, con sẽ không đạt được kết quả lợi lạc từ việc thực hành bất kỳ pháp nào và thậm chí sẽ còn bị thoái hóa. Điều này đúng với bất cứ người nào, bất kể địa vị mà người đó có được, như những tổ sư, pháp vương, hay tôn giả. Đó là nghiệp xấu con phải trả từ việc không sửa chữa bản thân sau khi theo một trong những quan điểm xấu ác này. Con vẫn đang chịu ảnh hưởng của nghiệp xấu thậm chí nếu con cho rằng con không bị ảnh hưởng bởi con là một Bồ tát đã đạt quả vị Diệu giác. Con tự xưng đều đó chỉ có ý nghĩa rằng, con là bậc Bồ tát diệu giác giả mạo. Khi một vị bồ tát ở địa diệu giác khám phá ra lỗi lầm của mình, vị đó sẽ nói ngay như thế này “Tôi thật sai lầm. Tôi xin sám hối trước toàn thể chư Phật mười phương và trước các đệ tử của tôi!” Vị đó sẽ nói vậy bởi vì vị đó cởi mở và thẳng thắn và không có một chút phiền não nào. Do đó, cho dù địa vị của con có cao thế nào, nếu con không sám hối sau khi khám phá ra rằng, con đang theo một quan điểm xấu ác, con sẽ không được lợi lạc gì từ việc thực hành bất cứ Pháp nào. Con sẽ càng ngày càng xa với những năng lực chứng ngộ.
Tại sao ta lại đề cập đến khái niệm “năng lực chứng ngộ”. Bởi vì có nhiều người mong muốn ta truyền pháp cho họ nhờ đó họ có năng lực siêu nhiên để hàng phục chúng sinh. Những vị rinpoche hay giảng sư loại này đã yêu cầu như vậy thực sự không chín chắn và rất vô minh! Các vị hộ pháp sẽ kiểm soát liệu con có đủ khả năng thể hiện năng lực chứng ngộ hay không. Khi con theo những quan điểm xấu ác này, các vị hộ pháp sẽ coi con như một người xấu. Họ ghi lại những lỗi lầm của con. Họ thậm chí, một ngày nào đó, có thể hỗ trợ cái chết đến với con. Tuy nhiên, con vẫn tham lam tìm cách lừa dối để có được năng lực chứng ngộ. Làm sao mà các vị hộ pháp có thể giúp con trong việc thực hiện sự lừa dối đó? Trong Phật pháp, chỉ có trạng thái chứng ngộ là thanh tịnh, hoàn mỹ và vô ngã. Không có chuyện đạt được khả năng siêu nhiên hay sức mạnh của Pháp nhờ vào sự may mắn. Chư Phật và chư Bồ-tát sẽ không ban cho con những năng lực như vậy. Không phải là ta từ chối trao cho con những năng lực đó. Thậm chí ngay cả khi con học và thực hành các nghi lễ, con sẽ không thành công trong việc đạt được những năng lực đó. Hơn nữa, động cơ của con không tốt khi con tìm kiếm phương cách “hàng phục” chúng sinh một cách kỳ quặc. Con phải rõ ràng về điều này. Con không nên áp dụng những phương pháp để trấn áp họ. Con nên giáo hóa họ nhờ vào lòng đại bi của mình. Ta rất lấy làm xấu hổ khi ta không có được những năng lực chứng ngộ. Ta đã nói với Kaichu Rinpoche, “Sự hành trì pháp tập trung nội nhiệt của con thực sự đáng ngạc nhiên. Điều này đã gây ấn tượng đối với ta. Ta không có khả năng đó. Tuy nhiên, ta hy vọng rằng, ta sẽ không nhìn thấy con thể hiện sức mạnh này của mình lần thứ hai. Ta hy vọng sẽ nhìn thấy con thể hiện nhiều hơn Bồ đề tâm linh thánh dựa trên lòng từ bi vĩ đại. Nếu không có Bồ đề tâm, con sẽ không được hưởng bất cứ lợi ích gì đến từ chánh tư duy.”
Nếu con theo dù chỉ một quan điểm xấu ác mà không sám hối và sửa chữa rốt ráo, con không chỉ không có được năng lực chứng ngộ hoặc kinh nghiệm bất cứ kết quả tốt nào từ việc hành trì của mình, con sẽ còn phải ở trong luân hồi mãi mãi. Hơn nữa, những ai vi phạm nghiêm trọng dù chỉ một quan điểm xấu ác, sẽ phải bị đọa xuống một trong ba cõi thấp trong vòng luân hồi! Thậm chí, điều này không chừa cả những người nào dính dáng tới những kẻ đi theo một quan điểm xấu ác. Nếu con không rời bỏ những ai đang đi theo một quan điểm xấu ác và không hề thay đổi và sám hối, con sẽ bị ảnh hưởng bởi nghiệp xấu từ sự vi phạm của họ. Giờ ta sẽ nói về việc nếu con có liên quan với người theo một quan điểm xấu ác. Có thể con là đệ tử hoặc đồng môn của người đó. Con khám phá rằng người đó đã phạm vào một quan điểm xấu ác. Có thể ban đầu, người đó không ý thức được việc vi phạm này. Tuy nhiên, sau này, một ai đó nhắc nhở rằng anh ta đang vi phạm vào một quan điểm xấu ác, nhưng người đó không thay đổi hay sám hối. Nếu biết sự việc này mà con vẫn tiếp tục liên kết và không rời bỏ người đó, con sẽ chịu nghiệp xấu bởi sự vi phạm của anh ta. Điều này vô cùng nghiêm trọng.
Nếu một vị thầy không vi phạm một trong 128 quan điểm xấu ác và sai lầm này, người đó chắc chắn là một bậc phạm hạnh linh thánh. Những ai là đệ tử của vị thầy đó cần phải kính trọng và cúng dường thầy với một trái tim sùng kính nhất và nên làm mọi thứ có thể để giới thiệu người khác trở thành đệ tử của thầy. Bất kỳ người đệ tử nào làm điều này cũng tích tập được vô lượng công đức. Bất kỳ người đệ tử nào không theo 128 quan điểm xấu ác và sai lầm này là người sở hữu đức hạnh và phẩm chất của một bậc thầy linh thánh. Không nghi ngờ gì người đó sẽ không chỉ trở nên thành tựu mà chắc chắn còn làm lợi ích cho mọi người, cứu giúp chúng sinh và trở thành hình mẫu cho người khác.
Bài pháp trên đây được giảng từ tâm Bồ đề luôn vì mục đích làm lợi ích cho chúng sinh một cách bình đẳng và vô ngã. Mục tiêu là để làm lợi ích cho những ai là những vị thầy và để bảo vệ và chăm sóc chúng sinh để họ tích tập những phẩm hạnh xứng đáng, làm nền tảng cho trí tuệ và phước báu. Tất cả những nguyên lý ta giải thích trên đây là phù hợp với Pháp và giáo lý của đạo Phật. Những gì ta giải thích trên đây không có gì vì lợi ích cho bản thân ta hay cho bất kỳ cá nhân cụ thể nào khác, và cũng hoàn toàn không mang tinh thần bộ phái. Mọi Phật tử nên hàng phục tâm mình và nuôi dưỡng tâm thái đúng đắn dựa trên những gì ta đã giải thích ở trên. Tiếp đến, ta sẽ giải thích những quan điểm sai lầm. Những quan điểm sai lầm này ít nghiêm trọng hơn những quan điểm xấu ác.
Tuy nhiên, việc theo hai hay ba quan điểm sai lầm cũng tạo nghiệp xấu gần như là theo một quan điểm xấu ác, tùy vào tính nghiêm trọng của từng quan điểm sai lầm mắc phải. Nếu con đi theo một quan điểm sai lầm nào đó mà kết quả của vi phạm tương đối nhẹ so với việc theo các quan điểm sai lầm khác, thì hậu quả xảy ra có thể không nghiêm trọng như vậy. Tuy nhiên, nếu con theo một quan điểm sai lầm nào đó mà kết quả của vi phạm nặng nề hơn việc theo những quan điểm sai lầm khác, những hậu quả xảy ra có thể rất nghiêm trọng. Con chắc chắn không nên chủ quan về thực tế này.
Những quan điểm sai lầm thông thường được tổng kết ở danh sách dưới đây. Cụm từ “thông thường” ở đây có nghĩa là không phải toàn bộ những quan điểm sai lầm được nêu ra dưới đây. Tuy nhiên, những quan điểm sai lầm quan trọng hơn đã được bao gồm trong đó.